Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn của TAND tỉnh Nam Định)
lượt xem 4
download
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn của TAND tỉnh Nam Định)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HẢI DŨNG QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN LUẬT ĐỊNH: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: TRÊN CƠ SỞ CÁC DỮ LIỆU THỰC TIỄN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN TH.S LUẬT Ngưới hướng dẫn:.TSKH.PGS Lê Văn Cảm Hà Nội 2007
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội, hình phạt mang lại những hiệu quả nhất định không những trong việc trừng trị người phạm tội mà còn có vai trò to lớn trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới và đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc quyết định hình phạt sẽ thực sự phát huy tác dụng, đúng như mong muốn của nhà làm luật một khi nó tuân thủ các nguyên tắc luật định, đồng thời phù hợp với thực tế điều kiện, hoàn cảnh phạm tội. Chính vì thế BLHS đã thiết lập một chế định mềm dẻo cho phép khi quyết định hình phạt, Toà án có thể cho người bị kết án hưởng một hình phạt nhẹ hơn luật định. Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là một chế định quan trọng trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tuy nhiên nó được quy định tương đối ít trong BLHS (Điều 47). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật việc quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng còn gặp những vướng mắc nhất định cần tháo gỡ, xuất hiện những bất cập trong quy định của BLHS cần phải xem xét, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc quy định những biện pháp này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước nói chung và Luật hình sự Việt Nam nói riêng, từ quan điểm cho rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự và xử phạt về hình sự mặc dù là rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, củng cố trật tự pháp luật song không phải là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi “ngày càng mở rộng các biện pháp tác động xã hội khác để đấu tranh phòng và chống tội phạm” [25]. Mặt khác, nó còn để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý 1
- tội phạm và người phạm tội của Nhà nước ta, đó là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo”. Đến lần pháp điển hóa lần thứ nhất Luật hình sự Việt Nam bằng việc thông qua BLHS năm 1985, quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định đã được ghi nhận chính thức, nhưng nó vẫn được quy định chung cùng với những tình tiết giảm nhẹ tại một điều của Bộ luật (Điều 38). Tương tự như vậy, đến lần pháp điển thứ hai Luật hình sự bằng việc thông qua BLHS năm 1999, các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng đã được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện, mà cụ thể nó đã được ghi nhận tại một điều luật riêng biệt trong Phần chung (Điều 47). Tuy nhiên, lần pháp điển hóa thứ hai vừa qua vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về mặt lập pháp đối với chế định này, cũng như thực tiễn áp dụng nó kể từ khi Bộ luật có hiệu lực thi hành. Chẳng hạn, cả BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 vẫn chưa đưa ra được định nghĩa pháp lý của khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, các tình tiết giảm nhẹ TNHS ngoài quy định tại khoản 1 Điều 46 có giá trị như thế nào trong khi quyết định một hình phạt nhẹ hơn luật định. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy những quy phạm của chế định này còn nhiều bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ về nội dung và chưa thống nhất, đặc biệt trong thực tiễn đời sống xã hội & thực tiễn pháp lý đang tồn tại vấn đề là tại sao lại quy định chỉ được quyết định hình phạt trong khung hình phạt nhẹ hơn liền kề, trong khi các chế định khác như miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự còn mang lại hậu quả pháp lý có lợi hơn nhiều cho người phạm tội thì trên thực tế cơ sở để áp dụng cũng tương tự như cơ sở khi quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. Điều đó cho thấy những bất hợp lý, không cân đối trong luật hình sự thực định. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời 2
- đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định không những có ý nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn của TAND tỉnh Nam Định)” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu: Chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định có liên quan mật thiết và chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều chế định khác trong luật hình sự. Ở Việt Nam, quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng mới chỉ được quy định tại một điều luật riêng lẻ (Điều 47 BLHS năm 1999), điều đó chứng tỏ quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định vẫn chưa được các nhà lập pháp coi trọng đúng mức và nhận thức được tầm quan trọng của chế định này cũng như nhu cầu cần quy định cụ thể và đầy đủ hơn trong BLHS. Cũng giống như phương diện lập pháp, trên phương diện nghiên cứu, lý luận chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức mặc dù đây là một chế định quan trọng, có ý nghĩa lớn lao đối với quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm của Nhà nước, thể hiện quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang đậm nét nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách công phu và đầy đủ ở cấp độ một luận văn thạc sỹ hay một luận án tiến sĩ về đề tài này. Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định mới chỉ được nghiên cứu với tư cách là đề tài của các khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật hoặc rải rác trên một số Tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hay được đề cập với tư cách là một vấn đề (khía cạnh liên quan) của các chế định khác như hình phạt, quyết định hình phạt, các biện pháp tha miễn, các 3
- tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, đáng chú ý, đó là công trình nghiên cứu của TSKH, PGS Lê Cảm: 1) Về bản chất pháp lý của quy phạm "Nguyên tắc quyết định hình phạt" tại Điều 37 BLHS 1985 (Một số vấn đề lý luận-thực tiễn & hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Toà án nhân dân - số 1, 2 năm 1989); 2) Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề lý luận cơ bản (Tạp chí Toà án nhân dân - số 10/2001); 3) Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề lý luận cơ bản (đồng tác giả với Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Toà án nhân dân - số 1/2003); 4) Quyết định hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (đồng tác giả với Võ Khánh Vinh, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, 2 năm 1988). Ngoài ra, phải kể đến các nghiên cứu của các tác giả khác như: 1) Định tội danh và quyết định hình phạt (Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2004 của TS. Dương Tuyết Miên); 2) Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2004 của TS Lê Văn Đệ); 3) Quyết định hình phạt (Chương XIV, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Phần chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 của ThS Trịnh Quốc Toản); 4) Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong việc quyết định hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1/2004 của tác giả Trịnh Tiến Việt); 5) Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS (Tạp chí Pháp lý, số 7/2000 của tác giả Phan Hữu Thức)... Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới dạng là các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách tham khảo hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét vấn đề ở cấp độ một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật. Có nghĩa là cho đến nay trong khoa học luật hình sự của Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến chế định này một cách tương đối có hệ thống, tương đối đồng bộ và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học có gắn với việc nghiên cứu thực tiễn xét xử của Toà án trên một địa phương nhất định. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận và 4
- thực tiễn xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn. 3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu: Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là một chế định hẹp và tương đối phức tạp, nghiên cứu về quyết định hình phạt có nhiều nghiên cứu chung, đồng bộ mà ít có nghiên cứu chuyên sâu về từng trường hợp cụ thể, nên việc hiểu trong lý luận và vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS như: 1) Khái niệm quyết định hình phạt, bản chất pháp lý, ý nghĩa, căn cứ quyết định hình phạt. 2) Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. 3) Các căn cứ pháp lý quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. 4) Lý luận và thực tiễn áp dụng, những vướng mắc và phương hướng giải quyết đối với quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau: 1) Phân tích căn cứ quyết định hình phạt được ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định, một số quan điểm khác nhau về quyết định hình phạt. 5
- 2) Phân tích các quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định này để đưa ra quan điểm của mình. 3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS theo các quy định của BLHS năm 1999 hiện hành và thực tiễn áp dụng tại TAND tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến năm 2005. Qua đó phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng chế định này. 4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp , cũng như những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật… trong các công trình của các nhà khoa học - luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong một số vụ án hình sự mà thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: Ý nghĩa lý luận-thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định trên cơ sở xem xét các quy định 6
- của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định có gắn với thực tiễn, do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự. 7. Bố cục của Luận văn: Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. Chương 2: Thực tiễn áp dụng việc quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định tại TAND tỉnh Nam Định (thời kỳ 2000 – 2005). Chương 3: Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN LUẬT ĐỊNH 1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định: 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định: * Một số khái niệm của các nhà khoa học: Điều 38 khoản 3 BLHS năm 1985 và Điều 47 BLHS năm 1999 quy định quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Nội dung của các điều, khoản này là Toà án sẽ áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Quy định này đã được Toà án áp dụng rất nhiều trên thực tế, tuy nhiên để hiểu chính xác và đúng đắn tinh thần điều luật và nội dung bên trong của nó thì vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có một câu hỏi là: như thế nào là "dưới mức thấp nhất" và như thế nào là "chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn". Ví dụ khoản 4 Điều 185d có khung hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình; khi Toà án áp dụng hình phạt là 20 năm tù thì đây có nghĩa là "hình phạt dưới mức thấp nhất" hay là "chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn". - Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Chánh Toà hình sự - Toà án nhân dân Tối cao, thì: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là trường hợp Toà án có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của 8
- khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn" [24]. - Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất là tuyên một hình phạt thấp hơn so với mức thấp nhất của khung hình phạt quy định, nhưng không được thấp hơn mức thấp nhất của loại hình phạt đó. Thay thế một hình phạt khác nhẹ hơn là thay thế loại hình phạt được quy định đối với tội đó bằng một hình phạt nhẹ hơn không được quy định trong điều luật đó [32]. - Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nghĩa là quyết định một hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt ở chế tài của khung hình phạt tương ứng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật hoặc một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung trong trường hợp chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung nhẹ nhất của điều luật. Quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là quyết định thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật hoặc khoản của điều luật đối với tội đang xét xử bằng một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn không được quy định trong điều luật hoặc khoản của điều luật đó [29]. - Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định, tức là áp dụng hình phạt đó với mức thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định đối với tội phạm bị xét xử. Chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật về tội phạm bị xét xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn không được quy định trong điều luật [30]. Những định nghĩa trên đây mới chỉ dừng lại ở việc giải thích theo nội dung điều luật (Điều 38 khoản 3 BLHS 1985, Điều 47 BLHS 1999) mà chưa có sự phân biệt để trả lời cho những thắc mắc đã nêu trên. Lý giải cặn kẽ vấn đề này sẽ có cơ sở để đưa ra những tiêu chí, căn cứ giải quyết vấn đề khi nào thì quyết định hình phạt nhẹ hơn (và phải cùng loại hình phạt), khi nào được 9
- chuyển sang một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Ví dụ bị cáo Phạm Văn Thê và Phạm Thị Kim bị xét xử về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" theo khoản 1 điều 165 BLHS năm 1999, Toà án đã tuyên phạt Thê 9 tháng tù, Kim 6 tháng tù và khẳng định đây là áp dụng điều 47 BLHS 1999 để quyết định hình phạt dưới mức khởi điểm của khung hình phạt. Vậy trường hợp này áp dụng điều luật và cho rằng đã quyết định hình phạt dưới mức khởi điểm của khung hình phạt đã đúng chưa? Mức khởi điểm của khung 1 điều 165 là như thế nào, hình phạt cải tạo không giam giữ hay hình phạt tù, hoặc mức thấp nhất của mỗi loại hình phạt đều là mức khởi điểm của khung...Cả Điều 38 khoản 3 BLHS 1985, Điều 47 BLHS 1999 cũng như các định nghĩa nêu trên đều chưa làm rõ được vấn đề này, vì thế cần thiết phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm đưa ra định nghĩa đúng đắn, bao quát mọi trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. * Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự cho thấy quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án có thể đưa ra một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định (nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật nếu điều luật có từ hai khung trở lên) hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Hiện nay có quan điểm cho rằng khi Toà án áp dụng một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với riêng loại hình phạt đó là đã quyết định một hình phạt nhẹ hơn luật định. Ví dụ khung có hai loại hình phạt là tù từ một năm đến năm năm và cải tạo không giam giữ đến ba năm, nếu Toà án quyết định mức hình phạt sáu tháng tù giam tức là bị cáo đã được vận dụng điều 47 Bộ luật hình sự để được hưởng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. Theo tôi quan điểm trên chưa thuyết phục bởi vì điều 47 BLHS quy định: "thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung" tức là phải dưới tất cả các loại hình phạt thấp nhất được quy định 10
- trong khung đó. Như ví dụ trên mức hình phạt sáu tháng tù giam chưa phải là được áp dụng điều 47 BLHS, vậy xếp nó vào loại nào? Có thể quy định như hiện nay đã gây khó khăn cho việc hiểu và vận dụng điều luật trên thực tế, còn gây tranh cãi và áp dụng khác nhau giữa các địa phương. Nếu điều luật nói rõ là quyết định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung (tôi xin nhấn mạnh là cùng loại) thì những khái niệm trên là đúng, còn nói chung một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung thì theo cách hiểu phổ thông nhất tức là phải bao gồm dưới "trọn gói", dưới toàn bộ tất cả các loại hình phạt có trong khung đó. Tuy nhiên hiện thời để có căn cứ pháp lý cho việc quyết định một mức hình phạt dưới khung, cùng loại thì nên theo các khái niệm hiện nay. Một vấn đề là quy định như thế nào thì có lợi cho bị cáo, đồng thời thể hiện sự minh bạch, rõ ràng của pháp luật, theo tôi việc quyết định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung nên có quy định riêng cho cụ thể hơn, và khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định có thể hiểu là: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án áp dụng một mức hình phạt, theo cùng một loại hình phạt nhẹ hơn hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự mà bị cáo bị Toà án đưa ra xét xử". 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định: * Mang đặc điểm của hoạt động quyết định hình phạt nói chung: - Chỉ có thể do một cơ quan tư pháp duy nhất thực hiện, đó là Toà án. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: "Toà án nhân dân Tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Như vậy đây là quy định xuất phát từ đạo luật gốc - Hiến pháp, có giá 11
- trị pháp lý cao nhất, không cơ quan nào có thể làm thay Toà án trong hoạt động xét xử. Cụ thể hoá điều này, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 ngay tại Điều 1 đã nhắc lại quy định này và khẳng định: "Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật", quy định này cũng được nhắc lại tại Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự. Chỉ có Toà án mới có thẩm quyền quyết định một hình phạt đối với một người (bị kết tội) - Điều 26 Bộ luật hình sự quy định: "Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định". Các cơ quan hành chính chỉ có thể ra quyết định xử lý vi phạm hành chính, quyết định kỷ luật mà không bao giờ được áp dụng hình phạt với bất cứ cá nhân nào. Tóm lại, Toà án là cơ quan duy nhất được Hiến pháp quy định chức năng xét xử các vụ án hình sự và quyết định áp dụng hình phạt đối với một cá nhân bị kết án. - Việc quyết định hình phạt chỉ có thể được thực hiện thông qua bản án kết tội và Toà án quyết định áp dụng hình phạt đối với người bị kết án: Theo Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự thì một người chỉ phải chịu hình phạt khi có bản án kết tội (có hiệu lực pháp luật). Như vậy một bản án không kết tội thì không thể có một hình phạt nào được đưa ra, nếu Toà án miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì cũng không có hình phạt xuất hiện. * Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đưa ra một hình phạt (mức hoặc loại) thấp hơn (các) hình phạt có trong khung, điều quy định về một tội phạm được áp dụng để xét xử người phạm tội khi không có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó. Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát 12
- truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố". Việc áp dụng một hình phạt nhẹ hơn luật định không thể căn cứ vào khung, điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố để đánh giá nhẹ hay nặng hơn, vì ngay trong Điều 196 vừa nêu đã cho phép Toà án xét xử bị cáo với khung, điều luật nhẹ hơn, điều này căn cứ vào việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên toà xét xử công khai. Theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, luật đã đưa ra quy định như tại điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự. Cho nên đánh giá một quyết định hình phạt nhẹ hơn phải đối chiếu với trường hợp áp dụng hình phạt đối với những hành vi cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội tương tự như nhau trong điều kiện không có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. * Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng là thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự. Điều 3 Bộ luật hình sự quy định nguyên tắc xử lý là: "2…. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. 3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục". Khoản 2 Điều 3 đã được quy định cụ thể thành các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 46 Bộ luật hình sự. Tinh thần của khoản 3 Điều 3 cũng được ghi nhận tại một phần của Điều 47 Bộ luật hình sự. 13
- Theo quy định của Bộ luật hình sự, nếu người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù bao gồm các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Ngoài ra, việc Toà án cho người phạm tội được hưởng án treo cũng được coi là nhẹ hơn hình phạt tù. Nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội là cơ sở quy định các chế định, các quy định khác về quyết định hình phạt như: căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45); quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47); án treo (Điều 60) [26]. * Tuy nhiên, người bị kết án vẫn phải chịu án tích. Khi được áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật thì người bị kết án phải chịu một trong sáu loại hình phạt chính được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật hình sự (trừ hình phạt tử hình), không phải trường hợp được miễn hình phạt cho nên không thuộc trường hợp đương nhiên xoá án tích. Với một bản án kết tội và một hình phạt nhất định thì người bị kết án phải có một khoảng thời gian nhất định mới được xoá án tích, và phải chịu hậu quả pháp lý của việc mang án tích như có thể bị xác định là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm khi phạm tội mới... * Hình phạt do Toà án quyết định đối với người bị kết án luôn luôn không nằm trong khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử, nó nằm ở khung hình phạt nhẹ hơn. Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 thì nó nằm ở khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Hiện nay có một số quan điểm tranh luận về khung liền kề nhẹ hơn là như thế nào, và một số vướng mắc khi áp dụng Điều 47: - Thạc sỹ Lê Đăng Doanh đã viết trong bài: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS" cụ thể về tội "Hiếp dâm trẻ em" [28]. Đó là theo 14
- quy định của Điều 112 BLHS 1999 sẽ nảy sinh vấn đề bất cập khi vận dụng Điều 47 với trường hợp sau đây: H đủ 18 tuổi, chưa có tiền án, tiền sự đã thực hiện hành vi hiếp dâm cháu C mới 12 tuổi 6 tháng (thuộc khoản 4 Điều 112). Nhưng H có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS như: tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại 10 triệu đồng theo yêu cầu của người bị hại để khắc phục hậu quả (điểm b, o, p khoản 1 Điều 46). Không có các tình tiết tăng nặng đáng kể, gia đình phía bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Vậy trường hợp này, vận dụng quy định của Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng như thế nào? Thứ nhất: nếu phạt H dưới 12 năm thì giới hạn thấp nhất là bao nhiêu và nằm trong khung hình phạt nào? Bởi nếu khung hình phạt liền kề khoản 4 là khoản 3 thì khoản 3 Điều 112 có mức phạt 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Đây là khung hình phạt liền kề nặng hơn. Còn khoản 2 có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm là khung hình phạt nhẹ hơn nhưng nếu vận dụng dưới mức thấp nhất của khoản 4 là dưới 12 năm và phải nằm trong khung hình phạt nhẹ hơn là khoản 2 (mức 12 đến 20 năm tù) thì mức hình phạt lại không thể thấp hơn 12 năm được. Vì vậy không thể áp dụng khoản 2 để xử lý H được. Vậy chỉ còn khoản 1 Điều 112 với mức phạt tù từ 7 đến 15 năm có thể được gọi là khung hình phạt nhẹ hơn và mức hình phạt dưới 12 năm nhưng phải nằm trong phạm vi từ 7 đến 15 năm (tức không được thấp hơn 7 năm). Nhưng khoản 1 có được coi là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn không? Và điều quan trọng là khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 112 chỉ áp dụng với người phạm tội mà nạn nhân là trẻ em nữ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn khoản 4 thì áp dụng với người phạm tội hiếp dâm trẻ em mà nạn nhân là trẻ em nữ dưới 13 tuổi. Do vậy, khi H phạm tội thuộc khoản 4 Điều 112 thì không có khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, do đó giới hạn mức thấp nhất của hình phạt không xác định được. 15
- Theo quan điểm của tác giả Lê Đăng Doanh thì khi áp dụng Điều 47 trong trường hợp này phải coi đây là trường hợp phạm tội có một khung hình phạt. Vì vậy, khi H tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46 BLHS thì Toà án có quyền quyết định hình phạt dưới mức 12 năm, nhưng giới hạn tối thiểu dưới 12 năm là bao nhiêu? Nếu theo khoản 4 Điều 112 do luật không quy định rõ ràng, nên giới hạn tối thiểu ở đây được hiểu là không thấp hơn 3 tháng tù (giới hạn thấp nhất của hình phạt tù). Và như vậy H có thể được Toà án tuyên hình phạt 3 tháng tù, 6 tháng tù...là mức hình phạt dưới 12 năm tù vẫn phải coi là đúng pháp luật. Trường hợp thực tế có thể xảy ra như nêu trên rõ ràng là giảm nhẹ quá mức cần thiết, do đó để tránh sự lạm dụng quy định không chặt chẽ của pháp luật và giảm nhẹ quá đáng cho người phạm tội, cần có sự giải thích chính thức từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thống nhất đường lối xử lý và đảm bảo tính pháp chế. Tác giả còn đưa ra một số trường hợp vướng mắc tương tự như tại Điều 84 tội khủng bố, Điều 111 khoản 4 tội hiếp dâm, Điều 113 khoản 3 tội cưỡng dâm...Những trường hợp này luật chỉ dự liệu các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự. Còn trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có đủ điều kiện để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì chưa được dự liệu cụ thể trong luật, nhất là dưới hạn mức thấp nhất tối thiểu của hình phạt, vì vậy dễ dẫn đến sự vận dụng pháp luật thiếu thống nhất. - Tác giả Dương Tuyết Miên cũng đề cập đến tội hiếp dâm trẻ em khoản 4 Điều 112 với vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn xét xử [23]. Đó là trường hợp bị cáo được áp dụng điều luật này khi bản thân bị cáo có 3 tình tiết giảm nhẹ quy định ở Điều 46. Toà án cho bị cáo hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Mặc dù hình phạt Toà án tuyên cho bị cáo không thấp hơn nhiều so với mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng hình phạt này lại không thuộc khung hình phạt nhẹ hơn kế tiếp. Và trường hợp này, cán bộ xét xử hoàn toàn tuân thủ pháp luật nhưng vô hình trung lại trở thành 16
- người vi phạm Điều 47 BLHS. Ví dụ Toà án xử cho bị cáo 10 năm tù là dưới mức thấp nhất của khoản 4 Điều 112. Tuy nhiên khoản 3 Điều 112 lại quy định hình phạt là tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều đó có nghĩa là khoản 3 Điều 112 không phải là khung hình phạt nhẹ hơn liền kề. Như vậy, hình phạt mà Toà án tuyên cho bị cáo thực tế lại tương ứng với khoản 1 Điều 112. Trường hợp này, mặc dù hình phạt mà Toà án tuyên cho bị cáo không thấp hơn nhiều so với mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng vì điều luật không quy định khung hình phạt nhẹ hơn liền kề khung hình phạt được áp dụng nên hình phạt thực tế Toà án tuyên cho bị cáo lại thuộc về một khung hình phạt khác, cách xa khung hình phạt được áp dụng. - Ngoài trường hợp vướng mắc ở khoản 4 Điều 112 BLHS nêu trên, tác giả Đỗ Văn Chỉnh còn đưa ra hai tình huống khác [20]. Đó là: 1. Người phạm tội đã tự thú về hành vi phạm tội trước đó, mà việc tự thú này lại làm xấu đi tình trạng của bị can, bị cáo. Ví dụ một người có hành vi bán hêrôin bị bắt quả tang. Sau đó người này tự thú là: trước khi bị bắt quả tang, anh ta đã có một lần bán hêrôin. Lời thú tội này được xác minh là đúng, vậy nên bị cáo đã vi phạm khoản 2 Điều 194 BLHS với tình tiết phạm tội nhiều lần. (Nếu người phạm tội không tự thú về hành vi phạm tội trước đó thì người này chỉ vi phạm vào khoản 1 Điều 194 BLHS). Vì chỉ có một tình tiết giảm nhẹ là tự thú nên Toà án không thể xử phạt họ dưới 7 năm tù được. 2. Bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng có hai hoặc ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS. Tác giả có ý kiến như sau: + Đối với người phạm tội hiếp dâm mà người bị hại chưa đủ 13 tuổi, người phạm tội lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46; nhưng lại không thể xử phạt dưới mức thấp nhất quy định tại khoản 4 Điều 112 được. (Vì khung hình phạt liền kề lại có mức phạt cao hơn). Căn cứ vào quy định tại Điều 112 BLHS thì: Điều 112 quy định về tội hiếp dâm trẻ em. Trong 17
- điều luật này chia làm hai loại tuổi trẻ em là người bị hại. Khoản 1, khoản 2 và khoản 3 điều luật này để trừng trị người hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn khoản 4 là để trừng trị người hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi. Mức phạt quy định tại khoản 4 là mức phạt quy định chung cho người phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên. Quy định mức phạt thấp nhất tại khoản 4 Điều 112 là đúng với khoản 2 Điều 12 và khoản 2 Điều 74 BLHS và sát với thực tế cuộc sống. Vì có trẻ em chưa đủ 16 tuổi đã hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi và còn có tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần. Việc áp dụng pháp luật sẽ là: Người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi mà hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi thì áp dụng khoản 4 Điều 112 để định tội danh, áp dụng khoản 2 Điều 12 và khoản 2 Điều 74 BLHS để xác định mức phạt tù. Khoản 2 Điều 74 có quy định là: "Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù...". Đây là mức phạt đặc biệt để áp dụng đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi mà không phụ thuộc vào Điều 47 BLHS. Vì trong khoản 2 Điều 74 BLHS có quy định là: " mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù" quy định này còn được hiểu là có thể có người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi không phải chịu mức hình phạt cao nhất là mười hai năm tù, mà có thể là dưới mười hai năm tù. Do pháp luật chỉ quy định có một khung hình phạt đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại chưa đủ 13 tuổi nên việc so sánh mức phạt quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS với mức phạt quy định tại khoản 3 Điều 112 BLHS là mức phạt cao nhất áp dụng đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi là không thích hợp. (Vì đây là hai trường hợp phạm tội khác nhau). Đối với người thành niên phạm tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại chưa đủ 13 tuổi, tội phạm đã hoàn thành và đạt được mục đích của người 18
- phạm tội, tuy người phạm tội có hai hay ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS thì việc áp dụng Điều 47 BLHS cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng để không phạm thiếu sót. Vì trẻ em chưa đủ 13 tuổi là đối tượng mà toàn xã hội cần có sự bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Mặt khác, trong Điều 47 BLHS quy định là: "Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt...". Ở đây, điều luật quy định là "có thể" chứ không phải là được quyết định. Trong khi đó, tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại chưa đủ 13 tuổi lại chỉ có một khung hình phạt, và loại tội phạm này chưa giảm. + Đối với người mua bán hêrôin bị bắt quả tang đã tự thú về hành vi mua bán trái phép trước đó, nếu không tự thú thì họ chỉ bị xử phạt theo khoản 1 Điều 194 BLHS, còn tự thú lại bị xử phạt theo khoản 2 Điều 194 BLHS. Do có một tình tiết giảm nhẹ là tự thú nên Toà án không thể xử phạt họ dưới 7 năm tù được. Tác giả cho rằng có thể Hội đồng xét xử đánh giá chưa thật đầy đủ về các lời khai của người phạm tội. Thực tế công tác xét xử cho thấy, người đã tự thú về hành vi phạm tội mà hành vi này không có ai biết, thì thông thường người này cũng thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội đã bị phát hiện hoặc tại phiên toà những người này thường tỏ rõ sự ăn năn hối cải. Như vậy, người phạm tội sẽ có hai tình tiết giảm nhẹ là: tự thú và ăn năn hối cải. Vấn đề là Hội đồng xét xử đã đánh giá đầy đủ tình tiết giảm nhẹ chưa. Tuy Toà án áp dụng khoản 2 Điều 194 BLHS để xử phạt nhưng bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46 BLHS nên áp dụng Điều 47 BLHS để xử phạt dưới 7 năm tù, có như vậy mới khuyến khích người phạm tội tự thú. + Đối với trường hợp bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS và có nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 2 Điều 46 BLHS mà không thể áp dụng Điều 47 BLHS được. Để giải quyết vấn đề này 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn