Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo pháp luật của một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với Việt Nam
lượt xem 5
download
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tổng quát những vấn đề lý luận chung về trọng tài và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; phân tích vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo pháp luật trọng tài một số nước trong khu vực Châu Á và Việt Nam; kiến nghị các phương hướng và giải pháp để hoàn thiện pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo pháp luật của một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM CHÍ DŨNG THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC CHÂU Á VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi – 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM CHÍ DŨNG THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC CHÂU Á VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Ngọc Hµ néi - 2012 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT 6 TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát chung về trọng tài 6 1.1.1. Khái niệm trọng tài 6 1.1.2. Các loại trọng tài 7 1.1.3. Tố tụng trọng tài 14 1.1.4. Sự khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng tòa án trong giải 19 quyết tranh chấp thương mại quốc tế 1.1.5. Ưu thế của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với tòa án 22 1.2. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài 25 Chương 2: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA 30 TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC CHÂU Á VÀ VIỆT NAM 2.1. Nội dung pháp luật trọng tài của một số nước trong khu vực 30 Châu Á về thẩm quyền xét xử của trọng tài 3
- 2.1.1. Cơ sở thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài 35 2.1.2. Quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài 43 2.2. Pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh 55 chấp của trọng tài 2.2.1. Các vấn đề pháp lý liên quan đến thẩm quyền giải quyết tranh 55 chấp của trọng tài 2.2.2. Những hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam về thẩm 70 quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ 77 THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI 3.1. Thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại 77 Việt Nam 3.2. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền 88 giải quyết tranh chấp của trọng tài 3.4. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về thẩm 90 quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài 3.4.1. Về phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài 90 3.4.2. Thống nhất các văn bản pháp luật về thẩm quyền giải quyết 97 tranh chấp của trọng tài 3.4.3. Sửa đổi tên gọi của Luật Trọng tài Thương mại 99 3.4.4. Tiếp thu kinh nghiệm pháp luật trọng tài của các nước trên 100 thế giới KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 4
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADR : Phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn SIAC : Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore TTTM 2010 : Trọng tài Thương mại UNCITRAL : Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế VIAC : Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 5
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 So sỏnh tớnh ưu việt của trọng tài so với tũa ỏn 24 3.1 Tổng hợp số lượng vụ tranh chấp giải quyết bằng trọng 78 tài tại Việt Nam từ năm 2004 - 2009 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh phát sinh ngày càng nhiều tranh chấp và hơn lúc nào hết giải quyết tranh chấp đang là một vấn đề "nổi cộm" đặt ra đối với các quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR) như trung gian, hòa giải và trọng tài thì trọng tài thương mại với những ưu thế nổi bật của mình là một lựa chọn hấp dẫn đối với các nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua tại Việt Nam thì trọng tài thương mại chưa thực sự phổ biến và các doanh nghiệp, doanh nhân cũng không thực sự "mặn mà" với phương thức giải quyết tranh chấp này. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát một phần từ những bất cập và hạn chế trong các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam. Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội khóa 12 thông qua ngày 17/6/2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 với nhiều quy định mới tiến bộ về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, trong đó nội dung quy định về mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các chuyên gia pháp lý, các nhà hoạt động thực tiễn và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hi vọng rằng với những đổi mới trong quy định của pháp luật, hoạt động trọng tài tại Việt Nam trong những năm tới sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ và trọng tài Việt Nam sẽ là điểm đến, sự lựa chọn của các thương nhân trong và ngoài nước trong việc giải quyết tranh chấp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả thấy cần có một công trình nghiên cứu về lĩnh vực trọng tài trong đó tập trung chủ yếu vào chuyên đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài Việt Nam và có sự nghiên cứu, phân tích, so sánh với pháp luật của một số quốc gia trong khu 7
- vực Châu Á về cùng vấn đề để thấy được những tiến bộ và hạn chế của pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, qua đó có sự điều chỉnh các quy định pháp luật trọng tài cho phù hợp với thông lệ quốc tế và các nước trong khu vực. Trong điều kiện đó, tôi chọn đề tài "Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo pháp luật của một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với Việt Nam" làm đề tài luận văn của mình với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về pháp luật trọng tài của một số nước trong khu vực Châu Á, trong đó tập trung vào vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài của một số quốc gia điển hình trong khu vực có hệ thống pháp luật trọng tài phát triển như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản, qua đó có sự so sánh với những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, đồng thời nêu ra một số bất cập và những giải pháp để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước hết có thể khẳng định rằng trọng tài không phải là một đề tài mới vì đã có nhiều bài viết khoa học, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ của các tác giả trong nước viết về vấn đề trọng tài. Tuy nhiên, những bài viết, khóa luận, luận văn và luận án này tập trung chủ yếu vào vấn đề "cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài" với tư cách là một cơ chế giải quyết tranh chấp trong sự so sánh với các cơ chế giải quyết tranh chấp khác như trung gian, hòa giải và tòa án theo quy định của hệ thống pháp luật trọng tài trong nước, từ đó chỉ ra những điểm ưu việt cũng như những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài. Về đề tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, qua tìm hiểu tác giả được biết, hiện nay tại Việt Nam chưa có bất kỳ luận văn thạc sỹ hoặc 8
- luận án tiến sỹ nào nghiên cứu một cách cụ thể về vấn đề này, đặc biệt là thẩm quyền của trọng tài theo pháp luật của một số nước trong khu vực Châu Á - khu vực có hệ thống pháp luật về trọng tài và thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá phát triển. Trong phạm vi luận văn này, tác giả không đi sâu nghiên cứu toàn diện về cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mà chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo quy định của pháp luật trọng tài một số nước điển hình trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc và Ấn Độ từ đó so sánh với pháp luật trọng tài của Việt Nam về vấn đề này. Trên cơ sở những nội dung nghiên cứu về pháp luật trọng tài của các nước nói trên và pháp luật trọng tài Việt Nam, luận văn nêu ra một số hạn chế của pháp luật Việt Nam trong việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trọng tài về vấn đề này. 3. Phương pháp nghiên cứu luận văn Luận văn được nghiên cứu và viết dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử với các phương pháp chủ yếu sau đây: a) Các phương pháp nghiên cứu chung bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp phân tích lịch sử; b) Các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp phân tích tình huống, phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp xã hội học pháp luật và phương pháp phân tích và lựa chọn giải pháp. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Pháp luật về trọng tài là một phạm trù rất rộng và bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Mỗi khía cạnh của pháp luật trọng tài có thể là một đề tài để 9
- học viên lựa chọn nghiên cứu. Trong đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài là một khía cạnh của pháp luật trọng tài. Trong luận văn, ngoài việc nghiên cứu sơ lược về những vấn đề lý luận chung về thẩm quyền của trọng tài như khái niệm trọng tài, khái niệm về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, các hình thức trọng tài, thủ tục trọng tài, ưu thế của trọng tài so với tòa án …, luận văn nghiên cứu vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài của một số nước điển hình trong khu vực Châu Á gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Ấn Độ qua đó so sánh với thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài Việt Nam để thấy được những tiến bộ và hạn chế của pháp luật trọng tài Việt Nam về vấn đề này. Trên cơ sở những nội dung nghiên cứu, luận văn chỉ ra những điểm chưa hợp lý và đề xuất một số kiến nghị để góp phần hoàn thiện pháp luật trọng tài Việt Nam về vấn đề này. 5. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn Thứ nhất: Nghiên cứu tổng quát những vấn đề lý luận chung về trọng tài và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Thứ hai: Phân tích vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo pháp luật trọng tài một số nước trong khu vực Châu Á và Việt Nam. Thứ ba: Kiến nghị các phương hướng và giải pháp để hoàn thiện pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn a) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài Việt Nam và trọng tài một số nước trong khu vực Châu Á. b) Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam và pháp luật trọng tài một số nước trong khu vực Châu Á về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. 10
- c) Đưa ra một số ý kiến và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn a) Thông qua việc nghiên cứu lý luận, thực tiễn quy định pháp luật trọng tài Việt Nam và trọng tài một số nước trong khu vực Châu Á về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, kết quả nghiên cứu và những ý kiến đề xuất của luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện những quy định pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, phù hợp với thông lệ quốc tế. b) Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, pháp luật quốc tế về trọng tài nói riêng … cho các cán bộ, giảng viên đang công tác trong các cơ quan pháp luật… 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Chương 2: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo pháp luật một số nước trong khu vực Châu Á và Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. 11
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát chung về trọng tài 1.1.1. Khái niệm trọng tài Theo nghĩa thông thường nhất thì: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên tranh chấp đưa tranh chấp của mình ra một bên trung gian thứ ba (trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài) và bên trung gian này sẽ xem xét các tài liệu và lập luận của các bên sau đó sẽ đưa ra quyết định về tranh chấp của các bên [26]. Điểm a, khoản 2, Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại Quốc tế định nghĩa: "Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực" [13]. Khoản 1, Điều 3 Luật TTTM 2010 quy định: "Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này" [21]. So với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, trung gian hòa giải, tòa án thì trọng tài có những đặc trưng như sau: Thứ nhất, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp được hình thành trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện của các bên tranh chấp. Nếu không có sự tự nguyện thỏa thuận của các bên về việc đưa tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra trọng tài giải quyết thì trọng tài không thể tham gia giải quyết vụ việc. Đặc điểm này làm cho trọng tài hoàn toàn khác với tòa án ở chỗ để đưa tranh chấp ra tòa án giải quyết, các bên tranh chấp không cần bất kỳ thỏa thuận nào. 12
- Thứ hai, hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài mang tính chất tài phán, có nghĩa là trọng tài được quyền đưa ra phán xét cuối cùng để giải quyết tranh chấp và phán quyết này có giá trị bắt buộc đối với các bên; trường hợp các bên không tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài thì sẽ bị cưỡng chế thi hành. Điều này làm cho trọng tài hoàn toàn khác với phương thức thương lượng hay trung gian hòa giải. Trong phương thức thương lượng hay trung gian hòa giải, các bên tranh chấp phải tự bàn bạc, thỏa thuận để thống nhất phương án giải quyết tranh chấp bất đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện phương án đó. Thứ ba, các phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm. Phán quyết trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự thỏa thuận của các bên, vừa mang tính chất tài phán của tổ chức có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, pháp luật cũng đưa ra nhiều yêu cầu bắt buộc trọng tài tuân thủ, nhất là yêu cầu về thủ tục và thẩm quyền. Điều này sẽ đảm bảo quá trình giải quyết tại trọng tài được chính xác và khách quan. Các phán quyết trọng tài bị hủy trong trường hợp trọng tài không tuân thủ quy định về hình thức. Từ những phân tích ở trên có thể định nghĩa: Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho một trọng tài và trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, trọng tài được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. 1.1.2. Các loại trọng tài Trong những năm gần đây, số lượng những vụ tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết bằng trọng tài ngày càng tăng. Các tổ chức trọng tài phi chính phủ đã phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy ở khắp các nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nơi được coi là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Ở các quốc gia khác nhau, 13
- trọng tài thương mại phi chính phủ có những tính chất, đặc điểm khác biệt, phù hợp với trình độ và đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Tuy vậy, nhìn chung có thể chia trọng tài làm hai loại chính dựa trên phương pháp tiến hành tố tụng. * Trọng tài vụ việc (ad hoc arbitration): Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài do các bên tranh chấp tự thành lập để giải quyết vấn đề họ yêu cầu, sau khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì hội đồng trọng tài tự giải tán. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài vụ việc có thể được tiến hành theo quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quy chế hoặc không theo quy tắc của tổ chức trọng tài nào mà thủ tục tố tụng do các bên tự quy ước với nhau. Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho thấy, đối với trọng tài vụ việc, các bên không bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài quy chế mà họ có thể tự quy định quy tắc tố tụng riêng để áp dụng cho vụ tranh chấp của mình. Đây chính là ưu điểm của trọng tài vụ việc so với trọng tài quy chế. Như vậy, trọng tài vụ việc hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự do thoả thuận của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có toàn quyền lựa chọn bất kỳ một trọng tài viên nào hoặc người có kinh nghiệm trong lĩnh vực tranh chấp hoặc uy tín làm trọng tài viên để giải quyết tranh chấp của mình. Người này chỉ cần được các bên nhất trí chứ không bị giới hạn bởi bất kỳ một điều kiện nào nhưng nếu các bên thống nhất lựa chọn một người không đủ khả năng thì chính họ là người sẽ phải gánh chịu hậu quả do sự đề cử của mình đem lại. Do đó, trọng tài viên thường là người có uy tín, kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ trong lĩnh vực thương mại quốc tế và công minh trong xét xử. Ngoài ra, các bên tranh chấp còn có toàn quyền trong việc thoả thuận để tự thiết lập những thủ tục, nguyên tắc tố tụng riêng sao cho phù hợp với tranh chấp của mình chứ không nhất thiết phải tuân theo bất kỳ một nguyên tắc sẵn có nào. Nhưng các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận chấp nhận một hệ thống quy định mẫu về trọng tài, điển hình như Bản Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL thông qua ngày 28/4/1976 14
- hay Luật mẫu UNCITRAL thông qua ngày 21/6/1985. Như vậy, tổ chức và tố tụng của trọng tài vụ việc khá đơn giản, có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí của các bên liên quan. Thực tế hiện nay các bên tranh chấp thường có khuynh hướng lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc để có thể giải quyết tranh chấp nhanh chóng do thủ tục tố tụng đơn giản và giảm chi phí (do không phải trả chi phí cho các thủ tục hành chính của trọng tài quy chế). Tuy nhiên, hình thức trọng tài vụ việc không phải bao giờ cũng là quy trình trọng tài nhanh hơn và ít tốn kém hơn so với trọng tài quy chế. Vì không có tổ chức trọng tài quy chế nào đặt ra và giám sát thời hạn và không có biểu phí cố định cho trọng tài vụ việc, các bên sẽ phải thỏa thuận trực tiếp về vấn đề này đối với trọng tài viên. Vì vậy, các bên có thể thỏa thuận mức thù lao theo giờ với các trọng tài viên và kết quả là tổng chi phí cuối cùng có thể cao hơn số tiền các bên phải trả nếu đưa tranh chấp ra giải quyết tại một trung tâm trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài vụ việc, không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành tố tụng trọng tài và giám sát các trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào các trọng tài viên tiến hành tố tụng như thế nào và liệu họ có kiểm soát được toàn bộ quá trình tố tụng không. Cả trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội yêu cầu một tổ chức nào ủng hộ hay trợ giúp trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không thể giải quyết vụ kiện. Sự giúp đỡ và ủng hộ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ các tòa án quốc gia. Ở Việt Nam, tại các văn bản pháp luật về trọng tài trước đây chưa có quy định cụ thể về hình thức trọng tài vụ việc này. Pháp lệnh TTTM 2003 lần đầu tiên đưa ra quy định về loại hình trọng tài này tại Điều 26, chính thức công nhận loại hình trọng tài vụ việc và đồng thời cũng đã đưa ra được giải pháp đối với hạn chế nêu trên của trọng tài vụ việc. 15
- Điều 26. Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập 1. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho bên nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp Tỉnh) nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên cho bị đơn. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một thẩm phán chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn và thông báo cho các bên. 2. Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo. Hết thời hạn này, các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án cấp tỉnh, nơi có trụ sở hoặc cư trú của một trong các bị đơn chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên theo yêu cầu của nguyên đơn và thông báo cho các bên. 3. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được chọn hoặc Toà án chỉ định, các Trọng tài viên này phải thống nhất chọn trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này, nếu hai Trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ ba, các bên có quyền yêu cầu Toà án cấp tỉnh, nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên thứ ba. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày 16
- nhận được yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch hội đồng Trọng tài và thông báo cho các bên. 4. Trọng tài viên do các bên chọn hoặc do Toà án chỉ định có thể là Trọng tài viên trong danh sách hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các Trung tâm Trọng tài của Việt Nam. 5. Trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài viên duy nhất thì theo yêu cầu của một bên, Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày được yêu cầu và thông báo cho các bên. Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vụ như một Hội đồng Trọng tài. Quyết định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội đồng Trọng tài [21]. Tiếp nối các quy định của Pháp lệnh TTTM 2003 về trọng tài vụ việc và xu hướng chung của pháp luật trọng tài quốc tế, Điều 41 Luật TTTM 2010 cũng đã quy định về loại hình trọng tài này như sau: Điều 41. Thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc Trường hợp các bên không có thoả thuận khác, việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc được quy định như sau: 1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn và các bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn; 17
- 2. Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn, thì các bị đơn phải thống nhất chọn Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo. Hết thời hạn này, nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên và nếu các bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn; 3. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được các bên chọn hoặc được Tòa án chỉ định, các Trọng tài viên bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp không bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài và các bên không có thoả thuận khác thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài; 4. Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do một Trọng tài viên duy nhất giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện, nếu các bên không có thoả thuận yêu cầu một Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên duy nhất; 5. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của các bên quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 của Điều này, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải phân công một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên và thông báo cho các bên [7]. * Trọng tài thường trực hay trọng tài quy chế (Institutional Arbiration): Trọng tài thường trực là trọng tài được thành lập và hoạt động thường xuyên theo một quy chế nhất định (Điều lệ, Quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài), có cơ quan thường trực (Trung tâm trọng tài, Ban điều hành gồm Chủ tịch và Ban thư ký). 18
- Trọng tài thường trực có nghĩa là các bên lựa chọn cách thức tiến hành tố tụng trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài quy chế và với sự trợ giúp của tổ chức đó. Đối với trọng tài thường trực, khi lựa chọn trọng tài viên, các bên thường chỉ được lựa chọn trong một danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài, hoặc có thể được lựa chọn trọng tài viên ngoài danh sách của trung tâm trọng tài nhưng ít nhất trọng tài viên cũng phải đáp ứng được một số điều kiện tối thiểu do trung tâm trọng tài đặt ra. Ví dụ như tại VIAC, các bên tranh chấp có thể lựa chọn trọng tài viên trong danh sách do VIAC công bố hoặc lựa chọn trọng tài viên ngoài danh sách này nhưng phải được VIAC chấp thuận. Khi xét xử, trọng tài thường trực phải tuân theo quy tắc tố tụng đã định trước của trung tâm hoặc quy tắc tố tụng theo sự lựa chọn của các bên tranh chấp (thường đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài). Tuy nhiên, đây cũng là quy định thuận lợi cho các bên chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương mại quốc tế bởi vì các bên tranh chấp không cần phải thỏa thuận quá chi tiết về quy tắc, thủ tục tố tụng mà chỉ cần thỏa thuận trung tâm trọng tài nào sẽ giải quyết tranh chấp giữa các bên và chấp nhận quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó. Hình thức trọng tài thường trực có rất nhiều ưu điểm, với một điều lệ và quy tắc tố tụng độc lập, tương đối ổn định, với thực tiễn và kinh nghiệm phong phú được tích luỹ qua quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, với một đội ngũ những trọng tài viên là những chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (thương mại, hàng hải, thanh toán quốc tế, luật quốc tế, xây dựng, ngân hàng...) khiến cho quá trình tố tụng diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả. Do đó, các tổ chức trọng tài phi chính phủ thường trực đã được thành lập ở rất nhiều nước trên thế giới. Tại một số nước như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam... trọng tài thường trực được tổ chức dưới hình thức các trung tâm trọng tài bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp, nhưng cũng có những nước trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng công ty hoặc hiệp hội trọng tài như ở Nhật, Mỹ (Hiệp hội Trọng tài Mỹ AAA, Hiệp hội Trọng tài Nhật Bản JCAA), Anh (Tòa án Trọng tài Quốc tế Luân Đôn LCIA). 19
- Ở Việt Nam, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) được thành lập theo Quyết định số 204/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Hàng hải và Hội đồng Trọng tài Ngoại thương. VIAC có nhiệm vụ xét xử các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế như các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế. Ngày 16/02/1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 114/TTg về việc mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của VIAC, theo đó VIAC được phép mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ kinh doanh trong nước. VIAC hoạt động theo điều lệ riêng, giải quyết tranh chấp theo quy tắc tố tụng riêng và là tổ chức trọng tài thương mại có uy tín nhất hiện nay ở Việt Nam. Ngoài VIAC, tại Việt Nam hiện nay còn có 6 trung tâm trọng tài đang hoạt động trên cả nước gồm Trung tâm Trọng tài Thương mại Á Châu, Trung tâm Trọng tài Thương mại Hà Nội, Trung tâm Trọng tài Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Trọng tài Thương mại Cần Thơ, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Châu Á Thái Bình Dương, Trung tâm Trọng tài Viễn Đông. 1.1.3. Tố tụng trọng tài Thủ tục trọng tài được tiến hành theo đúng quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài hoặc quy tắc tố tụng mà hai bên đã thống nhất lựa chọn. Mỗi trung tâm trọng tài ở một nước đều xây dựng cho mình một bản quy tắc tố tụng phù hợp với đặc điểm luật pháp về trọng tài của nước đó. Tuy nhiên, để tăng sự hấp dẫn của các trung tâm trọng tài và để thuận tiện cho việc xét xử và công nhận phán quyết trọng tài, hầu hết quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài đều có xu thế xích lại gần với quy tắc của trọng tài ICC và quy tắc của Luật Mẫu UNCITRAL. Quá trình tố tụng tại trọng tài thường bao gồm các bước như: đơn kiện, chọn và chỉ định trọng tài viên, công tác điều tra trước khi xét xử, phiên họp xét xử, kết thúc xét xử... 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 175 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 343 | 41
-
Luận văn thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 202 | 34
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 239 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành
24 p | 137 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 229 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn