intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

39
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu nhưng quy định về thỏa thuận lựa chọn Tòa án trong các Công ước và pháp luật của một số quốc gia cũng như Việt Nam trong mối tương quan so sánh, nhằm định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện chế định thỏa thuận tòa án tại Việt Nam cũng như việc thực thi chế định này trên thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LOAN THáA THUËN LùA CHäN TßA ¸N GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP TH¦¥NG M¹I QUèC TÕ Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH HÀ NỘI - 2015
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ............................................................................................ 6 1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế bằng tòa án ..... 6 1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế ............................................................ 6 1.1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án ...................... 10 1.2. Các tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế .................................................................. 12 1.2.1. Tiêu chí quốc tịch của đương sự ......................................................... 12 1.2.2. Tiêu chí lãnh thổ ................................................................................. 13 1.2.3. Một số tiêu chí khác ............................................................................ 14 1.2.4. Tiêu chí sự thỏa thuận của các bên ..................................................... 17 1.3. Quyền thỏa thuận của các bên với tƣ cách là tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án...................................................................... 17 1.3.1. Cơ sở pháp lý của thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.............................................................................. 17 1.3.2. Khái niệm thỏa thuận lựa chọn tòa án ................................................ 19 1.3.3. Phân loại thỏa thuận lựa chọn tòa án .................................................. 23
  3. 1.3.4. Ý nghĩa của việc thừa nhận quyền thỏa thuận của các bên trong xác định thẩm quyền của tòa án .......................................................... 28 Chƣơng 2: THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI ................... 30 2.1. Hiệu lực của thỏa thuận lựa chọn tòa án ........................................ 30 2.1.1. Phạm vi thỏa thuận.............................................................................. 30 2.1.2. Hình thức thỏa thuận ........................................................................... 35 2.2. Hệ quả của việc thừa nhận thỏa thuận lựa chọn Tòa án .............. 39 2.2.1. Hệ quả về mặt xác định thẩm quyền của Tòa án ................................ 39 2.2.2. Hệ quả về công nhận và thi hành phán quyết của Tòa án .................. 42 Chƣơng 3: THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM .... 49 3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết về thỏa thuận lựa chọn tòa án tại Việt Nam .................................................................. 49 3.1.1. Quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam ............................................................................................. 49 3.1.2. Thực tiễn giải quyết về thỏa thuận lựa chọn tòa án tại Việt Nam............ 53 3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện và tăng cƣờng thực thi pháp luật ............................................................................................ 56 3.2.1. Phương hướng chung .......................................................................... 56 3.2.2. Thừa nhận Thỏa thuận chọn Tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự và văn bản chuyên ngành .................................................................... 59 3.2.3. Xem xét việc gia nhập Công ước Lahay về thỏa thuận lựa chọn tòa án 2005 .......................................................................................... 64 3.2.4. Một số kiến nghị về thực thi pháp luật đối với doanh nghiệp ............ 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự ECJ: Tòa án công lý Châu Âu (European Court of Justice) EU: Liên minh Châu Âu (European Union) TTDS: Tố tụng dân sự YTNN: Yếu tố nước ngoài
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền là hai vấn đề quan trọng nhất trong tư pháp quốc tế. Trong các tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế, hay còn gọi là hợp đồng có yếu tố nước ngoài, một trong những vấn đề đầu tiên cần phải giải quyết là vấn đề xung đột thẩm quyền xét xử. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng tới cả quá trình cũng như kết quả giải quyết tranh chấp. Nhằm kiểm soát rủi ro, các bên thường tìm cách thỏa thuận trước về phương thức cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch giữa họ. Trong một số trường hợp, các bên sẽ đưa tranh chấp ra trọng tài. Trong những trường hợp khác, các bên sẽ đồng ý khởi kiện tranh chấp trước tòa án được các bên thỏa thuận. Xuất phát từ tính chất của quan hệ tư, trên thế giới hiện nay, hầu hết các quốc gia đã cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn Tòa án phù hợp để giải quyết tranh chấp, miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với quy định của pháp luật nước được lựa chọn. Điều này đã trở nên quan trọng và phổ biến trong các giao dịch thương mại quốc tế Thỏa thuận lựa chọn tòa án có thể giúp các bên tránh được việc xét xử tốn kém và tiết kiệm thời gian. Mặt khác, mỗi quốc gia lại có các quy định về tố tụng tòa án khác nhau, dẫn đến quy trình tố tụng và kết quả giải quyết tranh chấp cũng có thể khác nhau. Thỏa thuận lựa chọn tòa án cho phép các bên có chiến lược lựa chọn tòa án với các quy định về thủ tục và chứng cứ thuận lợi nhất cho mình nhất. Liên hệ đến Việt Nam hiện nay, do thực tiễn hội nhập kinh tế, các 1
  6. quan hệ thương mại quốc tế trở nên phổ biến và nhu cầu giải quyết tranh chấp là điều tất yếu. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cũng cần được quy định linh hoạt, phù hợp với thực tiễn quan hệ thương mại và đảm bảo quyền lợi nhất cho các bên. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành chưa có quy định nào cho phép các bên thỏa thuận về vấn đề này. Một số văn bản pháp luật khác có những quy định đơn lẻ, mang tính nguyên tắc, chưa thực sự rõ ràng. Đến thời điểm hiện tại Việt Nam chưa gia nhập bất cứ điều ước quốc tế đa phương nào về vấn đề xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế mà chủ yếu ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương với các quốc gia. Tuy nhiên, trong số các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký kết đến thời điểm này chỉ có một số Hiệp định tương trợ tư pháp có quy định cho phép các bên lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp khác với Tòa án Việt Nam Từ những cơ sở trên, việc nghiên cứu vấn đề “thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế” là rất cần thiết cho việc nghiên cứu cũng như thực tiến đặt ra trong bối cảnh hiện nay, nhằm xây dựng một chế định về thỏa thuận lựa chọn tòa án cho Việt Nam trong tương lai và việc áp dụng nó vào thực tế. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Luận văn nghiên cứu nhưng quy định về thỏa thuận lựa chọn Tòa án trong các Công ước và pháp luật của một số quốc gia cũng như Việt Nam trong mối tương quan so sánh, nhằm định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện chế định thỏa thuận tòa án tại Việt Nam cũng như việc thực thi chế định này trên thực tế. 2
  7. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Khái quát nhằm có một cái nhìn toàn diện về thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế; - Nghiên cứu sâu các vấn đề cụ thể để hiểu rõ bản chất, cơ sở pháp lý, nội dung, phạm vi, hệ quả của quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế; - Đề ra những đề xuất, giải pháp mang tính định hướng để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về thỏa thuận lựa chọn tòa án đối với tranh chấp thương mại quốc tế. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào bài bản, nghiên cứu một cách chuyên sâu về đề tài này, các bài nghiên cứu đang có chỉ mới đề cập một cách rất sơ khai. Do đó, luận văn sẽ khái quát hóa và nghiên cứu có hệ thống, đồng thời chỉ ra những vấn đề quan trọng và đưa ra những giải pháp định hướng liên quan đến vấn đề này cho pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn về thỏa thuận lựa chọn tòa án với tư cách là tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế mà chủ thể chủ yếu là các doanh nghiệp. Việc nghiên cứu tập trung vào những vấn đề cốt lõi của thỏa thuận lựa chọn tòa án nằm trong phạm vi các quy định trong Công ước Lahay 2005 về thỏa thuận lựa chọn tòa án, Quy chế Brussel I sửa đổi của Hội đồng Châu Âu, quy định pháp luật và thực tiễn ở một số quốc gia như Pháp, Anh, Hoa Kỳ… về thỏa thuận lựa chọn tòa án. Từ đó, so sánh với thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay. 3
  8. 5. Tổng quan tình hình nghiên cứu Thời điểm hiện tại, Việt Nam có một số nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp cũng như thẩm quyền của tòa án trong tư pháp quốc tế nói chung và thẩm quyền của tòa án theo thỏa thuận lựa chọn tòa án của các bên đương sự nói riêng. Một số nghiên cứu liên quan đến những vấn đề chung về thẩm quyền của tòa án trong đó một phần đề cập đến vấn đề về quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án, như Luận án tiến sĩ “Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế” năm 2013 của tác giả Đồng Thị Kim Thoa, Luận văn thạc sỹ “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng Tòa án” năm 2010 của Nguyễn Thị Thoa, Luận văn thạc sỹ “Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài bằng tòa án – những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” năm 2012 của Lê Quang Minh Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu nội dung chính liên quan đến vấn đề thỏa thuận lựa chọn tòa án của các bên đương sự. Cụ thể, “Quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài” của Bành Quốc Tuấn trên Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học 28 (2012), “Thỏa thuận lựa chọn tòa án trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế” của Trần Thị Thu Phương, Tạp chí luật học số 3/2015. Tuy vậy, mặc dù các nghiên cứu trên đã phần nào hoặc có nội chính phân tích về quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án nhưng vẫn cần có những nghiên cứu cụ thể và hệ thống hơn . Do vậy, Luận văn sẽ nghiên cứu phát triển vấn đề này một cách khái quát hóa và chuyên sâu hơn. 6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu Dựa trên những mục tiêu ở trên, nội dung nghiên cứu bao gồm: 4
  9. - Nghiên cứu một cách khái quát về Thỏa thuận lựa chọn tòa án như khái niệm, phân loại thỏa thuận lựa chọn tòa án; - Nghiên cứu về các vấn đề phạm vi, điều kiện hiệu lực và hệ quả của việc thỏa thuận lựa chọn tòa án theo các Công ước cũng như pháp luật của một số nước tiêu biểu; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn tại Việt Nam. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, việc nghiên cứu dựa trên đường lối chính sách của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện cải cách tư pháp, thúc đẩy hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, hệ thống hóa, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, đánh giá để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Chương 2: Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mai quốc tế theo pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế Chương 3: Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại Việt Nam. 5
  10. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế bằng tòa án 1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế Có thể hiểu một cách khái quát, tranh chấp trong hoạt động thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên tham gia quan hệ thương mại mà chủ yếu liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Tranh chấp thương mại thường có các yếu tố sau: Có quan hệ thương mại tồn tại giữa các bên tranh chấp; Có sự vi phạm (hoặc giả thiết vi phạm) nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên kia; Có sự bất đồng quan điểm giữa các bên về sự vi phạm hoặc việc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm. Tranh chấp thương mại thường có yếu tố tài sản, gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp và phát sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng. Do đó, các bên luôn có quyền định đoạt và giải quyết theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận [7]. Hoạt động thương mại, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam 2005, là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Hiểu theo nghĩa rộng như Luật mẫu UNCITRAL thì hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, 6
  11. xây dựng, tư vấn, kỹ thuật, li xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và cá hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật [7]. Khoản 4 Điều 9 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ quy định: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong một giao dịch thương mại”. Xuất phát từ tính chất của quan hệ thương mại quốc tế là có liên quan tới nhiều quốc gia. Giữa các bên tham gia hợp đồng thường có khoảng cách về địa lý, truyền thống pháp lý và tập quán thương mại thường không giống nhau. Điều kiện ngoại cảnh ở mỗi nước đều có thể gây ra cho mỗi bên những khó khăn không lường trước được khi tham gia các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Do đó, các giao dịch thương mại quốc tế khó tránh khỏi phát sinh các tranh chấp. Đối với tranh chấp thương mại quốc tế, đặc điểm cho phép phân biệt với tranh chấp thương mại trong nước là ở yếu tố “quốc tế”. Yếu tố “quốc tế” trong quan hệ thương mại ở đây có thể hiểu là “yếu tố nước ngoài” (YTNN), là một phần trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự nói chung và thương mại nói riêng, nhưng nhìn chung, để xác định YTNN trong một quan hệ thương mại cụ thể thường dựa vào một trong ba dấu hiệu. Thứ nhất, khi quan hệ có ít nhất một bên là chủ thể nước ngoài (dấu hiệu chủ thể). Thứ hai, khách thể của quan hệ đó là tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Thứ ba, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài hoặc theo pháp luật nước ngoài. Việc nhận diện YTNN trong quan hệ thương mại 7
  12. là hết sức cần thiết. Xác định YTNN không đúng sẽ dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế coi yếu tố “quốc tế” là trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Công ước Lahay 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình, yếu tố “quốc tế” là chủ thể có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và đối tượng là hàng hóa được chuyển qua biên giới hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau. Luật thương mại Việt Nam 2005 không định nghĩa thế nào là một quan hệ thương mại có YTNN, tuy nhiên, có liệt kê các hình thức của việc mua bán hàng hóa quốc tế. Theo đó, mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Theo Luật trọng tài thương mại 2010 “tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự” [20, Điều 3, Khoản 4]. Dẫn chiếu tới Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 cũng có quy định về yếu tố nước ngoài theo ba dấu hiệu chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý như trên. Bên cạnh đó, Bộ Luật tố tụng dân sự Việt Nam (BLTTDS) 2004 cũng có quy định: Vụ việc dân sự có YTNN là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các bên là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ quan tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [15]. 8
  13. Đây là điều khá đặc biệt so với Tư pháp quốc tế của một số nước. Cộng hòa Pháp có hệ thống Tư pháp quốc tế khá phát triển nhưng không có văn bản nào định nghĩa về khái niệm “yếu tố nước ngoài”. Ba nước có Luật tư pháp quốc tế ở Châu Âu là Thụy Sỹ, Bỉ, Ý nhưng cả ba bộ luật đều không có khái niệm này. Riêng Nga là có định nghĩa này trong BLDS như ở Việt Nam. Pháp luật Việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu quốc tịch để xác định phạm vi các quan hệ thuộc phạm trù điều chỉnh của tư pháp quốc tế nước mình. Bên cạnh dấu hiệu chủ thể, để xác định một quan hệ có YTNN cũng cần xem xét đến dấu hiệu khách thể của quan hệ, cụ thể ở đây là tài sản. Khi nói đến tài sản liên quan đến quan hệ ở nước ngoài, thường chú ý đến quy chế pháp lý của tài sản, quyền của các bên đối với tài sản cụ thể đó. Điều này có nghĩa rằng pháp luật nước ngoài cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ liên quan đến tài sản. Bên cạnh đó, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ thương mại cũng là dấu hiệu nhận biết quan hệ thương mại có YTNN. Có thể hiểu một cách chung nhất, sự kiện pháp lý là những sự kiện thực tế mà sự xuất hiện thay đổi, hay mất đi của chúng được pháp luật gắn với việc hình thành thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. Sự kiện thực tế xuất hiện sự kiện pháp lý chỉ khi nào pháp luật xác định rõ điều đó. Đối với các sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ dân sự (trong đó có quan hệ thương mại) có YTNN được mỗi nước quy định khác nhau, việc thừa nhận hay không thừa nhận một sự kiện thực tế nào đó là sự kiện pháp lý đều xuất phát từ lợi ích của xã hội, của giai cấp cầm quyền nước đó. Hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự (bao gồm cả quan hệ 9
  14. thương mại) nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ bao gồm cả các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và hành vi cụ thể của các chủ thể tham gia quan hệ đó. Ngoài ba yếu tố trên, cư trú của các bên đương sự cũng là một dấu hiệu khá quan trọng để xác định quan hệ này. 1.1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và “thường được coi như là một giải pháp cuối cùng để giải quyết tranh chấp khi các phương thức thương lượng, hòa giải không có hiệu quả và các bên không muốn sử dụng phương thức trọng tài” [7]. Việc xác định thẩm quyền của tòa án để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là một phần trong tố tụng dân sự quốc tế. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án được hiểu là trình tự, thủ tục giải quyết một vụ án thương mại có yếu tố nước ngoài tại tòa án và việc đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của tòa án về các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Khi giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN luôn làm nảy sinh vấn đề xung đột về thẩm quyền tòa án giữa các quốc gia. Quá trình giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN chỉ cho phép tòa án áp dụng luật tố tụng của nước mình ngoại trừ có thỏa thuận khác giữa các quốc gia trong một giới hạn nhất định. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án, việc xác định thẩm quyền xét xử quốc tế của tòa án một quốc gia luôn luôn là vấn đề đầu tiên được đặt ra và có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và 10
  15. nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, khi một tranh chấp có yếu tố nước ngoài phát sinh thì tòa án của hai hay nhiều nước khác nhau có liên quan đến tranh chấp đều có thể có thẩm quyền giải quyết. Do đó, trên thực tế có thể xảy ra tình trạng cùng một tranh chấp nhưng tòa án của nhiều nước khác nhau có liên quan cùng tuyên bố thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, một vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài không thể được giải quyết bởi tòa án của nhiều quốc gia khác nhau. Vì vậy, khi một tranh chấp được đưa ra tòa án thì điều đầu tiên là tòa án phải xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền của mình không. Sau khi xác định được thẩm quyền của mình, tòa án mới tiến hành xác định luật áp dụng để giải quyết vụ việc. Một đặc điểm cho phép phân biệt tố tụng dân sự quốc tế với tố tụng dân sự trong nước là vấn đề xác định thẩm quyền. Trong khi xác định thẩm quyền đối với một vụ việc trong nước là việc xác định thẩm quyền của tòa án cụ thể của quốc gia để xét xử vụ án thì đối với tranh chấp thương mại có YTNN, việc đầu tiên, chủ yếu và quan trọng nhất là xác định thẩm quyền của tòa án của quốc gia nào nói chung có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp. Sau khi xác định được thẩm quyền chung thuộc về tòa án của một quốc gia nhất định, tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng trong nước để xác định thẩm quyền cụ thể thuộc tòa án cấp nào, địa phương nào trong việc xét xử vụ việc. Thực chất đây là quá trình xác định thẩm quyền tư pháp của một quốc gia đối với một tranh chấp nhất định có liên quan. Sau khi vụ việc được giải quyết tại một tòa án của một quốc gia thì phát sinh vấn đề bản án của tòa án đó cần được công nhận và thi hành tại lãnh thổ của các gia khác thông qua tòa án của các quốc gia đó. Như vậy, có thể thấy rằng, khi một vụ tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài được đưa ra tại tòa án của một quốc gia thì có hai vấn đề quan 11
  16. trọng nhất cần phải giải quyết. Thứ nhất, Tòa án đó cần phải xác định mình có thẩm quyền đối với vụ tranh chấp đó hay không. Thứ hai, việc đảm bảo thi hành bản án, quyết định của Tòa án đó tại quốc gia khác. 1.2. Các tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế Khi xác định thẩm quyền của mình đối với một tranh chấp thương mại quốc tế, Tòa án của một quốc gia phải căn cứ vào các quy tắc nhất định do pháp luật quốc gia đó thừa nhận hoặc các điều ước quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia về phân định thẩm quyền tư pháp của mỗi bên. Nhìn chung, thẩm quyền xét xử của một tòa án thông thường căn cứ vào các tiêu chí sau: Tiêu chí quốc tịch của đương sự, tiêu chí lãnh thổ, tiêu chí thỏa thuận của các bên đương sự và một số tiêu chí khác. 1.2.1. Tiêu chí quốc tịch của đương sự Quốc tịch là căn cứ đặc thù trong việc xác định thẩm quyền của tòa án đối với vụ việc có yếu tố nước ngoài. Tòa án của một nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc nếu một hoặc các bên đương sự có quốc tịch nước đó. Tiêu chí này đều được thừa nhận trong các Điều ước quốc tế có liên quan cũng như pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tại Pháp, Điều 14, 15 Bộ luật dân sự Pháp quy định trọng mọi trường hợp, Tòa án đều có thẩm quyền xét xử vụ việc có yếu tố nước ngoài nếu công dân Pháp tham gia vào vụ việc đó. Quy định này được áp dụng trong một thời giam dài tại Pháp. Theo đó, tòa án Pháp sẽ không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên đều là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài dù tranh chấp đó trên lãnh thổ Pháp. Hiện nay, quy tắc này vẫn được xem là quy tắc cơ bản trong việc xác định thẩm quyền của tòa án Pháp đối với vụ việc có 12
  17. yếu tố nước ngoài nhưng thực tế tòa án Pháp đã áp dụng mềm dẻo hơn và có sự kết hợp với các quy tắc khác. 1.2.2. Tiêu chí lãnh thổ Đây là tiêu chí cơ bản được hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Thông thường, tòa án một nước cũng có thẩm quyền giải quyết nếu vụ việc Tòa án của một nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu vụ việc đó có mối liên hệ nhất định với lãnh thổ quốc gia có tòa án đó như đương sự cư trú, thường trú hoặc hiện diện trên lãnh thổ quốc gia đó, tài sản liên quan đến tranh chấp tồn tại trên lãnh thổ quốc gia đó, hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp xảy ra trên lãnh thổ nước này. Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự thực thi quá trình tố tụng cũng như khả năng thực thi bản án được tuyên. Xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia theo dấu hiệu nơi cư trú của bị đơn được hầu hết các nước thừa nhận. Đặc biệt trong các tranh chấp thương mại quốc tế, quy tắc này thường được áp dụng. Quy tắc này cũng được thừa nhận trong các Điều ước quốc tế. Ở một số nước như Đức hay các nước thuộc hệ thống thông luật, đây là căn cư cơ bản để xác định thẩm quyền của tòa án. Căn cứ cho phép nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án bất kỳ nước nào thụ lý vụ việc nếu bị đơn có tài sản ở nước đó, cho dù tài sản đó không phải là đối tượng của vụ tranh chấp. Ngoài ra, xác định thẩm quyền của tòa án theo nơi có tài sản tranh chấp được áp dụng triệt để đối với các tranh chấp liên quan đến bất động sản được thừa nhận hầu hết các quốc gia. Pháp luật các nước thường quy định tranh chấp liên quan đến bất động sản thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của tòa án nơi có bất động sản. 13
  18. 1.2.3. Một số tiêu chí khác 1.2.3.1. Minimum contacts Minimum contacts là một thuật ngữ được sử dụng trong pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kỳ. Cơ sở cho việc thực hiện thẩm quyền đối với bị đơn ở ngoài một quốc gia, được gọi là quy định mở rộng thẩm quyền của một quốc gia, tuyên bố trong hoàn cảnh nhất định, các tòa án của nước đó có thể thực hiện thẩm quyền. Các yêu cho việc thiết lập theo quy định đó phải phù hợp với các yêu cầu theo đúng thủ tục của hiến pháp. Yêu cầu này thường được thực hiện nếu có “mối liên hệ tối thiểu” với quốc gia có tòa án. Thẩm quyền này phải “không vi phạm các quan niệm truyền thống về công bằng và công lý cơ bản”. Hình thức truyền thống của việc thiết lập mối liên hệ tối thiểu bao gồm: mục đích bán hàng hóa trong nước đó, duy trì một văn phòng hoặc cửa hàng có vật chất tại nước đó, tham gia vào một hợp đồng với một bên ở trong nước đó hay thực hiện một hành động có hại trong nước đó. Trong một số trường hợp liên quan đến báo chí và các chương trình phát sóng, phương tiện truyền thông khác, việc tạo thông tin có giá trị cho các cư dân của các quốc gia khác thường không được coi là đủ để thiết lập yêu cầu về mối liên hệ tối thiểu. Mối liên hệ tối thiểu có thể được thiết lập bởi sự thỏa thuận khi các bên ký kết hợp đồng với một điều khoản lựa chọn tòa án, đồng ý khởi kiện tại một tòa án cụ thể. Mối liên hệ tối thiểu có thể bao gồm cả mối liên hệ có tính chất hệ thống và liên tục với tòa án (thẩm quyền chung), hoặc mối liên hệ không thường xuyên với tới tòa án (thẩm quyền cụ thể) 14
  19. 1.2.3.2. Học thuyết Forum shopping Pháp luật nhiều nước Châu Âu như Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ… áp dụng thuyết thẩm quyền thích hợp và coi đây là một loại nguyên tắc thẩm quyền. Nguyên tắc này cho phép nguyên đơn có thể bỏ qua tòa án nước mình và đưa vụ kiện tại một hoặc các tòa án nước ngoài mà họ cho rằng sẽ mang lai cho họ niềm tin hay lợi ích mà họ sẽ không có được nếu đưa vụ kiện tại tòa án nước mình [24]. Nguyên đơn có thể chọn một tòa án theo các căn cứ sau: - Tòa án không thuận tiện cho bị đơn hoặc nhân chứng của bị đơn. Có thể có các vấn đề như về chi phí đi lại, thị thực hoặc giấy phép nhập cảnh. - Các tòa án, thẩm phán, hoặc pháp luật có nhiều khả năng có lợi cho vụ kiện của nguyên đơn. 1.2.3.3. Học thuyết Forum non convenien và Lis penden Có hai học thuyết pháp lý trên cơ sở đó một tòa án có thể xem xét rằng các tranh chấp cần được giải quyết tại một tòa án của nước khác. Đầu tiên là học thuyết forum non convenien. Đây là một học thuyết áp dụng chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống thông luật. Sự hình thành của nó thay đổi từ quốc gia này sang quốc gia khác nhưng nhìn chung học thuyết này cho phép thẩm quyền của một tòa án đình chỉ hoặc từ chối giải quyết tranh chấp, nếu xét thấy một tòa án khác sẽ là tòa án thích hợp hơn để giải quyết vụ việc. Việc đình chỉ hoặc từ chối là tùy ý và liên quan đến việc cân nhắc tất cả các yếu tố có liên quan trong các trường hợp cụ thể. Học thuyết được áp dụng không phân biệt có hay không có thủ tục tố tụng đã được tiến hành tại các tòa án khác. Ví dụ, tranh chấp liên quan đến vụ nổ máy bay du lịch Ê Côt. Người lái 15
  20. và 5 người du khách, tất đều là người Ê Côt, bị chết. Chủ sở hữu và nhà điều hành máy bay đều là Ê Côt, nhưng nhà sản xuất máy bay và cánh quạt là hai công ty Mỹ. Do đó, những người thừa kế của 5 du khách khởi kiện hai công ty Mỹ tại tòa án Mỹ. Theo pháp luật Mỹ, tòa án Mỹ có thẩm quyền vì hai công ty trên là bị đơn và có trụ sở tại Mỹ. Tuy nhiên, theo tòa án liên bang tối cao Mỹ, tòa án Mỹ phải khước từ thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án Ê Côt, vì trong vụ việc này, tòa án Ê Côt cũng có thẩm quyền do tại nạn xảy ra ở đó. Mặt khác, tòa án Mỹ thấy rằng vụ việc sẽ được giải quyết một cách hợp lý hơn trước tòa án Ê Côt, tòa án Ê Côt phù hợp hơn để giải quyết vụ việc [3]. Học thuyết này cũng được thừa nhận trong thực tiễn pháp lý của Anh, Úc, Canada… [3]. Tuy nhiên, cũng có một số nước không chấp nhận học thuyết này. Chẳng hạn, ở Đức, tòa phúc thẩm đã nhấn mạnh rằng học thuyết forum non convenien không được thừa nhận trong pháp luật hiện hành của Đức. Theo tòa phúc thẩm, những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Đức về thẩm quyền của tòa án là bắt buộc với tòa án Đức [3]. Học thuyết thứ hai là của lis pendens. Học thuyết được áp dụng chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống dân luật, yêu cầu một tòa án từ chối hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc nếu một tòa án khác đã thụ lý vụ việc đầu tiên, liên quan đến thủ tục tố tụng với cùng một nguyên nhân tố tụng của cùng các bên tranh chấp. Học thuyết này không phải là tùy ý, không liên quan đến việc cân nhắc các yếu tố có liên quan để xác định tòa án thích hợp hơn và chỉ áp dụng khi thủ tục tố tụng đã được tiến hành tại các tòa án khác. Điều 29 của Quy chế Brussels I sửa đổi, yêu cầu bất kỳ tòa án nào khác với các tòa án đầu tiên thụ lý vụ việc phải đình chỉ thủ tục tố tụng đang tiến hành và từ chối thẩm quyền 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1