Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
lượt xem 7
download
Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử theo pháp luật TTHS Việt Nam; phân tích những bất cập của các quy định về thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử trực tiếp liên quan đến quá trình khởi tố, điều tra, truy tố tội phạm cả về mặt lý luận và thực tiễn... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THU THỦY THỜI HẠN TỐ TỤNG TRƢỚC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THU THỦY THỜI HẠN TỐ TỤNG TRƢỚC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2014 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Phan ThÞ Thu Thñy 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG 8 TRƢỚC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm thời hạn tố tụng hình sự 8 1.2. Mục đích, ý nghĩa của thời hạn tố tụng hình sự 10 1.3. Phân loại thời hạn trong giai đoạn trước xét xử 13 1.4. Cách tính thời hạn tố tụng trong pháp luật hiện hành 15 1.5. Chế định thời hạn trong tố tụng hình sự của một số nước điển 20 hình và kinh nghiệm đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định thời hạn trong luật tố tụng hình sự của nước ta Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 22 2003 VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG TRONG GIAI ĐOẠN TRƢỚC XÉT XỬ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thời hạn 22 tố tụng 2.1.1. Căn cứ để xác định thời hạn 22 2.1.2. Thời hạn tố tụng trong giai đoạn khởi tố 28 2.1.3 Thời hạn tố tụng trong giai đoạn điều tra 29 2.1.4. Thời hạn tố tụng trong giai đoạn truy tố 36 2.1.5. Thời hạn khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại 37 4
- 2.1.6. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tam giam 41 2.1.7. Thời hạn áp dụng thủ tục rút gọn 54 2.2. Thực tiễn áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thời 54 hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử 2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng các quy định của pháp luật 58 về thời hạn 2.4. Nguyên nhân vi phạm các quy định về thời hạn 64 2.4.1. Những bất cập của Bộ luật tố tụng hình 2003 về thời hạn 64 2.4.2. Nguyên nhân thuộc về con người trong bộ máy cơ quan tiến 66 hành tố tụng, cố ý hoặc vô ý làm sai các quy định về thời hạn trong tố tụng hình sự 2.4.3. Nguyên nhân thuộc về tổ chức bộ máy các cơ quan tiến hành 67 tố tụng và phương tiện, trang thiết bị trong hoạt động tố tụng Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG 71 CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ GIAI ĐOẠN TRƢỚC XÉT XỬ 3.1. Phương châm, định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng về 71 thời hạn 3.2. Một số vấn đề chung liên quan đến việc sửa đổi 73 3.3. Đề xuất đổi mới, hoàn thiện quy định về thời hạn tố tụng 76 3.3.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định thời hạn cụ thể trong một số 78 điều luật tại Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành 3.3.2. Một số kiến nghị về cán bộ tiến hành tố tụng 90 3.3.3. Cải tiến chế độ tiền lương, thu nhập 90 3.3.4. Cải tiến chế độ tuyển dụng 91 3.3.5. Công tác đào tạo, bồi dưỡng 92 3.3.6. Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp 94 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 5
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa 6
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 So sánh thời hạn tạm giam với thời hạn điều tra thời hạn 40 truy tố, thời hạn xét xử theo BLTTHS năm 2003 2.2 Thời hạn tạm giam trong các giai đoạn tố tụng 59 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời hạn trong tố tụng hình sự (TTHS) không đơn giản là khoảng thời gian vật chất được xác định để thực hiện công việc này hay công việc khác, mà nó còn thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật. Nhà làm luật thể hiện ý chí của nhân dân thông qua việc xác định những thời hạn cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng. Như vậy, thời hạn trong TTHS là một đại lượng có tính khách quan được xác định thông qua ý thức chủ quan của con người. Hoạt động TTHS là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tiến hành tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự và được tiến hành trong khoảng thời gian nhất định. Thời hạn trong TTHS thể hiện khoảng thời gian để thực hiện nhiệm vụ của phát hiện, chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã thể hiện quan điểm đổi mới về TTHS ở nước ta, phù hợp với xu thế của thời đại là phát huy dân chủ, bảo vệ các quyền lợi và ích hợp pháp của công dân, bảo vệ chế độ XHCN, góp phần cùng Bộ luật Hình sự (BLHS), đấu tranh phòng và chống tội phạm. Hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 2003, hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự đã có những đóng góp tích cực trong việc đấu tranh xử lý tội phạm và thành quả chung của công cuộc đổi mới của Nhà nước ta trong những năm qua. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng giải quyết vụ án hình sự còn cho 8
- thấy những bất cập sau về áp dụng thời hạn TTHS: (1) Thời hạn tố tụng giải quyết vụ án trong các giai đoạn tố tụng còn bị vi phạm nhiều, việc để quá hạn khởi tố, điều tra, truy tố làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ "Tội phạm phải được được phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời" [34, Điều 1]; (2) Thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam còn bị vi phạm mang tính phổ biến không những ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết vụ án mà còn vi phạm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gây dư luận không tốt cho xã hội; (3) Hiện tượng vi phạm thời hạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án gây ra những hậu quả tiêu cực về sự nghiêm minh của nền tư pháp XHCN, lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và công lý. Hiện tượng vi phạm thời hạn TTHS nói chung và thời hạn TTHS ở các giai đoạn tố tụng trước xét xử nói riêng do nhiều nguyên nhân thuộc về các yếu tố khách quan và chủ quan trong đó có nguyên nhân qui định của luật TTHS về thời hạn chưa phù hợp với thực tế giải quyết vụ án và các điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta. Trước yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn mới, một số quy định cụ thể về thời hạn của các hoạt động, của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng như thời hạn của các giai đoạn tố tụng trong BLTTHS không còn phù hợp cần phải được nghiên cứu, xem xét khi hoàn thiện BLTTHS. Nghị quyết số 49-NQ/TW có nêu một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là "Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp" [10] với nội dung: "Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp" [10] phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính để góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. 9
- Vì vậy, để góp phần thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp, góp phần đấu tranh xử lý tội phạm có hiệu quả và góp phần bảo đảm quyền con người trong TTHS, tôi chọn đề tài: "Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề thời hạn tố tụng trước xét xử nói riêng và thời hạn TTHS nói chung đã được nhiều sách, báo, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập một cách đa dạng, phong phú. Nhưng việc nghiên cứu thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật TTHS Việt Nam mới được nghiên cứu trong đề tài: - Thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Đặng Thị Thu Hương, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2005. - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Tập thể tác giả, do TS. Lê Hữu Thể, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) làm chủ nhiệm đề tài, 2011. - Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp: Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2007, chủ nhiệm Tiến sĩ Đỗ Văn Đương. Thời hạn chủ yếu được đề cập khái quát trong một số công trình nghiên cứu. Sau khi BLTTHS năm 1998 ban hành, thời hạn tố tụng cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác nhau biện soạn như: - Phần thứ hai: Trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự của TS. Nguyễn Văn Huyên (chương VI; VII), TS. Vũ Gia Lâm (chương VIII), TS. Hoàng Thị Minh Sơn (chương IX), trong sách: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tập thể tác giả, do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên, Nxb Công an nhân dân Hà Nội, 2009. Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như: 10
- - Sửa đổi bổ sung các quy định về thời hạn tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, của ThS. Hoàng Anh Tuyên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012. - Hoàn thiện thủ tục truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự, của TS. Đỗ Văn Đương, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012. - Một số vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và những kiến nghị sửa đổi, của TS. Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), tháng 10/2005; - Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam, của PGS.TS Trần Văn Độ - phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Chánh án Tòa án Quân sự trung ương. - Hoàn thiện quy định về tạm giữ tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, của ThS Hoàng Văn Hạnh, Tạp chí Luật học, số 7/2008. Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến thời hạn tố tụng nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống về thời hạn vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức mặc dù đây là một quy định có ý nghĩa lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh thời hạn, trực tiếp liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài * Mục đích của luận văn - Làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử theo pháp luật TTHS Việt Nam. - Phân tích những bất cập của các quy định về thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử trực tiếp liên quan đến quá trình khởi tố, điều tra, truy tố tội phạm cả về mặt lý luận và thực tiễn. - Từ đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, bảo đảm cho việc thực hiện thời hạn tố tụng đúng theo 11
- quy định phù hợp với thực tế, đảm bảo chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. * Nhiệm vụ của luận văn Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam về thời hạn tố tụng trước xét xử - Khảo sát, đánh giá thực trạng việc thực hiện thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử trong luật TTHS ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự một số mô hình tố tụng về vấn đề thời hạn liên quan đến giai đoạn trước xét xử. - Phân tích những tồn tại, hạn chế và những vướng mắc của việc áp dụng thời hạn tố tụng giai đoạn trước xét xử và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất, kiến nghị sửa đổi BLTTHS sửa đổi những thời hạn chưa phù hợp với thực tế thực hiện nhiệm vụ. 4. Cơ sở lý luận - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm; - Những thành tựu của khoa học luật TTHS của một số nước trong khu vực và trên thế giới; - Các nghiên cứu về thời hạn TTHS giai đoạn trước xét xử của các tác giả trong và ngoài nước. - BLTTHS năm 2003 hiện hành cũng như các văn bản pháp luật của các ngành bảo vệ pháp luật hướng dẫn hoạt động điều tra, xử lý các vụ án hình sự. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là làm rõ khái niệm về thời hạn tố tụng; phân tích, đánh giá qui định của pháp luật TTHS và nghiên cứu thực tiễn thi hành qui định về thời hạn tố tụng ở Việt Nam theo BLTTHS hiện hành. 12
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về thời hạn TTHS và thực tiễn thi hành để thấy những hạn chế, những bất cập cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn được các nhà nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài liệu, công trình đã được công bố trên các tạp chí, bài viết và tài liệu của các cơ quan từ hoạt động thực tiễn xét xử các vụ án hình sự. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải, suy luận logic, phương pháp xã hội học phương pháp hệ thống, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để rút ra các kết luận khoa học của mình. Trong quá trình hoàn thành, tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp và đồng bộ các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao của khoa học luật hình sự và một số ngành khoa học khác. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp điều tra điển hình, so sánh, hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận văn. 7. Kết quả nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu "Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thời hạn tố tụng trước xét xử, thực tiễn áp dụng, những bất cập, hạn chế còn tồn tại và đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả quy định về thời hạn tố tụng trước xét xử đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan nhằm hoàn thiện vấn đề này trong BLTTHS. 13
- Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu xây dựng BLTTHS về thời hạn TTHS và tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Luật TTHS. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng trong công tác áp dụng pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thời hạn tố tụng trong giai đoạn trước xét xử và thực tiễn thi hành. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng hình sự. 14
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG TRƢỚC XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ Theo Từ điển Luật học xác định thời hạn là "khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác" [54, tr. 718]. Thời hạn tố tụng là "thời gian được pháp luật quy định để tiến hành các hành vi tố tụng" [54, tr. 471]. Về mặt lập pháp, thuật ngữ thời hạn tố tụng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta ngay từ khi giành được chính quyền và ngày càng được hoàn thiện trong BLTTHS năm 1988 và năm 2003. Trong pháp luật hiện hành, tuy không khái niệm về thời hạn tố tụng nhưng có quy định về đơn vị tính thời hạn theo giờ, ngày, tháng, năm và xác định thời hạn tiến hành các hoạt động tố tụng, thời hạn ban hành các quyết định tố tụng, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với từng loại tội phạm… Dưới góc độ giải thích thuật ngữ nêu trong từ điển và từ bản chất pháp lý của những quy định pháp luật về thời hạn có thể thấy: Thời hạn TTHS là một loại thời hạn pháp lý, do luật TTHS quy định, là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để tiến hành và kết thúc các hoạt động tố tụng, hành vi và quyết định tố tụng cụ thể. Từ định nghĩa trên đây, có thể rút ra một số đặc điểm của thời hạn TTHS như sau: Thứ nhất, mục đích của thời hạn TTHS là nhằm bảo đảm cho từng hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được và chỉ được thực hiện trong khoảng thời gian luật định. Thứ hai, thời hạn TTHS vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Khách quan vì nó được tính toán trên cơ sở tính chất, mức độ phức 15
- tạp của vụ án kế hợp với năng lực của chủ thể tiến hành tố tụng để xác định khoảng thời gian vật chất cần thiết cho việc thực hiện các hoạt động tố tụng. Chủ quan vì việc xác định thời hạn tố tụng được thực hiện bởi con người (nhà làm luật), đồng thời trong từng giai đoạn cụ thể còn là yêu cầu của nhân dân, của xã hội đối với quá trình phát hiện và xử lý tội phạm. Thứ ba, các thời hạn tố tụng có liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau tạo thành sự đồng bộ, thống nhất trong suốt quá trình giải quyết các vụ án hình sự cũng như ở từng giai đoạn tố tụng. Thời hạn giải quyết vụ án là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm khởi tố vụ án đế khi vụ án được xét xử xong và bản án có hiệu lực pháp luật. Đây là "cái chung" bao gồm các thời hạn tố tụng, còn các thời hạn cụ thể: điều tra, truy tố và xét xử là những "cái riêng". Thời hạn điều tra được bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho VKS. Thời hạn truy tố được bắt đầu từ thời điểm VKS thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi VKS ra quyết định truy tố (hoặc đình chỉ vụ án) và chuyển hồ sơ cho tòa án. Còn thời hạn xét xử (bao gồm thời hạn xét xử sơ thẩm và thời hạn xét xử phúc thẩm) được xác định khi tòa án thụ lý hồ sơ và kết thúc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Về nguyên tắc, các thời hạn này không được vượt quá thời hạn giải quyết vụ án và việc xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử phải căn cứ tính chất đơn giản hay phức tạp của vụ án, tính chất của loại tội phạm (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng). Việc rút gắn thời hạn tiến hành các hoạt động tố tụng sẽ rút ngắn thời hạn giải quyết vụ án hình sự là nhu cầu khách quan, là đòi hỏi chung của xã hội và cá nhân trong TTHS. Thứ tư, việc áp dụng thời hạn tố tụng phải được thể hiện bằng các quyết định tố tụng, của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ban hành, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, như: Quyết định tạm giữ, Lệnh tạm giam, bản án… 16
- Thứ năm, khi chấm dứt thời hạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải ban hành các quyết định tương ứng về kết quả hoạt động tố tụng được tiến hành trong thời hạn được áp dụng, như: Bản kết luận điều tra, Bản cáo trạng, Quyết định đình chỉ điều tra, Quyết định đình chỉ vụ án… Thứ sáu, việc vi phạm thời hạn luật định thường đưa đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng (như vi phạm thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tự do, dân chủ của công dân). 1.2. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chế định thời hạn có vị trí, vai trò quan trọng trong TTHS. Việc quy định thời hạn TTHS một cách hợp lý và việc tuân thủ đúng đắn các quy định về thời hạn là một trong những điều kiện quan trọng góp phần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của TTHS. Điều đó thể hiện rõ trên các phương diện sau: Thứ nhất, chế định thời hạn TTHS có tác động tích cực đến các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo đảm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, nhằm "phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm". Bằng việc quy định các thời hạn đối với các hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng (thời hạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố; thời hạn tạm giữ; thời hạn điều tra; thời hạn tạm giam để điều tra; thời hạn quyết định việc truy tố; thời hạn chuẩn bị xét xử; thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử; thời hạn xét xử phúc thẩm; thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm; thời hạn đưa bản án, quyết định ra thi hành; thời hạn điều tra, truy tố, xét xử và thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với những vụ án áp dụng theo thủ tục rút gọn; thời hạn gửi các quyết định tố tụng; thời hạn phê chuẩn các quyết định tố tụng…). Tính xác định về mặt thời hạn tố tụng vừa có ý nghĩa xác lập quyền hạn vừa ràng buộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng tích cực hoạt động phát hiện và xử lý tội phạm trong thời hạn luật định. 17
- Thứ hai, chế định thời hạn góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người trong TTHS. Quá trình giải quyết vụ án hình sự thường liên quan đến việc hạn chế quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người. Việc điều tra, truy tố, xét xử do đó ngoài việc phải tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền còn phải bảo đảm tuân thủ thời hạn do luật định. Tùy thuộc vào đặc điểm của hệ thống chính trị, nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, điều kiện kinh tế - xã hội, pháp luật ở các nước đều có những quy định giám sát, xử lý các hành vi của nhân viên tư pháp xâm phạm đến các quyền công dân, trong đó có vi phạm thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn là nghiêm trọng nhất vì trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do của công dân. Điều đó giải thích vì sao trong luật TTHS của các nước đều quy định rất cụ thể, chặt chẽ về thời hạn bắt, giam giữ và các thời hạn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và người bào chữa. Thứ ba, chế định thời hạn tố tụng, tạo cơ sở để xã hội theo dõi, kiểm soát hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước của các cơ quan tiến hành tố tụng, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan cho người vô tội. Bằng việc quy định chặt chẽ các thời hạn, cho phép Nhà nước và nhân dân, nắm được kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và đưa ra những yêu cầu đối với các cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm công lý và công bằng xã hội. Thứ tư, thời hạn chính là giới hạn, thời gian dành cho các chủ thể của TTHS thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. BLTTHS với tư cách là một đạo luật qui định về trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố tụng, ấn định các loại thời hạn để phải thực hiện hoặc kết thúc một hoạt động tố tụng nào đó và thời hạn cũng là một tiêu chí để xác định trách nhiệm của các chủ thể TTHS. Thời hạn tác động đến các cơ quan tiến hành tố tụng, 18
- vừa xác lập quyền hạn, vừa ràng buộc nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng: tích cực phát hiện và xử lý tội phạm trong thời gian luật định, đồng thời là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm sát lần nhau. Thứ năm, thời hạn thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật. Nhà làm luật thể hiện ý chí của nhân dân thông qua việc xác định những thời hạn cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng. Như vậy, thời hạn trong TTHS là một đại lượng có tính khách quan được xác định thông qua ý thức chủ quan của các con người. Khách quan là bởi vì đó là khoảng thời gian vật chất cần thiết để thực hiện hoạt động hay hành vi tố tụng nào đó. Chủ quan là bởi vì chính con người, thông qua ý thức của mình, cho rằng cần có một lượng thời gian này hay lượng thời gian khác cho từng hoạt động, hành vi tố tụng. Hoạt động TTHS là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tiến hành tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ở mỗi giai đoạn phải đảm bảo trình tự trước, sau và thủ tục tiến hành một cách chặt chẽ. BLTTHS quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các CQĐT, VKS, tòa án cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau. Mối quan hệ cấp trên - cấp dưới trong một cơ quan tiến hành tố tụng cũng được xác định cụ thể trong TTHS nhằm đảm bảo việc hoạt động tố tụng được tiến hành chặt chẽ, đúng pháp luật, không tuỳ tiện, lạm quyền. BLTTHS chặt quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng: quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân. Thứ sáu, thời hạn trong TTHS thể hiện nhiệm vụ của luật TTHS là phát hiện, chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, 19
- đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tính xác định về thời gian, tính bắt buộc cho từng giai đoạn tố tụng, hoạt động tố tụng (như điều tra, kiểm sát điều tra, xét xử, các biện pháp ngăn chặn…) trong thời hạn bao hàm ý nghĩa ràng buộc tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trên nền tảng pháp chế và dân chủ, vừa tạo ra quyền để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đạt hiệu quả, mục đích của luật tố tụng nào lại không gắn liền với một thời hạn nhất định để đảm bảo được yêu cầu cả về hai phía: các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của mình và quyền lợi ích hợp pháp của công dân được đảm bảo. Từ lúc khởi tố vụ án hình sự, thời hạn các hoạt động tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng được quy định một cách tuần tự, kế tiếp nhau. Nếu vụ án được giải quyết đầy đủ các bước tố tụng từ lúc khởi tố đến khi xét xử, thì trình tự này được ví như một công trình được nối tiếp nhau bằng ngày với ngày, tháng với tháng. 1.3. PHÂN LOẠI THỜI HẠN TRONG GIAI ĐOẠN TRƢỚC XÉT XỬ Các thời hạn trong BLTTHS hiện hành, được quy định rất đa dạng và cụ thể cho các hoạt động và từng giai đoạn tố tụng. Có thể phân loại các thời hạn tố tụng theo các căn cứ khác nhau, thành các nhóm như: các thời hạn liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Mỗi nhóm thời hạn lại bao gồm nhiều thời hạn khác nhau, tùy thuộc vào các hoạt động tố tụng. Có hai cách phân loại thời hạn tố tụng phổ biến sau: Thứ nhất, căn cứ vào việc phân chia giai đoạn tố tụng hình sự, thời hạn trước xét xử có các loại thời hạn sau: - Thời hạn khởi tố vụ án hình sự; - Thời hạn điều tra vụ án hình sự; - Thời hạn truy tố vụ án hình sự; Các thời hạn liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra; thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm (Điều 103), Thay đối hoặc bổ sung quyết 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn