Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
lượt xem 21
download
Luận văn nghiên cứu về tình hình ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH TÚ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH TÚ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ HÀ NỘI - 2012 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP 7 LÝ CỦA LY HÔN 1.1. Khái niệm ly hôn 7 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ly hôn 11 1.2.1. Quyền yêu cầu ly hôn là quyền tự do cá nhân của vợ, chồng 14 (quyền dân sự) 1.2.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 16 1.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn 30 1.3.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn dưới góc độ pháp luật 30 1.3.2. Ảnh hưởng của việc ly hôn đối với gia đình và xã hội 43 Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT LY HÔN TẠI TÒA ÁN 47 NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI NHỮNG NĂM QUA THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 2.1. Vài nét về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của quận Hai Bà 47 Trưng thành phố Hà Nội tác động đến quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và ly hôn nói riêng 2.2. Thực trạng ly hôn trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố 52 Hà Nội 2.2.1. Nhận xét chung 52 2.2.2. Tình hình ly hôn trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố 53 3
- Hà Nội được nghiên cứu trên một số phương diện 2.3. Một số nguyên nhân cơ bản của ly hôn trên địa bàn quận Hai 60 Bà Trưng, thành phố Hà Nội 2.3.1. Một số nguyên nhân khách quan 60 2.3.2. Một số nguyên nhân chủ quan 68 2.4. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 giải 88 quyết các trường hợp ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 2.4.1. Các trường hợp ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà 88 Trưng, thành phố Hà Nội 2.4.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn 96 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ 99 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia 99 đình năm 2000 để giải quyết các vụ việc ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 3.1.1. Thuận lợi 100 3.1.2. Khó khăn 102 3.2. Sự cần thiết phải hạn chế ly hôn 106 3.3. Một số giải pháp hạn chế ly hôn 108 3.3.1. Giải pháp trong lĩnh vực pháp luật 109 3.3.2. Giải pháp về mặt xã hội 111 3.3.3. Giải pháp từ mỗi cá nhân 115 3.3.4. Giải pháp kinh tế 115 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 4
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 5
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Thống kờ cỏc vụ việc về ly hụn được TAND quận Hai Bà 22 Trưng thụ lý và giải quyết từ năm 2008 đến năm 2011 2.2 Tổng hợp nguyờn đơn là vợ hoặc chồng đứng đơn xin ly 54 hụn trờn địa bàn quận Hai Bà Trưng từ năm 2008 đến năm 2011 2.3 Thống kờ độ tuổi ly hụn trờn địa bàn quận Hai Bà Trưng 56 từ năm 2008 đến năm 2011 2.4 Số lượng người được phỏng vấn tự do của tác giả luận 59 văn thực hiện tại 3 phường Bạch Mai, Phạm Đình Hổ, Ngô Thì Nhậm quận Hai Bà trưng 2.5 Tổng hợp những nguyờn nhõn chủ yếu dẫn đến ly hụn 68 trờn địa bàn quận Hai Bà Trưng hai năm 2010 và 2011 2.6 Tổng hợp những mõu thuẫn dẫn đến ly hụn tại phường 69 Bựi Thị Xuõn trong cuộc phỏng vấn tự do của tỏc giả luận văn 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau. Trong đó, gia đình được coi là sản phẩm của xã hội gắn liền với quá trình phát sinh, phát triển của xã hội, ở bất kỳ chế độ xã hội nào thì gia đình đều thực hiện những chức năng xã hội cơ bản của nó với vai trò là tế bào của xã hội. Sớm nhìn thấy vai trò nền tảng của gia đình và mối liên hệ hữu cơ giữa gia đình và xã hội, sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã chỉ rõ: Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Điều đó nói lên rằng phát triển xã hội cùng với việc xây dựng xã hội mới phải quan tâm thường xuyên đến việc củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ). Tuy nhiên, trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ của thời đại công nghệ thông tin và cùng với sự du nhập của nhiều luồng văn hóa, tư tưởng, lối sống phương Tây đã làm thay đổi rất nhiều quan điểm, lối sống và lý tưởng ở mỗi người, đặc biệt là trong quan hệ gia đình biểu hiện rõ nhất là số vụ ly hôn ngày càng gia tăng. Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 đến nay đã được hơn 10 năm. Quá trình thi hành và áp dụng Luật đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Thực tế cho thấy, các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ xảy ra rất nhiều, trong đó các vụ việc ly hôn chiếm trên 90%. 7
- Tại Tòa án nhân dân (TAND) quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội trong những năm qua cũng đã áp dụng Luật HN&GĐ giải quyết nhiều vụ việc ly hôn. Nhìn chung các vụ việc được TAND quận Hai Bà Trưng giải quyết theo quy định của pháp luật đạt hiệu quả cao với phương châm "đạt lý, thấu tình" đảm bảo quyền lợi của các đương sự, nhất là quyền lợi của người vợ và các con chưa thành niên. Tuy nhiên, vẫn còn một số vụ việc được giải quyết theo quan điểm "khiên cưỡng", máy móc dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài qua nhiều cấp xét xử. Nguyên nhân thì có rất nhiều, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ các quy định của Luật HN&GĐ về chế định ly hôn (căn cứ cho ly hôn, các trường hợp ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn) chưa được cụ thể, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa đầy đủ dẫn đến cách hiểu khi áp dụng Luật tại các cấp TAND (trong đó có TAND quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội) chưa có sự nhất quán. Nhiều vụ việc ly hôn có những tình tiết, nội dung giống nhau nhưng khi áp dụng Luật giải quyết lại có những phán quyết khác nhau ở các cấp Tòa án, nhất là việc chấp nhận quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn (chia tài sản giữa vợ chồng, giải quyết quyền lợi của con chưa thành niên…) còn có nhiều bất cập và vướng mắc. Tình hình đó đòi hỏi việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng Luật giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội là rất cần thiết và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn cũng như các nguyên nhân, lý do ly hôn và các vấn đề liên quan đã được khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan tâm. - Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này gồm có: "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" 8
- (Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiến sĩ Luật học, 2005); "Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (Nguyễn Hồng Hải, Luận văn Thạc sĩ, 2002); "Chế định ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam" (Vũ Thị hằng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2006); "Căn cứ pháp lý và thủ tục giải quyết các vụ kiện ly hôn tại Tòa án Việt Nam" (Nguyễn Thị Túy Hoa, Luận văn Thạc sĩ Luật học); "Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" (Nguyễn Thị Lan, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2012)… Các công trình này có nghiên cứu liên quan đến vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn mà chưa nghiên cứu tổng thể về vấn đề ly hôn nói chung. - Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Có một số công trình tiêu biểu như: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); "Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" (Nguyễn Ngọc Điện, 2002, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh); "Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" (Đinh Thị Mai Phương - Chủ biên, 2004, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội); "Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008)… Những công trình khoa học này thường thiên về bình luận, giải thích Luật HN&GÐ mà chưa nghiên cứu sâu về tình hình ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn và thực tiễn áp dụng Luật HN&GÐ giải quyết các vụ án ly hôn cũng như chưa đề cập đến các giải pháp nhằm hạn chế ly hôn ở một địa phương cụ thể. - Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Một số bài viết tiêu biểu phải kể đến như: "Căn cứ ly hôn trong Cổ luật Việt Nam" (Nguyễn Thị Thu Vân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2005); "Áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết" (Nguyễn Văn Chung, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2008); 9
- "Bắt buộc hòa giải cụ án ly hôn ở cơ sở là không phù hợp với pháp luật hiện hành" (Lê Thu Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007); "Cần có hướng dẫn thống nhất về thụ lý yêu cầu ly hôn hay không công nhận vợ chồng và thủ tục giải quyết" (Đoàn Đức Lương, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2005)… Các bài viết này đều nghiên cứu phản ánh một số nội dung liên quan đến vấn đề ly hôn, tuy nhiên cũng chưa phản ánh được một cách toàn diện và đầy đủ về thực trạng ly hôn tại một địa phương cụ thể. Đề tài: "Thực tiễn giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" là công trình khoa học nghiên cứu cụ thể về vấn đề ly hôn, áp dụng pháp luật giải quyết ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn ở một địa phương cụ thể. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài - Về mục đích: Luận văn nghiên cứu về tình hình ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng. - Về nhiệm vụ của luận văn: + Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ly hôn và căn cứ cho ly hôn, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. + Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế định ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. + Đánh giá những ưu điểm và tích cực khi giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 10
- + Đánh giá chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng từ đó tìm hiểu một số những vướng mắc, hạn chế, nguyên dẫn đến ly hôn. + Đề xuất và luận chứng những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc ly hôn hiện nay tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tư pháp. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mácxít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp của bộ môn khoa học khác như thống kê, so sánh. 5. Những đóng góp của luận văn - Luận văn phân tích khái niệm, căn cứ ly hôn trong pháp Luật HN&GĐ Việt Nam qua các thời kỳ và có sự so sánh để đưa ra những nhận định và đánh giá về căn cứ ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn. - Đánh giá thực trạng chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội trong những năm qua. 11
- - Đề xuất giải pháp phù hợp thực tiễn hiện nay nhằm nâng cao chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 của TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn. 6. Ý nghĩa khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn tại TAND quận Hai Bà Trưng nói riêng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học pháp lý nói chung và đào tạo chức danh tư pháp nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt là đối với các Thẩm phán dân sự tại TAND quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội trong việc giải quyết các vụ việc ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Lý luận chung về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn. Chương 2: Thực tiễn giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội những năm qua theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 12
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN 1.1. KHÁI NIỆM LY HÔN Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc, có quá trình phát sinh, tồn tại, chấm dứt gắn liền với sự phát triển của xã hội. Bất cứ ai, khi nhận thấy tình yêu đã đủ độ chín đều muốn tiến tới hôn nhân. Hôn nhân là hình thức biểu hiện rõ nhất sợi dây tình cảm giữa hai người khác giới. Tình yêu nam nữ là cơ sở xác lập hôn nhân, còn hôn nhân là cơ sở để hình thành gia đình. Tuy nhiên, gia đình là phạm trù rộng hơn, bởi nó không chỉ có tình yêu mà còn phải có những trách nhiệm, bổn phận của từng thành viên trong gia đình và những lo toan trong cuộc sống mới. Trong tác phẩm Hồi ký Lênin, V.I. Lênin cho rằng, trong tình yêu có hai người và xuất hiện cuộc đời mới. Cuộc đời thứ ba. Đây chính là Điều quan tâm của xã hội. Cuộc đời thứ ba này chính là sự hòa hợp trong cuộc sống giữa các thành viên trong gia đình. Bởi lẽ, một gia đình hòa thuận, hạnh phúc, đầm ấm chính là ước mơ của bất kỳ đôi nam nữ nào khi họ bước vào thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, trong cuộc sống hôn nhân vẫn có những trường hợp ngoại lệ và những nghịch lý trái với mục đích ban đầu của hôn nhân. Sau khi kết hôn vì nhiều nguyên nhân khác nhau đã dẫn đến cuộc sống gia đình phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể dung hòa được. Biểu hiện mâu thuẫn vợ chồng đến mức trầm trọng, không tìm được tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được thì ly hôn sẽ là điều tất yếu để giải phóng cho vợ, chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình, vì vậy, ly hôn có thể hiểu là mặt trái của hôn nhân và là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức. Thực chất quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn tan vỡ, cuộc 13
- sống gia đình vợ chồng đã mất hết ý nghĩa và không thể tiếp tục duy trì đời sống chung. Ly hôn là việc chấm dứt hôn nhân, là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc một bên chồng và có giá trị pháp lý khi được Tòa án có thẩm quyền công nhận. Đây có thể coi là biện pháp cuối cùng để chấm dứt tình trạng hôn nhân không thể cứu vãn được. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 "Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [28, khoản 8 Điều 8]. Theo đó, ly hôn là hành vi có ý chí và có lý trí của vợ chồng, trong quan hệ ly hôn không có chủ thể nào khác có quyền yêu cầu ly hôn ngoài hai vợ chồng. Ly hôn có thể do một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền căn cứ trên cơ sở các quy định của pháp luật để quyết định công nhận hay không công nhận, cho phép hay không cho phép ly hôn. Khi có những căn cứ cho thấy những lý do ly hôn có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người kia hoặc gây tổn hại sâu sắc tới đời sống của con cái sau khi ly hôn thì cơ quan có thẩm quyền có quyền bác yêu cầu ly hôn của đương sự. Quan điểm tự do hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thể hiện quyền bình đẳng và tự do dân chủ của cá nhân, công dân được quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo đảm chế độ pháp lý về hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng, tuy nhiên, ngay cả khi hôn nhân tan vỡ, sự đảm bảo về quyền lợi của vợ chồng vẫn được Nhà nước bảo đảm. Quyền kết hôn và quyền ly hôn là một trong những quyền cơ bản của mỗi cá nhân, là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao, ủy quyền cho người khác khi thực hiện quyền này. Quyền ly hôn là một trong những quyền dân sự cơ bản của công dân được quy định tại Điều 42 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 và Điều 85 Luật HN&GÐ năm 2000, theo đó vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. 14
- Ly hôn là điều tất yếu xảy ra khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Tòa án không thể xem xét dựa vào ý chí chủ quan của đương sự để từ đó đưa ra phán quyết để cho ly hôn mà Tòa án phải dựa trên những căn cứ ly hôn chính là tình trạng hôn nhân của vợ chồng, xem xét những mâu thuẫn trong gia đình để từ đó làm căn cứ xem xét xác định mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng chưa, hạnh phúc gia đình có cứu vãn và hàn gắn được hay không. Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định: "Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt thì Tòa án quyết định cho ly hôn" [28]. Chính vì vậy, khi đã có những điều kiện cần và đủ này thì ly hôn sẽ là giải pháp cần thiết để vợ chồng chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, vấn đề ly hôn cũng được ghi nhận khác nhau. Ở một số quốc gia theo đạo Thiên Chúa (Thánh địa Vantican, Chile, Ireland, Ailen, Philippin…) quy định cấm ly hôn, ở những nước này việc kết hôn và ly hôn được tiến hành theo nghi thức và quyết định của nhà thờ. Kết hôn thì dễ, nhưng ly hôn thì rất khó khăn và mất nhiều thời gian. Ví dụ như ở Philippin, hôn nhân không đơn thuần là chuyện tình cảm lứa đôi, mà coi là biểu hiện tiến bộ của xã hội. Vì thế, ly hôn đối với nước họ được coi là chuyện rất khó được chấp nhận. Cùng với thánh địa Vantican, Philippin đã trở thành quốc gia mà ở đó những cặp vợ chồng dù có chán nhau đến mấy cũng không được phép ly hôn. Vì vậy, đất nước này cũng là nơi mà rất nhiều người trên thế giới đến để tổ chức đám cưới với mong muốn không bao giờ lìa xa. Trong khi đó, tại Ecuador, vợ chồng muốn ly hôn thì phải tuyệt thực trong ba ngày, sang đến ngày thứ tư, nếu cặp đôi này còn khỏe mạnh thì sẽ cho tiến hành ly hôn, nếu tình trạng sức khỏe yếu ớt thì sẽ được tuyên bố vĩnh viễn không bao giờ được ly hôn. Ở một số nước như: Chile, Ireland thì luật pháp của các quốc gia này đều quy định cấm ly hôn. Do vậy, người dân ở hai nước này rất thận trọng khi kết hôn, thậm chí người dân còn dần hình thành phong tục cưới muộn khi tuổi đời 15
- còn khá cao để sau khi kết hôn không phải "hối hận nghìn năm vì một phút sai lầm". Có thể nói, việc cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn tồn tại khá lâu trong đời sống cộng đồng Công giáo và được coi là nền tảng của luật giáo hội về gia đình. Ngày nay, với sự phát triển về nhận thức cũng như đề cao quyền dân chủ và tự do cá nhân nên quan điểm về hôn nhân trong đó có việc ly hôn cũng được nhìn nhận dưới góc độ mở rộng hơn. Một số quốc gia đã bãi bỏ luật cấm ly hôn như ở Italia (bãi bỏ năm 1975), Tây Ban Nha (bãi bỏ năm 1882). Có thể nói, ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, khi quan hệ hôn nhân tan vỡ, nó không những ảnh hưởng, phá vỡ đến tình cảm vợ chồng nói riêng mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của gia đình và xã hội nói chung. Pháp luật không bắt buộc vợ chồng phải chung sống khi vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Việc ly hôn nhằm giải phóng vợ chồng thoát khỏi cuộc sống chung đầy đau khổ, giúp vợ chồng thoát khỏi những mâu thuẫn sâu sắc mà không thể giải quyết được. Mặc dù ly hôn có nhiều nguyên nhân khác nhau và ở mỗi quốc gia đều có những giải pháp, biện pháp phù hợp nhưng có lẽ ở bất kỳ nguyên nhân nào, giải pháp nào họ cũng phải thống nhất rằng: "Tự do ly hôn tuyệt đối không có nghĩa là làm "tan rã"những mối liên hệ gia đình, mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh" [17, tr. 335]. Ở nước ta, bên cạnh những đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng, pháp luật cũng đã ban hành những quy định bảo đảm việc ly hôn, theo đó việc giải quyết ly hôn tuân thủ một cách chặt chẽ các điều kiện luật định. Việc quy định này không ngoài mục đích tránh sự ly hôn tùy tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng muốn sao làm vậy mà phải bằng pháp luật và chỉ có Tòa án mới được giao thẩm quyền giải quyết việc ly hôn. Tòa án với chức năng là cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định vợ chồng có thể được ly hôn hay không thể hiện qua việc Tòa án chấp nhận 16
- hay bác đơn xin ly hôn. Từ đó, có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa hiện tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây ảnh hưởng xấu đến gia đình và ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội bởi trong quan hệ hôn nhân, không chỉ có lợi ích riêng tư của vợ, chồng mà còn có cả lợi ích của Nhà nước và xã hội thể hiện những chức năng cơ bản của gia đình. Pháp luật nước ta đã ghi nhận và bảo đảm quyền ly hôn của vợ chồng, việc ly hôn chỉ được pháp luật ghi nhận khi có những căn cứ pháp lý nhất định, khi giải quyết ly hôn vấn đề hậu quả pháp lý phát sinh được pháp luật đảm bảo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình. 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ LY HÔN Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân nói chung, ly hôn nói riêng là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, tự do và tự nguyện của đôi nam nữ, điều này được thể hiện trong việc kết hôn cũng như ly hôn. Có thể nói, quyền tự do ly hôn xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội. Ở chế độ XHCN là chế độ duy nhất xây dựng một nền dân chủ thực sự mà trong đó quyền lợi của tất cả mọi người thuộc các tầng lớp khác nhau đều được đảm bảo. Ly hôn chính là sự giải phóng cho vợ chồng khi bản chất cuộc hôn nhân không tồn tại trên thực tế và Nhà nước cho phép họ ly hôn. Điều này không những đem lại lợi ích cho cả vợ chồng mà còn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước và xã hội. Pháp luật của nhà nước XHCN không đặt ra điều kiện hạn chế quyền tự do ly hôn của vợ chồng. Đây chính là ưu điểm khác về bản chất của pháp luật XHCN so với pháp luật của nhà nước dưới chế độ phong kiến, nhất là các nhà nước phong kiến phương đông luôn luôn thừa nhận quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng với tư tưởng: "Trọng nam khinh nữ " khởi nguồn từ Nho giáo. Pháp luật phong kiến cho phép người chồng "năm thê bảy 17
- thiếp" trong khi đó người vợ phải tuyệt đối trung thành với chồng "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Ở chế độ tư sản, mặc dù có nhiều điểm tiến bộ hơn về nhân quyền, trong quan hệ hôn nhân Nhà nước tư sản duy trì chế độ một vợ một chồng trước pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế trong xã hội tư bản, sự phóng túng của đàn ông và đàn bà trong quan hệ tình dục làm ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ trong gia đình. Hôn ước tư sản thể hiện ý chí độc lập và quyền tự chủ của cá nhân. Việc đề cao cái tôi, đề cao lợi ích cá nhân trong hôn ước tự nó đã phản ánh mâu thuẫn với bản chất của gia đình. Sự xa cách về tình cảm là hiện tượng thường thấy trong HN&GĐ tư sản. Nghĩa vụ của hai bên đương sự như trong hợp đồng, lý do dẫn đến việc chấm dứt hôn nhân cũng như việc chấm dứt hợp đồng thì không thể có hạnh phúc thực sự. Và khi những toan tính về lợi ích kinh tế bị đối phương cản trở, vi phạm hợp đồng, việc chấm dứt hôn nhân dựa vào "lỗi" của họ. Như vậy, căn cứ duy nhất để những cuộc hôn nhân - hợp đồng tan vỡ là "lỗi" của các bên đương sự. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quan hệ hôn nhân mặc dù cũng là sự liên kết, nhưng sự liên kết này không phải là cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc mà chỉ để thực hiện tốt những giao dịch thông thường. Có thể nói, mặc dù có nhiều điểm tiến bộ không thể phủ nhận, nhưng nhìn chung chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ phong kiến trong quan niệm về HN&GĐ. Tuy hình thức là hôn nhân một vợ một chồng nhưng bản thân nó lại dựa vào "lỗi" làm căn cứ ly hôn, cho nên quyền tự do ly hôn bị hạn chế. Tiêu chí ban đầu là hoàn thiện chế độ một vợ một chồng tự nguyện, bình đẳng đã bị bản chất chế độ ấy phủ nhận. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Nhà nước XHCN. Dưới chế độ xã hội này, hôn nhân được xây dựng hoàn toàn theo chế độ một vợ một chồng, tự do, tiến bộ và bình đẳng. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân nói chung, ly hôn nói riêng là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật XHCN chỉ thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên 18
- cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, tự do và tự nguyện. Quyền tự do ấy biểu hiện trong việc tự do kết hôn và tự do ly hôn. Có thể nói, quyền tự do ly hôn xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội. Chế độ XHCN là chế độ duy nhất xây dựng một nền dân chủ thực sự, mà trong đó quyền lợi của tất cả mọi người thuộc các tầng lớp khác nhau đều được đảm bảo. Bởi vậy, xét thấy ly hôn là sự giải phóng cho vợ chồng khi bản chất của cuộc hôn nhân không còn tồn tại trên thực tế, Nhà nước cho phép họ ly hôn. Giải pháp này không những đem lại lợi ích cho đương sự mà còn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước và xã hội. Nhà nước XHCN, giải quyết ly hôn là dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực trạng quan hệ hôn nhân mà không xuất phát từ ý chí chủ quan của cán bộ Tòa án hay của các đương sự. Do đó, giải quyết ly hôn không căn cứ trên cơ sở lỗi của vợ hoặc chồng. Ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: Cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì, như mọi người đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tùy thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan… [22, tr. 119]. Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện trên đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi. Việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi nhận biên bản sự tan rã bên trong của nó [21, tr. 121]. Chính vì vậy mà so với pháp luật tư sản việc thừa nhận việc tự do ly hôn trong pháp luật XHCN có ý nghĩa đặc biệt, nhất là đối với người phụ nữ - những người luôn phải chịu thiệt thòi khi hôn nhân tan vỡ. 19
- Theo V.I. Lênin: Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ, không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ, tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ được tự do bỏ chồng, thì không phải là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng [18, tr. 163]. 1.2.1. Quyền yêu cầu ly hôn là quyền tự do cá nhân của vợ, chồng (quyền dân sự) Khi nói đến tự do hôn nhân tức là nói đến hai mặt: Tự do kết hôn và tự do ly hôn nhưng thực ra kết hôn là mặt chủ yếu, còn ly hôn chỉ là mặt trái không phổ biến. Tuy vậy, ly hôn vẫn là một mặt không thể thiếu được của hôn nhân tự do, Nhà nước chủ trương hôn nhân tự do cũng như đã công nhận quyền ly hôn chính đáng của vợ chồng, việc ly hôn chỉ được pháp luật công nhân khi đáp ứng một điều kiện luật định, Điều đó không ngoài mục đích để xây dựng và củng cố gia đình hạnh phúc, trong đó vợ chồng yêu thương nhau, kính trọng nhau, giúp đỡ nhau cùng lao động sản xuất và nuôi dạy con cái. Tự do kết hôn chính là đảm bảo cho hai bên nam nữ yêu nhau có quyền xây dựng gia đình hạnh phúc trên cơ sở tình yêu chân chính. Nhưng vì nguyên nhân nào đó mà giữa vợ chồng không thể Điều hòa được, nẩy sinh những mâu thuẫn trầm trọng thì ly hôn cũng là một Điều không thể thiếu trong xã hội. Trong chế độ phong kiến, việc hôn nhân bị chi phối bởi chế độ phụ quyền gia trưởng, việc bỏ vợ được xem là một đặc quyền của người đàn ông, còn người đàn bà luôn ở vị trí bị bỏ. Người phụ nữ không có các quyền được gọi là tự do ly hôn, mặc dù họ phải sống trong cảnh ngộ bị áp bức, bị nô dịch. Chế độ phong kiến đã tạo ra những quy tắc khắc nghiệt đối với phụ nữ trong khi đó đối với người chồng thì mặc cho họ có tàn bạo, có xấu xa đến thế nào 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 349 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn