intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:153

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TUYẾT NHUNG TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hữu Chí Hµ néi - 2007
  2. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM 6 VÀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM 1.1. Khái quát chung về việc làm 6 1.1.1. Quan niệm về việc làm 6 1.1.1.1. Quan niệm về việc làm của các nước trên thế giới 6 1.1.1.2. Quan niệm về việc làm ở Việt Nam 11 1.1.2. Tầm quan trọng của việc làm 17 1.1.2.1. Về mặt xã hội 17 1.1.2.2. Về mặt kinh tế 18 1.2. Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam 19 1.2.1. Một số khái niệm 19 1.2.1.1. Dịch vụ việc làm và giới thiệu việc làm 19 1.2.1.2. Tổ chức giới thiệu việc làm 21 1.2.2. Sơ lược lịch sử pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm 23 trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.2.2.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển tổ chức giới thiệu việc 23 làm trên thế giới 1.2.2.2. Sơ lược lịch sử pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm 29 trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
  3. 1.3. Vai trò của tổ chức giới thiệu việc làm 38 1.3.1. Vai trò đối với người lao động 38 1.3.2. Vai trò đối với người sử dụng lao động 39 1.3.3. Vai trò đối với quản lý nhà nước về thị trường lao động 40 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH 42 VỀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM - THỰC TRẠNG ÁP DỤNG 2.1. Quy định của pháp luật lao động hiện hành về tổ chức giới 42 thiệu việc làm 2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức giới thiệu 42 việc làm 2.1.1.1. Chức năng của tổ chức giới thiệu việc làm 42 2.1.1.2. Nhiệm vụ của tổ chức giới thiệu việc làm 45 2.1.1.3. Quyền hạn của tổ chức giới thiệu việc làm 54 2.1.2. Quy định của pháp luật lao động hiện hành về điều kiện, thủ 59 tục thành lập tổ chức giới thiệu việc làm 2.1.2.1. Điều kiện, thủ tục thành lập trung tâm giới thiệu việc làm 59 2.1.2.2. Điều kiện, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động 65 giới thiệu việc làm cho doanh nghiệp 2.1.3. Quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của 69 tổ chức giới thiệu việc làm 2.1.3.1. Về cơ cấu tổ chức 69 2.1.3.2. Về hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm 71 2.1.4. Quản lý nhà nước đối với tổ chức giới thiệu việc làm 75 2.1.4.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với tổ chức giới thiệu 75 việc làm 2.1.4.2. Nội dung quản lý đối với tổ chức giới thiệu việc làm 76
  4. 2.1.4.3. Các công cụ quản lý 77 2.2. Nội dung quản lý đối với tổ chức giới thiệu việc làm 79 2.2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật lao động đối với trung tâm 79 giới thiệu việc làm 2.2.1.1. Về cơ sở vật chất 79 2.2.1.2. Về cơ cấu tổ chức 82 2.2.1.3. Về tài chính 86 2.2.1.4. Về hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm 88 2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật lao động đối với các doanh 98 nghiệp giới thiệu việc làm 2.2.2.1. Những mặt được 91 2.2.2.2. Những hạn chế, tồn tại 100 2.3. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của tổ chức giới 108 thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam 2.3.1. Những mặt được 108 2.3.2. Những hạn chế, tồn tại 108 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 112 HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động nhằm nâng 112 cao hiệu quả hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm 3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của 112 tổ chức giới thiệu việc làm phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động hiện nay ở Việt Nam 3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức giới thiệu 115 việc làm phải phù hợp với sự vận động, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và các công cụ hỗ trợ khác đồng thời phải gắn với mục tiêu cải cách hành chính
  5. 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm phải phù 116 hợp với xu thế hội nhập quốc tế 3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của 117 tổ chức giới thiệu việc làm 3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật 117 3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện về mặt tổ chức nhằm nâng cao hiệu 122 quả hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm 3.2.2.1. Một số giải pháp đối với các trung tâm giới thiệu việc làm 122 3.2.2.2. Một số giải pháp đối với các doanh nghiệp hoạt động giới thiệu 125 việc làm 3.3. Các giải pháp khác 126 3.3.1. Về công tác cán bộ 126 3.3.2. Về công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức giới thiệu việc làm 126 3.3.3. Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật 127 KẾT LUẬN 133 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 136
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLLĐ : Bộ luật Lao động CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa GTVL : Giới thiệu việc là LĐTB&XH : Lao động Thương binh và Xã hội UBND : Ủy ban nhân dân
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng lao động, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và có nguồn nhân lực dồi dào. Ở nước ta, kể từ khi thực hiện chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh, trong đó có vấn đề việc làm cho người lao động. Nếu như trước thời kỳ đổi mới, việc làm cho người lao động chủ yếu do Nhà nước phân công thì sau đổi mới, "giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội" [13]. Trong bối cảnh đó, cùng với sự gia tăng nguồn nhân lực xã hội, sắp xếp lại sản xuất và tinh giảm biên chế trong khu vực nhà nước…, nhu cầu về việc làm của người lao động ngày càng trở nên cấp bách. Đây chính là cơ sở cho sự hình thành và phát triển tổ chức GTVL ở nước ta. Ngày nay, hệ thống tổ chức GTVL ở nước ta đã tương đối phát triển và đa dạng. Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức GTVL có vai trò quan trọng trong công tác giải quyết việc làm, là chiếc cầu nối giữa người sử dụng lao động và người lao động. Hoạt động của hệ thống tổ chức GTVL trong những năm qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tìm kiếm việc làm, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, đặc biệt góp phần quan trọng trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay đứng trước sự biến động và sự phát triển của thị trường lao động trong và ngoài nước, các tổ chức GTVL đã 1
  8. gặp không ít những khó khăn, thách thức như: Năng lực hoạt động còn hạn chế, sự am hiểu về thị trường lao động còn yếu và nhiều bất cập, nhiều hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực trao đổi, cung cấp thông tin về lao động và việc làm... Điều này là do nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động GTVL trong phát triển thị trường lao động còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; một số địa phương, các cơ quan, tổ chức và các cấp lãnh đạo chưa thực sự quan tâm đầu tư, bố trí đủ kinh phí cho các tổ chức GTVL hoạt động có hiệu quả; thiếu chính sách đồng bộ và dài hạn như chính sách đầu tư cơ sở vật chất, chính sách cán bộ, chính sách tài chính…; thiếu quy hoạch hệ thống tổ chức GTVL của cả nước và ở từng địa phương. Từ thực trạng trên cho thấy việc nghiên cứu những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL nhằm làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức GTVL trên cơ sở đó tìm ra những vấn đề hợp lý và bất hợp lý trong việc áp dụng pháp luật lao động đối với hoạt động GTVL nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL là một việc làm hết sức cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến hoạt động của tổ chức GTVL có rất nhiều bài viết, các báo cáo về hoạt động của các trung tâm GTVL như: Báo cáo "Dự án quy hoạch hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm giai đoạn 2004 - 2010" của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2004; "Thực trạng hoạt động của hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm và phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển đến năm 2010" của Vụ Lao động - Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội; "Báo cáo đánh giá tình hình hoạt động giới thiệu việc làm 2
  9. 5 năm 2001 - 2005" của Sở Lao động - Thương binh và xã hội thành phố Hà Nội…; trên các báo, tạp chí, các trang Web… thường có các bài viết đánh giá về tình hình hoạt động của tổ chức GTVL dưới nhiều góc độ như: "Bàn về việc nâng cao năng lực và hiện đại hóa các trung tâm giới thiệu việc làm" của tác giả Lê Quang Trung, Vụ Lao động - Việc làm đăng trên Bản tin thị trường lao động số 6/2005; bài viết "15 năm hoạt động giới thiệu việc làm và phương hướng đổi mới giai đoạn tới" của tác giả Nguyễn Đại Đồng, Vụ Lao động - Việc làm; bài viết "Vai trò của trung tâm giới thiệu việc làm với chế độ bảo hiểm thất nghiệp" của tác giả Lê Quang Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Lao động - Việc làm đăng trên tạp chí Lao động và Xã hội, số 313, từ ngày 16- 30/6/2007… Các báo cáo, các bài viết liên quan đến hoạt động của tổ chức GTVL chủ yếu ở góc độ kinh tế - xã hội thông qua các hoạt động cụ thể của các trung tâm GTVL như: tư vấn, GTVL, cung ứng lao động và thông tin thị trường lao động, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của tổ chức GTVL dưới phương diện pháp luật và kinh tế - xã hội. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL ở Việt Nam hiện nay. Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của tổ chức GTVL; thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với hoạt động của tổ chức GTVL; những yêu cầu và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức GTVL hiện nay. - Luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL hiện nay ở Việt Nam, 3
  10. - Phân tích thực trạng và đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL hiện nay ở Việt Nam. - Trên cơ sở các vấn đề nghiên cứu ở trên đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức GTVL ở nước ta hiện nay. Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của tổ chức GTVL theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay trong phạm vi cả nước, nhất là trong những năm gần đây. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL cũng như các vấn đề khác có liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát và tổng kết thực tiễn. 5. Những đóng góp mới của luận văn - Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về "Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay". - Với kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả hy vọng góp phần nâng cao nhận thức về hoạt động GTVL, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể pháp luật trong việc xây dựng và thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức GTVL. - Bước đầu luận văn đưa ra yêu cầu, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL ở Việt Nam hiện nay. 4
  11. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến chuyên ngành Luật Lao động trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và tổ chức giới thiệu việc làm. Chương 2: Những quy định của pháp luật lao động về tổ chức giới thiệu việc làm - Thực trạng áp dụng Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm ở Việt Nam hiện nay. 5
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM 1.1.1. Quan niệm về việc làm Lao động và việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội, việc làm là một khái niệm hết sức trừu tượng. Vì, việc làm được coi là một trong những vấn đề sống còn của toàn xã hội, nó không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là có việc để làm, mà việc làm còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau như: kinh tế, xã hội, chính trị, pháp lý cũng như phải đáp ứng được các yêu cầu đặt ra mới được coi là việc làm. Dựa vào đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi nước, tùy theo cách tiếp cận khác nhau, song phải phù hợp với các tiêu chí chung trong quan niệm về việc làm của ILO, nên các quốc gia trong đó có Việt Nam đã đưa ra quan niệm về việc làm khác nhau. 1.1.1.1. Quan niệm về việc làm của các nước trên thế giới Việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội hết sức nhạy cảm, an toàn về việc làm là một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm cho sự phát triển và bền vững của mỗi quốc gia. Muốn giải quyết một cách có hiệu quả về những vấn đề liên quan đến việc làm, điều đầu tiên là các quốc gia phải đưa ra khái niệm về việc làm, cũng như phải phân biệt rõ khái niệm việc làm với khái niệm lao động. Hai khái niệm này mặc dù luôn đi đôi với nhau và giữa chúng 6
  13. có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng chúng không hề đồng nhất với nhau. Lao động là hoạt động của con người diễn ra giữa con người với tự nhiên. Như C.Mác đã nói: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại" [28, tr. 193]. Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất, tinh thần cho bản thân và cho xã hội. Bất cứ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất. Điều này có nghĩa là không thể thiếu lao động, lao động là nguồn gốc và động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy, xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động sẽ càng tiến bộ. Khái niệm về việc làm chỉ xuất hiện khi lao động đã trở thành một nhu cầu sáng tạo, một lối sống văn hóa của con người, và việc làm lúc này không chỉ là vấn đề kiếm sống mà còn là điều kiện để hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người. Trên thế giới, khái niệm việc làm chủ yếu được nêu trong các ấn phẩm, các công trình nghiên cứu của cá nhân hoặc nhóm các cá nhân. Theo Giăng Mute, cố vấn của Văn phòng ILO (Giơ-ne-vơ): "Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có trả công bằng tiền hoặc hiện vật do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất". Còn theo Guy Hân-tơ, chuyên viên Viện phát triển hải ngoại Luân Đôn: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa 7
  14. là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế". Để hiểu rõ và sâu hơn khái niệm lao động, việc làm với tư cách là đối tượng của các vấn đề liên quan đến lao động, việc làm thì chúng ta không chỉ dừng lại ở các khái niệm chung về lao động, việc làm như trên, mà còn phải tìm hiểu các khái niệm liên quan như: Lực lượng lao động; người có việc làm; thất nghiệp. Để làm rõ hệ thống khái niệm khái niệm trên, ILO đã đưa ra quan niệm về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có tính chất chung nhất như sau: Cơ cấu về lực lượng lao động [37, tr. 39] Dân số trong độ tuổi lao động quy định (A) Có việc làm Không có việc làm (B) (C) Muốn làm việc Không muốn làm việc E - Chủ động tìm việc Không chủ động N - Sẵn sàng tìm việc tìm việc U N Lực lượng lao động E: Người có việc làm Không thuộc lực U: Người thất nghiệp lượng lao động N: Người không tham gia hoạt động kinh tế 8
  15. Theo sơ đồ trên, ILO đã đưa ra một số khái niệm sau: - Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định (tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị của từng nước) thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Về cơ bản khái niệm lực lượng lao động nêu trên được thống nhất ở nhiều nước và cũng là khái niệm chính thức mà ILO đưa ra. Điều khác nhau ở mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy định, ở đây có hai sự khác biệt. Khác biệt thứ nhất là quy định giới hạn độ tuổi tối thiểu. Ví như Ai Cập độ tuổi tối thiểu là 6 tuổi; Braxin là 10 tuổi, Ôxtrâylia là 15 tuổi, ở Mỹ là 16 tuổi, phần lớn các nước quy định độ tuổi này là từ 14 hoặc 15 tuổi. Khác biệt thứ hai là quy định giới hạn về độ tuổi tối đa của lực lượng lao động. Ở một vài nước công nghiệp như: Đan Mạch, Thụy Sỹ, Na Uy, Phần Lan lấy tuổi tối đa là 74. Còn một số nước đang phát triển như Ai Cập, Malaysia, Mêhicô quy định là 65 tuổi. Song hiện nay ở nhiều quốc gia và ngay cả ILO đã không quy định giới hạn tuổi tối đa và để mở ở độ tuổi này [37]. - Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Khái niệm việc làm trên được chính thức nêu ra tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của các nhà thống kê lao động ILO năm 1983 và được áp dụng ở nhiều nước. - Người thiếu việc làm là người trong độ tuổi lao động đang có việc làm nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định và người lao động đó có nhu cầu làm thêm. Ngược với khái niệm người thiếu việc làm, khái 9
  16. niệm người đủ việc làm là người làm việc với thời gian không ít hơn mức chuẩn hoặc ít hơn mức chuẩn nhưng không có nhu cầu làm thêm. - Về khái niệm thất nghiệp, ILO đưa ra định nghĩa: "Thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm, đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc". Để xác định rõ những người thất nghiệp, ILO đã đưa ra những tiêu chí xét trong khoảng thời gian nhất định; những người thất nghiệp là những người sau: + Không có việc làm + Có khả năng làm việc + Tích cực tìm việc làm. Thất nghiệp dài hạn được hiểu từ 12 tháng/năm; thất nghiệp ngắn hạn là dưới 12 tháng/năm. Việc xác định thống nhất nhận thức về các khái niệm trên của ILO sẽ tạo cơ sở cho việc định ra các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh giá thực trạng lao động, việc làm và thất nghiệp của mỗi quốc gia trên thế giới. Dựa trên cơ sở các khái niệm này mà các quốc gia trên thế giới đã có những cách tiếp cận khác nhau về khái niệm việc làm. Ở Ấn Độ, họ dựa vào thời gian làm việc bình thường được quy định trong các văn bản pháp luật để làm căn cứ đánh giá xem một người nào đó có việc làm hay không. Họ còn quy định: Những ai không làm việc một giờ nào trong một tuần lễ thì vào thời gian điều tra sẽ bị liệt vào loại thất nghiệp; những ai làm việc ít hơn số giờ quy định thì được coi là thiếu việc làm. Ở Chi Lê, họ dựa vào tiêu chí thu nhập để định nghĩa về việc làm. Cụ thể: nếu trong thời gian điều tra mà đối tượng hoàn toàn không có một khoản thu nhập nào thì được coi là không có việc làm, nếu thu nhập thấp hơn tiền lương tối thiểu của xã hội thì được coi là thiếu việc làm. Trung Quốc lại đưa ra định nghĩa về 10
  17. việc làm như sau: "Việc làm là một người làm một việc lao động xã hội nhất định thuộc công lao động hoặc kinh doanh có thu nhập" [47]. Khái niệm việc làm mang tính chất trừu tượng, nên một số quốc gia đã đưa ra quan niệm về việc làm dựa vào khái niệm đối lập, đó là khái niệm thất nghiệp của ILO. Mặc dù có rất nhiều quốc gia đã sử dụng khái niệm thất nghiệp để đưa ra quan niệm về việc làm, nhưng mỗi quốc gia lại có quan niệm khác nhau về khoảng thời gian không có việc làm (thất nghiệp). Ví như, ở Ôxtrâylia xác định thất nghiệp là người không có việc làm trong tuần lễ điều tra và đã chủ động tìm việc làm cả ngày hoặc nửa ngày tại bất kỳ một thời điểm nào trong bốn tuần, bao gồm cả tuần điều tra và sẵn sàng làm việc khi có việc làm. Ở Pháp đưa ra khái niệm thất nghiệp một cách ngắn gọn hơn, đó là: "Người thất nghiệp là người có đủ điều kiện làm việc nhưng không có việc làm hoặc đang tìm việc làm". Thái Lan lại quan niệm: Người thất nghiệp là người không có việc làm trong thời gian bảy ngày trước lúc điều tra. Như vậy, việc đưa ra khái niệm về việc làm tưởng chừng như đơn giản, nhưng thực ra lại là vấn đề hết sức phức tạp. Mỗi một quốc gia đều đưa ra những tiêu chí khác nhau về khái niệm việc làm. Tuy nhiên, những nội dung chính của khái niệm việc làm đều được dựa trên những tiêu chí chuẩn do ILO đưa ra. Đây có thể coi là sự phát triển tất yếu của phạm trù này, bởi xu thế toàn cầu hóa hiện nay đã kéo các quốc gia xích lại gần nhau, nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội mang tính quốc tế, trong đó có vấn đề việc làm sẽ được hiểu một cách thống nhất, toàn diện trên thế giới. Điều này sẽ làm cho vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia đạt hiệu quả cao. 1.1.1.2. Quan niệm về việc làm ở Việt Nam 11
  18. Việt Nam là một thành viên của ILO, do vậy khái niệm về việc làm cũng như các vấn đề liên quan đến việc làm của Việt Nam cũng đều dựa trên quan điểm, tư tưởng chung của ILO. Ở Việt Nam, một trong các quyền cơ bản của công dân là "quyền có việc làm". Đây là quyền Hiến định của công dân Việt Nam, bởi quyền có việc làm đã được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ Hiến pháp 1946; Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980 và đến Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Hiến pháp của Việt Nam đã khẳng định: "Công dân Việt Nam có quyền có việc làm, Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cần thiết phù hợp với khả năng thực tế để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền đó" [13]. Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền có việc làm. Đó là một trong những quyền cơ bản của con người. Con người được tự do trong lao động, đây chính là điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động và khai thác triệt để tiềm năng của con người. Tuy nhiên, trên thực tế để bảo đảm việc làm cho người lao động là cả một quá trình và nó phải được thực hiện đầy đủ, từng bước trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng phải phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Quan niệm về việc làm ở nước ta luôn gắn liền với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Vì thế, quan niệm việc làm ở nước ta không chỉ mang nội dung pháp lý, mà còn mang nội dung chính trị - xã hội. Chúng ta có thể tìm hiểu quan niệm về việc làm ở Việt Nam qua hai giai đoạn sau:  Giai đoạn trước năm 1986 Đây là giai đoạn Nhà nước ta thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung với việc tuyệt đối hóa hai thành phần kinh đó là kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ yếu trong nền 12
  19. kinh tế. Trong giai đoạn này, Nhà nước phủ nhận hoặc không nhìn nhận đúng vai trò của các thành phần kinh tế khác. Trong bối cảnh của cơ chế kinh tế nêu trên, quan niệm về việc làm lúc này cũng mang nặng tính bao cấp. Khái niệm về việc làm cũng đồng nghĩa với việc một người nào đó có trong biên chế của Nhà nước hay không. Nghĩa là, trong giai đoạn này người lao động chỉ được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng bao gồm những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và khu vực hành chính nhà nước. Trong cơ chế đó, Nhà nước không chỉ bố trí việc làm cho người lao động mà còn bao cấp cả về sự ổn định lâu dài của việc làm, tiền lương, các chế độ bảo hiểm… Điều này đã kìm hãm tiềm năng lao động, triệt tiêu động lực của con người trong phát triển việc làm và tự chịu trách nhiệm về đời sống của chính bản thân họ. Do vậy, trong xã hội cũng không tồn tại và thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, lao động dư thừa, thiếu việc làm, việc làm không đầy đủ, không có thị trường lao động và sức lao động không thể là hàng hóa, cho dù là loại "hàng hóa đặc biệt". Còn người dân thì không có quyền tự do kinh doanh, nên việc thuê mướn lao động đều bị coi là bất hợp pháp. Điều này đã dẫn đến nghịch lý, đó là có những người tay nghề rất giỏi, họ làm việc cho các thành phần kinh tế khác, dẫu có thu nhập cao, có đóng góp nhiều cho xã hội cũng không được Nhà nước và xã hội thừa nhận là người có việc làm, vì họ không phải là người trong biên chế của Nhà nước. Với tình trạng vô lý trên đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của mọi người trong xã hội. Mọi người đều mong muốn và tìm mọi cách để trở thành những người trong biên chế của Nhà nước, để được coi là người có việc làm và hàng tháng sẽ nhận được một khoảng tiền lương ổn định khi đang làm việc cho đến các chế độ bảo hiểm xã hội sau này, cũng như nhiều ưu đãi, phúc lợi xã hội khác. Kết quả của nghịch lý trên đã dẫn đến hậu quả đó là không chỉ có dư luận xã hội mà ngay cả trong một số cơ quan nhà nước cũng có cách đánh giá, nhìn nhận không đúng về việc làm. Việc này đã dẫn đến những sai sót đáng kể 13
  20. trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có lúc, có nơi đã làm cho tình hình xã hội thêm phức tạp, ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước.  Giai đoạn từ năm 1986 đến nay Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước tiến hành chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự thay đổi này đã đem lại cho người lao động cơ hội tìm kiếm việc làm nhiều hơn, rộng hơn và thuận lợi hơn. Nhu cầu tìm việc của người lao động ngày càng phát triển. Lúc này, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội, một trong những chính sách đó là chính về sách lao động - việc làm. Chính sách về lao động - việc làm mà Nhà nước đưa ra trong thời gian này đều hướng vào việc phát triển con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm. Đây chính là sự thay đổi cơ bản trong lĩnh vực lao động - việc làm của thời kỳ đổi mới. Các chính sách này đều nhằm mục đích mở rộng cơ hội cho người lao động, tạo điều kiện cho mọi người đều có việc làm và Nhà nước phải bảo vệ họ trong quá trình lao động cũng như trong cuộc sống. Người lao động có thể làm việc trong mọi thành phần kinh tế mà không bị phân biệt đối xử. Cùng với sự hình thành của nền kinh tế thị trường, thị trường lao động cũng bắt đầu xuất hiện và phát triển, người lao động được tự do sử dụng sức lao động của mình, vì thế sức lao động lúc này đã trở thành loại hàng hóa đặc biệt. Khái niệm việc làm lúc này cũng được thể hiện gián tiếp trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI đó là: "Những người làm ra của cải và những việc có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chính sách đều được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2