intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội buôn bán người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

52
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhiệm vụ của đề tài này là phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự. Phân tích các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội mua bán người. Khái quát lý luận và phân tích thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2014-2018. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội buôn bán người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG DUY LONG TỘI MUA BÁN NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG DUY LONG TỘI MUA BÁN NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu luận văn độc lập của cá nhân tôi, nội dung cũng như các số liệu trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Người cam đoan Đặng Duy Long
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI..................................................... 6 1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán người .............................................. 6 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người ........... 14 Chương 2 THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI TẠI TỈNH QUẢNG NINH .. 29 2.1. Định tội danh tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh ............................ 29 2.2. Quyết định hình phạt đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh 46 Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI MUA BÁN NGƯỜI TẠI TỈNH QUẢNG NINH ................................................................................... 67 3.1. Yêu cầu định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội mua bán người................................................................................................................ 67 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh ................................................................ 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL : Áp dụng pháp luật. BLHS : Bộ luật Hình sự. BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự. LHQ : Liên Hợp Quốc. QĐHP : Quyết định hình phạt. TNHS : Trách nhiệm hình sự. TMBN : Tội mua bán người. XHCN : Xã hội chủ nghĩa.
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1 Số bị cáo bị xét xử theo cấu thành tội phạm địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2014 – 2018) .................................................................................................. 33 Bảng 2.2. Cơ cấu mức hình phạt ở cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo phạm tội mua bán người từ năm 2014 đến năm 2018..................................... 51
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời gian qua, tội mua bán người xảy ra ngày càng nhiều, gây bức xúc lớn trong xã hội. Tội phạm này không chỉ xâm hại đến quyền con người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần, tính mạng của nạn nhân mà còn tác động xấu đến đạo đức, giống nòi, lối sống, thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự của đất nước. Quảng Ninh có 132,8km đường biên giới trên bộ, khoảng 250km đường biên giới trên biển và nước ngoài và có nhiều cửa khẩu, đường tiểu ngạch thông thương với Trung Quốc. Đây là những điều kiện tốt để Quảng Ninh phát triển kinh tế- xã hội nhưng cũng là điều kiện thuận lợi cho nhiều loại tội phạm hoạt động nhất là tội phạm mua bán người qua biên giới. Chỉ tính riêng tại địa bàn thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), 5 năm qua lực lượng chức năng đã phát hiện, bắt giữ 30 vụ, 46 đối tượng phạm tội mua bán người, giải cứu 40 phụ nữ, 11 trẻ em, trong đó có 4 trẻ sơ sinh. Công an TP Móng Cái phối hợp với các Đồn Biên phòng và Phòng Quản lý xuất nhập cảnh, Công an tỉnh Quảng Ninh tiếp nhận từ Cục Công an thị xã Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc 116 nạn nhân bị lừa bán sang Trung Quốc. Thực tiễn trong những năm qua trên địa bàn toàn quốc nói chung, các tỉnh biên giới nói riêng trong đó có Quảng Ninh, tội phạm mua bán người ngày càng gia tăng, diễn biến tội phạm ngày càng phức tạp, thủ đoạn tội phạm ngày càng tinh vi. Các quy định của pháp luật cũng chưa bao quát được hết những hành vi phạm tội của loại tội phạm này dẫn đến công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này trên thực tế còn phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được ban hành đã hoàn thiện hơn khung pháp lý quan trọng cho việc xử lý người phạm tội mua bán người, giúp cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này được thống nhất trên phạm vi cả nước nói 1
  8. chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng kể từ khi BLHS 2015 có hiệu lực, các quy định của BLHS 2015 về tội mua bán người cũng còn có những vướng mắc, bất cập, dẫn đến việc định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân các cấp tại tỉnh Quảng Ninh đối với tội mua bán người gặp những khó khăn, thậm chí là sai phạm. Do vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người luôn là vấn đề cấp thiết. Với lý do nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài: “Tội buôn bán người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hình sự - Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tính thời điểm hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội mua bán người, phòng ngừa tội mua bán người. Cụ thể: - GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (2011): “Luật Phòng, chống mua bán người - Cơ sở pháp lý đấu tranh chống tội phạm mua bán người trong thời gian tới”, Tạp chí CAND số chuyên đề tháng 8 năm 2011 - TS Hà Mạnh Hùng (2014): “Phòng ngừa tội phạm mua bán người trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Phòng chống tội phạm, số 6/2014 - TS Phạm Minh Tuyên (2018): “Thực trạng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em – Một số vướng mắc và kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân (điện tử), tháng 9/2018. Về cơ bản, các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận về tội mua bán người ở một số phương diện sau: - Những công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận những vấn đề lý luận cơ bản về tội mua bán người và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao của công tác phòng, chống tội phạm mua bán người. - Nhiều công trình nghiên cứu đã đánh giá thực tiễn việc áp dụng pháp luật về tội mua bán người, cung cấp những thông tin về tình hình tội phạm, mức độ và dự đoán tình hình gia tăng của loại tội phạm này. 2
  9. - Các công trình nghiên cứu cũng đã đề cập tới những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của các quy định đó về tội mua bán người. - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội mua bán người ở các góc độ khác nhau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh, luận văn hướng đến đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ gồm: - Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự. - Phân tích các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội mua bán người. - Khái quát lý luận và phân tích thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2014-2018; - Phân tích các yêu cầu và đề xuất các giải pháp đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh để nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 3
  10. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự ngoài những vấn đề lý luận, luận văn nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có khảo cứu các quy định, nghị quyết, văn bản hướng dẫn của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về tội mua bán người. Các tài liệu, số liệu, vụ án điển hình phục vụ nghiên cứu được tác giả luận văn thu thập từ nguồn thống kê xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian 5 năm từ năm 2014 - 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chính sách hình sự của nhà nước về tội phạm, về hình phạt, về cải cách tư pháp về phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp trong một tổng thể các phương pháp chủ yếu như: phân tích, tổng hợp, thống kê, phương pháp so sánh, đánh giá,…Tùy thuộc vào yêu cầu, mục đích và nội dung của từng chương, mục việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu đảm bảo sự phù hợp và chính xác. Cụ thể: Chương 1: Các phương pháp phân tích, tổng hợp được luận văn sử dụng và nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về tội mua bán người như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người, quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán người qua các giai đoạn khác nhau. Chương 2: Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, đánh giá để phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự tội mua bán người từ thực tiễn 4
  11. xét xử của cơ quan xét xử tại tỉnh Quảng Ninh trên hai nội dung chính: định tội danh và quyết định hình phạt, đồng thời các phương pháp này cho phép chỉ ra một số những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân những khó khăn vướng mắc đó. Chương 3: Các phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để lập luận những yêu cầu và giải pháp mà theo tác giả đó là những giải pháp đề đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội mua bán người. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức sâu và thống nhất hơn các dấu hiệu pháp lý về tội mua bán người, góp phần xây dựng và hoàn thiện nền tảng pháp luật về tội mua bán người ở Việt Nam. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để các cán bộ, công chức, các tổ chức, cá nhân có thể khảo cứu trong quá trình áp dụng pháp luật, cụ thể là trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán người. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo phục vụ quá trình, học tập và nghiên cứu trong giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về tội mua bán người. Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội mua bán người tại tỉnh Quảng Ninh. 5
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI 1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán người 1.1.1. Khái niệm tội mua bán người Mua bán người là hành vi xâm phạm trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự của con người, coi con người như hàng hóa để mua bán, trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng như trong pháp luật hình sự Việt Nam thuật ngữ “buôn bán người” không được sử dụng mà thay vào đó là thuật ngữ “mua bán người”. Theo Giáo trình Luật hình sự của Đại học Luật Hà Nội do nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2005 thì hành vi mua bán người được hiểu là: “Hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như tiền, ngoại tệ… để trao đổi, mua bán người như một thứ hàng hóa. Mua bán người theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là đối tượng mua bán là con người, việc mua đi bán lại, trao đổi được hiểu là coi nạn nhân như một món hàng hóa trao đổi lấy nhằm mục đích tư lợi ích vật chất khác. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 đưa ra khái niệm, theo đó: “Mua bán người là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt hay lạm dụng quyền lực hoặc hoàn cảnh dễ bị tổn thương, hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người để kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột bao gồm: việc bóc lột mại dâm người khác hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy đi các bộ phận cơ thể”. Pháp luật Việt Nam sử dụng thuật ngữ “Mua bán người” để mô tả hành vi này, theo 6
  13. đó Mua bán người là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi sau đây: - Bán người cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua. - Mua người để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào. - Dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán. - Mua người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; - Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán người nêu trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. Theo Điều 150 BLHS 2015 tội mua bán người có thể hiểu đó là việc đem người và nhóm người này sang một người hoặc một nhóm người khác để đổi lấy tiền, hàng hóa hoặc lợi ích vật chất khác. Đối tượng bị xâm hại : là con người từ đủ 16 tuổi trở lên, không phân biệt giới tính. Trường hợp đối tượng là người bị mua bán người dưới 16 tuổi, người phạm tội sẽ bị truy cứu TNHS về tội mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điều 151 BLHS năm 2015. Nếu như vậy, ý chí chủ quan của người bị mua bán ( người đó có đồng ý hay không về việc mình bị mua bán) không có ý nghĩa trong cấu thành tội mua bán người [23,tr.436]. Từ quy định tại Điều 150 BLHS 2015, để hướng dẫn áp dụng pháp luật được thống nhất trong việc xử lý tội mua bán người. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2019 ngày 11/01/2019. Hướng dẫn áp dụng áp dụng Điều 150 về tội mua bán người của BLHS năm 2015. Tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP đã đưa ra định nghĩa về “tội mua bán người” là : “Mua bán người là việc dùng vũ lực, đe 7
  14. dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thưc hiện một trong các hành vi sau đây: a) Chuyển giao người để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Tiếp nhận người để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; c) Chuyển giao người khác để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận trên cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; d) Tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận trên cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; đ) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao người theo hướng dẫn tại điểm a và điểm c của khoản này”. Tác giả đồng ý với định nghĩa trên vì đã bao quát tương đối đầy đủ các hành vi của tội mua bán người và phù hợp với các tình tiết định tội được quy định tại Điều 150 BLHS 2015 và khắc phục được những hạn chế, bất cập theo quy định tại Điều 119 BLHS 1999. Để hiểu rõ hơn về khái niệm của tội phạm này, cần phân tích những dấu hiệu pháp lý của tội này như sau. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người - Khách thể của tội mua bán người: khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên ( hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định [28,tr.142]. Qua những trường hợp đã được cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật hình sự ở phần các tội phạm của BLHS, có thể hiểu khách thể của tội mua bán người là xâm phạm đến quyền tự do thân thể, danh dự, nhân phẩm của con người được pháp luật bảo vệ. Phân tích quy định tại Điều 150 BLHS 2015 cho thấy tội mua bán người xâm hại nghiêm trọng đến các quyền cơ bản của con người, quyền được người khác tôn trọng về danh dự, nhân phẩm, tổn thương về sức khỏe và tinh thần, hơn hết là xâm phạm đến quyền tự do con người, có thể khẳng định đối tượng tác động của tội mua bán người là con người cụ thể. 8
  15. - Mặt khách quan của tội mua bán người là mặt bên ngoài của tội phạm. Bất kỳ một tội phạm nào mặt khách quan cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm có những dấu hiệu: về tính chất, hành vi thực hiện phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra là không lường trước được, hệ quả nguy hiểm cho xã hội có mối quan hệ nhân quả giữa, thời gian, địa điểm, phương tiện, phương thức và công cụ thực hiện tội phạm [28,tr.158]. Hành vi mua bán người thể hiện ở việc dùng tiền, tài sản, hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi mua bán người như một thứ hàng hóa. Khi việc mua bán xảy ra người bị mua bán có thể biết bị mua bán. Trong trường hợp biết mình bị mua bán thì người bị mua bán có thể đồng tình hoặc không đồng tình. Hành vi mua bán người xâm hại đến khách thể chung của tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS năm 2015 đó là xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế xã hội, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm đến những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật mà theo quy định của BLHS này thì phải bị xử lý hính sự. Hành vi mua bán người xâm hại khách thể loại đó là những quan hệ xã hội được ghi nhân tại chương XIV BLHS năm 2015, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó, tính nguy hiểm cao của hành vi mua bán người trước hết thể hiện ở chỗ, người phạm tội có ý thức coi con người như hàng hóa để trao đổi và mua bán. Trường hợp nạn nhân có thể biết hoặc không biết về việc mua bán này, thậm chí nạn nhân đồng ý để cho người khác mua bán thì người đó vẫn bị truy cứu TNHS về tội này.[23,tr.436]. Ý chí có đồng ý hay không của nạn nhân trong việc bị mua bán, vì vậy không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội này. Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối tượng bị xâm hại của tội mua bán người là từ đủ 16 tuổi trở 9
  16. lên, không phân biệt giới tính là đối tượng của tội mua bán người. Trường hợp đối tượng là người dưới 16 tuổi sẽ xét xử theo tội mua bán người dưới 16 mới quy định tại Điều 151 BLHS năm 2015 Điều 150 BLHS năm 2015 quy định về tội mua bán người “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt, hoăc bằng các thủ đoạn khác thực hiện các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, a) chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c ) tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a, điểm b khoản này. Tuy nhiên, do nhu cầu công việc các công ty đã “chuyển giao” các nhân viên giỏi của mình cho nhau thì không phải là phạm mua bán người. Việc con người có thỏa thuận mình trở thành “hàng hóa” để mua bán hay không như đã nhấn mạnh không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội mua bán người quy định tại Điều 150 BLHS năm 2015. Tội phạm mua bán người hoàn thành khi người đó thực hiện hành vi mua hoặc bán người diễn ra, nghĩa là từ khi thỏa thuận mua bán đã xong (về người đó, giá trị), không cần việc trao người - tiền được diễn ra trên thực tế[2,tr.170]. Hành vi phạm tội mua bán người được thực hiện bằng hình thức phương thức, thủ đoạn tinh vi, đa dạng, ngày càng phức tạp như: người phạm tội hình thành các hình thức đường dây, ổ nhóm, đồng phạm có tổ chức kết cấu chặt chẽ giữa các nhóm đối tượng trong và ngoài nước vì mục đích lợi dụng lòng tin lừa gạt nạn nhân ở địa phương, biến họ như một món hàng để mua bán trao đổi vì mục đích tư lợi. Lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của người dân tại các vùng sâu, vùng xa, nơi thiếu thông tin, hiểu biết xã hội còn hạn chế để phạm tội là một trong những 10
  17. thủ đoạn của tội mua bán người. Người phạm tội lợi dụng những người có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh nghèo, không có việc làm đã lấy lòng tin, tạo mỗi quan hệ thân thiết với nạn nhân, thậm chí là muốn đi tới hôn nhân để một thời gian sau chúng lừa nạn nhân đi du lịch rồi bán cho chủ chứa, tổ chức mua bán người ở bên kia biên giới. Tội mua bán người còn được thực hiện thông qua việc tuyển lao động làm việc tại nước ngoài và kể cả trong nước. Tuy nhiên, vì ít được tiếp cận với thông tin và trình độ học vấn hạn chế nhưng mong muốn có công việc nhàn hạ mà kiếm được thu nhập cao ở nước ngoài nên đã khiến nhiều người lao động trở thành nạn nhân của các công ty lừa đảo, xuất nhập khẩu lao động. Một số công ty xuất nhập khẩu lao động Việt Nam áp dụng mức phí cao hơn mức phí mà luật pháp quy định, đôi khi người lao động phải trả cho công ty mức phí lên đến 10.000USD để sang nước ngoài làm việc. Vì vậy, người lao động họ phải gánh trên mình những khoản để được làm việc tại nước ngoài, khiến họ dễ rơi vào tình trạng lao động làm công để trừ nợ và bị cưỡng bức lao động. Khi sang đến nước ngoài, người lao động đã bị bắt buộc phải làm những công việc trong điều kiện khắc nghiệt, họ làm việc quá số giờ quy định (thậm chí là làm thêm giờ) một ngày nhưng được trả một mức lương rất ít hoặc thậm trí không được trả lương và không được tiếp cận với thông tin đại chúng và nạn nhân cũng không được trợ giúp pháp lý đáng tin cậy nào. Lợi dụng sự phát triển của internet, điện thoại di động như facebook, zalo chúng đã liên kết với các tổ chức và thiết lập các đường dây phạm tội, lợi dụng sơ hở trong quy định của pháp luật, nhất là trong tư vấn môi giới hôn nhân với người nước ngoài, cho nhận con nuôi, tham quan du lịch, thăm thân, đi hợp tác lao động, xuất nhập cảnh cũng là thủ đoạn mà người phạm tội mua bán người sử dụng để lừa gạt đưa nạn nhân ra nước ngoài để thực hiện hành vi phạm tội mua bán người. 11
  18. Tội mua bán người là tội cấu thành hình thức. Bởi vậy tội phạm hoàn thành ngay khi người phạm tội thực hiện một trong những hành vi liệt kê tại khoản 1 Điều 150 BLHS năm 2015. Tất nhiên, khi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực thì tỷ lệ tổn thương cơ thể phải dưới 31% trong trường hợp tỷ lệ phần tram tổn thương cơ thể trên 31% trở lên sẽ cấu thành tội phạm tang nặng tương ứng của tội mua bán người. -Chủ thể của tội mua bán người: theo quy định của luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân có thể là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bằng lỗi cố ý hoặc vô ý. Đối với tội mua bán người chủ thể là cá nhân, người đó phải năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của luật hình sự. Cơ sở pháp lý để xác định chủ thể của tội mua bán người là Điều 12, Điều 21 và Điều 150 BLHS năm 2015. Tại Điều 12 BLHS 2015 nhà làm luật quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: 1 “người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về tội mua bán người”; 2 “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trong theo quy định tại Điều luật này. Tại Điều 21 BLHS 2015 quy định về tình trạng không có năng lực TNHS. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Thông qua cụm từ “người nào” cho thấy chủ thể thực hiện hành vi phạm tội mua bán người không phải là chủ thể đặc biệt, có ý nghĩa là bất cứ người nào có năng lực TNHS đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Vì vậy, chủ thể tội mua bán người phải là người có năng lực nhận thức về hành vi, khả năng điều khiển hành vi đó, không thuộc trường hợp mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Như vậy, theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, chủ thể của tội mua bán người là có nhân, có năng lực trách nhiệm hình sự đủ 16 tuổi trở lên. 12
  19. So với quy định 1999, quy định của BLHS năm 2015 mang tính nghiêm khắc hơn (trong mối liên hệ tội mua bán người). - Mặt chủ quan của tội mua bán người là lỗi ( trực tiếp hoặc là gián tiếp) mặt chủ quan là mặt bên trong của tội phạm, thể hiện thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi, nhận thức rõ hành vi của mình gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả đó xảy ra [28,tr.197]. Hoạt động có ý thức của con người, bao giờ cũng là hoạt động thống nhất bên trong và bên ngoài. Hai mặt chủ quan của hoạt động luôn thống nhất với nhau. Mặt bên trong của tội phạm mua bán người không thể thấy được nếu nó không thể hiện ra bên ngoài bằng các dấu hiệu, tính chất, thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, bằng hậu quả tác hại, bằng phương pháp thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phương thức thực hiện tội phạm. Mặt chủ quan bên trong của tội phạm mua bán người là diễn biến tâm lý của tội phạm nên diễn biến này gồm các dấu hiệu : lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm [28,tr.198]. Như vậy mặt chủ quan của tội phạm bao gồm : lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, trong đó, lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi cấu thành tội phạm vì tội phạm nào cũng được thực hiện bởi lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Lỗi là thái độ diễn biến tâm lý của con người đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả tác hại do hành vi đó gây ra cho xã hội được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. [28,tr.199]. Mặt chủ quan của tội mua bán người là lỗi cố ý thực hiện hành vi phạm tội ( có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp). Bởi tội mua bán người có cấu thành hình thức phức tạp nên vấn đề thấy trước hay không thấy trước hậu quả không được đặt ra. Lỗi cố ý trực tiếp là khi thực hiện hành vi người phạm tội mua bán hoặc trao đổi người, nhận thức rõ việc của mình là mua bán hoặc trao đổi người nhưng vẫn mong muốn thực hiện, mong muốn việc mua bán, trao đổi 13
  20. diễn ra. Lỗi cố ý gián tiếp là khi thực hiện hành vi người phạm tội mua bán hoặc trao đổi người, nhận thức rõ việc làm của mình là mua bán hoặc trao đổi người và để mặc nó diễn ra. Trên thực tế, người phạm tội mua bán người không chỉ được lợi từ khoản tiền thu được về từ việc mua bán người mà còn hưởng lợi từ việc bắt nạn nhân bán dâm, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể của nạn nhân. Tuy nhiên, theo Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, thì mục đích bóc lột, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội mua bán người. 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người 1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 Trong Nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây, một số văn bản pháp luật quy định có những chế tài hình sự đối với hành vi mua bán người. Chẳng hạn theo Bộ luật Hồng Đức thì người thực hiện hành vi bán người ít tuổi từ hàng cơ thân trở xuống thì có thể bị tội Giảo (thắt cổ) và nếu có thêm hành vi cướp của hoặc đồ vật của người khác thì có thể bị chém đầu (Điều 43, Quyển IV), đối với hành vi bắt người trái phép đem bán làm nô tì cho người nước ngoài cũng bị tội chém. Như vậy, tội mua bán người trong Bộ luật Hồng Đức được như là tội rất nghiêm trọng và hình phạt cao nhất người phạm tội phải chịu là chém bêu đầu (chỉ thấp hơn bậc lăng trì). Trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức được coi là văn bản đầu tiên của nước ta quy định về tội mua bán người. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, do bị chiến tranh tàn phá nên điều kiện kinh tế vô cùng khó khăn và tình hình tội phạm nói chung diễn biến với nhiều hành vi phạm tội mới tinh vi xuất hiện, ngày càng phức tạp, trong đó có hành vi mua bán 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2