intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội trộm cắp tài sản trong Luật Hình sự Việt nam (Trên cơ sở những số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

69
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội Trộm cắp tài sản đề xuất những giải pháp mang tính đồng bộ, hệ thống về công tác phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Hòa Bình nói riêng cho phù hợp với sự phát triển của giai đoạn hiện nay nâng cao tính khả thi trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội trộm cắp tài sản trong Luật Hình sự Việt nam (Trên cơ sở những số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HỒNG TéI TRéM C¾P TµI S¶N TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së nh÷ng sè liÖu ë ®Þa bµn tØnh Hoµ B×nh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HỒNG TéI TRéM C¾P TµI S¶N TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së nh÷ng sè liÖu ë ®Þa bµn tØnh Hoµ B×nh) Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Lê Thị Hồng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUY ĐỊNH VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ ................................................................. 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm tội trộm cắp tài sản .................................... 7 1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản ............................................................. 7 1.1.2. Những đặc điểm của tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu ........................................................................................ 10 1.2. Sơ lược lịch sử quá trình hình thành qui định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt nam ...................................... 11 1.2.1. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam trước năm 1945 ............................................................................................ 11 1.2.2. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ...................................................................................... 16 1.3. Quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản .............. 24 1.3.1. Các dấu hiệu pháp lý về của tội trộm cắp tài sản ............................... 24 1.3.2. Chế tài hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ....................................... 48 Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP .................................................................. 58
  5. 2.1. Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình từ 2010 đến 2014 ...................................................................... 58 2.1.1. Kết quả đạt được và những vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản ............................................... 58 2.1.2. Nguyên nhân của những vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản ........................................................ 74 2.2. Những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản tại tỉnh Hòa Bình............................. 78 2.2.1. Quan điểm cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý tình hình tội phạm nói chung, trong đó có tội trộm cắp tài sản ......... 78 2.2.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ......................... 80 2.2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội trộm cắp tài sản .......................... 84 2.2.4. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân về các tội xâm phạm sở hữu trong pháp luật hình sự Việt Nam..................... 90 KẾT LUẬN .................................................................................................... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLGL: Bộ luật Gia Long BLHĐ: Bộ luật Hồng Đức BLHS: Bộ luật hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm CHLB: Cộng hòa liên bang CHND: Cộng hòa nhân dân HLCC: Hình luật canh cải HVLL: Hoàng Việt Luật Lệ TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, xét xử về tội trộm cắp tài sản tại tỉnh Hòa Bình từ năm 2010 đến 2014 58 Bảng 2.2: Số liệu vụ án về tội trộm cắp tài sản và số liệu các vụ án hình sự được đưa ra xét xử tại tỉnh Hòa Bình 60 Bảng 2.3: Tổng số vụ án, số bị cáo do bị xét xử về tội trộm cắp tài sản trong tương quan với các tội xâm phạm sở hữu trong 05 năm (2010 -2014) trên địa bàn tỉnh Hòa Bình 61
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống nhân dân nâng cao, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có tiến bộ đáng khích lệ, vị thế nhà nước Việt Nam trên thế giới tăng lên. Có thể thấy, mọi chủ chương chính sách, đường lối của Đảng đều nhằm mục tiêu: “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đảm bảo thực hiện chủ chương đó trên thực tế nhà nước ta đã củng cố và triển khai tất cả những chính sách nhằm bảo vệ con người về mọi mặt: tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại đã và đang len lỏi trong đời sống xã hội, làm giảm giá trị cuộc sống lẽ ra có thể tốt đẹp hơn thế. Đó chính là tình hình tội trộm cắp tài sản đang diễn biến phức tạp và gây không ít bức xúc trong xã hội. Tội trộm cắp tài sản là một loại tội có tính phổ biến cao, luôn chiếm tỷ lệ lớn trong các tội phạm nói chung và tội phạm sở hữu nói riêng. Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã kế thừa các nội dung hợp lý trong các đạo luật hình sự trước đây, tạo cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử tại Tòa án vẫn còn hiện tượng định tội danh sai dù trong nhóm tội xâm phạm sở hữu, giữa tội trộm cắp tài sản với tội phạm khác có sự khác biệt căn bản về dấu hiệu pháp lý. Về phương diện lý luận xung quanh khái niệm, dấu hiệu pháp lý, giải pháp đấu tranh phòng chống còn nhiều ý kiến khác nhau đòi hỏi phải có sự nghiên cứu có hệ thống, sâu sắc vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài 1
  9. sản, làm sáng tỏ dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản và các tội xâm phạm sở hữu khác, tìm ra đặc trưng cơ bản, tránh hiện tượng định tội danh sai, đồng thời xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ để đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản có hiệu quả. Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng phía Nam Bắc Bộ, phía bắc giáp với tỉnh Phú Thọ; phía nam giáp với các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình; phía đông và đông bắc giáp với thủ đô Hà Nội; phía tây, tây bắc, tây nam giáp với các tỉnh Sơn La, Thanh Hóa. Hòa Bình gồm 1 thành phố loại 2 và 10 huyện tổng cộng 214 phường, xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.662.5 km². Theo kết quả chính thức điều tra dân số ngày 01/04/2009 dân số tỉnh Hòa Bình chỉ có 786.964 người, có 6 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Mường chiếm 63,3%; người Việt (Kinh) chiếm 27,73%; người Thái chiếm 3,9%; người Dao chiếm 1,7%; người Tày chiếm 2,7%; người Mông chiếm 0,52%; ngoài ra còn có người Hoa sống rải rác ở các địa phương trong tỉnh. Trong những năm qua Hòa Bình đã phát huy lợi thế của mình đã và đang nỗ lực phấn đấu nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế; ngăn chặn lạm phát trở lại; bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; các mặt văn hóa, y tế, giáo dục được chăm lo, đời sống của nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị - xã hội ổn định. Trên thực tế, kinh tế của tỉnh tiếp tục có bước phát triển, đạt được tốc độ tăng trưởng hợp lý, bảo đảm được yêu cầu cơ bản về an sinh xã hội, quốc phòng an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, Hòa Bình vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức như cơ cấu kinh tế chuyển biến chậm, lạm phát, giá cả leo thang, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu. Mặt khác sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, tình trạng thất nghiệp còn ở mức cao, tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng chưa được kiểm soát. Các tệ nạn xã hội 2
  10. và tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp nhất là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và các tội xâm phạm sở hữu, trong đó nổi cộm lên là tội trộm cắp tài sản. Những năm gần đây tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có diễn biến phức tạp với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng. Trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện những nhóm tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, có sự phân công chặt chẽ giữa các đối tượng tham gia từ khâu thực hiện tội phạm đến tiêu thụ sản phẩm. Độ tuổi của người phạm tội ngày càng trẻ hóa, trong đó không ít người có lối sống buông thả, mắc các tệ nạn xã hội. Nhiều đối tượng từ các địa phương khác lợi dụng vị trí địa lý và đặc điểm địa lý của Hòa Bình đã chọn Hòa Bình là nơi để ẩn náu, gây án, tiêu thụ tài sản phạm tội… làm ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Nhận thấy việc nghiên cứu về tội Trộm cắp tài sản trên cơ sở số liệu ở địa bàn tỉnh Hòa Bình mang tính cấp thiết không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nâng cao chất lượng cuộc sống của một địa bàn còn nhiều khó khăn đó là lý do tác giả chọn đề tài: “Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt nam (Trên cơ sở những số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình)” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Mục đích của việc nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội Trộm cắp tài sản đề xuất những giải pháp mang tính đồng bộ, hệ thống về công tác phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Hòa Bình nói riêng cho phù hợp với sự phát triển của giai đoạn hiện nay nâng cao tính khả thi trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. 3
  11. 3. Tình hình nghiên cứu Xuất phát từ thực trạng về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước cho đến nay đã có không ít những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài, có thể kể đến“Giáo trình luật hình sự Việt Nam: phần các tội phạm” trường Đại học Quốc gia Hà nội do TSKH- PGS Lê Văn Cảm chủ biên; “Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam”. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 1991 của GS-TS Nguyễn Ngọc Hòa; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm”. NXB thành phố Hồ Chí Minh. 2001-2002 của Ths Đinh Văn Quế. Luận án tiến sỹ luật học: “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội này ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hùng năm 2007; “Điều tra tội phạm trộm cắp phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ở Việt Nam” của tác giả Lê Văn Kiến năm 2008; “Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại địa bàn công cộng tại thành phố, thị xã” của tác giả Đinh Anh Tuấn năm 2009; “Sử dụng biện pháp vận động quần chúng của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong giai đoạn điều tra ban đầu các vụ trộm cắp tài sản” của tác giả Lê Quốc Trân năm 2010. Các luận văn thạc sỹ có: “Đấu tranh phòng ngừa và chống tội trộm cắp tài sản trong quân đội” năm 2000 của tác giả Nguyễn Gia Hoàn; “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương” năm 2001 của tác giả Nguyễn Công Thập; “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Thân Như Thành năm 2005 Đại học Luật Hà Nội; “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền năm 2007; “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” năm 2007 của tác giả Đinh Thị Lan Phương; Ngoài ra còn một số bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí, 4
  12. sách, báo khoa học đề cập tới tội trộm cắp tài sản như: “Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về “tội trộm cắp tài sản” của tác giả Mai Bộ trên tạp chí TAND số 9 năm 2005; “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của “tội trộm cắp tài sản” khi định tội danh” của tác giả Trần Mạnh Hà trên tạp chí TAND số 10 năm 2006; “Lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn thông trái phép để thu tiền cước điện thoại đã có dấu hiệu phạm tội” trộm cắp tài sản” của tác giả Lê Văn Luật trên tạp chí TAND số 21 năm 2004. Các công trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được về nội dung, tình hình và thực trạng của tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, từ đó rút ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm tương ứng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thể, có hệ thống về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt nam trên cơ sở số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội trộm cắp tài sản. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội trộm cắp tài sản (trên cơ sở số liệu ở địa bàn tỉnh Hòa Bình). 5. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội trộm cắp tài sản; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan có liên quan về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, logic, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội... 5
  13. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tội trộm cắp tài sản; phân tích, đánh giá những quy định về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn; đánh giá đúng thực trạng tình hình của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó; Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình nói chung và địa bàn cả nước nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung và quá trình hình thành quy định về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự. Chương 2: Thực tiễn điều tra, xử lý tội trộm cắp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình và những kiến nghị, giải pháp. 6
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUY ĐỊNH VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất phổ biến trong xã hội. Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm này có hiệu quả cần có nhận thức chính xác bản chất của loại tội này, làm sáng tỏ khái niệm, dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm. Đã tồn tại hai khuynh hướng khi qui định về về tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa nhận nó. Khuynh hướng thứ hai có qui phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Hai khuynh hướng trên thể hiện rõ trong bộ luật Phong kiến Việt Nam trước đây. Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long tuy có qui định nhiều về tội trộm cắp cụ thể nhưng không có qui phạm định nghĩa về tội này. Ngược lại, Hình Luật Canh Cải (HLCC) và Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL) lại có qui định về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Ví dụ Điều 381 HLCC qui định: "Người nào dùng sự gian mà lấy đồ (vật) của người ta, thì phạm tội ăn trộm" [22, tr. 141-149]. Khái niệm này đã xác định được ba đặc điểm của loại tội trộm cắp tài sản đó là: Hành vi phạm tội là hành vi lấy tài sản; việc lấy tài sản là trái pháp luật; đối tượng của hành vi là tài sản của người khác. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không đầy đủ, chưa thể hiện lỗi của người phạm tội, tính chất hành vi lấy tài sản và đặc biệt là không thể hiện rõ ràng sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thuật ngữ "dùng sự gian" dễ làm người đọc hiểu lầm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Các văn bản pháp luật hình sự của nhà 7
  15. nước ta sau Cách mạng Tháng 8 lại thể hiện khuynh hướng thứ nhất, không có qui phạm định nghĩa về tội trộm cắp tài sản, chỉ qui định tội danh một cách đơn giản. Cách qui định này thể hiện rõ trong các Điều 132, 155 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985 và Điều 138 BLHS năm 1999. Trên thế giới qui định về tội trộm cắp tài sản cũng có hai khuynh hướng trên. Các nước như Liên bang Nga, CHLB Đức, Nhật Bản, Malaixia, CHDCND Lào... thuộc khuynh hướng đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản. Rất ít nước như CHND Trung Hoa không có qui định về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Điều 158 BLHS Liên bang Nga năm 1986 qui đinh: "Trộm cắp là (hành vi) bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác" [5, tr.32]. Dựa trên cơ sở khái niệm này có thể xác định dấu hiệu cơ bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản; sự chiếm đoạt tài sản được thể hiện một cách bí mật; tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác. Điều 142 BLHS của CHLB Đức được ban hành năm 1871 và được sửa đổi bổ sung nhiều lần phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đưa ra khái niệm của tội trộm cắp tài sản: Người nào lấy đi vật là động sản của người khác, với mục đích chiếm đoạt vật này, thì bị phạt tù đến năm năm hoặc phạt tiền". Khái niệm này cho thấy đối tượng của tội trộm cắp tài sản phải là động sản, bất động sản không thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. BLHS của Malaixia đưa ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản tại Điều 378 như sau: "Người nào nhằm mục đích chiếm đoạt động sản của người khác mà lấy đi tài sản đó thì bị xử là phạm tội trộm cắp [5, tr.91]. Điều 253 BLHS Nhật Bản ban hành năm 1907 đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần cũng qui định: "Người nào lấy cắp tài sản của người khác thì bị phạt tù đến 10 năm". Như vậy, bộ luật chỉ xác định đối tượng tác động của tội 8
  16. trộm cắp tài sản là tài sản của người khác, không mô tả thêm bất kỳ dấu hiệu pháp lý nào khác của tội phạm. Bộ luật hình sự CHND Trung Hoa không có qui phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản, chỉ nêu tên tội danh, Điều 264 BLHS CHND Trung Hoa qui định: "Người nào trộm cắp tài sản, tiền bạc công hoặc tư, thì bị phạt đến ba năm tù". Từ những dẫn chứng trên ta thấy rõ một số nét tương đồng cơ bản trong pháp luật hình sự ở một số nước. Sự khác biệt xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội, truyền thống lập pháp hình sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của từng nước. Giáo trình trường Đại học luật Hà Nội đưa ra định nghĩa về tội trộm cắp tài sản: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ” [67, tr.383]; Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2- Đinh Văn Quế “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác” [44, tr.196]. Khái niệm đã miêu tả dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm, hành vi phạm tội là hành vi chiếm đoạt, việc chiếm đoạt được thực hiện lén lút, tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc sở hữu của chủ sở hữu. Tuy nhiên, khái niệm trên không thể hiện rõ một số dấu hiệu pháp lý khác của tội trộm cắp tài sản như dấu hiệu về lỗi, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể tội phạm. Để đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản, trước hết cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà theo TSKH.PGS Lê Cảm là phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là: a) bình diện khách quan- tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý- tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan- tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [11, tr.105]. Tổng kết các quan điểm trên ta có thể đưa ra một khái niệm về tội trộm cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản 9
  17. thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Khái niệm về tội trộm cắp tài sản nói trên đã xác định rõ hành vi phạm tội của tội trộm cắp tài sản là hành vi lấy tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, hình thức chiếm đoạt của người phạm tội là lén lút- đây là dấu hiệu để phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác, các tội xâm phạm sở hữu khác có hành vi chiếm đoạt, nhưng sự chiếm đoạt xảy ra công khai như tội cướp tài sản; tội cưỡng đoạt tài sản... hoặc chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khái niệm trên còn thể hiện rõ người phạm tội phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Những hành vi lấy tài sản của người khác khi chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc ở tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thì không phải là tội phạm. Khái niệm này còn chỉ rõ người phạm tội trộm cắp tài sản phải có lỗi cố ý khi thực hiện tội phạm, cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác để thỏa mãn nhu cầu của mình khác với các tội xâm phạm quyền sở hữu với lỗi vô ý. 1.1.2. Những đặc điểm của tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu Về mặt lý luận, tội trộm cắp tài sản là một loại tội phạm có dấu hiệu hành vi khách quan khá đơn giản: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên, trong thực tiễn hành vi trộm cắp tài sản mà cụ thể ở đây là hành vi "lén lút" được diễn ra rất đa dạng, biến hóa gây nhiều tranh cãi trong vấn đề định tội danh giữa các nhà áp dụng luật. Do đó cần phải phân tích và làm rõ những dấu hiệu nổi bật của tội Trộm cắp tài sản để khi nhìn vào chúng ta có thể biết ngay đó là tội trộm cắp tài sản. Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không hề biết mình sẽ bị mất tài sản, chỉ sau đó họ mới biết mình bị mất tài sản. 10
  18. Theo Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng - NXB Văn hóa thông tin - 2004, giải nghĩa từ “lén lút” là hành vi: cố giấu diếm, vụng trộm không để lộ ra do có ý gian. Trong tội trộm cắp tài sản, hành vi “lén lút” chiếm đoạt tài sản phải có đầy đủ những dấu hiệu này, thiếu một trong những dấu hiệu đó sẽ không thể hiện được bản chất của sự "lén lút". Nói cách khác, "lén lút" là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng trộm, giấu diếm không để lộ cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của họ. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội dấu diếm hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên lén lút không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản bởi trong nhiều tội phạm khác cũng có dấu hiệu lén lút nhưng là để thực hiện một mục đích khác như: Lẻn vào nhà thực hiện hành vi hiếp dâm; lẻn vào nhà giết người...vì vậy lén lút mà không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản thì không phải trộm cắp tài sản. Có thể nói trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài sản bằng hành vi lén lút. 1.2. Sơ lược lịch sử quá trình hình thành qui định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt nam Để giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và toàn diện về quan niệm của nhà lập pháp trong chế độ xã hội khác nhau về tội phạm và hình phạt, từ đó nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về bản chất, dấu hiệu pháp lý đặc thù của tội phạm và chính sách hình sự của nhà nước đối với người phạm tội trộm cắp tài sản sau đây chúng ta lần lượt nghiên cứu các qui định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong lịch sử. Đây là bài học rất có ích trong cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trong xã hội chúng ta ngày nay. 1.2.1. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam trước năm 1945 Tư liệu lịch sử còn lại ghi nhận, trước Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ), 11
  19. trong xã hội Phong Kiến Việt Nam đã có văn bản pháp luật hình sự nhất định có từ đời nhà Lý (Thế kỷ thứ XI), đó là Bộ luật Hình Thư ra đời vào khoảng tháng 10 năm 1042 đời Lý Thái Tông. Tiếc rằng văn bản pháp luật này đã bị thất truyền do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngày nay ta hầu như không thể tìm hiểu về nội dung của chúng. BLHĐ (còn gọi là Quốc Triều Hình Luật) là một bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê. Tội trộm cắp tài sản được qui định tại chương "Đạo tặc" thuộc quyển 4, gồm 54 Điều, từ Điều 411 đến Điều 464, trong đó có 29 Điều qui định về tội trộm cắp tài sản. Nghiên cứu các qui định về tội trộm cắp tài sản trong BLHĐ cho thấy: Thứ nhất, BLHĐ có một qui định khái quát về tội trộm cắp tài sản tại Điều 429: "Kẻ ăn trộm mới phạm lần đầu thì phải lưu châu xa. Kẻ trộm đã có tiếng và kẻ trộm tái phạm, thì phải tội chém. Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đó". BLHĐ đã có sự phân biệt giữa hành vi "ăn trộm" và " ăn cắp". Ăn trộm là hành vi lấy tài sản vào ban đêm còn ăn cắp là hành vi lấy tài sản vào ban ngày. Hình phạt cho hai trường hợp này là khác nhau. Thứ hai, ngoài qui định về tội trộm cắp tài sản, BLHĐ còn qui định các tội trộm cắp tài sản cụ thể theo đối tượng tác động của tội phạm, chủ thể của tội phạm, nhân thân người phạm tội và hoàn cảnh phạm tội như: Tội "lấy trộm ấn của vua và những đồ ngự dụng, xe kiệu của vua" (Điều 430); Tội "ăn trộm những đồ thờ trong lăng miếu" (Điều 431); Tội "ăn trộm những đồ cúng thần, phật trong các đền chùa" (Điều 432); Tội "Ăn trộm những đồ trong cung" (Điều 344)... Trong các qui định về tội trộm cắp tài sản kể trên, tội "đầy tớ ăn trộm của chủ" hoặc tội "những quân túc vệ và người hầu hạ mà ăn trộm của nhau trong cung điện" sẽ bị xử nặng hơn tội trộm cắp tài sản thông thường. Những trường hợp trộm cắp giữa những người thân thuộc, con cháu lấy tài sản của bậc trưởng tộc thì được xử nhẹ. Trường hợp đầy tớ lấy tài sản của chủ nếu là đầy tớ gái thì được giảm tội. 12
  20. Thứ ba, các nhà lập pháp Phong kiến quan niệm, tội trộm cắp tài sản là hành vi lấy tài sản của người khác. Do có quan niệm như vậy nên trong BLHĐ không có sự phân biệt rõ rệt giữa tội trộm cắp tài sản với tội tham ô tài sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi tham ô, cướp, cưỡng đoạt, cướp giật hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp nhất định được coi là tội trộm cắp tài sản. Ví dụ qui định: Đạo sĩ, nữ quan (đàn ông, đàn bà chuyên theo đạo), sư ni (sư tăng, ni cô) lấy tượng thần, tượng Phật trong đền chùa nơi họ cúng lễ thì bị xử về tội trộm cắp tài sản (Điều 433); Quan giám lâm (người trông coi việc xét án, khám nghiệm), người coi kho lấy tài sản trong kho cũng được coi là tội trộm cắp tài sản. Thứ tư, hình phạt không chỉ được áp dụng với cá nhân người phạm tội trộm cắp tài sản mà còn có thể được áp dụng với người thân thích trong gia đình như qui định tại Điều 457: Các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha mẹ bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha mẹ bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội và đều phải bồi thường thay con những tang vật ăn trộm, ăn cướp. Nếu con đã ra ở riêng, thì cha bị xử tội phạt hay biếm; cha đã báo quan thì không phải tội; nhưng đã báo quan rồi mà còn để con ở nhà thì xử như chưa báo. Trong thời kỳ phong kiến, ngoài BLHĐ, Bộ luật Gia Long (BLGL) cũng qui định về tội trộm cắp tài sản. BLGL được ban hành năm 1985 với 398 Điều [39, tr.110- 118], [61, tr.174] nghiên cứu BLGL về tội trộm cắp tài sản ta thấy: Thứ nhất, Qui định về tội trộm cắp tài sản trong BLGL đã kế thừa BLHĐ. BLGL qui định về tội trộm cắp tài sản tập trung tại chương "Đạo tặc" với 28 Điều, Điều 238 trong BLGL cũng qui định chung về tội trộm cắp tài sản. Ngoài 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2