intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, qua thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

32
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở lý luận về vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013. Đề xuất trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng ADPL về xét xử các vụ án hình sự của TAND.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, qua thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ************* TRẦN THỊ THU HÀ VAI TRÒ CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN, QUA THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2015 1
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................... 4 Chƣơng 1 ................................................................................................................ 8 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ................................... 8 XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN .......................................................................................................... 9 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT................................... 9 1.1.1. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật ......... 9 1.1.2. Đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật ..................................................... 14 1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân ........................................................................................................... 20 1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ................................................................................................................ 20 1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. ............................................................................................................... 22 1.3. Các giai đoạn áp dụng pháp luật về xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân ......................................................................................................................... 34 1.3.1. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ..................................... 35 1.3.2. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm ................................. 42 1.3.3. Áp dụng pháp luật của tòa án trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự ................................................................................................... 46 1.4. Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam ............................. 50 1.4.1. Nhận thức chung về nhà nước pháp quyền ................................................. 50 1.4.2. Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam .................... 52 Chƣơng 2 ................................................................. Error! Bookmark not defined. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN .......................... 62 HÌNH SỰ QUA THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ....... 62 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Hải Phòng ....................... 62 2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng .......................... 64 2.3. Kết quả áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng ...................................................................................... 67 2.4. Đánh giá về ưu điểm trong áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng ........................................................... 74 2.5. Đánh giá về những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng ..................................................................................................................... 77 2
  3. 2.6. Về những bất cập từ các quy định pháp luật và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về xét xử hình sự ở các tòa án nhân dân thành phố Hải phòng77 Chƣơng 3 .............................................................................................................. 86 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM .............................................. 86 3.1. Quan điểm về đảm bảo vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người .................................................................................................... 86 3.1.1. Bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,bảo vệ các quyền con người, quyền công dân ..................................................................................................... 87 3.1.2. Bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phòng chống oan sai trong áp dụng pháp luật của tòa àn về xét xử các vụ án hình sự ..................... 89 3.1.3. Đảm bảo tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự, tính công minh, dân chủ của phiên toà hình sự, tạo lập niềm tin của người dân vào công lý, tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự ...................................................................... 90 3.1.4. Đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc xét xử hình sự trong áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án ................................................................. 92 3.1.5. Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự nhằm tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quyền giám sát của nhân dân, của các tổ chức chính trị, xã hội ..................................................................................................... 93 3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật về xét xử hình sự của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta ...................................................................................... 94 3.2.1. Khái quát chung về các nhóm giải pháp cơ bản ......................................... 95 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự ............................................. 96 3.2.3. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự ....................................................... 102 3.2.4. Giải pháp về công tác cán bộ .................................................................... 104 3.2.5. Tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật ....... 108 3.2.6. Tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án .................................................................... 109 3.2.7.Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo, trách nhiêm của các tổ chức Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự của tòa án 109 KẾT LUẬN LUẬN VĂN ........................................................................................ 111 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 112 3
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án phải tuân thủ đúng các nguyên tắc cơ bản của xét xử hình sự, các nguyên tắc hiến định đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của ngành Tòa án, củng cố lòng tin của nhân dân là trách nhiệm, là thông điệp của ngành tòa án mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định, việc đánh giá hoạt động của ngành tòa án không có ai bằng dân, đó là bài phátt biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong buổi làm việc với lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về kết quả công tác tòa án năm 2014. Chủ tịch nước đã nêu yêu cầu ngành tòa án cần rút kinh nghiệm, kịp thời khắc phục những tồn tại, nhất là việc án hủy sửa còn diễn ra, tránh tình trạng oan sai, lọt tội phạm để nâng cao chất lượng hoạt động của tòa án[1]. Đặc biệt là đảm bảo thực hiện các nguyên tắc hiến định theo Hiến pháp năm 2013 nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp. Áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự đúng pháp luật để tạo lập niềm tin của người dân vào công lý, bảo vệ, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con người về tài sản, danh dự, nhân phẩm, tính mạng. 4
  5. Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém trong áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Qua các vụ án oan, sai một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như sự bất cập, lạc hậu, mâu thuẫn trong nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự. Để góp phần nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự, trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, qua thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng ” để làm luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu đề tài vai trò tòa án, về áp dụng pháp luật trong dân sự, hôn nhân, gia đình, về xây dựng đội ngũ thẩm phán về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói riêng. Có thể điểm qua một số công trình khoa học sau đây. Luận văn cao học của tác giả Phan Huyền Ly về đề tài Vai trò của tòa án trong nhà nước pháp quyền", bảo vệ tại Khoa Luật , ĐHQH HN năm 2012; Luận văn cao học về đề tài " Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân qua thực tiễn của tòa án nhân dân tối cao", của tác giả Nguyễn Thị Hồng Minh, đã bảo vệ tại Khoa Luật , ĐHQH HN năm 2014, Luận văn cao học về đề tài " Xây dựng ý thức pháp luật của thẩm phán trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay" của tác giả Trần thị Thanh Bình, bảo vệ năm 2014. Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Thân: “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, năm 2004. Luận án tiến sĩ của tác giả: Chu Thị Trang Vân “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt 5
  6. Nam”, năm 2009. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Đức Hiệp “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Toà án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình” năm 2004. Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim Chung “Vi phạm pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” năm 2005. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Tiến “Tranh tụng tại phiên Tòa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2005. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Văn Kiểm: “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Nam Định”, năm 2010. Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài “Bàn về áp dụng pháp luật trong công tác xét xử”, Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 5/2005. Bài viết của tác giả Chu Thi Trang Vân : “Vai trò sáng tạo của Toà án trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự”, Tạp chí Lập pháp số 27 tháng 9/2007. Tác giả Nguyễn Ngọc Chí, “ Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009; tác giả Đinh Văn Quế, bài viết “Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” Đây là những công trình có chất lượng cao, là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo cho việc thực hiện luận văn. Đồng thời tác giả còn nghiên cứu các báo cáo thực tiễn của tòa án TP Hải phòng, các bài viết, bài phát biểu của các lãnh đạo Đảng, nhà nước gần đây về cải cách tư pháp, về thi hành Hiến pháp năm 2013. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. 3.1. Mục đích. Nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở lý luận về vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013. Đề xuất 6
  7. trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng ADPL về xét xử các vụ án hình sự của TAND. 3.2. Nhiệm vụ. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự: - Nghiên cứu đặc điểm, các giai đoạn của dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự - Nghiên cứu vai trò của dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án - Nghiên cứu thực trạng dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân TP Hải phòng những năm gần đây - Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường vai trò, đảm bảo chất lượng dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò áp dụng về xét xử các vụ án hình sự của tòa án 4.2. Phạm vi nghiên cứu. Tác giả giới hạn phạm vi luận văn cho phù hợp với chuyên ngành lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá tổng quan về thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự mà không đi sâu vào nghiên cứu cụ thể việc áp dụng pháp luật đối với các loại tội phạm cụ thể. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 7
  8. Luận văn được tiếp cận trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lenin, các quan điểm cảu Đảng ta về nhà nước pháp quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của khoa học pháp lý. Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học. 6. Kết cấu luận văn Bao gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước ở nước ta hiện nay Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự, qua thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hải phòng Chương 3. Quan điểm, giải pháp cơ bản đảm bảo vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ 8
  9. XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT 1.1.1. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật Trước khi nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự, và vai trò của hoạt động này, để có cái nhìn toàn diện về cơ sở lý luận, cần thiết phải tìm hiểu áp dụng pháp luật nói chung trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Áp dụng pháp luật là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật theo lý luận nhà nước và pháp luật. Tuy có những đặc trưng riêng song áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự cũng có những đặc điểm chung như các hình thức áp dụng pháp luật khác. - Khái niệm và vai trò của thực hiện pháp luật Pháp luật chỉ có ý nghĩa thực sự khi được thực hiện trong cuộc sống, tức là tính hiện thực của các quy phạm, các nguyên tắc của pháp luật. Thực hiện pháp luật hiện nay đang có nhiều hạn chế, bất cập trong đó có áp dụng pháp luật hình sự. Nếu các quy định pháp luật không được thực hiện cũng như pháp luật xa rời thực tế cuộc sống thì sẽ giảm hoặc mất ý nghĩa, giá trị của pháp luật. Các Mác đã từng khẳng định: “pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội" và, "chừng nào bộ luật không còn thích hợp với xã hội nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy lộn"[2]. Trong lý luận nhà nước và pháp luật, khái niệm thực hiện pháp luật đã được quan tâm nghiên cứu và có sự thống nhất về cơ bản. 9
  10. Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật[3]. Pháp luật của nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ tính pháp quyền, dân chủ, đặc biệt là việc xác định và cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội nước ta thông qua, chương 2 “Quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân” được coi là một bước tiến mới trong nhận thức về quyền con người mà các bản hiến pháp trước đó chưa có. Điều quan trọng đặt ra là việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là đảm bảo tính hiện thực của các quyền con người, quyền công dân. Pháp luật của nhà nước ta là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh[3]. Trong bối cảnh đó, áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay. Các quy định của pháp luật được thực hiện trong thực tế thì chúng mới có ý nghĩa thiết thực. Các chế tài trong các quy phạm pháp luật sẽ được thực hiện khi có sự xâm phạm đế các quyền, lợi ích của các chủ thể mà pháp luật đã ghi nhận và đảm bảo thực hiện cho họ. Để thực hiện các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định, các chủ thể phải thực hiện đúng các trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật. Tầm quan trọng của thực hiện pháp luật đã được quan tâm đầy đủ hơn trong những năm gần đây song song với hoạt động xây dựng pháp luật. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định rõ xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật mà trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân 10
  11. dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước[4]. Như vậy, trên cơ sở ý kiến của nhân dân trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật và xây dựng pháp luật thì pháp luật sẽ được nâng cao, có hiệu quả khi được thực hiện trên thực tế. Đối với hoạt động xây dựng pháp luật, pháp luật dù được ban hành thật nhiều mà không phù hợp với thực tiễn cuộc sống thì sẽ không có tính khả thi và dẫn hoạt động áp dụng pháp luật cũng không thể thực hiện được. Chính vì vậy, nhà làm luật chỉ ngồi ở văn phòng, hội trường ban hành ra văn bản pháp luật thôi thì chưa đủ, họ cần phải có kiến thức thực tế về hiện thực xã hội để có thể dự liệu trước được những điều kiện, hoàn cảnh thực tế đang diễn ra để đưa ra những quy phạm pháp luật phù hợp. Các chủ thể trong xã hội có các quyền và nghĩa phụ pháp lý trên thực tế khi và chỉ khi pháp luật thực sự được đưa vào cuộc sống. Để việc thực hiện pháp luật được hiệu quả, các chủ thể trong xã hội từ nhà nước, cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cho đến công dân, tổ chức xã hội khác phải có ý thức tự giác, có kiến thức và kỹ năng thực hành pháp luật. - Các hình thức thực hiện pháp luật Khoa học pháp lý truyền thống đã xác định bốn hình thức thực hiện pháp luật. Căn cứ chủ yếu của sự phân loại này là dựa vào tiêu chí các loại quy phạm pháp luật. Đời sống xã hội vô cùng đa dạng nên các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội cũng hết sức phong phú. Tất nhiên, còn có thể có cách phân loại khác về hình thức, nhưng cách phân loại theo tiêu chí các loại quy phạm cũng có tính hợp lý. Có bốn hình thức thực hiện pháp luật: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật là một hình thức cơ bản, mang tính chất đặc thù. 11
  12. Mặc dù vậy, việc phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối vì các hình thức thực hiện pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. - Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật là phải tuân thủ pháp luật, không được thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Một khi điều này không được thực hiện, họ chắc chắn sẽ bị các chế tài trong quy phạm pháp luật trừng phạt hoặc phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Nhờ vào các chế tài đó mà việc tuân thủ pháp luật sẽ có tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa đề cho các chủ thể có ý thức tôn trọng và cẩn trọn không để xẩy ra. Tuy vậy, cũng có trường hợp, cá nhân hay tổ chức tuy hiểu biết rất rõ về các quy định cấm của pháp luật song vẫn cố tình vi phạm do rất nhiều động cơ mục đích và nguyên nhân khác nhau. - Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Trong một văn bản pháp luật có chứa đựng các quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật đưa ra những quyền, nghĩa vụ pháp lý mà chủ thể pháp luật buộc phải chịu sự điều chỉnh nhất định. Những quy phạm pháp luật chứa đựng trong nó các nghĩa vụ pháp lý buộc các chủ thể bắt buộc phải thực hiện một cách tự giác bằng những hành vi tích cực của mình. Với tính chất bắt buộc phải thực hình những hành vi một cách tự giác mà quy phạm pháp luật đã quy định cho họ các nghĩa vụ pháp lý, việc thi hành pháp luật đòi hỏi mọi chủ thể từ phía nhà nước cho đến mọi cá nhân, công dân đều thực hiện. Việc thực hiện này mang ý nghĩa tích cực, chủ động từ phía các chủ thể trong từng điều kiện hoàn cảnh mà nhà làm luật đã dự trù sẵn. Và 12
  13. đương nhiên, nếu các chủ thể không thi hành đúng pháp luật thì sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý mà các chế tài đã thể hiện trong các quy phạm pháp luật. - Sử dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép Trong nhà nước pháp quyền, sử dụng pháp luật có ý nghĩa xã hội to lớn, thể hiện tính tích cực pháp lý của cá nhân, tổ chức, đặc biệt là đối với người dân trong việc sử dụng có văn hóa pháp luật các quyền hiến định và luật định của mình. Tuy sử dụng pháp luật không phải là hình thức thực hiện pháp luật mang tính chất bắt buộc, song nhà nước cần đảm bảo những điều kiện cần thiết để các cá nhân tích cực sử dụng pháp luật một cách đúng pháp luật. Bởi vì việc sử dụng pháp luật của cá nhân có ý nghĩa không chỉ đối với họ mà còn đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, khắc phục, khôi phục các quyền con người bị xâm hại, làm lành mạnh hóa các hoạt động quản lý nhà nước. Trong các văn bản pháp luật, có các quy phạm pháp luật nói lên một cách rõ ràng, chính xác các quyền pháp lý chỉ gắn liền với một chủ thể nhất định, và chỉ những chủ thể này mới được thực hiện các quyền đó hoặc phải trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó thì chủ thể pháp luật mới được thực hiện quyền chủ thể của mình. Bằng ý chí của mình, các chủ thể thực hiện các quyền chủ thể mà không bị cưỡng chế bắt buộc từ phía nhà nước hay từ phía một chủ thể nào khác trong xã hội. Điều đó có nghĩa, pháp luật đã quy định cho chủ thể có các quyền nhất định, nhưng các chủ thể này có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền này, đây chính là đặc điểm của hình thức sử dụng pháp luật so với các hình thức thực hiện pháp luật khác. - Áp dụng pháp luật 13
  14. Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, quan niệm về “áp dụng pháp luật” dưới góc độ học thuật còn có những cách tiếp cận khác nhau nhất định. Tuy vậy, một quan niệm được thừa nhận chung về áp dụng pháp luật với tư cách là một hình thức thực hiện pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước ( hoặc các cá nhân công quyền, tổ chức được nhà nước trao quyền ) có thẩm quyền thực hiện. 1.1.2. Đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan Nhà nước. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật cũng được coi là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, đặc biệt ở chỗ chủ thể của áp dụng pháp luật chỉ có thể là các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền nhằm thực thi quyền lực nhà nước. Điểm đặc biệt này khác với ba hình thức thực hiện pháp luật ở trên, trong khi ba hình thức thực hiện pháp luật đó có chủ thể bao gồm nhà nước, cá nhân, công dân, tổ chức khác, tức là tất cả các chủ thể pháp luật trong xã hội. Ví dụ hoạt động của công chức Tư pháp – Hộ tịch thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, là hoạt động áp dụng pháp luật của cá nhân có thẩm quyền, được nhà nước trao quyền nhằm áp dụng pháp luật, đưa các quy định của pháp luật về hộ tịch vào trong cuộc sống. Đối với với lĩnh vực tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án, quyết định truy tố trước pháp luật hoặc Tòa án nhân dân ra một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì đó chính là hoạt động áp dụng pháp luật của Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân 14
  15. nhằm áp dụng pháp luật, đưa các quy định của Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và các luật chuyên ngành khác đi vào cuộc sống. Trong hoạt động thực hiện pháp luật, sự phân biệt giữa hoạt động áp dụng pháp luật và thi hành pháp luật cũng chỉ là mang nghĩa tương đối. Bởi lẽ trên thực tế, hai hoạt động này có sự giao thoa với nhau trong quá trình thực hiện pháp luật bởi các chủ thể của việc thi hành pháp luật và áp dụng pháp luật đều có trách nhiệm pháp lý và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật đã quy định. Chính vì vậy, việc áp dụng pháp luật cũng có thể được coi như là một hoạt động thi hành pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật. Không chỉ có sự tương đối giữa áp dụng pháp luật với thi hành pháp luật mà áp dụng pháp luật khi phân biệt với các hình thức thực hiện pháp luật cũng mang nghĩa tương đối. Điều này có nghĩa là các hình thức thực hiện pháp luật ở một góc độ nào đó thì chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau để từ đó các chủ thể có cách thức thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật. Pháp luật được đi vào cuộc sống được thông qua việc áp dụng pháp luật từ phía nhà nước, và nhờ vào nó mà nhà nước bằng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà điều chỉnh, quản lý các lĩnh vực trong đời sống xã hội sao cho chúng diễn ra một cách có trật tự và giúp cho nhà nước hoạt động được hiệu quả hơn. Do vậy, sự xuất hiện của nhà nước trong hoạt động áp dụng pháp luật sẽ càng làm cho các quy định của pháp luật được đảm bảo thực hiện trên thực tế hơn là chỉ tồn tại hoạt động tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật đƣợc thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, nhà chức trách trong các trƣờng hợp sau đây: Thứ nhất, các biện pháp cưỡng chế hay các chế tài được nhà nước áp dụng đối với các chủ thể có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Ví dụ công dân A đã 15
  16. thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS, nhưng không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và công dân A tự giác chấp hành các chế tài tương xứng. Vì vậy cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng để ra bản án đối với A và buộc A phải chấp hành hình phạt đó. Liên hệ như trường hợp phạm tội của Lê Văn Luyện ở Bắc Giang, Luyện thực hiện hành vi trộm cắp rồi giết người nhưng những hành vi này không mặc nhiên bị xử lý mà phải có hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: sự tham gia của cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố, viện kiểm sát ra quyết định truy tố và tòa án xét xử và tuyên bố bản án. Từ chức năng, nhiệm vụ vai trò của mình, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân hay cơ quan điều tra sẽ áp dụng các quy định của bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự để giải quyết một cách chính xác các vụ án hình sự xảy ra trong xã hội. Thứ hai, áp dụng pháp luật cần thiết khi các những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi, chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ, pháp luật có quy định công dân có quyền tự do kinh doanh, nhưng quyền này chỉ phát sinh khi công dân làm thủ tục đăng ký kinh doanh và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quyền đó có thể bị chấm dứt nếu công dân đó vi phạm pháp luật. Sự tham gia từ phía nhà nước (những cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền) là điều kiện quyết định để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định của các chủ thể pháp luật. Ví dụ: theo quy định tại Điều 36 Hiến pháp 2013 thì nam nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Mặc dù vậy quyền kết hôn, ly hôn đó của nam nữ sẽ không được thực hiện nếu như không có sự tham gia từ phía nhà nước, cụ thể là Ủy ban nhân xã có thẩm quyền trong việc thực hiện đăng ký kết hôn hay tòa án nhân dân ra quyết định ly hôn. Do vậy, quyền và nghĩa vụ pháp lý của hai bên nam nữ sẽ phát sinh 16
  17. hoặc chấm dứt sau khi có sự can thiệp từ phía Ủy ban nhân dân xã cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hay tòa án ra quyết định ly hôn. Thứ ba, cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Nhà nước đóng vai trò làm bên thứ ba trong trường hợp này là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp để pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh trên thực tế. Thứ tư, áp dụng pháp luật cần thiết trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Đồng thời, nhà nước cũng đứng ra để xác thực một sự kiện pháp lý xảy ra trên thực tế mà pháp luật đã quy định. Trong trường hợp này điển hình nhất là việc các bên tham gia các giao dịch dân sự được công chứng tại các phòng công chứng nhà nước, các công chứng viên của phòng công chứng nhà nước đứng ra chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng giao dịch đó. - Đặc điểm của áp dụng pháp luật Là một hình thức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật có những đặc điểm riêng bên cạnh những đặc điểm chung như các hình thức pháp luật khác, - Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước của áp dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan Nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền được thay mặt nhà nước thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật theo đúng nhiệm vụ và chức năng của họ mà pháp luật đã quy định. Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan. Hoạt động áp dụng pháp luật có mang tính quyền lực nhà nước nên nó được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các hình thức cưỡng chế, giáo dục và thuyết phục. Các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền, được nhà nước trao quyền thực thi quyền lực nhà nước sẽ căn cứ quy định pháp luật để 17
  18. đưa ra quyết định áp dụng pháp luật có giá trị pháp luật thi hành đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan. - Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Hoạt động áp dụng pháp luật phải thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật theo đúng những quy trình, thủ tục mà pháp luật đã quy định. Ví dụ, việc giải quyết một vụ án hình sự phải tiến hành theo những quy định cụ thể của Bộ luật Tố tụng Hình sự; hoặc việc xử phạt hành chính được điều chỉnh bởi những quy phạm, thủ tục xử phạt hành chính. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thủ tục luật định để đảm bảo quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Trong từng trường hợp cụ thể, chủ thể áp dụng pháp luật phải thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật theo đúng những quy trình, thủ tục mà pháp luật đã quy định. Tương ứng với từng lĩnh vực mà hoạt động áp dụng pháp luật có thể gây bất lợi hoặc có lợi cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật. Từ đó, việc áp dụng pháp luật phải thật chính xác đầy đủ để tránh tình trạng áp dụng không đúng quy định của pháp luật khiến cho các đối tượng đáng ra được hượng lợi thì lại phải gánh chịu hậu quả nặng nề, hoặc đối tượng đáng ra bị xử lý nghiêm minh thì lại ung dung ngoài vòng pháp luật. -Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội nhất định. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống. Một tình huống xảy ra trong thực tế được chủ thể áp dụng pháp luật áp dụng một cách chính xác các điều luật mà ở đó đã dự liệu được sẵn tình huống này xảy ra trên thực tế. Sau khi xem xét, đối chiếu tình huống thực tế và quy định của pháp 18
  19. luật, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền sẽ đưa ra những mệnh lệnh cá biệt để đưa những quy phạm pháp luật đã được luật định đó áp dụng vào đúng trường hợp đang diễn ra trong đời sống. Ví dụ: công dân A là công dân Việt Nam đã câu kết với phần tử phản động có hành vi chống phá chế độ, phản bội Tổ quốc, trong trường hợp này, trên cơ sở pháp luật hiện hành, công dân A sẽ bị xử lý theo Điều 78 BLHS về tội phản bội Tổ quốc. -Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Thực tiễn cuộc sống diễn ra vô cùng đa dạng, phong phú, mà quy định pháp luật thì phải cô động, như là một công thức chung để áp dụng vào “ 101” tình huống khác nhau trong thực tiễn. Do vậy, đòi hởi tính sáng tạo của áp dụng pháp luật, nhưng là sự sáng tạo trên các nguyên tắc của pháp luật. Yêu cầu đối với áp dụng pháp luật là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Điều đó đồi hởi các chủ thể của hoạt động áp dụng phải có kiến thức, kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp thì mới có thể phân tích, đánh giá tình huống để đưa ra một cách giải quyết đúng pháp luật. Có như vậy, quyết định áp dụng pháp luật mới được tâm phục, khẩu phục, có tính khả thi. Kết quả áp dụng pháp luật chủ yếu được thể hiện bằng các văn bản áp dụng pháp luật, hay còn gọi là văn bản pháp luật cá biệt do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở pháp luật về nội dung và thủ tục để xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá nhân, tổ chức hoặc xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện. 19
  20. 1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân 1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân Áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của TAND là một trong những dạng áp dụng pháp luật nói chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Về thuật ngữ, trong thực tế cũng có cách sử dụng khác như áp dụng pháp luật hình sự về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Tuy vậy, khi dùng khái niệm áp dụng pháp luật ở đây có thể còn bao hàm ý nghĩa rộng hơn, vì theo nguyên tắc pháp quyền, tòa án ngoài việc căn cứ vào pháp luật hình sự còn phải căn cứ vào Hiến pháp để giải quyết vụ án hình sự. Trong luận văn này, như đã nêu ở phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả xin được giới hạn vào áp dụng pháp luật hình sự về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân. Xét về bản chất, ADPL hình sự của Tòa án là một hình thức áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành, áp dụng quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và quy phạm pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và thực hiện một số nhiệm vụ trong giai đoạn thi hành án hình sự. Để nhận thức đầy đủ về áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án hình sự của tòa án, cần thiết xác định vị trí của hoạt động này trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự theo quy định pháp luật hiện hành. Hoạt động giải quyết án hình sự của TAND là một giai đoạn trong toàn bộ quá trình giải quyết án hình sự. Theo quy định hiến hành, tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2