Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định pháp luật về vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp được quy định trong pháp luật phá sản ở Việt Nam. Từ đó đưa ra một số đề xuất cho việc thực thi, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ TUẤN ANH VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2013
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ TUẤN ANH VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Chuyên ngành : LUẬT KINH TẾ Mã ngành : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý Hà Nội - 2013
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ VAI TRÒ 6 CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN 1.1. Khái quát về phá sản doanh nghiệp 6 1.1.1. Phá sản doanh nghiệp - Thủ tục tố tụng toà án đặc biệt 6 1.1.2. Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng 10 1.1.3 Các giai đoạn của giải quyết phá sản 15 1.2. Khái quát về vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá 18 sản doanh nghiệp 1.2.1. Vai trò trung tâm của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản 18 doanh nghiệp 1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định vai trò của Tòa án 24 trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 1.2.3. Vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản theo quy định pháp 29 luật một số nước trên thế giới Chƣơng 2. VAI TRÒ CỤ THỂ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI 35 QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM 2.1. Vai trò của Tòa án trong các giai đoạn giải quyết yêu cầu phá sản 35 doanh nghiệp 2.1.1. Vai trò của Tòa án trong giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu và mở 35
- thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 2.1.2. Vai trò của Tòa án trong giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất 39 kinh doanh 2.1.3. Vai trò của Tòa án trong giai đoạn thanh lý tài sản, các khoản nợ 42 2.1.4. Vai trò của Tòa án trong giai đoạn tuyên bố doanh nghiệp phá sản 46 2.2. Thực tiễn hoạt động của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá 50 sản doanh nghiệp ở Việt Nam 2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh 50 nghiệp tại Tòa án nhân dân trong thời gian qua 2.2.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết yêu cầu 52 phá sản doanh nghiệp của Toà án Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ 67 CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP 3.1. Giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phá sản 67 doanh nghiệp 3.2. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án 72 3.3. Tăng cường tuyên truyền nâng cao hiểu biết cũng như ý thức 75 pháp luật cho đội ngũ doanh nhân KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của đề tài Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan. Về thực chất doanh nghiệp cũng chỉ là thực thể xã hội, doanh nghiệp cũng có quá trình sinh ra phát triển và diệt vong. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật và hiện tượng. Nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại và đều tự chủ về tài chính, bình đẳng và tự do trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế này, lợi nhuận luôn là mục đích tối cao mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới, là cơ sở tồn tại cho mỗi doanh nghiệp đồng thời cũng là động lực cơ bản thúc đẩy họ lao vào quá trình cạnh tranh nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Do vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan, dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, một số doanh nghiệp đã hoạt động có hiệu quả, có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp cho ngân sách, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngược lại, một số doanh nghiệp khác do quản lý kém hoặc do những nguyên nhân khác nhau đã dần yếu đi, sản xuất kinh doanh đình đốn, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, hiện tượng phá sản có những mặt tích cực, tuy nhiên hậu quả tiêu cực mà hiện tượng này đem lại là nhiều hơn. Việc doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản sẽ phương hại đến lợi ích của chủ nợ, con nợ và có tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc giải quyết phá sản cần được tiến hành nhanh chóng, kịp thời nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Quá trình giải quyết đó có sự tham gia của nhiều chủ thể, mỗi chủ thể đóng một vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó, Tòa án là chủ thể đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó, 1
- việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về pháp luật phá sản mà đặc biệt là vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp là cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ bản chất và vai trò như vậy, đã phát sinh nhu cầu khách quan cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản nói chung cũng như vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp nói riêng. Từ những lý do trên, tôi đã chọn nghiên cứu Đề tài: "Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này đồng thời góp phần giải quyết một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Từ khi được ban hành đến nay, Luật phá sản đã được tìm hiểu, nghiên cứu dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây thường mới chỉ đề cập, bàn luận đến một số khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản như: các vấn đề pháp lý cơ bản về phá sản hoặc nghiên cứu các thủ tục cụ thể về quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, về phục hồi doanh nghiệp, xử lý nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản v.v.. Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản ở nước ta sau khi Luật Phá sản năm 2004 ban hành, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: - Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2005; - Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài sản phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2008; - Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Thị Thu Trang với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 2
- hiện nay”, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009; - Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp bảo vệ năm 2009... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản chẳng hạn như các bài viết: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - dưới góc nhìn phát triển kinh tế - xã hội bền vững’’ của PGS.TS Tô Huy Rứa; “Luật phá sản còn nhiều bất cập khi áp dụng vào thực tiễn” của Thái Nguyên Toàn, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam; Đặc san chuyên đề về Luật phá sản của Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 8 -2004; Báo cáo rà soát, đánh gia thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004, Bộ Tư pháp, năm 2008; Chuyên đề khoa học xét xử “Tìm hiểu pháp luật phá sản - Tập 1” của Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao, Nhà xuất bản tư pháp năm 2010 v.v.. Như vậy, có thể thấy hiện nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc về vai trò của Toà án - một chủ thể quan trọng trong hệ thống chủ thể tham gia quan hệ tố tụng đặc biệt này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định pháp luật về vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp được quy định trong pháp luật phá sản ở Việt Nam. Từ đó đưa ra một số đề xuất cho việc thực thi, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam. Với mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thủ tục phá sản và vai trò của Tòa án trong thủ tục này theo quy định của pháp luật phá sản; 3
- - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về vai trò của Tòa án cũng như thực tiễn hoạt động của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam; - Kiến nghị, định hướng và giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật phá sản và nâng cao vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luật phá sản có nội dung đa dạng, phức tạp, đề cập đến rất nhiều vấn đề, nhiều quan hệ tố tụng khác nhau. Đề tài: Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản - Là đề tài hẹp, do đó phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến vị trí, vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản, còn về phương diện luật thực định chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định về vai trò của tòa án và vấn đề thực thi các quy định đó trên thực tế mà không nghiên cứu các mối quan hệ tố tụng khác. 5. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế, quản lý nói chung và về pháp luật nói riêng để giải quyết những vấn đề lý luận trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp mang lại cho luận văn một cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu và làm cho luận văn có chiều sâu, có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng song hành trong quá trình nghiên cứu và chỉ khi đặt quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản doanh nghiệp trong mối liên hệ với quy định pháp luật của một số nước, pháp luật Việt Nam thời kỳ trước đó và với cả 4
- thực tiễn về vấn đề vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản doanh nghiệp ta mới thấy được những tiến bộ cũng như hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành khi quy định về vấn đề này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu như sau: Chương 1. Một số vấn đề chung về phá sản và vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản; Chương 2. Vai trò cụ thể của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản theo quy định pháp luật Phá sản ở Việt Nam; Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp. 5
- CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN 1.1 Khái quát về phá sản doanh nghiệp 1.1.1. Phá sản doanh nghiệp - Thủ tục tố tụng toà án đặc biệt ● Khái niệm thủ tục giải quyết phá sản Thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp vì nó do Tòa án với tư cách là cơ quan tư pháp tiến hành. Trong thủ tục phá sản khi các chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp ứng từ phía con nợ thì xuất hiện một số xung đột về lợi ích tài sản giữ chủ nợ và con nợ. Xung đột này là xung đột về mặt tài sản, liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hợp đồng hoặc một sự kiện pháp lý nào đó. Sự xung đột mà thực chất là sự không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ của một bên đương nhiên ảnh hưởng đến lợi ích của bên đối tác. Để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chủ nợ buộc phải yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản đối với con nợ với mục đích thu hồi nợ. Khi có yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án phải xem xét yêu cầu đó có chính đáng hay không. Nếu xác định con nợ đã mất khả năng thanh toán thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để ra quyết định áp dụng thủ tục phù hợp là thủ tục phục hồi hoặc thủ tục thanh toán hay thủ tục tuyên bố con nợ bị phá sản. Tại hội nghị chủ nợ các bên có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh của con nợ thì đó cũng là một hình thức hòa giải để giải quyết xung đột pháp lý giữa các bên. Như vậy, xét về mặt đối tượng của hoạt động thì thủ tục giải quyết phá sản cũng là một thủ tục tư pháp vì đối tượng của nó là các quan hệ pháp lý phát sinh giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ, giữa một bên là chủ nợ và bên kia là con nợ. Tóm lại, xét về bản chất thì thủ tục phá giải quyết phá sản là một thủ tục tư pháp 6
- đặc biệt, do Tòa án tiến hành nhằm giúp chủ nợ và con nợ giải quyết các tranh chấp có tính chất tài sản giữa họ với nhau [13, tr.96-97]. ● Cấu trúc của thủ tục giải quyết phá sản Một trong những dấu hiệu đặc biệt chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục giải quyết phá sản. Nếu như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự là một quá trình hoạt động của Tòa án và những người tham gia tố tụng, hình thành từ những giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn trước là nên tảng cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra tính hợp pháp, khắc phục những thiếu sót của giai đoạn trước thì thủ tục phá sản là một quá trình hoạt động có cấu trúc hoàn toàn khác. Trong thủ tục giải quyết phá sản, nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có tính độc lập với nhau rất lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc nào cũng là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như nhiệm vụ của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý tài sản và thực hiện nhiệm vụ của thủ tục phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục thanh lý tài sản mà có thể loại trừ sự cần thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản doanh nghiệp... Theo Điều 5 Luật phá sản năm 2004 thì thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành và giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau [19, Điều 5]. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành. Những quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục giải quyết phá sản là bước phát triển về lý luận của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Điều này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách linh hoạt tùy thuộc vào những trường hợp cụ thể (được quy định tại Điều 86, 87 và Điều 79, 80 Luật Phá sản năm 2004). ● Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ 7
- phá sản (tố tụng phá sản) được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Thủ tục này bao gồm thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý và thủ tục tuyên bố phá sản. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm sau đây: Thứ nhất, thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể Trong thủ giải quyết phá sản việc đòi nợ được tiến hành tập thể. Các chủ nợ không thể tự mình đòi nợ riêng lẻ mà phải tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất gọi là hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ sẽ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Nếu tài sản của con nợ không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn lại của doanh nghiệp. Thứ hai, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành như một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào tình trạng phá sản. Thủ tục phá sản chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi nợ thông thường khác đã không có hiệu quả. Thứ ba, hậu quả của thủ tục giải quyết phá sản thường là sự chấm dứt hoạt động của một thương nhân Trong thủ tục phá sản, Tòa án thường phải đưa ra những quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý để từ đó bán toàn bộ tài sản của doanh nghiệp thanh toán cho các chủ nợ. Như vậy, hậu quả của thủ tục giải quyết phá sản thường là sự chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp. Đặc điểm này khác với tố tụng dân sự hoặc kinh tế bởi vì trong tố tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Tòa án có hiện lực pháp luật thì con nợ có nghĩa vụ phải chấp hành, nhưng sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn tồn tại và hoạt động một cách bình thường. 8
- Thứ tư, thủ tục giải quyết phá sản không chỉ là thủ tục đòi nợ mà còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi hoạt động của doanh nghiệp Trong thủ tục phá sản, con nợ được Toà án tạo điều kiện tối đa cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi việc một doanh nghiệp bị phá sản sẽ không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của riêng bản thân chủ doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội, khiến người lao động bị mất việc làm... Đối với chủ nợ, trong trường hợp con nợ gặp khó khăn, việc thanh lý ngay con nợ để nhận nợ không phải bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho họ vì không phải doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản cũng còn đủ tài sản để thanh toán hết các món nợ của mình. Vì vậy, pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Thứ năm, thủ tục giải quyết phá sản - một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp Thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục pháp lý rất phức tạp. Tính phức tạp đó được thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Tòa án phải thụ lý và giải quyết nhiều công việc, nhiều mối quan hệ khác nhau về tính chất như giải quyết các vấn đề doanh nghiệp có mất khả năng thanh toán nợ hay không, giải quyết việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp con nợ. Thứ sáu, thủ tục giải quyết phá sản bao gồm các thủ tục tồn tại độc lập với nhau, mặc dù giữa các thủ tục có mối quan hệ nhất định với nhau nhưng không làm tiền đề cho nhau Trong thủ tục giải quyết phá sản, nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có tính độc lập với nhau. Việc thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc nào cũng là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục khác. Tuy nhiên giữa các thủ tục lại có mối quan hệ nhất định với nhau. Và điều này cho phép Tòa 9
- án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách linh hoạt tùy vào các trường hợp khác nhau. 1.1.2. Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng Như phần trên đã phân tích, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, không chỉ xét về quy mô, về tính chất mà còn cả về thành phần chủ thể tham gia. Để giải quyết xong một vụ phá sản, ít nhất phải có sự tham gia của các chủ thể như: Toà án, hội nghị chủ nợ, thiết chế (tổ chức, cá nhân) quản lý tài sản của con nợ và con nợ. Do có nhiều chủ thể tham gia như vậy nên Luật Phá sản nước nào cũng phải dành một phần lớn các quy phạm pháp luật để xây dựng cho chúng những địa vị pháp lý nhất định, phù hợp với vai trò, vị trí, chức năng của chúng trong thủ tục phá sản. Nói cách khác, Nhà nước phải bằng pháp luật mà quy định rõ các chủ thể đó được làm gì, phải làm gì, mối quan hệ giữa họ với nhau ra sao để tránh tình trạng dẫm đạp, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc bỏ sót công việc. Như vậy là, trong thủ tục phá sản, có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó, có 4 chủ thể quan trọng là: Toà án, con nợ, chủ nợ, người quản lý tài sản [11]. ● Địa vị pháp lý của Toà án Pháp luật ở các nước trên thế giới đều quy định Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lập pháp cũng như nguyên tắc xây dựng bộ máy nhà nước của mỗi nước là có sự khác nhau nên việc phá sản có thể được phân công giải quyết tại các Toà án khác nhau. Ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa, Toà án đó có tên là Toà Thương mại với nhiệm vụ giải quyết nhiều công việc liên quan đến thương nhân như tranh chấp thương mại và giải quyết phá sản, trong khi đó, ở một số nước như Mỹ, Thuỵ Điển, Nam Tư... lại hình thành Toà án phá sản riêng để chuyên trách một công việc duy nhất là giải quyết các vụ phá sản. 10
- Khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ, Toà án chỉ định Thẩm phán thay mặt Nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến vụ phá sản. Trong quá trình giải quyết vụ phá sản, Thẩm phán giữ vai trò trung tâm, là chủ thể có vai trò quyết định trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý cơ bản. Các quyết định của Thẩm phán về các vấn đề này đều có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, theo pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới như Đức, Pháp, Nhật Bản, Anh, CHLB Nga… vai trò của Thẩm phán lại rất hạn chế. Thẩm phán không có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, lại càng không có trách nhiệm chủ trì việc tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với nó. Một chủ thể pháp lý đặc biệt được gọi là quản tài viên (người quản lý tài sản), được Toà án bổ nhiệm trên cơ sở giới thiệu của chủ doanh nghiệp hoặc chủ nợ có trách nhiệm thay chủ doanh nghiệp tiến hành việc tổ chức lại doanh nghiệp. Trong trường hợp này, Toà án chỉ đóng vai trò là chủ thể thực hiện việc giám sát quá trình giải quyết phá sản nhằm bảo đảm cho các bên phải tuân thủ đúng pháp luật. Tóm lại, vai trò của Toà án trong thủ tục phá sản được quy định ở các nước là không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, có thể thấy một điểm chung, mang tính phổ biến, đó là là Toà án có vai trò rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý nhưng lại có vai trò rất khiêm tốn trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất kinh tế phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản. ● Địa vi pháp lý của con nợ Hơn ai hết, con nợ là người hiểu được tình hình sản xuất, kinh doanh cũng như thực trạng tài chính của mình. Nhằm bảo vệ trước hết là lợi ích của chủ nợ nên Luật Phá sản của nhiều nước (Cộng hòa liên bang Nga...) đã đưa ra quy định, theo đó, con nợ có nghĩa vụ phải nộp đơn lên Toà án để xin mở 11
- thủ tục phá sản khi phát hiện được rằng mình đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Theo đó, nghĩa vụ của con nợ trong việc làm đơn ra Toà án để yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với chính mình đã được pháp luật các nước này ghi nhận một cách chính thức. Ngoài ra, để bảo đảm tính thực thi của nghĩa vụ này thì Luật Phá sản đã đưa ra những quy định cụ thể, theo đó, nếu không thực hiện nghĩa vụ của mình thì người có lỗi sẽ phải gánh chịu một số chế tài nhất định, kể cả chế tài hình sự. Trong khi đó, pháp luật phá sản của một số nước có xu hướng bảo vệ con nợ như Thuỵ Điển, Pháp, Bỉ, Lúc xăm bua và các nước từng là thuộc địa của Pháp… thì lại quy định rằng việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ. Việc con nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được coi là cơ hội để con nợ giải thoát mình khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, vì vậy, việc nộp đơn hay không là tuỳ thuộc vào ý chí của con nợ, Nhà nước không nên buộc họ phải làm. Theo pháp luật phá sản của một số nước, sau khi bị mở thủ tục phá sản, con nợ vẫn có quyền hoạt động kinh doanh bình thường nhưng phải chịu một số hạn chế nhất định về quyền đối với tài sản cũng như về quyền trong hoạt động điều hành doanh nghiệp. Nhiều nước như Đức, Nhật, Latvia… đã quy định rằng, sau khi mở thủ tục phá sản thì con nợ bị tước quyền định đoạt tài sản trong một số trường hợp và nếu bị cấm mà con nợ vẫn định đoạt thì những hành vi định đoạt tài sản này bị pháp luật coi là vô hiệu... ● Địa vị pháp lý của chủ nợ Như phần trên đó nói, mục đích đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất của thủ tục phá sản là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Nếu các chủ nợ có thể đòi được các món nợ của mình bằng con đường tố tụng thông thường thì không cần phải có thủ tục phá sản, không có việc giải quyết phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản là con đường cuối cùng mà các chủ nợ bắt buộc phải đi nếu như muốn đòi được các món nợ của mình. Chính vì 12
- lợi ích của chủ nợ được đề cao như vậy nên pháp luật phá sản nước nào cũng dành cho chủ nợ một địa vị pháp lý rất đặc biệt. Như phần trên đã phân tích, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Điều đó có nghĩa là, trong thủ tục phá sản, mặc dù có nhiều chủ nợ tham gia nhưng từng người trong số họ không được xé lẻ để đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ phải được tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất để tham gia thủ tục phá sản. Chủ thể đó được pháp luật các nước gọi là Hội nghị chủ nợ. Luật các nước đều có quy định Hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí của các chủ nợ, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của chủ nợ. Vì vậy, Hội nghị chủ nợ mới là chủ thể có quyền thông qua hay không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp do con nợ hoặc chủ thể khác được pháp luật quy định soạn thảo. Nếu Hội nghị chủ nợ không thông qua kế hoạch này thì coi như con nợ đã hết khả năng được phục hồi, cho dù họ có quyết tâm đến mấy. Về cơ bản, địa vị pháp lý của các chủ nợ trong pháp luật phá sản các nước không có sự khác biệt lớn. Các chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; có quyền quyết định về việc con nợ được áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh lý; kiến nghị Toà án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con nợ… Tóm lại, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ đều được tham gia vào hầu hết các giai đoạn từ khởi kiện đến thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và có vai trò rất lớn trong việc giải quyết nhiều vấn đề quan trọng phát sinh từ quá trình giải quyết một vụ việc phá sản cụ thể. ● Địa vị pháp lý của người quản lý tài sản (Tổ quản lý, thanh lý tài sản) Khi lâm vào tình trạng phá sản thì con nợ thường có những hành vi như cất giấu, tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Do đó cần có sự kiểm tra, giám sát của một thiết chế (cơ quan, tổ chức hay một nhóm người nào đó) có thẩm quyền thì khối tài sản này mới được bảo toàn và lợi ích của 13
- các chủ nợ mới không bị xâm phạm. Vì vậy, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản là một trong những vấn đề cơ bản mà pháp luật phá sản của các nước đều rất quan tâm giải quyết. Trước hết, Nhà nước phải thành lập ra một thiết chế nào đó và sau đó là phải quy định cho nó một địa vị pháp lý nhất định. Pháp luật phá sản các nước gọi tên của thiết chế này một cách rất khác nhau nhưng xét về vị trí mà nói thì đây là một chủ thể rất quan trọng trong tố tụng phá sản của bất cứ quốc gia nào. Nhìn chung, trong pháp luật phá sản các nước thì thiết chế này thường được gọi là nhân viên quản lý tài sản (Trustee). Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của các nước là khác nhau nên việc quy định về cơ cấu tổ chức cũng như vị trí, vai trò của các thiết chế này cũng có sự khác nhau. Đa số các nước có nền kinh tế phát triển như Đức, Úc, Pháp, Nhật Bản... đều yêu cầu phải có một nhân viên do Toà án bổ nhiệm để thực hiện chức năng quản lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản và giao cho nhân viên này một thẩm quyền khá rộng rãi trong quá trình giải quyết phá sản. Theo đó, người quản lý tài sản không chỉ có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của con nợ sau khi mở thủ tục phá sản mà con có các quyền như triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ, quyết quyết định huỷ bỏ hay công nhận các giao dịch pháp lý mà con nợ đã thực hiện… Ở các nước đang phát triển thì vai trò của thiết chế quản lý tài sản của con nợ được quy định khiêm tốn hơn. Về cơ bản, ở các nước này, việc quản lý tài sản của con nợ được giao cho một nhóm người được gọi là Tổ quản lý tài sản do Toà án ra quyết định thành lập. Tổ quản lý tài sản này hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Thẩm phán, chịu trách nhiệm trước Thẩm phán về việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình. Tổ quản lý tài sản có quyền giám sát, kiểm tra việc quản lý tài sản cả về mặt hiện vật cũng như trên sổ sách của doanh nghiệp và về cơ bản có chức năng như một công cụ của Toà án, giúp Toà án trong việc giải quyết các vấn đề 14
- phát sinh liên quan đến việc xác định tài sản, bán đấu giá tài sản và phân chia tài sản của con nợ… 1.1.3. Các giai đoạn của giải quyết phá sản Việc phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam được quy định trong Luật phá sản năm 2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Theo đó, thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản gồm các bước: (i) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; (ii) Phục hồi hoạt động kinh doanh; (iii) Thanh lý tài sản, các khoản nợ; (iv) Tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Thủ tục này có thể khái quát như sau: ● Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Chủ nợ có bảo đảm một phần hay không được bảo đảm, người đại diện của người lao động hoặc đại diện công đoàn, cổ đông hoặc nhóm cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, chủ doanh nghiệp, người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trong một số trường hợp do pháp luật quy định có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào trình trạng phá sản. ● Cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục phá sản Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó, Toà án nhân dân cấp tỉnh xử lý các vụ việc liên quan đến các đối tượng còn lại. Việc tiến hành thủ tục phá sản tại Toà án nhân dân cấp huyện do một Thẩm phán phụ trách, tại Toà án nhân dân cấp tỉnh do một Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán gồm có ba Thẩm phán phụ trách. ● Thụ lý đơn và Thủ tục Tòa án Trong thời hạn ba mươi (30) ngày sau khi thụ lý đơn, Tòa án sẽ xem xét đưa ra Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản sau khi xem xét tất cả các căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 15
- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của Luật này, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc quyết định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Trong thời hạn bảy (07) ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ thông báo quyết định mở thủ tục phá sản đến doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp đó. ● Tổ quản lý, thanh lý tài sản Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lập để quản lý, giám sát việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước thẩm phán về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. ● Các hoạt động kinh doanh được cho phép trong quá trình phá sản Trong quá trình phá sản doanh nghiệp, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Có một số hoạt động theo quy định của Luật Phá sản bị cấm và một số hoạt động khác chỉ được phép thực hiện sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán. ● Hội nghị chủ nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh Hội nghị chủ nợ được Thẩm phán triệu tập và chủ trì để thông qua các vấn đề về kiểm kê tài sản, phê duyệt phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, phương án thanh lý tài sản và các vấn đề khác liên quan. Thẩm phán ra quyết định áp dụng phục hồi hoạt động kinh doanh khi được Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Thời hạn để doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh là 03 năm. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn