intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

22
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Qua việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát tối cao của Quốc hội trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội về đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH VĂN CHIẾN VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội, 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH VĂN CHIẾN VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Ts VŨ ĐỨC LONG Hà Nội, 2013 2
  3. MỤC LỤC Lời cam đoan Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ ...................................... 16 1.1. Những vấn đề lý luận chung .................................................................... 16 1.1.1. Khái niệm về vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế ............................. 16 1.1.2. Nội dung pháp luật giám sát của Quốc hội .......................................... 30 1.1.3. Hiệu quả, ý nghĩa và yêu cầu của hoạt động giám sát của Quốc hội ... 42 1.2. Kinh nghiệm của một số nước về hoạt động giám sát của Quốc hội ...... 47 1.2.1. Quy định pháp luật một số nước về hoạt động giám sát của Quốc hội 47 1.2.2. Kinh nghiệm thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của một số nước................................................................................................................. 55 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THEO DÕI, XEM XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ ...................................................................... 66 2.1. Thực trạng pháp luật quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội ...... 66 2.1.1. Lịch sử hình thành chế định giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế..................................... 66 3
  4. 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật thực định quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế ...................................................................................................... 75 2.2. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối với quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế ....... 78 2.2.1. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối với việc xây dựng những điều ước quốc tế (đàm phán, ký kết, gia nhập) 79 2.2.2. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối với việc thực hiện điều ước quốc tế .......................................................... 84 CHƢƠNG 3 : PHƢƠNG HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ ............ 88 3.1. Phương hướng ......................................................................................... 88 3.2. Những yêu cầu khách quan và điều kiện cần thiết để nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội ..................................................................................... 91 3.3. Một số giải pháp .................................................................................... 101 3.3.1. Nhóm giải pháp về đối nội ................................................................ 101 3.3.2. Nhóm giải pháp về đối ngoại............................................................. 115 KẾT LUẬN……………………………………………………...………...115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...117 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nước ta vẫn đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao...Tuy nhiên, trong 5 năm tới, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm, sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương... Về tình hình thế giới: hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng... Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: “...đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; .. giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.” [10, tr 1-3]. 5
  6. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra, phụ thuộc vào yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan đóng vai trò quyết định, yếu tố khách quan đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đến nay, nước ta đã củng cố và mở rộng quan hệ với các nước láng giềng, các nước đối tác quan trọng. Đã nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác chiến lược với 7 nước (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh và Tây Ban Nha) [8, tr.12].; mở rộng hợp tác với các nước bạn bè truyền thống; thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 8 nước, nâng số quốc gia có quan hệ ngoại giao với nước ta lên 179 trong tổng số 192 nước trên thế giới. Chỉ đạo đấu tranh có hiệu quả trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Chủ động đối thoại với các nước, xử lý phù hợp các vấn đề nảy sinh, kiên quyết đấu tranh với các hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của ta, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia. Tiếp tục đối thoại ngoại giao với Tòa thánh Vaticăng trên tinh thần thiện chí và tôn trọng Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Trong quan hệ kinh tế, đến nay, nước ta đã có quan hệ kinh tế, thương mại với trên 170 nước và 60 vùng lãnh thổ; 92 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam. Nước ta cũng đã có 560 dự án đầu tư tại 55 nước và vùng lãnh thổ [8, tr 13]. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên Ecosocmic anh social council “Hội đồng kinh tế và xã hội”, ủy viên Hội đồng chấp hành United nations development programme “Chương trình phát triển Liên Hợp quốc”, United nations population fund “Quỹ dân số Liên Hợp quốc” và Universal postal union “Liên minh Bưu chính thế giới”...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, Association of southeast Asian Nations “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á” … Có thể nói ngoại giao đa phương là một 6
  7. điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới. Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ độc lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng đất nước. Trong quá trình hội nhập sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước yêu cầu đổi mới hội nhập và phát triển, Việt Nam đã, đang và sẽ tích cực chủ động mở rộng quan hệ hợp tác phát triển, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trên thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Vì vậy, việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế là đòi hỏi khách quan, là bệ phóng cho những tiềm năng của đất nước trỗi dậy, là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi chính đáng của dân tộc, của nhân dân, của doanh nghiệp… Tính từ năm 1955 trở lại đây, Việt Nam đã ký kết rất nhiều các điều ước quốc tế. “Theo Chỉ thị số 14/2008/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/4/2008 chỉ tính riêng trong lĩnh vực kinh tế - thương mại là 1.082 điều ước, trong đó 700 điều ước quốc tế hiện còn hiệu lực về thương mại, nông nghiệp, công nghiệp, hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt, lao động, hợp tác nghề cá và phát triển thuỷ sản, du lịch, y tế, tài chính, tín dụng, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế hai lần, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” [7, tr 1]. Ngày 10 tháng 10 năm 2001, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế; tháng 6 năm 2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Đây được coi là một bước tiến của hệ thống pháp luật Việt Nam đánh dấu sự quan tâm trong việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế. 7
  8. Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đã có hiệu lực hơn 6 năm, cùng với sự phát triển các mối quan hệ quốc tế, số lượng các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và gia nhập ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới được gần 6 năm. Để tạo đà và cơ sở pháp lý cho các mối quan hệ quốc tế nhất là trong lĩnh vực bảo vệ chủ quyền của nhà nước, hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, việc ký kết, tham gia, phê chuẩn các điều ước quốc tế ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Quốc hội Việt Nam với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước ta với các chức năng lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và thực hiện giám sát tối cao trong toàn bộ hoạt động của nhà nước trong đó có hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của điều ước quốc tế, tạo lập cơ sở pháp lý để phát triển các quan hệ quốc tế nhất là quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng… từ đó nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội trong hoạt động đàm phán, ký kết, thực hiện các điều ước quốc tế của các cơ quan nhà nước ngày càng có ý nghĩa quan trọng gắn liền với sự gia tăng của điều ước quốc tế mà nước ta đã tham gia, phù hợp với xu thế của thời đại là hội nhập và phát triển, hợp tác và cùng có lợi, ổn định và tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Trong phạm vi đề tài này, vấn đề muốn được đề cập tới là: Quốc hội Việt Nam có vai trò như thế nào và cần phải làm gì để tăng cường giám sát của mình trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế? Đây là một nội dung mới, cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống làm cơ sở để hoạch định những chính sách, những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các điều ước quốc tế, đáp ứng và thúc đẩy sự hợp tác quốc tế toàn diện, vững bền, mang tầm vóc quốc gia, dân tộc. 8
  9. Nhận thức được tầm quan trọng trên, tác giả đã đề xuất vấn đề cần nghiên cứu là “Vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế ” làm Luận văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành Luật Quốc tế. Việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn trong việc đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; phân định rõ vị trí, vai trò của các cơ quan nước trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước, tạo đà cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế nói riêng, như: - Đề tài nghiên cứu khoa học Đổi mới hoạt động giám sát và xây dựng quy trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, đây là một đề tài nhánh thuộc đề tài trọng điểm quốc gia: “Luận cứ khoa học để xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội” do Văn phòng Quốc hội chủ trì được triển khai nghiên cứu từ tháng 10 năm 2000. Tuy nhiên, đề tài này được nghiên cứu trong bối cảnh Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội chưa ra đời. - Cuốn sách “Quyền giám sát của Quốc hội – nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu” do Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội làm chủ biên xuất bản năm 2004 để thực hiện chương trình hoạt động hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội Thụy Điển nhằm cung cấp một số thông tin bổ ích về kinh nghiệm giám sát của Quốc hội Đức, 9
  10. Ba Lan, Thụy Điển. Tuy nhiên, thời điểm xuất bản cuốn sách chỉ vài tháng sau khi Luật Hoạt động giám sát có hiệu lực, do đó thực tiễn thi hành, chưa đủ để soi rọi, đánh giá các quy định của pháp luật. - Cuốn sách “Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội” do Văn phòng Quốc hội xuất bản năm 2006, đề cập đến tổng quan về khái niệm giám sát của Quốc hội, hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam theo quy định của pháp luật, các công cụ giám sát của đại biểu Quốc hội, các kỹ năng thực hiện quyền giám sát của đại biểu Quốc hội… Ngoài ra, từ năm 2002 đến 2005, có một số bài viết, bài phát biểu tại các cuộc hội thảo đóng góp ý kiến xây dựng Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của một số nhà nghiên cứu bàn luận về vai trò giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Tuy nhiên, các đề tài, bài viết, bài phát biểu của các nhà khoa học trên được nghiên cứu trong bối cảnh Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005, Luật Hoạt động giám sát từ năm 2003 đến nay đã có nhiều nội dung không phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế một cách hệ thống, toàn diện là đòi hỏi khách quan nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan nhà nước trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế. 10
  11. 3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn đặt trọng tâm nghiên cứu vào các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra cho Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Qua việc phân tích, tổng hợp hệ thống pháp luật thực định liên quan đến công tác này và qua thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội để từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập của hoạt động giám sát, đánh giá tính hợp lý, khả thi của hệ thống pháp luật, những vấn đề còn tồn tại, những quy định chưa phù hợp hay những nội dung cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao và góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước tiến hành các hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục tiêu nghiên cứu Qua việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát tối cao của Quốc hội trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội về đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục tiêu nghiên cứu nói trên, Luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: 11
  12. - Làm rõ cơ sở pháp lý để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; - Làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; - Làm rõ đối tượng của hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; - Tổng kết thực tiễn hoạt động giám sát Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước để tìm ra hạn chế, bất cập, những nguyên nhân của các hạn chế, đề xuất những giải pháp khắc phục những hạn chế này nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội góp phần vào việc nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả của điều ước quốc tế góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước thực hiện tối ưu ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó có việc kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Quốc hội. 12
  13. Việc nghiên cứu chủ yếu sử dụng ba phương pháp: Nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu so sánh pháp luật và đối chiếu với thực tiễn: Việc nghiên cứu lý thuyết tập trung vào các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của các cơ quan nhà nước theo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Phương pháp nghiên cứu so sánh được áp dụng trong trường hợp đối chiếu các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thực tiễn tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội nhằm tìm ra những nhân tố hợp lý và những tồn tại hiện nay. Để đảm bảo lý thuyết và thực tiễn luôn được đặt song song với nhau, việc nghiên cứu các hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cụ thể là một phần không thể thiếu được trong Luận văn này. Những hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được đưa vào một cách hợp lý để chứng minh một cách chi tiết và hỗ trợ cho việc phân tích các vấn đề pháp lý được đưa ra. 6. Ý nghĩa khoa học Với mục đích, phạm vi và nhiệm vụ đặt ra, nội dung của Luật văn có những điểm mới sau: Một là, Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam nói chung và trong đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế nói riêng. Các nghiên cứu sẽ đóp góp vào việc giải đáp các vấn đề được đặt ra, như: “ Cơ sở pháp lý 13
  14. cho hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong lĩnh vực này hiện nay đã đáp ứng đầy đủ chưa? Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội có vai trò như thế nào trong việc giám sát trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế? Mối quan hệ giữa Quốc hội với cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế? Việc thực hiện chức năng giám sát trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội có tác động như thế nào đến các cơ quan trực tiếp tiến hành đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế? Yêu cầu giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong bối cảnh vừa hợp tác, vừa đấu tranh với mức độ, phạm vi, nội dung, hình thức như thế nào? Vị trí, vai trò giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện bằng cách nào? … Những tác động giữa hoạt động giám sát của Quốc hội với việc đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế?... Hai là, dựa vào tình hình thực tế và các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Luận văn sẽ đề xuất những quan điểm và giải pháp có tính khả thi, góp phần vào việc hoàn thiện quy trình giám sát của Quốc hội trong việc xây dựng và thực thi điều ước quốc tế, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, góp phần xây dựng các điều ước quốc tế có tính khả thi cao, thúc đẩy quá trình hội nhập, phát triển của đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia, dân tộc. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn có giá trị tham khảo trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ 14
  15. quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng trong việc xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật nước ta về hoạt động giám sát của Quốc hội, về hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, cải thiện và hoàn thiện bộ máy nhà nước để thực hiện tối ưu ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; - Chương 2: Thực trạng quy pháp luật và thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; - Chương 3: Phương hướng và kiến nghị nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. 15
  16. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ 1.1. Những vấn đề lý luận chung 1.1.1. Khái niệm về vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ƣớc quốc tế Theo từ điển Tiếng Việt thì “vai trò” được hiểu “là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó”, còn “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được dùng để chỉ “một chức quan đảm nhận việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó” [25]. Như vậy, “vai trò giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế” được hiểu là việc Quốc hội khi thực hiện chức năng giám sát, sử dụng hợp lý các phương tiện và công cụ theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng giám sát qua đó có những tác động đến hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân, góp phần thúc đẩy sự phát triển của điều ước quốc tế. Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được thể hiện qua quá trình Quốc hội xem xét các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế do Quốc hội ban hành có được các 16
  17. cơ quan nhà nước thực hiện đúng theo những quy định đã được Quốc hội ban hành? Và các cơ quan nhà nước, các cá nhân thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật hay không? Trên cơ sở đó để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những chính sách, pháp luật quy định có liên quan không còn phù hợp với thực tiễn ký kết và thực hiện điều ước quốc tế hoặc không còn phù hợp với cuộc sống nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật về điều ước quốc tế thống nhất, hiện đại, toàn diện điều chỉnh các quan hệ quốc tế nhằm hợp tác và phát triển, bảo vệ tối đa lợi ích của nhân dân, đất nước, phát triển đất nước theo xu hướng của thời đại [9, tr 7]. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội là chức năng giám sát tối cao đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Theo từ điển Luật học của Viện pháp lý, Bộ Tư pháp thì: “Giám sát tối cao được hiểu là quyền của Quốc hội thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội trong toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp năm 1959 mới chỉ ghi nhận quyền của Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp (Điều 50). Quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong toàn bộ hoạt động của Nhà nước lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 82 Hiến pháp năm 1980 và được tiếp tục ghi nhận tại Điều 83 Hiến pháp năm 1993. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện thông qua hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp, hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao trong hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc tuân thủ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thông qua 17
  18. việc xem xét, phê chuẩn các báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hôi, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội trong phạm vi quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức thông qua việc xem xét các báo cáo, kiểm tra tình hình thực tế tại chỗ cũng như tiếp xúc với cử tri tại các địa phương” [4]. Theo từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh thì “giám sát là xem xét và đàm hạch” [1]. Về bản chất, giám sát là việc Quốc hội thu thập thông tin về hoạt động của các cơ quan Nhà nước hữu quan và xem xét, đánh giá thông tin thu thập được. Việc xem xét, đánh giá này là cơ sở để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có thể biểu dương hoặc phê phán các chủ thể có liên quan và trong những trường hợp nhất định, bày tỏ sự tín nhiệm của mình trong các chủ thể đó (những người mà Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Trên cơ sở của hoạt động giám sát sẽ giúp Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật kịp thời, chính xác nhằm điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền theo yêu cầu quản lý nhà nước và xã hội…qua đó vai trò của Quốc hội mới được thể hiện. Vai trò của Quốc hội không thể tách rời hoạt động giám sát và ngược lại Quốc hội thông qua hoạt động giám sát mới thể hiện được vai trò của mình trong việc phát triển chế định điều ước quốc tế. Mối quan hệ giữa vai trò của Quốc hội với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hôi là mối quan hệ hai chiều, khăng khít với nhau, có quan hệ qua lại và tác động hỗ trợ nhau. 18
  19. Vì thế để thể làm rõ vai trò của Quốc hội trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, chúng ta phải giải quyết những vấn đề về lý luận về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nói chung và đối với lĩnh vực ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế nói riêng. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội bao trùm lên toàn bộ hoạt động của nhà nước. Nói cách khác mọi hoạt động của nhà nước đều dưới sự giám sát của Quốc hội, ở đây không có “điểm chết”,“khoảng trống” hay “điểm cấm” của đời sống xã hội. Vì thế, hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cũng không nằm ngoài thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Khoản 1, Điều 2, Luật số 05/2003/QH11 ngày 26/6/2003 của Quốc hội quy định: “Giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội”. [17]. Như vậy, nội dung của khái niệm hoạt động giám sát của Quốc hội theo quy định của pháp luật, bao gồm: Chủ thể giám sát, chủ thể bị giám sát, hậu quả của hoạt động giám sát, cơ sở của hoạt động giám sát, các phương thức để thực hiện hoạt động giám sát. Nói đến hoạt động giám sát là nói đến hoạt động của các cơ quan dân cử gồm có Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Thẩm quyền giám sát của Quốc hội rất rộng lớn, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật có tính chất pháp lý cao nhất: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao trong toàn bộ hoạt động của Nhà nước” [16]. Điều này xuất phát từ bản chất nhà nước, nhà 19
  20. nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân bầu ra Quốc hội trên nguyên tắc trực tiếp, phố thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Thông qua Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, các đại biểu Quốc hội với lá phiếu bầu của nhân dân họ sẽ thay mặt nhân dân thực hiện các chức năng của Quốc hội là lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng và giám sát tối cao trong toàn bộ hoạt động của nhà nước và xã hội. Hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được hiểu là hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội dùng các phương tiện công cụ của mình để tiến hành tìm hiểu việc thực thi pháp luật quy định về hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Là cơ sở để Quốc hội xem xét, phê chuẩn, rút khỏi, bảo lưu … các điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trình ra Quốc hội, là cơ sở để Quốc hội sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát và hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế… Như vậy, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế trên cơ sở quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội nhất là Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Giám sát tối cao là quyền hiến định duy nhất mà chỉ có Quốc hội với vị trí, vai trò trong hệ thống bộ máy nhà nước là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân mới được thực hiện. Vì thế, quyền này chỉ có thể tiến 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2