Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ
lượt xem 12
download
Đề tài nghiên cứu có cấu trúc gồm 3 chương trình bày những vấn đề chung về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả; pháp luật về bảo hộ quyền tác giả của Hoa Kỳ; bài học kinh nghiệm và giải pháp kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN ANH HÙNG VẤN ĐỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP LUẬT HOA KỲ luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
- KHOA LUẬT TRẦN ANH HÙNG VẤN ĐỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP LUẬT HOA KỲ Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến Hµ néi - 2009
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ, BẢO 5 HỘ QUYỀN TÁC GIẢ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền tác giả 5 1.1.1. Sơ lược sự ra đời và phát triển của quyền tác giả 5 1.1.2. Khái niệm quyền tác giả 7 1.1.3. Đặc điểm của quyền tác giả 10 1.2. Bảo hộ quyền tác giả 14 1.2.1. Bản quyền tác giả và việc bảo hộ bản quyền tác giả 14 1.2.2. Ý nghĩa và các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả 18 1.2.2.1. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả 18 1.2.2.2. Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả 25 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CỦA HOA KỲ 27 2.1. Lược sử hình thành và phát triển của Luật Quyền tác giả 27 Hoa Kỳ 2.2. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật Quyền tác giả 30 2.2.1. Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả 30 2.2.2. Chủ sở hữu quyền tác giả 34 2.3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và những hạn chế đối với 37 quyền tác giả 2.3.1. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả 37
- 2.3.2. Những hạn chế đối với quyền tác giả 40 2.4. Ký hiệu và đăng ký quyền tác giả 43 2.4.1. Ký hiệu quyền tác giả 43 2.4.2. Đăng ký quyền tác giả 46 2.5. Cục Bản quyền tác giả và Ban trọng tài nhuận bút quyền 54 tác giả 2.5.1. Cục Bản quyền tác giả 54 2.5.2. Ban trọng tài nhuận bút quyền tác giả 56 2.6. Xâm phạm quyền tác giả và các biện pháp thực thi 57 Chương 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 68 KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI VIỆT NAM 3.1. So sánh pháp luật bảo hộ quyền tác giả của Hoa Kỳ và 68 Việt Nam 3.1.1. Những điểm tương đồng trong các qui định pháp luật về bảo 68 hộ quyền tác giả của Hoa Kỳ và Việt Nam 3.1.2. Những điểm khác biệt trong các quy định pháp luật về bảo 75 hộ quyền tác giả của Hoa Kỳ và Việt Nam 3.2. Một số bài học kinh nghiệm đối với công tác lập pháp và 78 thực thi pháp luật quyền tác giả tại Việt Nam 3.2.1. Quản lý nhà nước về quyền tác giả 78 3.2.2. Trình tự, thủ tục đăng ký bản quyền tác giả 79 3.2.3. Hệ thống chế tài trong việc thực thi bảo hộ quyền tác giả 81 3.2.4. Vai trò của các Hiệp hội liên quan đến quyền tác giả 82 3.2.5. Vấn đề bản quyền và văn hóa 85 3.2.6. Giải quyết những thách thức về vấn đề bản quyền trong thời 86 đại kỹ thuật số - nội dung trọng tâm của việc bảo hộ quyền tác giả trong giai đoạn hiện nay
- 3.2.6.1. Những nét đặc trưng của công nghệ số có liên quan đến 86 bản quyền 3.2.6.2. Những điểm đáng lưu ý của pháp luật Hoa Kỳ đối với việc 87 bảo hộ quyền tác giả trong thời đại kỹ thuật số 3.3. Một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả 92 thực thi pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam 3.3.1. Khái quát một số kết quả trong công tác lập pháp về bảo hộ 92 quyền tác giả tại Việt Nam 3.3.2. Một số tồn tại và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả 99 thực thi pháp luật bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam 3.3.2.1. Một số tồn tại trong các quy định pháp luật về quyền tác giả 99 của Việt Nam theo chuẩn quốc tế 3.3.2.2. Một số giải pháp kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả 105 thực thi pháp luật bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam trong điều kiện hiện nay KẾT LUẬN 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các sản phẩm của sự sáng tạo trí tuệ mang tính phi vật chất và dễ phổ biến, khai thác rộng rãi ở nhiều quốc gia khác nhau. Hơn nữa, sự sáng tạo và các sản phẩm của sự sáng tạo trí tuệ được coi là tiền đề, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội loài người. Do vậy, việc bảo hộ quyền tác giả đối với các sản phẩm của sự sáng tạo trí tuệ ở các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hoa Kỳ là nước công nghiệp rất phát triển, các qui định của pháp luật về quyền tác giả rất chặt chẽ, vấn đề bảo hộ cũng như thực thi các xâm phạm quyền tác giả được coi trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của quốc gia này nhằm phục vụ công tác xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn của Việt Nam và đồng thời là bên tham gia ký kết hiệp định về Quyền tác giả năm 1997, Hiệp định Thương mại năm 2000; hai nước cùng là thành viên của Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả. Do đó, việc nghiên cứu, tiếp thu, tiến tới sự tương thích về pháp luật trong lĩnh vực quyền tác giả giữa hai nước là điều kiện hết sức quan trọng trong giao lưu, hợp tác về kinh tế, thương mại, văn hóa. Tuy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng như vậy nhưng vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong pháp luật Hoa Kỳ chưa được các nhà khoa học pháp lý Việt Nam đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Chình ví vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ" làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã có một số bài báo và công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa 1
- Kỳ nói riêng, pháp luật nước ngoài nói chung ở một số khía cạnh hoặc đối với một số đối tượng cụ thể như: Bản ghi, băng đĩa, tác phẩm nghe nhìn, tác phẩm kiến trúc, v.v... Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách công phu và đầy đủ ở cấp độ một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ về đề tài bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ. Bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ mới chỉ được nghiên cứu bằng các bài viết, tranh luận trong các Hội thảo khoa học hoặc trên một số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo hay sách tham khảo; hay được đề cập với tư cách là một khía cạnh của các chế định quyền tác giả. Do đó, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh đề tài bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ đòi hỏi các nhà khoa học cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên khảo và sâu sắc hơn. Vì vậy, tác giả hy vọng với sự đầu tư và nghiên cứu thích đáng vào luận văn thạc sĩ về đề tài Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ, sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị cả về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Việc nghiên cứu vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ có nhiều nội dung liên quan đến các qui định trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng như trong hệ thống pháp luật quốc tế. Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh chế định bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ mà cụ thể là: - Những vấn đề lí luận cơ bản về quyền tác giả như: khái niệm, đặc điểm, đối tượng, chủ thể của quyền tác giả; - Những vấn đề lí luận cơ bản về vấn đề bảo hộ quyền tác giả như: sự hình thành, phát triển của pháp luật thế giới về bảo hộ quyền tác giả, ý nghĩa và các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả; 2
- - Phân tích các quy định về bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ; - Đánh giá sự tương quan và khác biệt trong hệ thống quy định pháp luật về quyền tác giả của Hoa Kỳ với Việt Nam và các qui định của pháp luật quốc tế để đề xuất những sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn nữa các qui định về quyền tác giả tại Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau: - Phân tích, tổng kết các vấn đề lí luận về quyền tác giả như: khái niệm, đặc điểm, đối tượng, chủ thể của quyền tác giả. - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về bảo hộ quyền tác giả trong pháp luật quốc tế; phân tích ý nghĩa, nội dung các nguyên tắc cơ bản trong bảo hộ quyền tác giả. - Phân tích các quy định về bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ; - So sánh quy định pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam và Hoa Kỳ. - Trên cơ sở những nghiên cứu đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam để có sự hài hòa với pháp luật của đối tác thương mại Hoa Kỳ và phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học luật tư pháp quốc tế, các công trình của các nhà khoa học - luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo hàng năm, các chuyên đề, tài liệu hội thảo của Cục Bản quyền tác giả Văn học - 3
- nghệ thuật, của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số vụ tranh chấp quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ trong thực tiễn. Thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ các vấn đề lí luận cơ bản về quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả; phân tích hệ thống quy định pháp luật hiện hành của Hoa Kỳ về bảo hộ quyền tác giả;so sánh tương quan với pháp luật Việt Nam; đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế. Về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì Hoa Kỳ là quốc gia có hệ thống quy định về quyền tác giả tiên tiến trên thế giới, đồng thời là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Luật Dân sự và Tư pháp quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả. Chương 2: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả của Hoa Kỳ. Chương 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam. 4
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ, BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TÁC GIẢ 1.1.1. Sơ lƣợc sự ra đời và phát triển của quyền tác giả [19] Trong thời kỳ Cổ đại và thời kỳ Trung cổ người ta chưa biết đến quyền cho một tác phẩm trí tuệ. Các quy định luật pháp chỉ có cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu, như không được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được phép chép lại từ quyển sách đó. Việc nhiều nghệ sĩ và tác giả cùng làm việc trong một đề tài là một trường hợp bình thường, cũng như việc các nhạc sĩ khác lấy hay thay đổi các bài hát và tác phẩm âm nhạc. Khi không muốn bài viết bị thay đổi tác giả chỉ còn có cách gắn một lời nguyền rủa vào quyển sách của mình như Eike von Repgow, tác giả của Sachsenspiegel, một quyển sách ghi chép lại các luật lệ đương thời, đã nguyền rủa những người giả mạo tác phẩm của ông sẽ bị bệnh hủi. Cùng với phát minh in (khoảng năm 1440), các bản sao chép lại của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn một cách dễ dàng hơn. Nhưng tác giả vẫn chưa có được "quyền tác giả" ở bên cạnh và còn phải vui mừng là chẳng những tác phẩm được in mà nhà in hay nhà xuất bản còn trả cho một số tiền cho bản viết tay. Thế rồi đi đến trường hợp là bản in đầu tiên bị các nhà in khác in lại. Việc này làm cho việc kinh doanh của nhà in đầu tiên khó khăn đi vì người này đã đầu tư lao động nhiều hơn và có thể cũng đã trả tiền cho tác giả, những người in lại tự nhiên là có thể mời chào sản phẩm của họ rẻ tiền hơn. Tác giả cũng có thể không bằng lòng với các bản in lại vì những bản in lại này thường được sản xuất ít kỹ lưỡng hơn: có lỗi hay thậm chí bài viết còn bị cố ý sửa đổi. 5
- Vì thế, để chống lại tệ in lại, các nhà in đã xin các quyền lợi đặc biệt từ phía chính quyền, cấm in lại một tác phẩm ít nhất là trong một thời gian nhất định. Lợi ích của nhà in trùng với lợi ích của nhà cầm quyền vì những người này muốn có ảnh hưởng đến những tác phẩm được phát hành trong lãnh địa của họ. Đặc biệt là nước Pháp do có chế độ chuyên chế sớm nên đã thực hiện được điều này, ít thành công hơn là ở Đức. Tại Đức một số hầu tước còn cố tình không quan tâm đến việc các nhà xuất bản vi phạm các đặc quyền từ hoàng đế nhằm để giúp đỡ các nhà xuất bản này về kinh tế và để mang vào lãnh thổ văn học đang được ưa chuộng một cách rẻ tiền. Những ý tưởng của Phong trào Khai sáng phần lớn là đã được truyền bá bằng các bản in lậu. Khi thời kỳ Phục hưng bắt đầu, cá nhân con người trở nên quan trọng hơn và đặc quyền tác giả cũng được ban phát để thưởng cho những người sáng tạo ra tác phẩm của họ. Tại nước Đức thí dụ như là Albrecht Dürer (1511) đã được công nhận một đặc quyền như vậy. Nhưng việc bảo vệ này chỉ dành cho người sáng tạo như là một cá nhân (quyền cá nhân) và chưa mang lại cho tác giả một thu nhập nào. Giữa thế kỷ XVI, các đặc quyền lãnh thổ được đưa ra, cấm in lại trong một vùng nhất định trong một thời gian nhất định. Khi các nhà xuất bản bắt đầu trả tiền nhuận bút cho tác giả thì họ tin rằng cùng với việc này họ có được một độc quyền kinh doanh (thuyết về sở hữu của nhà xuất bản), ngay cả khi họ không có đặc quyền cho tác phẩm này. Vì thế mà việc in lại bị cấm khi các quyền từ tác giả được mua lại. Mãi đến thế kỷ XVIII, lần đầu tiên mới có các lý thuyết về các quyền giống như sở hữu cho các lao động trí óc (và hiện tượng của sở hữu phi vật chất). Trong một bộ luật của nước Anh năm 1710, Statue of Anne, lần đầu tiên một độc quyền sao chép của tác giả được công nhận. Tác giả sau đó nhượng quyền này lại cho nhà xuất bản. Sau một thời gian được thỏa thuận trước tất cả các quyền lại thuộc về tác giả. Tác phẩm phải được ghi vào trong danh mục của nghiệp hội các nhà xuất bản và phải có thêm ghi chú copyright để 6
- được bảo vệ. Phương pháp này được đưa vào ứng dụng tại Mỹ vào năm 1795 (yêu cầu phải ghi vào danh mục được bãi bỏ tại Anh vào năm 1956 và tại Hoa Kỳ vào năm 1978). Ý tưởng về sở hữu trí tuệ phần lớn được giải thích bằng thuyết về quyền tự nhiên (tiếng Anh: natural law). Tại Pháp một Propriété littéraire et artistique (sở hữu văn học và nghệ thuật) được đưa ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793. Tại nước Phổ một bảo vệ tương tự cũng được đưa ra vào năm 1837. Cũng vào năm 1837 Hội đồng liên bang của Liên minh Đức quyết định thời hạn bảo vệ từ khi tác phẩm ra đời là 10 năm, thời hạn này được kéo dài thành 30 năm sau khi tác giả qua đời (post mortem auctoris) vào năm 1845. Trong Liên minh Bắc Đức việc bảo vệ quyền tác giả được đưa ra vào năm 1857 và được Đế chế Đức thu nhập và tiếp tục mở rộng sau đó. Trong Đệ tam Đế chế các tác giả chỉ là "người được ủy thác trong nom tác phẩm" cho cộng đồng nhân dân. 1.1.2. Khái niệm quyền tác giả Khi một người tạo ra một tác phẩm văn học, âm nhạc, khoa học hay nghệ thuật, thì người đó sẽ trở thành chủ sở hữu của tác phẩm đó và tự do quyết định việc sử dụng nó, những người này được gọi là "nhà sáng tạo", "tác giả " hay "chủ sở hữu quyền" và họ có quyền kiểm soát số phận của tác phẩm. Một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả kể từ thời điểm tác phẩm được ra đời nên không cần tiến hành thủ tục gì, như đăng ký hoặc nộp lưu chiểu, để tác phẩm đó có điều kiện được bảo hộ. Bản thân các ý tưởng thì không được bảo hộ mà chỉ bảo hộ cách thức mà chúng được thể hiện. Quyền tác giả - một bộ phận quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ - có đối tượng là một loại tài sản đặc biệt, là những sản phẩm trí tuệ có đặc tính chung là trừu tượng và vô hình (không giống với đối tượng của quyền sở hữu là tài sản hữu hình). Theo một cách chung nhất, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) định nghĩa quyền tác giả như sau: "Quyền tác giả là một thuật ngữ pháp lý chỉ quyền của người sáng tác đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ" [38]. 7
- Quyền tác giả là sự bảo hộ pháp lý dành cho chủ sở hữu các quyền đối với một tác phẩm nguyên gốc mà người đó tạo ra. Quyền tác giả hay tác quyền (tiếng Anh: copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) thí dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là sở hữu trí tuệ (intellectual property), vì thế việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ phải đi đôi với nhau. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất. Quyền tác giả bao gồm hai nhóm quyền chính: các quyền kinh tế và các quyền tinh thần - quyền nhân thân. Quyền tài sản là quyền của tác giả cho phép người khác khai thác tác phẩm của mình và hưởng lợi ích vật chất từ việc khai thác đó. Theo thông lệ và tập quán quốc tế thì quyền tài sản của tác giả được thực hiện thông qua việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình đã được bảo hộ bằng Luật Quyền tác giả. Pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật quốc tế, hầu hết đề ghi nhận rằng tác giả có quyền cho phép hoặc ngăn cấm người khác thực hiện các công việc cụ thể liên quan tới tác phẩm như sao in tác phẩm, trình diễn trước công chúng, phát thanh hoặc truyền tải tới công chúng qua các phương tiện thông tin đại chúng, dịch tác phẩm, chuyển thể tác phẩm… Quyền nhân thân trong quyền tác giả được thực hiện để giữ mối quan hệ cá nhân giữa tác giả với tác phẩm. Quyền nhân thân này còn được sử dụng với tên gọi quyền tinh thần và bao gồm: quyền được đòi hỏi xác định chặt chẽ mối quan hệ giữa tác giả với tác phẩm; quyền được phản đối bất kỳ sự sửa đổi 8
- hoặc bóp méo, xuyên tác tác phẩm; quyên lên án, tố các những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tác phẩm, làm phương hại thanh danh, tiếng tăm của tác giả. Quyền nhân thân được xem là độc lập với quyền tài sản và nói chung vẫn được dành cho tác giả, kể cả sau khi tác giả đã chuyển giao quyền của mình cho tổ chức, cá nhân khác Cả hai nhóm quyền này thuộc về người sáng tạo ra tác phẩm - người có thể thực hiện các quyền đó. Thực hiện các quyền có nghĩa là anh ta có thể tự mình sử dụng tác phẩm hoặc cho phép người khác sử dụng tác phẩm hoặc cấm người khác sử dụng tác phẩm của mình. Nguyên tắc chung là các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả không thể được sử dụng khi không được phép của chủ sở hữu quyền. Tuy nhiên, có một số ít ngoại lệ được thể hiện trong luật bản quyền của các quốc gia. Theo nguyên tắc, thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và tối thiểu 50 năm sau khi tác giả qua đời. Các khía cạnh pháp lý này được cụ thể hóa trong các công ước quốc tế mà hiện nay hầu hết các quốc gia đều là thành viên. Khi gia nhập, các quốc gia thành viên phải có hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Ở cấp độ quốc tế, các quyền kinh tế và tinh thần được thừa nhận trong Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được thông qua năm 1886, Công ước này đã được sửa đổi nhiều lần có tính đến tác động của công nghệ mới đối với mức độ bảo hộ mà nó quy định. Công ước này do Tổ chức Sở hữu Thế giới (WIPO), một trong những cơ quan quốc tế chuyên ngành của hệ thống Liên hợp quốc, quản lý. Quyền tác giả là quyền của tổ chức cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo quan điểm của Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ (United States Copyright Office) trực thuộc Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (Library of Congress): "Quyền tác giả là một sự bảo hộ pháp lý của Nhà nước dành cho tác giả đối với tác phẩm nguyên gốc mà người đó tạo ra, bao gồm tác phẩm văn học, tác phẩm 9
- kịch, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm mỹ thuật và một số sản phẩm trí tuệ khác. Sự bảo hộ này có giá trị đối với cả các tác phẩm công bố và không công bố". Tóm lại, các quan điểm trong khoa học pháp lý của Việt Nam, Hoa Kỳ cũng như quan điểm của các tổ chức quốc tế về cơ bản đều thống nhất: Quyền tác giả là quyền của người sáng tác đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do họ sáng tạo. Quyền tác giả bao gồm những quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả liên quan đến tác phẩm; các quyền này được bảo hộ bởi pháp luật. 1.1.3. Đặc điểm của quyền tác giả Thứ nhất, quyền tác giả là quyền gắn liền với nhân thân, danh tiếng của của chủ thể sáng tạo, là sự thể hiện quyền cơ bản của con người, đó là quyền tự do sáng tạo Lao động, sáng tạo là một trong các đặc tính và cũng chính là động lực phát triển của loài người. Chính vì vậy, quyền lao động, trong đó có lao động trí óc là một quyền cơ bản của con người. Theo quá trình phát triển của nhân loại, lao động trí óc ngày càng có vai trò quan trọng, quyền lao động sáng tạo trong lĩnh vực này không chỉ được bảo vệ mà còn khuyến khích vì sự tiến bộ của loài người. Tất cả mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học để sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ và khi sáng tạo ra tác phẩm họ trở thành tác giả có các quyền được pháp luật bảo hộ đối với tác phẩm của mình. Điều đó đã được Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyề n của Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định tại Điều 27: 1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được thưởng thức nghê ̣ thuật và chia xẻ những thành tựu và lợi ích của tiến bộ khoa học. 2. Mọi người đều có quyền được bảo hộ đối với những quyề n lợi về vật chấ t và tinh thầ n xuấ t phát từ công trình khoa học , văn học và nghê ̣ thuật mà người đó là tác giả [20]. 10
- Sự khẳng định này cho thấy quyền tác giả có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó là một quyền cơ bản của con người, gắn liền với quá trình sáng tạo và phát triển của con người. Quyền tác giả cần phải được bảo hộ không chỉ trong các quy định pháp luật quốc gia mà còn cả những cam kết quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Thứ hai, quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây: (i) Đặt tên cho tác phẩm; (ii) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; (iii) Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; và (iv) Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: (i) Làm tác phẩm phái sinh; (ii) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; (iii) Sao chép tác phẩm; (iv) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; (v) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; và (vi) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan tiến hành các biện pháp hành chính hoặc chế tài chống lại các vi phạm quyền tác giả. Thứ ba, quyền tác giả có thể trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán (chuyển quyền) Quyền tác giả là sự bảo hộ của pháp luật đối với sự sáng tạo từ trí óc con người. Đối tượng của quyền tác giả là các sáng tác văn học, nghệ thuật và khoa học - là những thành quả lao động trí tuệ (được thể hiện dưới hình thức nhất định). Do đó, đối tượng của quyền tác giả có đặc tính vô hình phân biệt với đối tượng của quyền sở hữu tài sản hữu hình. Với sở hữu tài sản, thông thường người ta hiểu theo nghĩa truyền thống là sở hữu tài sản vật chất, tài sản hữu hình - là những tài sản mà con người có 11
- thể chiếm giữ, sờ, nắm được. Đối với sở hữu trí tuệ, đối tượng sở hữu là tài sản tinh thần, không thể cần nắm một cách cụ thể. Sự khác biệt về đối tượng sở hữu đó đã tạo ra sự khác biệt trong nội dung quyền sở hữu tài sản với sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng. Trong sở hữu tài sản, với tính chất hữu hình của đối tượng sở hữu thì quyền chiếm hữu đặc biệt quan trọng bởi vì quyền sở hữu chỉ có ý nghĩa khi chủ sở hữu là người nắm giữ, quản lý tài sản trong thực tế hoặc việc nắm giữ, quản lý tài sản được thực hiện bởi người khác được chủ sở hữu cho phép. Đối với quyền tác giả, các đối tượng là tài sản trí tuệ có đặc tính vô hình. Sau khi được bộc lộ công khai có thể lan truyền vô giới hạn nên quyền chiếm hữu đối tượng vật chất cụ thể mà trên đó tác phẩm được thể hiện không có ý nghĩa trong trường hợp này. Điều 202 Luật Quyền tác giả của Hoa Kỳ cũng quy định: "Quyền sở hữu quyền tác giả tác phẩm là độc lập với quyền sở hữu bất kỳ đối tượng vật chất thể hiện nào mà trên đó tác phẩm được thể hiện" [6]. Do mang đặc tính vô hình, nên các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả bao giờ cũng phức tạp hơn sơ với các tranh chấp tài sản hữu hình. Là đối tượng của quyền sở hữu, nên các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có thể trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán. Tuy nhiên, sự mua bán này có những đặc thù nhất định. Nếu như các tài sản thông thường khác sau khi chuyển quyền sở hữu thông qua các giao dịch mua bán, người mua có toàn quyền đối với tài sản đó, còn giao dịch mua bán quyền tác giả được thực hiện song, chủ sở hữu tác phẩm vẫn có quyền đòi hỏi bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm của mình. Quyền nhân thân được xem là độc lập với quyền tài sản và nói chung vẫn được dành cho tác giả, kể cả sau khi tác giả đã chuyển giao quyền của mình cho tổ chức, cá nhân khác [16, tr. 20]. Thứ tư, đối tượng của quyền tác giả được định hình dưới một dạng vật chất nhất định và thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ quyền tác giả dễ bị xâm phạm hơn. 12
- Đặc tính của các đối tượng của quyền tác giả (quyền sở hữu trí tuệ nói chung) là vô hình nên xã hội thường tiếp cận với các đối tượng này thông qua các dạng cụ thể của chúng, tức là khi chúng được vật chất hóa hoặc được thể hiện trên vật mang cụ thể. Sự sáng tạo, ý tưởng của con người là trừu tượng và không giới hạn. Không ai trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay sờ vào những ý tưởng sáng tạo về văn học, nghệ thuật và khoa học. Người ta chỉ có thể tiếp cận, cảm nhận về tác phẩm thông qua các từ ngữ, âm thanh, nốt nhạc, màu sắc, đường nét, hình dáng … và cách thức tác giả lựa chọn, sắp xếp chúng. Quyền tác giả đối với tác phẩm giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm bởi vì không một ai có thể biết được những vấn đề nằm trong suy nghĩ của người khác. Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp, trình bày đã có trong suy nghĩ của tác giả nhưng chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không có căn cứ để công nhận và bảo hộ. Thứ năm, quyền tác giả xác lập theo cơ chế bảo hộ tự động và được bảo bộ một cách không tuyệt đối. Quyền tác giả phát sinh và được bảo hộ về mặt pháp lý từ thời điểm sáng tạo ra tác phẩm mà không phụ thuộc vào thể thức và thủ tục đăng ký nào. Quyền tác giả được phát sinh mặc nhiên từ thời điểm tác phẩm được thể hiện dưới hình thức xác định mà người khác có thể nhận biết được. Quy định pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới đều xác định cơ chế bảo hộ tự động đối với quyền tác giả. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả mà chỉ có giá trị là chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp về quyền tác giả. Quyền tác giả là quyền cơ bản của con người, được pháp luật bảo hộ chặt chẽ theo cơ chế tự động. Tuy nhiên, sự bảo hộ đó cũng không phải hoàn toàn tuyệt đối. Việc sử dụng các tác phẩm đã được công bố, phổ biến và tác 13
- phẩm không bị cấm sao chụp mà không nhằm mục đích kinh doanh; không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai thác bình thường của tác phẩm; không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả thì không bị coi là vi phạm quyền tác giả. Trong Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ cũng có quy định về các trường hợp như vậy và được gọi là trường hợp "sử dụng hợp lý" (điều này sẽ được phân tích ở chương 2 của luận văn). 1.2. BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ 1.2.1. Bản quyền tác giả và việc bảo hộ bản quyền tác giả Bản quyền tác giả là bản quyền của người sáng tác ra tác phẩm có bản quyền hoặc là của người thuê người sáng tác ra tác phẩm có bản quyền trong phạm vi công việc được thuê, người thuê có thể là cá nhân hoặc công ty, hay trong một số trường hợp là bên hưởng hoa hồng đối với một số loại hình tác phẩm đặc biệt. "Tác giả" trong luật bản quyền không chỉ bao gồm nhà văn, nhà viết kịch, viết chuyên luận mà còn bao gồm cả lập trình viên máy tính, người sắp xếp dữ liệu trong sách tham khảo, người sáng tác và dàn dựng múa, nhiếp ảnh gia, nhà điêu khắc đá, họa sĩ vẽ tranh bích họa, người viết lời bài hát, người thu âm và người dịch sách. Bản quyền là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tác ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng [9]. Bản quyền chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật có giá trị văn hóa khác. Khi nghệ sĩ và người sáng tác đưa ra những hình thức thể hiện khác thì những loại hình thể hiện mới này cũng được bao gồm trong trong những công trình được bảo hộ bản quyền. Các chương trình máy tính và ghi âm giờ đây cũng được bảo vệ. Bản quyền cũng được bảo vệ lâu hơn nhiều so với một số hình thức sở hữu trí tuệ khác. Công ước Berne, công ước quốc tế được ký năm 1886, theo đó các nước tham gia công ước công nhận các tác phẩm được bảo hộ bản 14
- quyền của các nước thành viên, quy định rằng thời gian bảo hộ bản quyền là 50 năm kể từ khi tác giả qua đời. Theo Công ước Berne thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các tác phẩm có giá trị khác được bảo hộ bản quyền ngay từ khi ra đời. Tác giả không cần phải đăng ký chính thức quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình tại những quốc gia là thành viên của Công ước đó. Tuy nhiên, Công ước Berne cho phép cấp bản quyền có điều kiện, chẳng hạn như trường hợp của Hoa Kỳ chỉ bảo hộ bản quyền đối với những tác phẩm được sáng tác theo những hình thức nhất định. Nhiều nước cũng có các trung tâm bản quyền quốc gia để quản lý hệ thống bản quyền. Chẳng hạn, Hoa Kỳ, Hiến pháp cho phép Quốc hội ban hành luật để thiết lập hệ thống bản quyền và hệ thống này do Phòng Bản quyền thuộc Thư viện Quốc hội quản lý. Phòng Bản quyền của Hoa Kỳ là nơi nhận các khiếu nại về bản quyền và là nơi các văn bản liên quan tới bản quyền được lưu giữ khi đáp ứng được các yêu cầu của luật bản quyền Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối với tất cả các tác phẩm - kể cả tác phẩm nước ngoài - thì việc đăng ký bản quyền mau lẹ ở Hoa Kỳ sẽ đem lại những thuận lợi với chi phí không đáng kể. Khả năng nhanh chóng đăng ký quyền bảo hộ bản quyền đã làm cho các ngành công nghiệp giải trí khổng lồ của Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ. Theo báo cáo năm 2004 của Stephen Siwek về các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền trong nền kinh tế Hoa Kỳ thì các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền "chủ yếu" ở Hoa Kỳ đóng góp 6% vào GDP năm 2002 của Hoa Kỳ, hay 626,2 tỷ đô-la Mỹ. Báo cáo định nghĩa các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền "chủ yếu" là ngành báo chí, xuất bản sách, ghi âm, âm nhạc, tạp chí thường kỳ, phim ảnh, chương trình truyền hình và phát thanh, phần mềm máy tính. Trong báo cáo năm 2004 thì cửa hàng sách và quầy bán báo cũng được đưa thêm vào danh sách các ngành công nghiệp "chủ yếu". Chỉ tác giả hay những người được tác giả trao quyền - chẳng hạn như nhà xuất bản - mới có toàn quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy nhiên, cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì quyền đó cũng có giới hạn. Ví 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 114 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn