Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới
lượt xem 7
download
Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề chung về kết hôn và giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài được quy định trong pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, từ đó so sánh với pháp luật một số nước; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; dua quá trình nghiên cứu đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Công trình được hoàn thành KHOA LUẬT tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hồng Bắc HOÀNG NHƯ THÁI VẤN ĐỀ KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM Phản biện 1: VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM, SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Phản biện 2: Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm thông tin - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung HÀ NỘI - 2012 tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 1 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾT HÔN VÀ GIẢI 5 QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm, nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật về kết 5 hôn có yếu tố nước ngoài 1.1.1. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài 5 1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật về kết hôn 10 1.2. Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước 13 ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước 1.2.1. Các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố 13 nước ngoài 1.2.2. Các nguyên tắc chuyên biệt điều chỉnh quan hệ kết hôn có 19 yếu tố nước ngoài tại Việt Nam 1.3. Các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn 24 giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài 1.3.1. Phương pháp thực chất 24 1.3.2. Phương pháp xung đột 25 1.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài 26 1.4.1. Pháp luật trong nước 26 1.4.2. Điều ước quốc tế 27
- 1.4.3. Tập quán quốc tế 28 1.4.4. Mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan 29 hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN GIỮA 32 CÔNG DÂN VIỆT NAM VÀ NGƢỜI NƢỚC NGOÀI SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Giải quyết vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người 32 nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới 2.1.1. Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn giữa công 32 dân Việt Nam và người nước ngoài so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới 2.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn giữa công 44 dân Việt Nam và người nước ngoài 2.2. Giải quyết vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người 58 nước ngoài trong các hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với nước ngoài 2.2.1. Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn trong các 59 hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với nước ngoài 2.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn trong các 61 hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với nước ngoài Chương 3: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN 63 VIỆT NAM VỚI NGƢỜI NƢỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NÀY 3.1. Tình hình chung về kết hôn giữa công dân Việt Nam và người 63 nước ngoài 3.1.1. Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài 63 3.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh về kết hôn giữa 74 công dân Việt Nam và người nước ngoài
- 3.2. Một số kiến nghị 80 3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý giải quyết xung đột pháp luật về kết 80 hôn có yếu tố nước ngoài 3.2.2. Kiến nghị trong quản lý nhà nước về kết hôn giữa công dân 83 Việt Nam và người nước ngoài KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới chính sách, pháp luật góp phần quan trọng vào quá trình giao lưu dân sự quốc tế điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Cụ thể, để giải quyết vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành: Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi tắt là Nghị định 68/NĐ-CP); Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi tắt là Nghị định 69/NĐ-CP);... Bên cạnh đó chúng ta còn ký kết rất nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước để giải quyết vấn đề về kết hôn có yếu tố nước ngoài. Có thể nói đây là một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, từ luật, các văn bản hướng dẫn và cả các hiệp định tương trợ tư pháp. Các văn bản pháp luật này điều chỉnh toàn diện vấn đề hôn nhân và gia đình từ kết hôn, ly hôn, quan hệ pháp lý giữa vợ chồng, quan hệ cha mẹ và con, vấn đề nuôi con nuôi, giám hộ, xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền. So với giai đoạn trước đó (giai đoạn trước năm 1986), pháp luật còn đơn giản, chưa có hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ các quan hệ một phần do trình độ lập pháp, một phần do hoàn cảnh lịch sử nước ta khi đó mới đang dần củng cố quan hệ với các nước sau khi đất nước thoát khỏi chiến tranh, các mối quan hệ quốc tế này cũng mới chỉ đặt ra với các nước cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, quan hệ với các nước tư bản hầu như chưa có. 1
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dành hẳn một chương (chương XI) quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó xác định rõ nguyên tắc, cách giải quyết xung đột pháp luật và xung đột về thẩm quyền, đáp ứng được yêu cầu thực tế trong việc giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mặc dù trong thời gian vừa qua, các qui định pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài đã có những đóng góp nhất định nhưng vẫn còn thiếu sót và bộc lộ một số nhược điểm, nhất là trong xu thế ngày càng phát triển của quan hệ quốc tế. Ví dụ: điều luật quy định về việc kết hôn vi phạm "thuần phong mỹ tục" hay vì mục đích "trục lợi" chưa rõ ràng cụ thể dẫn đến khó áp dụng hoặc dễ bị lợi dụng khi áp dụng; chưa có điều luật quy định về hôn nhân đồng giới, hiện nay nước ta không công nhận vấn đề hôn nhân đồng giới nhưng một số nước trên thế giới đã công nhận và ban hành luật hôn nhân đồng giới. Pháp luật Việt Nam cần có quy định cụ thể hơn để dự liệu trường hợp có hôn nhân đồng giới có yếu tố nước ngoài xảy ra… Nhận thức được tính cấp thiết trên, chúng tôi đã mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu đề tài "Vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới", từ việc nghiên cứu pháp luật một số nước trên Thế giới đưa ra một số kiến nghị cho pháp luật Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ khá nhạy cảm và phức tạp. Do đó, đề tài nghiên cứu nhằm mục đích sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề chung về kết hôn và giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài được quy định trong pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, từ đó so sánh với pháp luật một số nước. - Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. 2
- - Qua quá trình nghiên cứu đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài. 3. Phạm vi nghiên cứu Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài là vấn đề tương đối rộng, vì vậy đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài theo pháp luật Việt Nam trong đó tập trung giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn và so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. 4. Tình hình nghiên cứu của đề tài Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả viết về đề tài kết hôn có yếu tố nước ngoài. Có thể kể đến công trình nghiên cứu của TS. Nông Quốc Bình, TS. Nguyễn Hồng Bắc với đề tài "Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế", Nxb Tư Pháp, Hà Nội 2006. TS. Trần Văn Chiến, Ths. Đinh Văn Quảng, Khoa xã hội học - Đại học khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh (2005) với bài viết "Tìm hiểu thực trạng phụ nữ kết hôn với người Đài Loan tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long". Nguyễn Bá Chiến với luận án tiến sĩ "Hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột của Việt Nam trong hội nhập quốc tế", luận án tiến sĩ Nguyễn Hồng Bắc với đề tài "Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới", TS. Nông Quốc Bình, TS. Nguyễn Hồng Bắc với đề tài "Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài những vấn đề lý luận và thực tiễn",... Tuy nhiên, các bài viết chủ yếu tìm hiểu về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, trong đó có đề cập đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật, hoặc chủ yếu bàn về quy phạm pháp luật xung đột nói chung chứ chưa đi sâu nghiên cứu pháp luật một số nước cụ thể trong sự so sánh với pháp luật Việt Nam để từ đó đưa ra kiến nghị cho pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong vấn đề kết hôn. Đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Về lý luận, nó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về hôn 3
- nhân gia đình nói riêng phù hợp với thực tiễn và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Về thực tiễn, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài phát triển dựa trên khuôn khổ pháp lý phù hợp góp phần thúc đẩy quan hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội… 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp duy vật biện chứng - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp lịch sử. - Phương pháp điều tra xã hội học. - Phương pháp thống kê. Đặc biệt là phương pháp so sánh, phương pháp này được sử dụng trong các nội dung của đề tài để làm rõ điểm tương đồng và khác biệt của pháp luật Việt Nam so với pháp luật một số nước trong giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về kết hôn và giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài. Chương 2: Những qui định của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài so sánh với pháp luật một số nước. Chương 3: Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 4
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾT HÔN VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 1.1. KHÁI NIỆM, NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 1.1.1. Khái niệm kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài Theo qui định khoản 2, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, kết hôn là "việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn" [43]. Như vậy, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qui định việc kết hôn phải đảm bảo hai yếu tố: - Hai bên nam, nữ phải thể hiện ý chí muốn kết hôn với nhau để xác lập quan hệ vợ chồng. Đảm bảo hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, không được cưỡng ép kết hôn hoặc kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, cấm tảo hôn. Điều đó có nghĩa kết hôn phải đảm bảo độ tuổi, đảm bảo sự phát triển tâm sinh lý ổn định đồng thời đảm bảo sự tự nguyện đến với nhau của người nam và nữ. Kết hôn để thiết lập quan hệ hôn nhân ổn định lâu dài, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, bền vững không vì mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần trong một thời điểm ngắn. Đảm bảo được yếu tố này thì sẽ đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý và là cơ sở xây dựng hạnh phúc bền vững. - Yếu tố thứ hai, phải được Nhà nước thừa nhận: Đây là yếu tố đảm bảo sự tồn tại về mặt pháp lý của quan hệ hôn nhân, là cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân. Tại Điều 64 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) qui định: "Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình". Nhà nước chỉ bảo hộ quan hệ hôn nhân hợp pháp, đó là quan hệ hôn nhân tuân thủ các qui định pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam. 5
- Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thuộc nhóm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đặc biệt. Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng được hình thành trên nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện của hai bên nam, nữ thống nhất đến với nhau, đăng ký kết hôn xác lập quan hệ hôn nhân bền vững, tạo nên tính đặc biệt của quan hệ. Các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về "yếu tố nước ngoài" trong quan hệ dân sự nói chung và trong quan hệ kết hôn nói riêng. Để xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự, các quốc gia thường căn cứ vào ba dấu hiệu: i) Quan hệ đó có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài; ii) Đối tượng của quan hệ đó là tài sản hoặc quyền tài sản và quyền nhân thân được thực thi ở nước ngoài; iii) Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Theo Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [45]. Như vậy, yếu tố nước ngoài được xác định căn cứ vào các tiêu chí sau: Thứ nhất, căn cứ vào chủ thể: có ít nhất một trong các bên tham gia quan hệ dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài (sau đây gọi tắt là người nước ngoài). Theo khoản 2, 3 Điều 3 Nghị định 138/NĐ-CP: Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm: người có quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch; người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người có quốc tịch Việt Nam, người gốc Việt Nam đang làm ăn, cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. 6
- Thứ hai, căn cứ vào các sự kiện pháp lý để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ theo pháp luật nước ngoài hoặc phát sinh ở nước ngoài. Thứ ba, căn cứ đối tượng của quan hệ đó là tài sản ở nước ngoài. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tại khoản 14 Điều 8 và khoản 4 Điều 100, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình (gồm quan hệ kết hôn): - Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, tức là căn cứ vào yếu tố chủ thể tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình khác quốc tịch; - Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài, tức là căn cứ vào yếu tố sự kiện pháp lý và tài sản ở nước ngoài. - Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, căn cứ vào yếu tố nơi cư trú; - Giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài (khoản 4, điều 100), căn cứ vào yếu tố nơi cư trú. Việc xác định "yếu tố nước ngoài" trong quan hệ hôn nhân và gia đình theo Luật hôn nhân và gia đình căn cứ vào chủ thể, sự kiện pháp lý, đối tượng của quan hệ là tài sản, và nơi cư trú của các bên đương sự. Căn cứ yếu tố chủ thể: cũng giống như quy định của Bộ luật dân sự, các chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài gồm: công dân Việt Nam; người nước ngoài (gồm người có quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch và nhiều quốc tịch); người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Căn cứ sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia đình theo pháp luật nước ngoài, tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có 7
- các loại sự kiện pháp lý: sự kiện làm phát sinh, sự kiện làm thay đổi, sự kiện chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, sự kiện kết hôn chỉ là loại sự kiện làm phát sinh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Căn cứ nơi cư trú của các bên đương sự, đây là một căn cứ mới quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ kết hôn. Nơi cư trú của các bên đương sự trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất, công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài theo quy định tại khoản 4 Điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì các quy định tại chương XI của Luật này cũng được áp dụng đối với quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Với quy định này, pháp luật được áp dụng theo nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự. Việc áp dụng nguyên tắc này là hoàn toàn hợp lý, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta không có sự phân biệt đối xử giữa công dân Việt Nam ở trong nước và ngoài nước, đồng thời thể hiện chính sách "mở cửa", "hội nhập" với các nước trong khu vực và thế giới. Trường hợp thứ hai, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam theo quy định tại khoản 14 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng là một căn cứ xác định yếu tố nước ngoài của quan hệ kết hôn. Pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là pháp luật Việt Nam, tức là áp dụng nguyên tắc luật nơi cư trú. Việc áp dụng nguyên tắc này là hoàn toàn hợp lý vì người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam, các cơ quan thẩm quyền Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam sẽ giải quyết vụ việc nhanh chóng, thuận lợi do không phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Khác với pháp luật Việt Nam, yếu tố nước ngoài trong quan hệ kết hôn của pháp luật Trung Quốc quy định tại Điều 147, những nguyên tắc chung về pháp luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm: 8
- - Kết hôn giữa người Trung Quốc và người nước ngoài được đăng ký tại Trung Quốc; - Kết hôn giữa người Trung Quốc và người nước ngoài được đăng ký tại nước ngoài; - Kết hôn giữa người nước ngoài với nhau đăng ký tại Trung Quốc; - Kết hôn giữa người nước ngoài với nhau đăng ký tại nước ngoài. Như vậy, pháp luật Trung Quốc quy định kết hôn giữa người nước ngoài với nhau đăng ký ở nước ngoài phù hợp với pháp luật nơi đăng ký kết hôn thì cũng được công nhận tại Trung Quốc. Và những người nước ngoài đăng ký kết hôn tại Trung Quốc phải tuân theo pháp luật Trung Quốc cả về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn, kể cả khi người nước ngoài đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật nước họ là công dân nhưng theo pháp luật Trung Quốc chưa đủ điều kiện kết hôn cũng không được đăng ký kết hôn. Theo ý kiến tác giả thì quy định của Trung Quốc phù hợp với quy định pháp luật của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật dân sự Pháp, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm các quan hệ sau: - Kết hôn giữa công dân Pháp với nhau tại nước ngoài; - Kết hôn giữa công dân Pháp với người nước ngoài tại nước nước ngoài theo thủ tục của nước đó; và - Kết hôn giữa công dân Pháp với người nước ngoài tại nước ngoài do nhân viên ngoại giao hoặc nhân viên lãnh sự của Pháp thực hiện theo quy định của pháp luật Pháp (áp dụng ở những nước quy định trong lệnh của Tổng thống). Pháp luật Pháp không có quy định cụ thể về việc người nước ngoài kết hôn với nhau tại Pháp. 9
- So với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc nêu trên, pháp luật của Pháp có phạm vi điều chỉnh tương đối khác, pháp luật của Pháp có sự phân biệt kết hôn giữa công dân Pháp với người nước ngoài tại nước ngoài theo pháp luật Pháp và theo pháp luật của nước sở tại, đồng thời lại không quy định cụ thể trường hợp hai người nước ngoài kết hôn với nhau tại Pháp và theo quy định của pháp luật Pháp. Điều này sẽ gây khó khăn vì Pháp là một nước có tiềm năng lớn về du lịch, việc người nước ngoài đến Pháp và kết hôn tại Pháp sẽ rất phổ biến, nếu không có quy định điều chỉnh đối với các trường hợp này thì hoặc sẽ không phù hợp với thông lệ chung quốc tế hoặc sẽ hạn chế việc người nước ngoài đến Pháp và kết hôn tại Pháp. Từ phân tích trên đưa ra khái niệm: Kết hôn có yếu tố nước ngoài là quan hệ kết hôn phát sinh giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau cư trú tại nước ngoài mà căn cứ để xác lập quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài. 1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật về kết hôn Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động… (các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài nên các quan hệ Tư pháp quốc tế thường liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật. Nếu giữa các quốc gia đã ký kết các Điều ước quốc tế song phương và đa phương về tương trợ tư pháp thì các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài giữa các nước thành viên sẽ được điều chỉnh bởi điều ước đó. Nếu chưa có Điều ước quốc tế song phương hoặc quốc gia chưa tham gia Điều ước quốc tế đa phương về vấn đề này thì sẽ xuất hiện trường hợp cùng một quan hệ Tư pháp quốc tế nhưng lại được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật. Khoa học Tư pháp quốc tế gọi hiện tượng này là xung đột pháp luật (conflic of law). Ví dụ: Công dân Việt Nam kết hôn với công dân Mỹ tại Pháp. Trong trường hợp này, quan hệ kết hôn có yếu tố 10
- nước ngoài cùng lúc chịu sự điều chỉnh của ba hệ thống pháp luật khác nhau: hệ thống pháp luật của Việt Nam và Mỹ (hệ thuộc luật nhân thân - lex personalis) và hệ thống pháp luật của Pháp (hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn). Như vậy, nói một cách khái quát thì "xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh một quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể nào đó" [37, tr. 67]. Một số đặc điểm cơ bản của xung đột pháp luật rút ra từ định nghĩa trên như sau: - Xung đột pháp luật là nền tảng, cốt lõi, xuyên suốt, là vấn đề xương sống của Tư pháp quốc tế ở Việt Nam và các nước trên thế giới; - Xung đột pháp luật chỉ phát sinh khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề; - Bản chất của xung đột pháp luật là việc xác định hệ thống pháp luật được áp dụng (chọn luật áp dụng) Trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa ngày nay quan hệ dân sự theo nghĩa rộng nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng đã vượt ra ngoài phạm vi không gian hiệu lực của pháp luật quốc gia, nó liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật của hai hay nhiều quốc gia khác nhau. Xung đột pháp luật về kết hôn trước hết xuất phát từ bản chất xã hội và tính giai cấp của pháp luật, chính vì thế, quan điểm về kết hôn của các nước có chế độ xã hội, chính trị khác nhau là không giống nhau. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật tác động vào các quan hệ hôn nhân và gia đình, làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật là công cụ quản lý hữu hiệu của bất cứ Nhà nước nào để thực hiện chức năng của mình. Ví dụ ở những nước Hồi giáo (Ả Rập…) hiện nay vẫn công nhận chế độ đa thê, một người đàn ông có thể được lấy nhiều vợ (ở nước Ả Rập một người đàn ông được lấy 4 vợ) vì đạo giáo cho phép nên pháp luật cũng công nhận. Tuy nhiên quan điểm này lại là không tiến bộ và không công 11
- bằng, không bình đẳng đối với các nước không theo đạo Hồi. Và trường hợp người đàn ông Ả Rập kết hôn lần thứ hai với người phụ nữ ở nước không theo đạo Hồi khi cuộc hôn nhân trước vẫn đang tồn tại thì hôn nhân của họ sẽ không được công nhận và không đúng quy định pháp luật ở tại nước đó. Về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn, việc kết hôn liên quan đến công dân của quốc gia nào thì pháp luật quốc gia đó sẽ được áp dụng, vì quốc gia là một thực thể độc lập, có chủ quyền và bình đẳng với nhau nên pháp luật của quốc gia cũng phải bình đẳng với nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ xã hội liên quan đến quốc gia đó. Thừa nhận chủ quyền quốc gia và bình đẳng chủ quyền quốc gia thì phải thừa nhận sự bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia đó. Do đó, "một số quan hệ pháp luật mang tính chất tuyệt đối về lãnh thổ (hình sự, hành chính, tố tụng) thì vấn đề xung đột pháp luật cũng hầu như không được đặt ra" [37, tr. 69]. Tiếp đến là sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi một quốc gia. Mỗi một xã hội, một chế độ có điều kiện kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau thì pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn cũng có nội dung khác nhau. Ở những nước có nền kinh tế phát triển mạnh, chính sách quan hệ ngoại giao mở rộng thì đồng thời với việc phát triển các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, những quy định pháp luật về chế độ hôn nhân và gia đình nói chung, kết hôn nói riêng, về nguyên tắc cũng tiến bộ hơn ở những nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, khép kín. Sự thật là ở các nước phương Tây việc đón nhận một thành viên mới trong gia đình là người ngoại quốc cũng bình thường như đối với người trong nước, mọi người không quá thành kiến về việc lấy chồng, lấy vợ người nước ngoài. Quan niệm này khác xa với quan niệm người Việt Nam. Ngoài ra, sự khác nhau về phong tục, tập quán, lối sống văn hóa cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến những quy định về kết hôn trong pháp luật các nước. Như vậy, xung đột pháp luật nói chung và xung đột pháp luật về kết hôn là hiện tượng đặc thù trong Tư pháp quốc tế. Chỉ có Tư pháp quốc tế mới 12
- điều chỉnh quan hệ kết hôn vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ một quốc gia, thừa nhận sự tham gia điều chỉnh một quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật của các nước. Từ phân tích trên có thể định nghĩa xung đột pháp luật về kết hôn là trường hợp có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Từ định nghĩa xung đột pháp luật về kết hôn nêu trên có thể thấy các nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh xung đột pháp luật về kết hôn là: do pháp luật về hôn nhân gia đình của các nước quy định khác nhau; và do đặc điểm về nội dung của Tư pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình. 1.2. CÁC NGUYÊN TẮC ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC Theo lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, nguyên tắc của pháp luật là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng, thực tế pháp luật và bảo vệ các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật cũng như hệ thống các ngành luật cụ thể. Do vậy, "các nguyên tắc cơ bản về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung, kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong đó có kết hôn có yếu tố nước ngoài" [4, tr. 89-90]. Có thể phân chia các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thành các nguyên tắc chung và các nguyên tắc chuyên biệt. 1.2.1. Các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là một trong các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nên quan hệ này cũng chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 13
- Nguyên tắc điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo các qui phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Các nguyên tắc này được qui định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, ngoài các nguyên tắc qui định tại Điều 2, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn bao gồm các nguyên tắc: * Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp các qui định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Nguyên tắc này được qui định tại khoản 1 Điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia" [43]. Điều đó có nghĩa, các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về vấn đề liên quan. Ví dụ: nam công dân Hungary kết hôn với nữ Công dân Việt Nam tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Hungary về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thực hiện theo qui định pháp luật sẽ được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Tùy theo mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, các chủ thể có quyền sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi cho mình bằng các biện pháp hình sự hoặc hành chính. Tuy nhiên, khi thực hiện các biện pháp bảo vệ quan hệ hôn nhân và gia 14
- đình có yếu tố nước ngoài phải bảo đảm các biện pháp đó phù hợp với pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết. Trong trường hợp Điều ước quốc tế có quy định khác với pháp luật Việt Nam thì ưu tiên áp dụng Điều ước quốc tế. Nguyên tắc này cũng được quy định trong Bộ luật dân sự Pháp, tại đoạn 1 Điều 170 (Luật ngày 21-6-1907) quy định: Việc kết hôn ở nước ngoài giữa công dân Pháp với nhau hoặc giữa công dân Pháp với người nước ngoài có giá trị nếu việc kết hôn được thực hiện theo đúng thủ tục tại nước đó và với điều kiện là trước đó việc kết hôn được công bố theo quy định tại Điều 63 Thiên "chứng thư hộ tịch" và công dân Pháp không vi phạm quy định nêu tại các điều trong Chương I, Thiên này [39]. Nghĩa là việc kết hôn ở nước ngoài của công dân Pháp với nhau hoặc công dân Pháp với người nước ngoài phải tuân theo pháp luật nước đó về mặt thủ tục, bên cạnh đó công dân Pháp trong quan hệ kết hôn đó cũng phải tuân theo quy định về thủ tục kết hôn của pháp luật Pháp thì hôn nhân mới được coi là có giá trị tại Pháp. Trường hợp chỉ tuân theo pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn hoặc chỉ tuân theo pháp luật của Pháp về điều kiện kết hôn mà vi phạm pháp luật của nước kia thì hôn nhân đó cũng không được công nhận tại Pháp. * Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế. Đồng thời không phân biệt đối xử với người nước ngoài trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Nguyên tắc này được qui định tại khoản 2, 3 Điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo nguyên tắc này, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài phù hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và tập quán quốc tế thì sẽ được bảo hộ. Địa vị pháp lý của công dân Việt Nam cư trú, sinh sống và làm ăn ở nước ngoài do pháp luật nước sở tại qui định, đồng 15
- thời vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Do vậy, công dân Việt Nam ở nước ngoài khi tham gia vào các quan hệ kết hôn sẽ được pháp luật Việt Nam bảo hộ theo quan điểm của Nhà nước thể hiện tại Điều 75 Hiến pháp năm 1992, Điều 7 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Đồng thời, Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam [46]. Khái niệm "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài" cũng được giải thích tại Điều 3 của Luật Quốc tịch như sau: "Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người cố Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài" [46]. Quy định này là thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bao gồm công dân Việt Nam, người gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích để họ giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương. Việc bảo hộ này được thực hiện thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài được qui định tại khoản 2 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau: "Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài… có trách nhiệm thực hiện bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài" [43]. Bên cạnh việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài thì pháp luật Việt Nam cũng bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người nước ngoài tại Việt Nam. Người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 175 | 46
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 239 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo – thực tiễn tại tỉnh Nam Định
17 p | 139 | 18
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 235 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn