intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế

Chia sẻ: Thursday | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:132

103
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế" được thực hiện nghiên cứu nhằm đề xuất giải pháp để thực hiện thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt 40 tỷ đồng vào năm 2010. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế

  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thuế  là vấn đề  đại cục của mỗi Quốc gia. Ngày nay trong tiến trình hội   nhập thuế  lại đang có vị  thế  lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vậy là việc  quản lý thuế mặc nhiên trở thành yêu cầu bức thiết của các Nhà nước, dù đó là   Nhà nước phát triển hay đang phát triển. Những tri thức về thuế và quản lý thuế  đang là nhu cầu thường trực không chỉ  đối với các nhà quản lý, với các doanh  nhân mà còn phổ cập đến tất cả mọi công dân. Chính vì vậy, các nhà kinh tế, các   nhà quản lý luôn quan tâm nghiên cứu về chính sách thuế của quốc gia nói chung  và của từng địa phương nói riêng. Trọng tâm của các nghiên cứu là làm thế  nào  để  công tác quản lý thuế  có hiệu quả. Tập trung huy động đầy đủ, kịp thời số  thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN) trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát  triển nguồn thu; đồng thời đòi hỏi phải đảm bảo một cơ  chế quản lý phù hợp,   giảm thiểu các tắc trách, phiền hà, giảm chi phí cho cơ  quan thuế, người nộp   thuế;  góp phần phát huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công  bằng xã hội; từ đó để tái đầu tư phát triển kinh tế ­ xã hội.  Huyện Quảng điền tỉnh Thừa Thiên Huế  được tái lập lại từ  năm 1990, đã  nhanh chóng cùng với cả tỉnh tạo thế, tạo đà vững bước đi lên; xây dựng huyện   trở thành một trung tâm kinh tế ­ văn hoá ngày càng vững mạnh. Trong quá trình  phát triển kinh tế, huyện đã luôn quan tâm xây dựng cơ  sở  hạ  tầng, trung tâm   thưong mại và các chợ  nông thôn, qui hoạch các khu dành cho phát triển công   nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (TTCN), làng nghề truyền thống, kinh tế trang trại  nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn đầu tư  vốn vào lĩnh vực   kinh doanh tạo nguồn thu lâu dài và vững chắc cho ngân sách địa phương, đáp   ứng được nhiệm vụ chi tiêu ngày càng tăng của huyện.   Kết quả  thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ  hệ  thống chính   sách thuế  ngày càng được bổ  sung và hoàn thiện, thực hiện chương trình cải  1
  2. cách và hiện đại hoá hệ thống thuế đến năm 2010; trình độ nhận thức, tính tuân  thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế (NNT) cũng như trình độ chuyên môn   nghiệp của đội ngũ công chức thuế  được nâng lên, tổ  chức bộ  máy ngày càng   hoàn thiện, tinh gọn tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD)   phát triển, nuôi dưỡng được nguồn thu, tăng hiệu lực, hiệu quả   trong quản lý   thuế. Tuy nhiện, hệ thống chính sách thuế chưa bổ sung kịp thời và thay đổi cho  phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; các qui trình nghiệp vụ quản lý   thuế  chưa đồng bộ, thiếu khoa học, chưa  ứng dụng đươc những tiến bộ  của   công nghệ  thông tin trong công tác quản lý thuế  như  khai thuế, tính thuế, nộp  thuế. Tổ chức bộ máy vẫn còn bất cập như số lượng công chức quá đông, trình   độ  chuyên môn nghiệp vụ  chưa đáp  ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách  hệ  thống thuế  dẫn đến tình trạng lạm thu, thất thu thuế  xảy ra phổ  biến. Thủ  tục hành chính rườm rà, chắp vá, trách nhiệm và quyền hạn không rõ ràng, quan  hệ phối hợp không chặt chẽ, tham nhũng và lãng phí... là những biểu hiện cụ thể  của một phương pháp làm việc thiếu khoa học. Trong điều tiết vĩ mô nền kinh   tế  thì chưa phát huy hết tác dụng của công cụ  thuế  để  đẩy mạnh SXKD có lợi  cho quốc kế  dân sinh, thực hiện đóng góp hợp lý, công bằng cho NSNN. Xuất   phát từ  đó, chúng tôi lựa chọn đề  tài: “Nâng cao hiệu quả  quản lý thuế  để   phát triển kinh tế ­ xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên ­   Huế” làm luận văn thạc sĩ.  2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Mục đích tổng quát Đề xuất giải pháp để thực hiện thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt 40 tỷ đồng  vào năm 2010. 2.2. Mục đích cụ thể Thứ nhất,  Luận văn góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực  tiển về thuế, công tác quản lý thuế; 2
  3. Thứ hai,  Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thuế trên địa bàn   huyện Quảng điền tỉnh Thừa Thiên ­ Huế giai đoạn 2004 ­ 2006; Thứ ba,  Kiến nghị, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác  quản lý thuế, phấn đấu thu ngân sách trên địa bàn đạt 40 tỷ đồng vào năm 2010.  3. Phương pháp nghiên cứu  3.1.  Phương pháp chung Hiệu quả quản lý thuế  phụ thuộc và nhiều yếu tố, như lựa chọn ban hành  hệ  thống các luật thuế sao cho phù hợp với thông lệ  quốc tế; tình hình kinh tế,   phong tục tập quán của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ; Chính sách thuế  phải   bao quát hết được các nguồn thu, đảm bảo tính công bằng, đơn giản, dễ  thực  hiện và dễ kiểm tra. Việc tổ chức triển khai thực hiện công tác quản lý thuế  có   mối quan hệ  tác động qua lại, hỗ  trợ  và thúc đẩy lẫn nhau, dựa trên cơ  sở  của   phép duy vật biện chứng. Phương pháp này được vận dụng xuyên suốt trong cả  quá trình nghiên cứu từ việc hệ thống hoá lý luận, phân tích đánh giá thực trạng;  xác định các nhân tố   ảnh hưởng để  đề  xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả  quản lý thuế.  3.2. Các phương pháp cụ thể * Phương pháp thu thập số liệu + Số  liệu thứ  cấp cần thiết cho đề  tài được thu thập từ  các nguồn: Cục  Thống kê; Phòng Thống kê; Chi cục thuế huyện Quảng Điền. Ngoài ra luận văn   cũng đã sử  dụng số  liệu từ  các báo cáo khoa học, luận văn và các công trình  nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả về lĩnh vực mà đề tài quan tâm. + Số liệu sơ cấp: Tôi tiến hành thu thập bằng cách phát phiếu khảo sát điều  tra theo mẫu đã chuẩn bị  sẳn.  Phiếu điều tra được xác định dựa trên số  lượng  doanh nghiệp kinh doanh sản xuất, công chức quản lý thuế trên địa bàn, ngoài ra   khảo sát thêm một số doanh nghiệp, công chức thuế trên địa bàn Thành Phố Huế,  3
  4. nhằm đánh giá mức độ  hài lòng của NNT về nội dung chính sách thuế; công tác   quản lý thuế.  * Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu Trong quá trình nghiên cứu tác  giả  sử  dụng hệ  thống các  phương pháp   thống kê để thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu.  ­ Tổng hợp số liệu: Từ các số  liệu thu thập được, kết hợp phiếu khảo sát  điều tra,  tiến hành trên cơ  sở  phương pháp phân tổ  thống kê theo các tiêu thức  khác nhau, tùy theo nội dung của chỉ  tiêu nghiên cứu,  xây dựng hệ  thống biểu  bảng để phân tích, đánh giá tình hình quản lý thuế.  ­ Phương pháp xữ lý, phân tích số liệu: Trên cơ sở số liệu đã được thu thập,   tổng hợp, tiến hành xữ  lý và phân tích số  liệu theo các phương pháp phân tích   thống kê, phân tích kinh tế  và các phương pháp phân tích chuyên ngành khác;   Đồng thời sử dụng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA); sử dụng phần   mềm SPSS để  thống kê giá trị  trung bình, tần số, tần suất và các chỉ  tiêu khác;   phân tích các nhân tố theo tiêu thức giới tính, trình độ chuyên môn, số năm công  tác, đơn vị công tác về đánh giá mức độ hài lòng của NNT về nội dung chính sách   thuế, tình hình tổ chức thực hiện các luật thuế, hiệu quả công tác quản lý thuế.   *Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo Để  làm sáng tỏ  những vấn đề  lý luận cũng như  các chỉ  tiêu đánh giá hiệu  quả  quản lý thuế  trong giai đoạn cải cách và hiện đại hoá hệ  thống thuế  hiện  nay, trong quá trình thực hiện đề tài tôi còn sử dụng phương pháp thu thập thông  tin từ các chuyên gia, chuyên viên, các nhà quản lý của Tổng cục thuế, Cục thuế  Thừa Thiên ­ Huế để rút ra những kết luận có căn cứ khoa học và thực tiễn.  4. Phạm vi nghiên cứu:  4.1. Nội dung và đối tượng nghiên cứu: Các sắc thuế chủ yếu và các đối  tượng chịu thuế; hiệu quả quản lý thuế.  4.2. Không gian: Địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế. 4
  5. 4.3. Thời gian:  Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế  giai   đoạn 2004 ­ 2006 và đề xuất các giải pháp đến năm 2010.  Từ kết quả thu thuế qua từng năm, phân tích ưu, nhược điểm và những tồn   tại, tác động đến số thu ngân sách, đến sự thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện   công bằng xã hội trong động viên đóng góp; nghiên cứu các nguyên nhân tồn tại   về mặt chính sách, chế độ, về tổ chức quản lý thu thuế, về đối tượng nộp thuế  để đưa ra những giải pháp khả thi về công tác quản lý thuế trong thời gian tới.  Luận văn gồm 3 phần: Phần mở  đầu, kết luận, phần chính của luận văn   gồm ba chương. Chương 1: Tổng quan tài liệu về thuế và công tác quản lý thuế;  Chương 2:  Thực trạng công tác quản lý thuế  trên địa bàn huyện Quảng   Điền; Chương 3:  Một số  giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả  quản lý thuế  để   phát triển kinh tế ­ xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền. 5
  6. CHƯƠNG  1  TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ THUẾ, QUẢN LÝ THUẾ 1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ 1.1.1. Khái niệm Trong các sách báo kinh tế trên thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống  nhất tuyệt đối khái niệm về  thuế. Nhiều quan điểm đưa ra mới nhìn nhận từ  những khía cạnh khác nhau của thuế nên chưa phản ánh đầy đủ  bản chất chung   nhất của phạm trù này. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn   giản, C. Mác đã chỉ rõ: “ Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có những  sự đóng góp của người công dân của Nhà nước đó là thuế má...”. [13,22] Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Gần   đây trong một số  công trình nghiên cứu về  thuế  các nhà kinh tế  cho rằng, để  6
  7. vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật được các khía cạnh   sau: Thứ  nhất, nội dung kinh tế  của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ  tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể  nhân trong xã hội; Thứ  hai,   những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và   có ý nghĩa xã hội đặc biệt ­ việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo  mệnh lệnh của Nhà nước; Thứ  ba, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế  là một   khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật qui định theo mức thu và thời hạn nhất  định. Từ  những nội dung trên có thể  nêu lên khái niệm tổng quát về  thuế  như  sau: Thuế  là một khoản đóng góp bắt buộc từ  các thể  nhân và pháp nhân cho   Nhà nước theo các mức độ  và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử  dụng   cho mục đích công cộng. [13,25] Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà  nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây  dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các  công trình phúc lợi xã hội khác thì NNT thông qua đó đựơc hưởng một phần kết  quả  nộp thuế  của mình. Như  vậy thuế   ở  nước ta là một khoản thu bắt buộc,   không được hoàn trả  trực tiếp cho NNT nhưng họ được gián tiếp hưởng lợi do   chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công trình phúc lợi xã hội  khác nhau.  1.1.2. Bản chất của thuế  Từ  khái niệm thuế  nói trên ta có thể  tìm hiểu bản chất của thuế được thể  hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính   ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc  trưng riêng có của thuế, qua đó giúp ta phân biệt giữa thuế  và công cụ  tài chính  khác. Những đặc trưng đó là:  1.1.2.1. Tính bắt buộc  7
  8. Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế  với các hình thức động viên tài chính khác của NSNN.  Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ,   được hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt ­ việc động  viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc   dưới hình thức thuế  là một phương thức phân phối của Nhà nước, theo đó một   bộ phận thu nhập của NNT được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo  một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho NNT. Tính chất bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những l ý do  sau : Thứ nhất,  hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn   với lợi ích cụ  thể  của NNT, do đó không thể  sử  dụng phương pháp tự  nguyện   trong việc chuyển giao. Để  đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng Nhà nước tất   yếu phải sử  dụng quyền lực chính trị  để  bắt buộc các đối tượng có thu nhập  phải chuyển giao. Thứ hai,  trong một xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng  về  hàng hoá công cộng ngày càng tăng mà phần lớn hàng hoá này lại do Nhà  nước cung cấp. Để duy trì hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng thì thu nhập   về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp các chi phí bỏ ra.  Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể  phân bổ  theo   khẩu phần để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo khẩu   phần. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem  trao đổi trực tiếp trên thị  trường để  bù đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc  cung cấp hàng hóa công cộng đã xuất hiện những “người ăn không”, nghĩa là  không ai tự  nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hóa công cộng. Do đó, để  đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng Nhà nước chỉ  có thể  sử  dụng phương   pháp thuế để buộc tất cả mọi người, kể cả “người ăn không” phải chuyển giao   thu nhập của mình sang khu vực công. 8
  9. Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành  động đóng thuế  cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu  hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế  là hành động thực hiện nghĩa vụ  của  người công dân. Từ  đặc trưng này, thuế  không giống như  các hình thức huy động tài chính  khác của NSNN như  phí, lệ  phí, công trái, hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình   thức phí, lệ  phí và công trái nói chung mang tính tự  nguyện và có tính chất đối  giá. Còn phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt bằng tiền chỉ xảy   ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi   ích Nhà nước hoặc cộng đồng.  1.1.2.2. Tính không hoàn trả trực tiếp Tính chất không hoàn trả  trực tiếp của thuế  được thể  hiện  ở  chỗ: thuế  được hoàn trả gián tiếp cho NNT thông qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước.  Sự  không hoàn trả  trực tiếp được thể  hiện cả  trước và sau khi thu thuế. Trước   khi thu thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào   cho NNT. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự  bồi hoàn trực tiếp nào  cho NNT. Cũng như vậy, NNT không hề phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế  với lý do họ không được hoặc ít được sử dụng các dịch vụ công cộng. NNT cũng   không có quyền đòi hỏi được thừa hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số  thuế mà họ phải trả và họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải  thanh toán cho các khoản chi trái với nguyên tắc này. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí,  lệ phí và tín dụng Nhà nước.  1.1.2.3. Tính pháp lý cao  Đặc điểm này thể  hiện thuế  là một công cụ  tài chính có tính pháp lý cao.   Điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước là một  tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính  sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Vì vậy, để bắt buộc các công dân   9
  10. “ tự  nguyện” nộp thuế  thì Nhà nước phải sử  dụng đến quyền lực của mình,  quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp, Nhà kinh tế học Jóeph E.Stiglitz nói   rằng: “Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác   chủ yếu là: trong khi cả hai cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển   qua Chính phủ có mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình  chính trị ban cho” [13,28] Tuy nhiên, để  sự  chuyển giao bắt buộc thông qua thuế  diễn ra được “êm   thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự  bảo vệ  của luật pháp, thì  những qui định của pháp luật cũng không được mang tính tùy tiện mà phải dựa  trên những cơ  sở  khoa học nhất định. Vì vậy, trong Luật thuế  thường xác định   trước các yếu tố  có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế  như: đối tượng chịu   thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế  tài  mang tính cưỡng chế khác. Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế  đã phản ánh bản chất  và nội dung bên trong của thuế. Từ  những thuộc tính đó giúp ta phân biệt thuế  với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau. 1.1.3. Chức năng của thuế Chức năng của một sự  vật hay một đối tượng nào đó là sự  thể  hiện công  dụng vốn có của nó. Đối với một phạm trù kinh tế  chức năng nó phản ánh bản   chất sự  tác động của nó, là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc   tính vốn có của phạm trù. Cũng như  bản chất, chức năng cũng có tính  ổn định  tương đối trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng. Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính. Do   đó, thuế không chỉ mang trong mình những thuộc tính chung vốn có của các quan  hệ tài chính, mà còn biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động và các chức   năng riêng có bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính. Cho đến nay trên các sách báo kinh tế trong nước và trên thế giới cũng chưa  có sự  thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức năng của thuế  và tên gọi  10
  11. của chúng. Có tác giả  đưa ra hai chức năng của thuế  là chức năng ngân khố  và  chức năng kinh tế. Người khác lại cho rằng thuế  có ba chức năng: ngân khố,  kiểm tra và phân phối thu nhập.  Với quan niệm như  trên, soi rọi vào quá trình ra đời, tồn tại và phát triển   của thuế, chúng ta thấy thuế luôn thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng huy   động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế. 1.1.3.1. Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước Ngay từ lúc phát sinh thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên   nguồn tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy  động nguồn lực tài chính của thuế. Đây là chức năng cơ  bản của thuế,  đặc trưng cho tất cả  các dạng Nhà   nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu  tiên phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế. Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỷ  tiền tệ  tập trung của   Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ  sở  vật chất cho sự  tồn tại và  hoạt động của nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề  để  Nhà   nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm trong nước và thu  nhập quốc gia trong xã hội. Sự  phát triển và mở  rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng  cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn  lực của thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước thông qua thuế tiến hành phân  phối một bộ  phận đáng kể  tổng sản phẩm quốc nội. Thuế  trở  thành nguồn thu  chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường. Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề  khách quan  cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khác, quá trình huy  động tập trung nguồn lực thông qua thuế  đã tự  động làm xuất hiện chức năng  điều tiết kinh tế  của thuế. Chức năng huy động nguuồn lực và chức năng điều  tiết kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau. 11
  12. 1.1.3.2. Điều tiết kinh tế Chức năng điều tiết kinh tế  của thuế  mặc dù có cơ  cở  nảy sinh từ  chức   năng huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức và sử dụng rộng   rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước  được thực hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế ­ xã hội của Nhà nước dẫn   đến tốc độ  chi tiêu công ngày càng lớn và hậu quả  tất yếu đòi hỏi Nhà nước  phải tăng nguồn lực tài chính Nhà nước, mà được hình thành chủ  yếu từ  thuế.   Nhu cầu về  nguồn lực tài chính càng lớn thì sự  cần thiết phải tăng cường các   chức năng của thuế càng cấp bách, để tác động một cách hiệu quả đến nền kinh   tế quốc dân. Chính trong quá trình đó chức năng huy động tập trung nguồn lực tài   chính và chức năng điều tiết kinh tế  của thuế  đã được sử  dụng một cách hiện  thực. Điều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được  lồng trước vào trong quá trình huy động tập trung nguồn lực tài chính. Bằng cách  sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm  yếu đi sự tích luỹ tư bản, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán  của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ  khủng hoảng kinh tế. Nhà  nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế ­ xã hội trên qui mô cả nước. Chức năng điều tiết kinh tế  của thuế  được thực hiện thông qua việc qui   định các hình thức thu thuế  khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế,   xây dựng chính xác các mức thuế  phải nộp có tính đến khả  năng của NNT, sử  dụng các ưu đãi và miễn, giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt   động kinh tế  đi vào quỹ  đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như  vậy, bằng   cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết kinh tế  của thuế đã được thực  hiện. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò kích thích kinh   tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động  đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế vì lợi ích của xã hội. 12
  13. Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế  có mối quan hệ  gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài  chính nảy sinh đồng thời với sự ra đời của thuế  và được coi là chức năng cơ  sở,  qua đó qui định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại,  nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy  động nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Ý nghĩa của chức năng   huy động nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho  Nhà nước đã tạo ra những điều kiện khách quan để Nhà nước tác động một cách   sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều đó tạo ra tiền đề tăng thêm thu   nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, do đó mở  rộng cơ  sở  chức   năng huy động nguồn lực tài chính. Đó là sự  thống nhất biện chứng giữa các chức năng của thuế. Sự  thống   nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy  động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập tài chính tăng lên. Điều đó đồng  nghĩa với việc mở  rộng khả  năng của Nhà nước trong việc thực hiện chương   trình kinh tế ­ xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách  quá mức sẽ  làm tăng gánh nặng thuế  và hậu quả  của nó là giảm động lực phát   triển kinh tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh tế. Đó là tính hai mặt của thuế,   nó có khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể  ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự  tác động đó cần phải được  tính toán kỹ  lưỡng trong tiến trình hoạch định chính sách thuế   ở  mỗi giai đoạn   phát triển kinh tế khác nhau. 1.1.4. Chính sách  thuế và hệ thống thuế  1.1.4.1. Khái niệm  Chính sách thuế  là tổng hoà phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực   thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định. [12,39] Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập  dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện  13
  14. bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế, ban hành các   loại thuế  và các  ưu đãi về  thuế  trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Điều  đó có nghĩa là chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế,   cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế. Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có   mối quan hệ  mật thiết với nhau để  thực hiện các nhiệm vụ  nhất định của Nhà   nước trong từng thời kỳ.[ 12,40] Hệ  thống thuế  bao gồm nhiều hình thức thuế  khác nhau, nhưng sự  hình  thành từng hình thức thuế  lại do cơ  sở  thuế  quyết định. Trong nền kinh tế  thị  trường, thuế suy cho cùng đều lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của quá trình tái sản   xuất mà thu nhập được vận động trong một chu trình khép kín và luôn thay đổi   hình thái biểu hiện của nó. Chính sự biến đổi đa dạng đó đã nảy sinh các cơ  sở  thuế  khác nhau, tạo ra khả  năng đánh thuế  của Chính phủ  trên sự  luân chuyển   của dòng thu nhập khép kín và hình thành các hình thức thuế khác nhau. 1.1.4.2. Phân loại thuế  Phân loại thuế  là việc sắp xếp các sắc thuế  trong hệ  thống thuế  thành   những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Phân loại thuế  có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế  từ  khâu xây  dựng chính sách đến triển khai thực hiện. Phân loại thuế chính xác là cơ sở quan   trọng để tổ chức đúng đắn việc thu nộp thuế phù hợp với qui trình thu từng loại  thuế. Có nhiều tiêu thức phân loại khác nhau được sử dụng ở nước ta và trên thế  giới. Tổng hợp lại có các tiêu thức phân loại sau: *Phân loại theo đối tượng chịu thuế Nếu căn cứ vào đối tượng chịu thuế, có thể chia sắc thuế thành ba loại: ­ Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế  có đối tượng chịu thuế  là thu nhập  nhận được. Thu nhập này được hình thành từ  nhiều nguồn khác nhau: Thu nhập   từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động SXKD dưới   14
  15. dạng lợi nhuận, lợi tức, cổ  phần.... Do vậy, thuế  thu nhập cũng có nhiều hình  thức khác nhau, thuế  thu nhập cá nhân, thuế  thu nhập công ty, thuế  thu nhập  doanh nghiệp... ­ Thuế  tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng chịu thuế  là phần thu nhập   đựơc mang tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể  hiện dưới nhiều dạng như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng... ­ Thuế tài sản là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là giá trị tài sản. Thuế  tài sản thường đánh trên giá trị của tài sản cố định gọi là thuế bất động sản, đánh  trên tài sản gọi là thuế động sản. **Phân loại theo phương thức đánh thuế Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của NNT. Tuy  nhiên tuỳ  thuộc vào phương thức đánh thuế, đánh một cách trực tiếp hay gián   tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại:   Thuế  trực thu là loại thuế  đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của   NNT. thuế trực thu có những đặc điểm sau: ­ Đối tượng nộp thuế trực thu là người gánh chịu gánh nặng thuế. Vì NNT   trực thu là người trả thuế cuối cùng trong một chu kỳ SXKD nên khả năng và cơ  hội chuyển dịch gánh nặng thuế của NNT cho người khác trở nên khó khăn hơn. ­ Thuế trực thu mang tính chất luỹ tiến vì có tính đến khả năng nhận được   thu nhập của NNT. Thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập   nhận được.  Ở  nước ta thuế  trực thu bao gồm: thuế thu nhập đối với người có   thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất.  Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của   NNT mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ. Đặc điểm của thuế gián thu: ­ Thuế gián thu là một yếu tố cấu thành trong giá cả  hàng hoá và dịch vụ.   Người sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cộng thêm phần thuế vào trong giá   15
  16. bán hàng hoá và dịch vụ của mình, khi hàng hoá và dịch vụ được bán người sản   xuất thay mặt người tiêu dùng nộp khoản thuế gián thu cho Nhà nước. ­   Thuế   gián  thu   có   thể   được   chuyển   dịch   gánh   nặng  thuế   trong   những   trường hợp nhất định. Do đó, thuế gián thu có ảnh hưởng đến hoạt động SXKD  thông qua cơ  chế  giá cả  thị  trường. Tuy nhiên, sự   ảnh hưởng đó của thuế  gián  thu không những chịu sự chi phối của mối quan hệ cung cầu trên thị  trường, mà   còn phụ thuộc vào bản chất của thị trường, mà trong đó có sự tác động của thuế,   tức là thị trường đó là cạnh tranh hay độc quyền. ­  Thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái vì mức thuế không phụ thuộc vào   thu nhập có khả năng nhận được của NNT, loại thuế này có các sắc thuế mà cơ  sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để  tiêu dùng. Ở  nước ta thuế  gián thu  bao gồm: thuế  giá trị  gia tăng, thuế  tiêu thụ  đặc biệt, thuế  xuất khẩu và nhập  khẩu... ***Phân loại theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế Căn cứ vào khả  năng nộp thuế  người ta có thể  chia thuế  thu nhập thành hai  loại: ­ Thuế thực là loại thuế không dựa vào khả năng của NNT. Thuế thực thu   vào các dạng tài sản riêng biệt của NNT trên cơ sở mức sinh lợi trung bình của  các tài sản đó mà không phải từ  thu nhập thực tế  của NNT. Các loại thuế  bao  gồm: thuế nhà đất, thuế tài sản. NNT thực là người sở hữu tài sản. Số thuế phải   nộp được tính theo mức thu nhập trung bình về tài sản. ­ Thuế  cá nhân là loại thuế  dựa trên khả  năng của NNT. Thuế  cá nhân là   thuế  đánh vào thu nhập của NNT và được thu ngay từ  khâu phát sinh thu nhập  hoặc do khai báo. Khác với thuế  thực, thuế  cá nhân có tính đến khả  năng thu   nhập, hoàn cảnh gia đình và tình hình tài chính của NNT. Các loại thuế  cá nhân   bao gồm: Thuế  thu nhập cá nhân, thuế  thu nhập doanh nghiệp, thuế  lợi nhuận   siêu ngạch, thuế chuyển nhượng tài sản. ****Phân loại theo phạm vi thẩm quyền về thuế 16
  17. ­ Tuỳ  theo phạm vi và thẩm quyền trong việc ban hành chính sách, chế  độ  thuế, hệ thống thuế có thể được chia thành thuế trung ương và thuế địa phương;   thuế trung ương là các hình thức thuế do các cơ  quan đại diện chính quyền Nhà   nước ở trung ương ban hành, còn thuế địa phương là do chính quyền địa phương  ban hành. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thuế trung ương đều nộp hết vào  ngân sách trung  ương mà một phần của thuế  trung  ương có thể  trích vào ngân  sách địa phương. Tóm lại, trong thực tế có nhiều tiêu thức phân loại, tuỳ theo yêu cầu quản   lý  ở  mỗi nước mà có sự  lựa chọn khác nhau. Hiện nay,  ở nhiều nước người ta   thường phân loại thuế chủ  yếu dựa vào tiêu thức phương pháp đánh thuế  và cơ  sở đánh thuế. 1.1.5. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường  Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà nước,   đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được coi trọng   và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế ­   xã hội, sự  can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ  thống pháp luật, đặc   biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò của thuế trở nên cực  kỳ  quan trọng. Thuế được coi là công cụ  điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là nguồn  thu chủ yếu của NSNN, có ảnh hưởng to lớn đến sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội.  Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và góp phần đảm bảo công bằng xã hội.  Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho NSNN  Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào nguồn   thu từ  nội bộ  nền kinh tế  quốc dân. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay, các  khoản viện trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu của   Ngân sách, là một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính quốc gia. Sau hơn 20   năm đổi mới tình hình kinh tế  nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tốc độ  tăng trưởng kinh tế năm sau tăng hơn năm trước. Lạm phát được kìm hãm và đẩy  lùi, thị trường được mở  rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản   17
  18. xuất trong nước phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước được mở  rộng  và phát triển. Trong bối cảnh đó thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn, năm sau  cao hơn năm trước đáp  ứng được nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư  phát  triển, góp phần tích lũy cho ngân sách và cả việc chi trả nợ vay. Được như  vậy  thuế  đã góp phần tích cực trong việc tăng thu ngân sách. Tỷ  lệ  động viên GDP   vào NSNN ngày càng tăng. Trong đó mức động viên thuế  và phí chiếm vai trò   quan trọng. NSNN được thu từ nhiều nguồn khác nhau: từ thuế, phí ­ lệ phí, viện  trợ  nước ngoài, tín dụng nhưng thuế  là nguồn thu chủ  yếu, là bộ  phận cơ  bản   của nền tài chính quốc gia. Hiện nay,  ở hầu hết các nước trên thế  giới, sau khi   thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế, phí chiếm tới  90% tổng số thu   NSNN.  Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội  được tập trung vào  NSNN. Tuy nhiên, việc tập trung thu nhập này có một giới hạn nhất định. Nếu  Nhà nước dùng quyền lực để  tập trung quá mức phần GDP vào cho NSNN thì  phần còn lại của GDP cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một   lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức họ bỏ vào kinh doanh được bù đắp  không thoả đáng thì họ tìm mọi cách để trốn thuế. Do vậy, trong công tác quản lý  thuế, rất cần phải quan tâm đến khả năng thu thuế của từng doanh nghiệp và cá   nhân. Khả năng thu thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà NNT sẵn sàng giành ra để  trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ  nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông   qua tỷ lệ phần trăm của GDP đựơc động viên cho NSNN thông qua thuế. Nếu gọi Tm là tổng số thu bằng thuế tối đa có thể  tâp trung vào NSNN, thì  khả năng thu thuế sẽ là Tm / GDP. Khả  năng thu thuế  là một khái niệm lý thuyết được dùng dể  chỉ  ranh giới   phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân.   Nếu Nhà nước động viên thuế  chưa đạt giới hạn khả  năng thu thuế  thì nguồn   18
  19. lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên   vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm bào mòn khả năng tích luỹ để tái  sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp và làm giảm số thu thuế trong tương lai.  Trong thực tế quản lý thuế, tổng số thuế thu được hàng năm có thể lại khác  xa so với tổng số  thuế  có khả  năng thu được. Để  phản ánh tình trạng này, các   nhà kinh tế dùng khái niệm nỗ lực thu thuế. Nếu tổng số thuế thực tế thu được trong năm là Tt, thì Nỗ lực thu thuế (N) = (Tt / GDP) : (Tm / GDP) = Tt /Tm Nếu N 1 thì hệ thống thuế hiện tại đã huy động vượt quá khả  năng. Cần  phải hiểu rằng: Nỗ lực thu thuế  cao không nhất thiết đồng nhất với xuất hiện  tình trạng bội thu NSNN và càng không thể  khẳng định rằng nền kinh tế  đang  tăng trưởng thuận lợi hoặc Chính phủ đang vận hành nền kinh tế đúng đắn. **Thuế tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô Đây là vai trò đặc biệt  quan trọng của thuế  trong nền kinh tế thị  trường.   Khác với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế kinh tế thị trường   Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế, xã hội bằng các   mệnh lệnh hành chính. Thay vào đó, Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở  tầm vĩ mô, Tức Nhà nước chỉ  đưa ra các chuẩn mực mang tính định hướng lớn   trên một diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động xã hội   đi theo, nhằm đạt được các mục tiêu đề  ra, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt   động kinh tế ­ xã hội thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nhà nước thực hiện quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xã hội bằng nhiều  biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp kinh tế, trong đó   biện pháp kinh tế  làm gốc. Nhà nước cũng sử  dụng nhiều công cụ  để  quản lý,  điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng. Trong đó,   19
  20. thuế  ­ một công cụ  thuộc lĩnh vực tài chính ­ là một trong những công cụ  được  coi là sắc bén nhất. Trong kinh tế  thị  trường, Nhà nước không giao chỉ  tiêu chỉ  tiêu số  lượng mặt hàng, khối lượng sản phẩm cho từng doanh nghiệp. Trừ  các  lĩnh vực và ngành nghề  đặc biệt Nhà nước phải nắm quyền kiểm soát và chi  phối, trong khuôn khổ luật pháp cho phép, mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền   sản xuất, kinh doanh bất kỳ mặt hàng nào, miễn rằng họ  phải có đăng ký kinh  doanh và phải hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. Bằng việc ban hành  hệ thống luật thuế, Nhà nước sẽ qui định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh   thuế  với thuế  suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ  thể.  Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị  trường, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô, đảm bảo sự cân đối giữa các   ngành nghề trong nền kinh tế. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố  đầu vào của sản xuất như  lao động, vật tư, tiền vốn nhằm điều tiết hoạt động   kinh tế trong nước, sử dụng thuế tác động vào hoạt động xuất, nhập khẩu nhằm  thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế thế giới. ***Thuế là công cụ để  điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội   trong phân phối Bên cạnh rất nhiều ưu thế so với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ  chế  kinh tế  thị  trường cũng còn tồn tại khá nhiều những “khiếm khuyết”. Một  trong những “khiếm khuyết” đó là sự chênh lệch ngày càng lớn về mức sống, về  thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Kinh tế thị trường càng phát triển thì khoảng  cách giàu ­  nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng. Với những đặc điểm nổi bật  của cơ  chế  thị  trường là: sự  cởi mở, sự  năng động, sự  độc lập tự  chủ, thì tình  trạng trên đây là khó tránh khỏi. Sự  chênh lệch về  thu nhập và mức sống giữa   các tầng lớp dân cư không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức và công bằng xã hội   và còn tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư, làm   mất đi ý nghĩa của sự phát triển kinh tế ­ xã hội. Hơn thế nữa, sự phát triển mọi   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1