Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế
lượt xem 30
download
Đề tài "Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế" được thực hiện nghiên cứu nhằm đề xuất giải pháp để thực hiện thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt 40 tỷ đồng vào năm 2010. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thuế là vấn đề đại cục của mỗi Quốc gia. Ngày nay trong tiến trình hội nhập thuế lại đang có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vậy là việc quản lý thuế mặc nhiên trở thành yêu cầu bức thiết của các Nhà nước, dù đó là Nhà nước phát triển hay đang phát triển. Những tri thức về thuế và quản lý thuế đang là nhu cầu thường trực không chỉ đối với các nhà quản lý, với các doanh nhân mà còn phổ cập đến tất cả mọi công dân. Chính vì vậy, các nhà kinh tế, các nhà quản lý luôn quan tâm nghiên cứu về chính sách thuế của quốc gia nói chung và của từng địa phương nói riêng. Trọng tâm của các nghiên cứu là làm thế nào để công tác quản lý thuế có hiệu quả. Tập trung huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN) trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu; đồng thời đòi hỏi phải đảm bảo một cơ chế quản lý phù hợp, giảm thiểu các tắc trách, phiền hà, giảm chi phí cho cơ quan thuế, người nộp thuế; góp phần phát huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội; từ đó để tái đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Huyện Quảng điền tỉnh Thừa Thiên Huế được tái lập lại từ năm 1990, đã nhanh chóng cùng với cả tỉnh tạo thế, tạo đà vững bước đi lên; xây dựng huyện trở thành một trung tâm kinh tế văn hoá ngày càng vững mạnh. Trong quá trình phát triển kinh tế, huyện đã luôn quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng, trung tâm thưong mại và các chợ nông thôn, qui hoạch các khu dành cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (TTCN), làng nghề truyền thống, kinh tế trang trại nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn đầu tư vốn vào lĩnh vực kinh doanh tạo nguồn thu lâu dài và vững chắc cho ngân sách địa phương, đáp ứng được nhiệm vụ chi tiêu ngày càng tăng của huyện. Kết quả thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ hệ thống chính sách thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, thực hiện chương trình cải 1
- cách và hiện đại hoá hệ thống thuế đến năm 2010; trình độ nhận thức, tính tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế (NNT) cũng như trình độ chuyên môn nghiệp của đội ngũ công chức thuế được nâng lên, tổ chức bộ máy ngày càng hoàn thiện, tinh gọn tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) phát triển, nuôi dưỡng được nguồn thu, tăng hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế. Tuy nhiện, hệ thống chính sách thuế chưa bổ sung kịp thời và thay đổi cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; các qui trình nghiệp vụ quản lý thuế chưa đồng bộ, thiếu khoa học, chưa ứng dụng đươc những tiến bộ của công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế như khai thuế, tính thuế, nộp thuế. Tổ chức bộ máy vẫn còn bất cập như số lượng công chức quá đông, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách hệ thống thuế dẫn đến tình trạng lạm thu, thất thu thuế xảy ra phổ biến. Thủ tục hành chính rườm rà, chắp vá, trách nhiệm và quyền hạn không rõ ràng, quan hệ phối hợp không chặt chẽ, tham nhũng và lãng phí... là những biểu hiện cụ thể của một phương pháp làm việc thiếu khoa học. Trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì chưa phát huy hết tác dụng của công cụ thuế để đẩy mạnh SXKD có lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện đóng góp hợp lý, công bằng cho NSNN. Xuất phát từ đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn thạc sĩ. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Mục đích tổng quát Đề xuất giải pháp để thực hiện thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt 40 tỷ đồng vào năm 2010. 2.2. Mục đích cụ thể Thứ nhất, Luận văn góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiển về thuế, công tác quản lý thuế; 2
- Thứ hai, Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thuế trên địa bàn huyện Quảng điền tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2004 2006; Thứ ba, Kiến nghị, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, phấn đấu thu ngân sách trên địa bàn đạt 40 tỷ đồng vào năm 2010. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp chung Hiệu quả quản lý thuế phụ thuộc và nhiều yếu tố, như lựa chọn ban hành hệ thống các luật thuế sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế; tình hình kinh tế, phong tục tập quán của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ; Chính sách thuế phải bao quát hết được các nguồn thu, đảm bảo tính công bằng, đơn giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra. Việc tổ chức triển khai thực hiện công tác quản lý thuế có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, dựa trên cơ sở của phép duy vật biện chứng. Phương pháp này được vận dụng xuyên suốt trong cả quá trình nghiên cứu từ việc hệ thống hoá lý luận, phân tích đánh giá thực trạng; xác định các nhân tố ảnh hưởng để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế. 3.2. Các phương pháp cụ thể * Phương pháp thu thập số liệu + Số liệu thứ cấp cần thiết cho đề tài được thu thập từ các nguồn: Cục Thống kê; Phòng Thống kê; Chi cục thuế huyện Quảng Điền. Ngoài ra luận văn cũng đã sử dụng số liệu từ các báo cáo khoa học, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả về lĩnh vực mà đề tài quan tâm. + Số liệu sơ cấp: Tôi tiến hành thu thập bằng cách phát phiếu khảo sát điều tra theo mẫu đã chuẩn bị sẳn. Phiếu điều tra được xác định dựa trên số lượng doanh nghiệp kinh doanh sản xuất, công chức quản lý thuế trên địa bàn, ngoài ra khảo sát thêm một số doanh nghiệp, công chức thuế trên địa bàn Thành Phố Huế, 3
- nhằm đánh giá mức độ hài lòng của NNT về nội dung chính sách thuế; công tác quản lý thuế. * Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp thống kê để thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu. Tổng hợp số liệu: Từ các số liệu thu thập được, kết hợp phiếu khảo sát điều tra, tiến hành trên cơ sở phương pháp phân tổ thống kê theo các tiêu thức khác nhau, tùy theo nội dung của chỉ tiêu nghiên cứu, xây dựng hệ thống biểu bảng để phân tích, đánh giá tình hình quản lý thuế. Phương pháp xữ lý, phân tích số liệu: Trên cơ sở số liệu đã được thu thập, tổng hợp, tiến hành xữ lý và phân tích số liệu theo các phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế và các phương pháp phân tích chuyên ngành khác; Đồng thời sử dụng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA); sử dụng phần mềm SPSS để thống kê giá trị trung bình, tần số, tần suất và các chỉ tiêu khác; phân tích các nhân tố theo tiêu thức giới tính, trình độ chuyên môn, số năm công tác, đơn vị công tác về đánh giá mức độ hài lòng của NNT về nội dung chính sách thuế, tình hình tổ chức thực hiện các luật thuế, hiệu quả công tác quản lý thuế. *Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý thuế trong giai đoạn cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế hiện nay, trong quá trình thực hiện đề tài tôi còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ các chuyên gia, chuyên viên, các nhà quản lý của Tổng cục thuế, Cục thuế Thừa Thiên Huế để rút ra những kết luận có căn cứ khoa học và thực tiễn. 4. Phạm vi nghiên cứu: 4.1. Nội dung và đối tượng nghiên cứu: Các sắc thuế chủ yếu và các đối tượng chịu thuế; hiệu quả quản lý thuế. 4.2. Không gian: Địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế. 4
- 4.3. Thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế giai đoạn 2004 2006 và đề xuất các giải pháp đến năm 2010. Từ kết quả thu thuế qua từng năm, phân tích ưu, nhược điểm và những tồn tại, tác động đến số thu ngân sách, đến sự thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội trong động viên đóng góp; nghiên cứu các nguyên nhân tồn tại về mặt chính sách, chế độ, về tổ chức quản lý thu thuế, về đối tượng nộp thuế để đưa ra những giải pháp khả thi về công tác quản lý thuế trong thời gian tới. Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, kết luận, phần chính của luận văn gồm ba chương. Chương 1: Tổng quan tài liệu về thuế và công tác quản lý thuế; Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế trên địa bàn huyện Quảng Điền; Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền. 5
- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ THUẾ, QUẢN LÝ THUẾ 1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ 1.1.1. Khái niệm Trong các sách báo kinh tế trên thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhiều quan điểm đưa ra mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế nên chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản, C. Mác đã chỉ rõ: “ Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của người công dân của Nhà nước đó là thuế má...”. [13,22] Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng, để 6
- vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật được các khía cạnh sau: Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân trong xã hội; Thứ hai, những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước; Thứ ba, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật qui định theo mức thu và thời hạn nhất định. Từ những nội dung trên có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo các mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. [13,25] Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì NNT thông qua đó đựơc hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình. Như vậy thuế ở nước ta là một khoản thu bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho NNT nhưng họ được gián tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công trình phúc lợi xã hội khác nhau. 1.1.2. Bản chất của thuế Từ khái niệm thuế nói trên ta có thể tìm hiểu bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của thuế, qua đó giúp ta phân biệt giữa thuế và công cụ tài chính khác. Những đặc trưng đó là: 1.1.2.1. Tính bắt buộc 7
- Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình thức động viên tài chính khác của NSNN. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt việc động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối của Nhà nước, theo đó một bộ phận thu nhập của NNT được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho NNT. Tính chất bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những l ý do sau : Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của NNT, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc các đối tượng có thu nhập phải chuyển giao. Thứ hai, trong một xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng hoá công cộng ngày càng tăng mà phần lớn hàng hoá này lại do Nhà nước cung cấp. Để duy trì hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng thì thu nhập về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp các chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo khẩu phần. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hóa công cộng đã xuất hiện những “người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hóa công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc tất cả mọi người, kể cả “người ăn không” phải chuyển giao thu nhập của mình sang khu vực công. 8
- Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân. Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của NSNN như phí, lệ phí, công trái, hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức phí, lệ phí và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Còn phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt bằng tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng. 1.1.2.2. Tính không hoàn trả trực tiếp Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được hoàn trả gián tiếp cho NNT thông qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước. Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho NNT. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho NNT. Cũng như vậy, NNT không hề phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ không được hoặc ít được sử dụng các dịch vụ công cộng. NNT cũng không có quyền đòi hỏi được thừa hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số thuế mà họ phải trả và họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho các khoản chi trái với nguyên tắc này. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí, lệ phí và tín dụng Nhà nước. 1.1.2.3. Tính pháp lý cao Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao. Điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Vì vậy, để bắt buộc các công dân 9
- “ tự nguyện” nộp thuế thì Nhà nước phải sử dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp, Nhà kinh tế học Jóeph E.Stiglitz nói rằng: “Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là: trong khi cả hai cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình chính trị ban cho” [13,28] Tuy nhiên, để sự chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn ra được “êm thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của luật pháp, thì những qui định của pháp luật cũng không được mang tính tùy tiện mà phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Vì vậy, trong Luật thuế thường xác định trước các yếu tố có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác. Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau. 1.1.3. Chức năng của thuế Chức năng của một sự vật hay một đối tượng nào đó là sự thể hiện công dụng vốn có của nó. Đối với một phạm trù kinh tế chức năng nó phản ánh bản chất sự tác động của nó, là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng. Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính. Do đó, thuế không chỉ mang trong mình những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính, mà còn biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng có bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính. Cho đến nay trên các sách báo kinh tế trong nước và trên thế giới cũng chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức năng của thuế và tên gọi 10
- của chúng. Có tác giả đưa ra hai chức năng của thuế là chức năng ngân khố và chức năng kinh tế. Người khác lại cho rằng thuế có ba chức năng: ngân khố, kiểm tra và phân phối thu nhập. Với quan niệm như trên, soi rọi vào quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế, chúng ta thấy thuế luôn thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế. 1.1.3.1. Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước Ngay từ lúc phát sinh thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế. Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế. Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỷ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm trong nước và thu nhập quốc gia trong xã hội. Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước thông qua thuế tiến hành phân phối một bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Thuế trở thành nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường. Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khác, quá trình huy động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguuồn lực và chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau. 11
- 1.1.3.2. Điều tiết kinh tế Chức năng điều tiết kinh tế của thuế mặc dù có cơ cở nảy sinh từ chức năng huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước được thực hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu công ngày càng lớn và hậu quả tất yếu đòi hỏi Nhà nước phải tăng nguồn lực tài chính Nhà nước, mà được hình thành chủ yếu từ thuế. Nhu cầu về nguồn lực tài chính càng lớn thì sự cần thiết phải tăng cường các chức năng của thuế càng cấp bách, để tác động một cách hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong quá trình đó chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực. Điều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được lồng trước vào trong quá trình huy động tập trung nguồn lực tài chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích luỹ tư bản, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội trên qui mô cả nước. Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc qui định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của NNT, sử dụng các ưu đãi và miễn, giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế vì lợi ích của xã hội. 12
- Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính nảy sinh đồng thời với sự ra đời của thuế và được coi là chức năng cơ sở, qua đó qui định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Ý nghĩa của chức năng huy động nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho Nhà nước đã tạo ra những điều kiện khách quan để Nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều đó tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở chức năng huy động nguồn lực tài chính. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của thuế. Sự thống nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập tài chính tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện chương trình kinh tế xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh tế. Đó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được tính toán kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định chính sách thuế ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. 1.1.4. Chính sách thuế và hệ thống thuế 1.1.4.1. Khái niệm Chính sách thuế là tổng hoà phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định. [12,39] Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện 13
- bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế, ban hành các loại thuế và các ưu đãi về thuế trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế. Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ.[ 12,40] Hệ thống thuế bao gồm nhiều hình thức thuế khác nhau, nhưng sự hình thành từng hình thức thuế lại do cơ sở thuế quyết định. Trong nền kinh tế thị trường, thuế suy cho cùng đều lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của quá trình tái sản xuất mà thu nhập được vận động trong một chu trình khép kín và luôn thay đổi hình thái biểu hiện của nó. Chính sự biến đổi đa dạng đó đã nảy sinh các cơ sở thuế khác nhau, tạo ra khả năng đánh thuế của Chính phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín và hình thành các hình thức thuế khác nhau. 1.1.4.2. Phân loại thuế Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Phân loại thuế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây dựng chính sách đến triển khai thực hiện. Phân loại thuế chính xác là cơ sở quan trọng để tổ chức đúng đắn việc thu nộp thuế phù hợp với qui trình thu từng loại thuế. Có nhiều tiêu thức phân loại khác nhau được sử dụng ở nước ta và trên thế giới. Tổng hợp lại có các tiêu thức phân loại sau: *Phân loại theo đối tượng chịu thuế Nếu căn cứ vào đối tượng chịu thuế, có thể chia sắc thuế thành ba loại: Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận được. Thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: Thu nhập từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động SXKD dưới 14
- dạng lợi nhuận, lợi tức, cổ phần.... Do vậy, thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp... Thuế tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập đựơc mang tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng... Thuế tài sản là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là giá trị tài sản. Thuế tài sản thường đánh trên giá trị của tài sản cố định gọi là thuế bất động sản, đánh trên tài sản gọi là thuế động sản. **Phân loại theo phương thức đánh thuế Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của NNT. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế, đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại: Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của NNT. thuế trực thu có những đặc điểm sau: Đối tượng nộp thuế trực thu là người gánh chịu gánh nặng thuế. Vì NNT trực thu là người trả thuế cuối cùng trong một chu kỳ SXKD nên khả năng và cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế của NNT cho người khác trở nên khó khăn hơn. Thuế trực thu mang tính chất luỹ tiến vì có tính đến khả năng nhận được thu nhập của NNT. Thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập nhận được. Ở nước ta thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất. Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của NNT mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ. Đặc điểm của thuế gián thu: Thuế gián thu là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá và dịch vụ. Người sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cộng thêm phần thuế vào trong giá 15
- bán hàng hoá và dịch vụ của mình, khi hàng hoá và dịch vụ được bán người sản xuất thay mặt người tiêu dùng nộp khoản thuế gián thu cho Nhà nước. Thuế gián thu có thể được chuyển dịch gánh nặng thuế trong những trường hợp nhất định. Do đó, thuế gián thu có ảnh hưởng đến hoạt động SXKD thông qua cơ chế giá cả thị trường. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó của thuế gián thu không những chịu sự chi phối của mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào bản chất của thị trường, mà trong đó có sự tác động của thuế, tức là thị trường đó là cạnh tranh hay độc quyền. Thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái vì mức thuế không phụ thuộc vào thu nhập có khả năng nhận được của NNT, loại thuế này có các sắc thuế mà cơ sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng. Ở nước ta thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và nhập khẩu... ***Phân loại theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế Căn cứ vào khả năng nộp thuế người ta có thể chia thuế thu nhập thành hai loại: Thuế thực là loại thuế không dựa vào khả năng của NNT. Thuế thực thu vào các dạng tài sản riêng biệt của NNT trên cơ sở mức sinh lợi trung bình của các tài sản đó mà không phải từ thu nhập thực tế của NNT. Các loại thuế bao gồm: thuế nhà đất, thuế tài sản. NNT thực là người sở hữu tài sản. Số thuế phải nộp được tính theo mức thu nhập trung bình về tài sản. Thuế cá nhân là loại thuế dựa trên khả năng của NNT. Thuế cá nhân là thuế đánh vào thu nhập của NNT và được thu ngay từ khâu phát sinh thu nhập hoặc do khai báo. Khác với thuế thực, thuế cá nhân có tính đến khả năng thu nhập, hoàn cảnh gia đình và tình hình tài chính của NNT. Các loại thuế cá nhân bao gồm: Thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi nhuận siêu ngạch, thuế chuyển nhượng tài sản. ****Phân loại theo phạm vi thẩm quyền về thuế 16
- Tuỳ theo phạm vi và thẩm quyền trong việc ban hành chính sách, chế độ thuế, hệ thống thuế có thể được chia thành thuế trung ương và thuế địa phương; thuế trung ương là các hình thức thuế do các cơ quan đại diện chính quyền Nhà nước ở trung ương ban hành, còn thuế địa phương là do chính quyền địa phương ban hành. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thuế trung ương đều nộp hết vào ngân sách trung ương mà một phần của thuế trung ương có thể trích vào ngân sách địa phương. Tóm lại, trong thực tế có nhiều tiêu thức phân loại, tuỳ theo yêu cầu quản lý ở mỗi nước mà có sự lựa chọn khác nhau. Hiện nay, ở nhiều nước người ta thường phân loại thuế chủ yếu dựa vào tiêu thức phương pháp đánh thuế và cơ sở đánh thuế. 1.1.5. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được coi trọng và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế xã hội, sự can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò của thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế được coi là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của NSNN, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho NSNN Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay, các khoản viện trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách, là một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính quốc gia. Sau hơn 20 năm đổi mới tình hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau tăng hơn năm trước. Lạm phát được kìm hãm và đẩy lùi, thị trường được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản 17
- xuất trong nước phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước được mở rộng và phát triển. Trong bối cảnh đó thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn, năm sau cao hơn năm trước đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, góp phần tích lũy cho ngân sách và cả việc chi trả nợ vay. Được như vậy thuế đã góp phần tích cực trong việc tăng thu ngân sách. Tỷ lệ động viên GDP vào NSNN ngày càng tăng. Trong đó mức động viên thuế và phí chiếm vai trò quan trọng. NSNN được thu từ nhiều nguồn khác nhau: từ thuế, phí lệ phí, viện trợ nước ngoài, tín dụng nhưng thuế là nguồn thu chủ yếu, là bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia. Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế, phí chiếm tới 90% tổng số thu NSNN. Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội được tập trung vào NSNN. Tuy nhiên, việc tập trung thu nhập này có một giới hạn nhất định. Nếu Nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần GDP vào cho NSNN thì phần còn lại của GDP cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức họ bỏ vào kinh doanh được bù đắp không thoả đáng thì họ tìm mọi cách để trốn thuế. Do vậy, trong công tác quản lý thuế, rất cần phải quan tâm đến khả năng thu thuế của từng doanh nghiệp và cá nhân. Khả năng thu thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà NNT sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP đựơc động viên cho NSNN thông qua thuế. Nếu gọi Tm là tổng số thu bằng thuế tối đa có thể tâp trung vào NSNN, thì khả năng thu thuế sẽ là Tm / GDP. Khả năng thu thuế là một khái niệm lý thuyết được dùng dể chỉ ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa đạt giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn 18
- lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm bào mòn khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp và làm giảm số thu thuế trong tương lai. Trong thực tế quản lý thuế, tổng số thuế thu được hàng năm có thể lại khác xa so với tổng số thuế có khả năng thu được. Để phản ánh tình trạng này, các nhà kinh tế dùng khái niệm nỗ lực thu thuế. Nếu tổng số thuế thực tế thu được trong năm là Tt, thì Nỗ lực thu thuế (N) = (Tt / GDP) : (Tm / GDP) = Tt /Tm Nếu N 1 thì hệ thống thuế hiện tại đã huy động vượt quá khả năng. Cần phải hiểu rằng: Nỗ lực thu thuế cao không nhất thiết đồng nhất với xuất hiện tình trạng bội thu NSNN và càng không thể khẳng định rằng nền kinh tế đang tăng trưởng thuận lợi hoặc Chính phủ đang vận hành nền kinh tế đúng đắn. **Thuế tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô Đây là vai trò đặc biệt quan trọng của thuế trong nền kinh tế thị trường. Khác với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế kinh tế thị trường Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế, xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính. Thay vào đó, Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, Tức Nhà nước chỉ đưa ra các chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên một diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động xã hội đi theo, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế xã hội thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nhà nước thực hiện quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xã hội bằng nhiều biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công cụ để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng. Trong đó, 19
- thuế một công cụ thuộc lĩnh vực tài chính là một trong những công cụ được coi là sắc bén nhất. Trong kinh tế thị trường, Nhà nước không giao chỉ tiêu chỉ tiêu số lượng mặt hàng, khối lượng sản phẩm cho từng doanh nghiệp. Trừ các lĩnh vực và ngành nghề đặc biệt Nhà nước phải nắm quyền kiểm soát và chi phối, trong khuôn khổ luật pháp cho phép, mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền sản xuất, kinh doanh bất kỳ mặt hàng nào, miễn rằng họ phải có đăng ký kinh doanh và phải hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. Bằng việc ban hành hệ thống luật thuế, Nhà nước sẽ qui định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vật tư, tiền vốn nhằm điều tiết hoạt động kinh tế trong nước, sử dụng thuế tác động vào hoạt động xuất, nhập khẩu nhằm thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế thế giới. ***Thuế là công cụ để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối Bên cạnh rất nhiều ưu thế so với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế kinh tế thị trường cũng còn tồn tại khá nhiều những “khiếm khuyết”. Một trong những “khiếm khuyết” đó là sự chênh lệch ngày càng lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Kinh tế thị trường càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng. Với những đặc điểm nổi bật của cơ chế thị trường là: sự cởi mở, sự năng động, sự độc lập tự chủ, thì tình trạng trên đây là khó tránh khỏi. Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức và công bằng xã hội và còn tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư, làm mất đi ý nghĩa của sự phát triển kinh tế xã hội. Hơn thế nữa, sự phát triển mọi 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
150 p | 1098 | 177
-
Luận văn thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
97 p | 484 | 131
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện
25 p | 210 | 51
-
Luận văn thạc sĩ: Nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm mở rộng thị trường du lịch cho Công ty Dịch vụ Du lịch Bến Thành đến năm 2010
72 p | 223 | 46
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong các trường Đại học khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh khu vực phía Bắc
26 p | 194 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng dịch vụ Công nghệ thông tin tại khối Công nghệ thông tin-Tập đoàn Bảo Việt
134 p | 140 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh doanh xăng dầu của Công ty xăng dầu Hà Nam Ninh
97 p | 122 | 25
-
Luận văn thạc sĩ: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Nam Hà Nam
137 p | 212 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
116 p | 108 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty bảo hiểm PVI Thăng Long
117 p | 105 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam
163 p | 34 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Ngân hàng TMCP Bắc Á
19 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công Ty TNHH Khí Hóa Lỏng Việt Nam – VT Gas
26 p | 61 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển tại chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tĩnh
16 p | 62 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
12 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng tín dụng doanh nghiệp nhỏ vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội
14 p | 32 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng tín dụng khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển TP. Hồ Chí Minh - Chi nhánh Hoàn Kiếm
6 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội
16 p | 25 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn