![](images/graphics/blank.gif)
Luận văn Thạc sĩ: Quan hệ văn hóa Pháp – Việt trong lĩnh vực giáo dục ở Nam kỳ (1867 – 1945)
lượt xem 11
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Luận văn Thạc sĩ: Quan hệ văn hóa Pháp – Việt trong lĩnh vực giáo dục ở Nam kỳ (1867 – 1945) bao gồm những nội dung về Nam kỳ trước sự xâm lược của thực dân Pháp, quan hệ Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam kỳ (1867 – 1945).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ: Quan hệ văn hóa Pháp – Việt trong lĩnh vực giáo dục ở Nam kỳ (1867 – 1945)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ MỸ NHI QUAN HỆ VĂN HÓA PHÁP – VIỆT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
- MỤC LỤC MỤC LỤC ........................................................................................................................................... 2 1T T 1 MỞ ĐẦU .............................................................................................................................................. 4 1T T 1 1) Mục đích nghiên cứu................................................................................................................................. 4 1T 1T 2) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................. 4 1T 1T 3)Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................................................... 4 1T 1T 4) Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................................... 6 1T 1T CHƯƠNG 1: NAM KỲ TRƯỚC SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP ................................ 7 1T T 1 1.1. Những con đường tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây.................................................................. 7 1T T 1 1.1.1. Con đường truyền giáo .................................................................................................................... 7 T 1 1T 1.1.1.1. Các cuộc phát kiến địa lí – tiền đề cho công cuộc truyền giáo .................................................. 7 T 1 T 1 1.1.1.2 Cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam ...................................................................... 10 T 1 T 1 1.1.2.Con đường buôn bán ...................................................................................................................... 21 T 1 1T 1.2. Thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ..................................................................................................... 24 1T 1T 1.3. Nội dung văn hóa trong chính sách đô hộ của Pháp đối với Nam Kỳ .................................................... 29 1T T 1 1.3.1 Giai đoạn 1867-1897...................................................................................................................... 29 T 1 1T 1.3.2 Giai đoạn 1897 – 1914 ................................................................................................................... 31 T 1 1T 1.3.3 Giai đoạn 1914-1918...................................................................................................................... 33 T 1 1T 1.3.4 Giai đoạn 1918-1939...................................................................................................................... 34 T 1 1T 1.3.5 Giai đoạn 1939-1945...................................................................................................................... 36 T 1 1T CHƯƠNG 2: QUAN HỆ VIỆT-PHÁP TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1T 1945) ................................................................................................................................................... 38 T 1 2.1. Yếu tố văn hóa tác động đến nền giáo dục ............................................................................................ 38 1T T 1 2.1.1 Đạo Thiên Chúa ............................................................................................................................. 38 T 1 1T 2.1.2 Chữ quốc ngữ ................................................................................................................................ 40 T 1 1T 2.1.3 Văn học ......................................................................................................................................... 42 T 1 1T 2.1.4 Báo chí .......................................................................................................................................... 44 T 1 1T 2.1.5 Nội dung giáo dục trong các trào lưu canh tân, cải cách ................................................................. 50 T 1 T 1 2.1.5.1 Các cuộc canh tân cuối thế kỷ XIX ......................................................................................... 50 T 1 T 1 2.1.5.2 Các cuộc canh tân ở đầu thế kỷ XX ........................................................................................ 54 T 1 T 1 2.2. Quan hệ Việt – Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ ....................................................................... 59 1T T 1 2.2.1 Giáo dục Nho học ở Nam Kỳ ......................................................................................................... 59 T 1 1T 2.2.2 Tác động của giáo dục Nho học đến mọi lĩnh vực xã hội ở Nam Kỳ ............................................... 62 T 1 T 1 2.2.3 Các yếu tố Pháp và Việt trong lĩnh vực giáo dục ............................................................................ 65 T 1 T 1 2.2.4 Chính sách giáo dục và hệ thống giáo dục của Pháp tại Nam Kỳ .................................................... 67 T 1 T 1
- 2.2.4.1 Từ 1867 – 1897 ...................................................................................................................... 67 T 1 1T 2.2.4.2 Từ 1897 đến 1918................................................................................................................... 73 T 1 1T 2.2.4.3 Từ 1918 - 1945 ....................................................................................................................... 75 T 1 1T 2.2.5 Ảnh hưởng văn hóa Pháp đến văn hóa Việt trong lĩnh vực giáo dục .............................................. 78 T 1 T 1 2.2.6. Vai trò của chính quyền thực dân trong nền giáo dục ở Nam Kỳ ................................................... 81 T 1 T 1 KẾT LUẬN ........................................................................................................................................ 89 1T T 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 90 1T 1T PHỤ LỤC........................................................................................................................................... 94 1T T 1
- MỞ ĐẦU 1) Mục đích nghiên cứu Đất nước ta bước vào thế kỷ XXI trong bối cảnh một thế giới văn minh và xu hướng toàn cầu hóa (globalisation). Các quốc gia có xu hướng hòa nhập vào một cộng đồng, “một nền kinh tế toàn cầu không biên giới”. Những thành tựu về khoa học kỹ thuật, sự phát triển của kinh tế thế giới làm tăng cường sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc. Những tiến bộ của trao đổi quốc tế, sự bùng nổ thông tin cùng với những ưu việt của hệ thống truyền thông sẽ tạo điều kiện cho tính toàn cầu của nền văn hóa nhân loại. Xu thế đó đặt mỗi quốc gia trước yêu cầu phải kết hợp hài hòa yếu tố toàn cầu của văn hóa thế giới với yếu tố bản sắc của văn hóa dân tộc. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa thế giới (UNESCO) đã ra tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa vào tháng 11 năm 2001 và lấy ngày 21 tháng 5 hằng năm là “Ngày đa dạng văn hóa vì đối thoại và phát triển”. Nghị quyết năm 1998 của UNESCO lấy năm 2001 là năm đối thoại giữa các nền văn minh. Sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc là một vấn đề thuộc lịch sử của tất cả các nước trên thế giới. Trong nhiều nội dung của lịch sử Việt Nam, đề tài “Quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867-1945)” là một vấn đề có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và thời sự trong bối cảnh Việt Nam hội nhập với thế giới. Việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần hệ thống hóa, bổ sung, nâng cao nhận thức về lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử vùng đất Nam Kỳ thời Cận đại nói riêng, góp phần phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo. 2) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Như tên đề tài đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu và phạm vi về nội dung, không gian, thời gian của đề tài nghiên cứu là: Quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ từ khi Nam Kỳ trở thành thuộc địa của thực dân Pháp (1867) đến khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945). 3)Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trước đây những công trình của các nhà hoạt động chính trị và các nhà hoạt động nghiên cứu khoa học – xã hội tiến bộ chỉ tập trung vào đối tượng là những người da trắng đi khai thác
- thuộc địa và tội ác dã man của họ, gần đây có một khuynh hướng nghiên cứu mới lấy đối tượng là những người da màu, những người dân tộc thuộc địa qua ứng xử với nền văn hóa đô hộ đã tiếp biến văn hóa phương Tây để tạo ra những giá trị mới có nghĩa là không đặt trọng tâm vào tác động phá hoại và dã man của chế độ thực dân nhưng chắc chắn vấn đề không phải đặt ra theo kiểu ca ngợi “sứ mệnh truyền bá văn minh” hay “gánh nặng nhiệm vụ của người da trắng đối với da màu”, các công trình nghiên cứu nhằm phát hiện về mặt văn hóa, những phản ứng đa dạng và phức tạp của dân tộc bị trị đối với nền văn hóa của kẻ đi chinh phục như David Marr, Pierre, Brocheux, Daniel Hémery, Trịnh Văn Thảo, Nguyễn Văn Ký,…(thời Pháp thuộc) hay tác phẩm của giáo sư Heinz Schuette “Nguồn gốc dao và rìu”. Bài viết của Lương Thị Thoa đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 4/1998 cũng đã nêu lên một vài ý kiến về giao lưu văn hóa Đông – Tây trong tình hình hiện nay hay Sakurai Kiyohiko trong bài viết ở tạp chí “Xưa và Nay” số 71B, 1/2000 cũng đã nêu vấn đề về giao lưu văn hóa Đông – Tây qua con đường tơ lụa trên biển,… Tác phẩm “Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương trong ngôn ngữ và văn chương” của Vũ Bội Liêu (một liệt sĩ hy sinh vào đầu kháng chiến chống Pháp) sách in lần đầu năm 1944 và mới vừa được tái bản và trong tác phẩm Vũ Bội Liêu cũng đã rất thích thú về sự gặp gỡ văn chương Việt – Pháp, trong mỹ từ Pháp, sự đối ngẫu của người Pháp và văn biền ngẫu của ta. Tác giả cũng đưa ra nhiều ví dụ so sánh giống nhau như “nhanh như chớp”, “nói như vẹt”, “ngọt như mật”,…Tác phẩm của ông cũng là một minh chứng cho sự gặp gỡ giữa văn hóa Đông – Tây. Đã có nhiều bài viết của các học giả liên quan đền nội dung về giáo dục Việt từ khi Pháp xâm lược đến sau cách mạng tháng Tám như “ Chính sách giáo dục của Pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trọng Hoàng, khởi đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 96 năm 1967 và “ Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất” của Ngyễn Anh, đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 98 ( tháng 5 – 1967) đã nêu một cách khái quát những bước đi của thực dân Pháp trong lĩng vực giáo dục ở Việt Nam từ những ngày đầu cho đến khi Pháp bỏ hẳn nền giáo dục cũ với chế độ khoa cử của nó và thay thế bằng nền giáo dục thực dân.
- Tác giả Nguyễn Q. Thắng với tác phẩm “Khoa cử và giáo dục ở Việt Nam” đề cập đến hệ thống giáo dục Việt Nam từ thời phong kiến sang đến thời Pháp thuộc và khi Việt Nam được độc lập. “Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945” Nguyễn Đăng Tiến chủ biên là công trình nghiên cứu giá trị, khái quát toàn bộ nền giáo dục Việt Nam từ cách mạng tháng Tám trở về trước. “Giáo dục Việt Nam thời Cận đại của Phan Trọng Báu” nghiên cứu hai hệ thống giáo dục chính: nền giáo dục của Pháp trên đất nước ta và dòng giáo dục yêu nước và cách mạng do những nhà yêu nước tổ chức. Tiếp theo những bài trên diễn đàn văn hóa thế giới và một số nghiên cứu riêng biệt về ảnh hưởng của văn hóa Pháp lên văn hóa Việt, nội dung của luận văn này cũng muốn góp phần tìm hiểu thêm quá trình quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867- 1945) để thấy sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam và thế giới vì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay sự đa dạng hóa về văn hóa là chìa khóa cho sự hòa bình. 4) Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình làm đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp tiếp cận hệ thống: trong hoàn cảnh nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, trong sự giao lưu với văn hóa Pháp, văn hóa Việt nói chung và văn hóa Việt ở Nam Kỳ nói riêng trong lĩnh vực giáo dục là quá trình vừa đối đầu, đề kháng vừa tiếp thu, tiếp biến, vừa mang tính áp đặt - “Tây hóa”, vừa mang tính chọn lọc - “Việt hóa”… Lĩnh vực giáo dục được đặt trong hệ thống các yếu tố văn hóa được tiếp thu từ phía văn minh phương Tây nói chung và Pháp nói riêng. - Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Nghiên cứu vấn đề theo nội dung lịch sử và trình tự thời gian, nêu những nhận định khái quát về bản chất của các sự kiện lịch sử.
- CHƯƠNG 1: NAM KỲ TRƯỚC SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP 1.1. Những con đường tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây 1.1.1. Con đường truyền giáo 1.1.1.1. Các cuộc phát kiến địa lí – tiền đề cho công cuộc truyền giáo Ở Tây Âu từ thế kỷ XV, trong lòng nền phong kiến suy yếu đã manh nha kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế manh nha ấy đang đòi hỏi phải có sự tích lũy tư bản nguyên thủy. Sự tước đoạt tư liệu sản xuất tại chỗ cũng như lợi nhuận thương mại trong vùng chỉ đáp ứng một cách chậm trể nhu cầu trên. Thương nhân phương Tây muốn vươn đến những vùng đất mới hơn giàu tài nguyên, hàng hóa quí hiếm để đưa đến lợi nhuận cao và nhanh nhằm xúc tiến sự định hình của tư bản chủ nghĩa và nâng cao địa vị chính trị của giai cấp tư sản. Đúng thời điểm này các nước sớm phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu, đặc biệt là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có công nghệ đóng tàu và kỹ thuật hàng hải đã có những tiến bộ lớn. Những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải cho phép các nhà thám hiểm tổ chức những chuyến đi xa nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mới. Đó là các cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha như thám hiểm của Vax – co đơ Ga - ma năm 1497, của Tây Ban Nha như cuộc thám hiểm của C. Cô – lôm - bô vào các năm 1492,1493,1498,1502…Những cuộc thám hiểm trên đã khẳng định sự tồn tại của tân lục địa “ America” và phát hiện nhiều con đường khác nhau để đi tới tân lục địa đó, cũng như các con đường ngắn nhất để đi đến vùng Viễn Đông xa xôi. Cuộc phát kiến đó đã thúc đẩy các nhà chinh phục, các thương nhân đi tìm thị trường mới béo bở và trong các cuộc thám hiểm và chạy đua xâm lược thuộc địa đó còn có mặt thường xuyên và đông đảo của các giáo sĩ của nhiều dòng tu lớn của các nước phương Tây được phái đi theo để thực hiện sứ mạng truyền bá đạo Thiên Chúa khiến cho Đạo thiên Chúa cùng với sự hình thành hệ thống thuộc địa của Phương Tây đã có mặt ở những mức độ khác nhau ở hầu khắp hệ thống thuộc địa nói trên.
- Như vậy những phát kiến địa lí đã tạo điều kiện cho việc truyền bá đạo Thiên Chúa ra bên ngoài. Về động cơ của việc mở rộng việc truyền bá đạo Thiên Chúa ra bên ngoài thì phần lớn các nhà Thiên chúa cho rằng chỉ có một động cơ tôn giáo và coi đó như một sự tiếp nối tự nhiên của sứ mạng truyền giáo của đạo Thiên Chúa từ khi nó mới ra đời. Còn nếu một lúc nào đó, ở nơi nào đó chịu sự tác động của động cơ ngoài tôn giáo thì đó cũng là những trường hợp bất thường và nhất thời mà thôi. Không ai phủ nhận động cơ nói trên , mỗi tôn giáo sau khi định hình phải truyền bá tôn giáo khi có cơ hội và điều kiện. Đó cũng là lý do khiến tôn giáo tồn tại và phát triển. Sự mở rộng truyền bá đạo Thiên Chúa ra phạm vi toàn thế giới từ những phát kiến địa lý cũng nằm trong thông lệ đó. Cuộc truyền giáo từ phát kiến địa lý ( thế kỷ XV đến thế kỷ XIX) nằm trong bối cảnh tư bản đã thắng thế ở Tây Âu, giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh, đóng vai trò quyết định trên chính trường. Quyền lực chính trị và kinh tế của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã bị hạn chế nhưng giai cấp tư sản không thể thủ tiêu giáo hội nhưng không thể vì chính quyền của tư sản vẫn cần có sự quy phục của nhân dân ở chính quốc cũng như các thuộc địa và Thiên Chúa giáo là công cụ tích cực để duy trì sự quy phục đó.Vì lý do đó mà chính quyền mới đã thỏa hiệp với Giáo hội. Không những vẫn để cho giáo hội tự do hành đạo ở chính quốc mà còn tài trợ cho các tổ chức truyền giáo ra bên ngoài. Theo ý kiến của nhiều giáo sĩ thừa sai thì tôn giáo cùng ngôn ngữ ( sự thay thế ngôn ngữ bản địa bằng ngôn ngữ chính quốc) là phương thức hữu hiệu nhất để đồng hóa và biến những vùng đất này trở thành những vùng đất vĩnh viễn của chính quốc. Đó cũng là lý do vì sao các cuộc thám hiểm, xâm lược thuộc địa cũng như cuộc thực dân ở vùng đất bên ngoài bao giờ cũng gắn liền mật thiết với việc truyền bá đạo Thiên Chúa. Thêm nữa từ phát kiến địa lý, giáo hội Thiên Chúa mà cơ quan đầu não là tòa thánh La Mã thấy được tiềm năng của việc mở rộng nước Chúa. Nếu những vùng đất này được Thiên Chúa giáo hóa, các vua chúa ở đây được cải giáo và phục tùng tòa thánh La Mã thì đó sẽ là hậu thuẫn
- vô cùng to lớn cho địa vị của giáo hội Thiên Chúa, có tác dụng như một đối trọng trước sức ép ngày càng lớn của giai cấp tư sản phương Tây. Song cuộc truyền giáo ra nước ngoài lại chỉ có thể được thực hiện với sự hỗ trợ vật chất của các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ở thế kỷ XV, XVI đầu thế kỷ XVII và sau đó là Pháp ở giữa thế kỷ XVII. Các quốc gia này đã chủ động đứng ra tổ chức và tài trợ cho các đoàn truyền giáo, chuyên chở các giáo sĩ thừa sai đến những vùng đất xa xôi để truyền đạo, nuôi dưỡng, bảo vệ họ, cung cấp cho họ tiền bạc, những tặng phẩm quý để lấy lòng các vua bản địa. Để đáp lại, các giáo sĩ thừa sai, dù muốn hay không vẫn phải làm một số việc cho quốc gia đã cử họ đi và tài trợ cho họ như làm môi giới buôn bán cho thương nhân nước đó với bản địa, cung cấp thông tin cho nhà chức trách về miền đất truyền đạo qua thư từ, báo cáo hoặc các tập du ký, hồi ký, tạo ra trong giáo dân lòng biết ơn và cảm tình đối với quốc gia đã cử họ tới và trong nhiều trường hợp trong đó có Việt Nam tạo cớ cho cuộc xâm lược vũ trang. Như vậy cuộc truyền đạo Thiên Chúa ngoài động cơ thiêng liêng là truyền giảng Phúc Âm còn có những động cơ xuất phát từ lợi ích của tòa thánh La Mã muốn củng cố thế lực của mình và lợi ích của các quốc gia đã tổ chức cho cuộc truyền giáo này. Việc mở rộng truyền giáo ra phạm vi thế giới từ phát kiến địa lí đã ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng thực dân chủ nghĩa tư bản vừa mới hình thành ở phương Tây, đó là tư tưởng của giai cấp tư sản tự cho mình có nhiệm vụ khai hóa văn minh. Mặc dù Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đã nhắc nhở các giáo sĩ thừa sai tôn trọng các nền văn hóa bản địa và phong tục địa phương, thực hiện phương thức truyền đạo mềm dẻo, kiên trì , không dính đến chính trị nhằm tránh sự chống trả của dân bản địa và chính quyền nhưng lời nhắc nhở không có hiệu quả vì cuộc truyền giáo đã không tránh khỏi sự chi phối của yếu tố lịch sử và thời đại. Thiên chúa giáo ngay khi trở thành quốc giáo trong Đế quốc La Mã đã mang nặng tính tự cao được thể hiện ở thái độ miệt thị đối với các niềm tin của tôn giáo khác và coi đó là mê tín. Ở Châu Mỹ và châu Phi dân bản xứ khi được cải giáo bắt buộc phải đoạn tuyệt với tất cả hệ thống tôn giáo tín ngưỡng truyền thống, thậm chí cả nếp sống văn hóa cổ truyền, khiến họ trở nên xa lạ với cộng đồng đã sinh ra họ. Ở Châu Á thì cuộc “ xâm lược văn hóa” gặp nhiều khó
- khăn hơn. Phần lớn các quốc gia ở đây là các quốc gia phong kiến đã định hình từ nhiều thế kỷ với những thể chế kinh tế, chính trị cùng với đời sống văn hóa tinh thần tương đối ổn định. Để có thể xâm nhập vào các quốc gia này các giáo sĩ dòng Jésuites của Bồ Đào Nha có lúc chủ trương mềm dẻo, chấp nhận một số lễ tục như cho phép một số người cải giáo quỳ lại trước bàn thờ tổ tiên…nhưng chủ trương này bị giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã phản đối. Phương thức truyền giáo phổ biến là là các giáo sĩ thừa sai dùng nguồn vật chất để quyến rũ người bản xứ chủ yếu là dân nghèo theo đạo gây cho họ niềm hi vọng sẽ đổi đời khi theo tôn giáo một quốc gia giàu mạnh phương Tây. Cùng lúc dùng lễ vật lấy lòng vua chúa để được tự do truyền đạo, thậm chí cải giáo các vua chúa với hi vọng các vua chúa sau khi cải giáo sẽ đưa Thiên Chúa giáo lên địa vị độc tôn. Khi chính quyền các quốc gia này cản trở cuộc “ xâm lược văn hóa” thì các giáo sĩ sẽ nắm lấy cơ hội đó nêu ra vấn đề bảo vệ giáo dân cũng như bảo vệ sự an toàn của công dân các nước phương Tây thành cái cớ cho cuộc xâm lược. Như vậy việc mở rộng truyền bá Thiên Chúa giáo ra phạm vi thế giới từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX đã có sự gắn kết chặt chẽ với sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, thể hiện ở động cơ của nó và vai trò của nó trong sự hợp thức hóa chủ nghĩa thực dân và có phần đóng góp quan trọng vào sự bành trướng thực dân này. Sự truyền đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam nằm trong một bộ phận truyền bá đạo Thiên Chúa ra phạm vi thế giới cũng phải tuân thủ quy luật lịch sử, thời đại đã chi phối cuộc truyền giáo đó. 1.1.1.2 Cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam 1.1.2.1 Thời kỳ của các giáo sĩ dòng Tên ( Jésuites ) Từ thế kỷ XV nhất là thế kỷ XVI, vùng Viễn Đông là nơi lui tới của nhiều nhà thám hiểm, thương nhân và các giáo sĩ phương Tây để buôn bán, truyền đạo và qua đó chiếm đất đai vùng này làm thuộc địa. Ấn Độ rơi vào vòng kiểm soát của Anh, Philippin thành thuộc địa của Tây Ban Nha, Inđônêxia bị Hà Lan chiếm….Bồ Đào Nha lúc này suy yếu chỉ chiếm được một vài thương điếm quan trọng nhất là Goa ( Ấn Độ) và Ma Cao. Cùng lúc Nhật bản và Trung Quốc là hai quốc gia mà các nước phương Tây đặc biệt quan tâm và tìm cách xâm nhập. Song song với quá trình bành trướng nói trên là sự mở rộng việc truyền bá đạo Thiên Chúa vào các vùng đất
- này. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha chủ yếu thuộc dòng Jésuites đã thâm nhập Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản mà Goa, Ma Cao là nơi đặt bộ phận điều hành. Việt Nam tuy nằm trong vùng Viễn Đông nhưng ít được chú ý đến thỉnh thoảng các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có dừng chân giảng đạo nhưng chưa đạt kết quả gì đáng kể. Từ năm 1615 trở đi khi trung tâm truyền giáo của Bồ Đào Nha cử hai giáo sĩ Francois Bujomi và Diego Carvalho sang Hải Phố, thuộc Quảng Nam ( Đàng Trong), việc truyền bá đạo Thiên Chúa mới thực sự bắt đầu. Vào thời điểm nói trên nhiều giáo sĩ Jésuites truyền giáo ở Nhật Bản đang phải dừng chân ở Ma Cao vì ở Nhật đang có sự cấm đạo rất gắt gao. Trong khi đó Hải Phố nơi buôn bán sấm uất ở Đàng Trong với nước` ngoài có mặt nhiều thương nhân Nhật Bản có đạo và cùng với họ là nhiều giáo dân Nhật Bản đến cư trú để tránh bắt đạo trong nước. Họ đang cần sự có mặt của các giáo sĩ thừa sai để duy trì đời sống đạo của mình, hai giáo sĩ trên thuộc biên chế các thừa sai đi Nhật Bản, được cử sang Hải Phố trước hết để đáp ứng yêu cầu này sau đó là có nhiệm vụ khai thác các cơ hội thuận lợi để tiến hành cuộc truyền giáo ở đây. Ngay sau khi đến hai giáo sĩ đã làm một Thánh lễ với một số giáo dân Nhật Bản. Một năm sau họ cải giáo được 300 người Việt các vùng xung quanh. Tiếp đó Ma Cao lại cử hai giáo Francois Barreto và Francois de Pina sang tăng viện và mở rộng địa bàn truyền giáo. Họ rất được quan trấn thủ Bình Định tại Qui Nhơn quan tâm nên các giáo sĩ đi lại truyền giáo được dễ dàng. Số giáo dân cứ tăng dần. Trước sự thuận lợi đó, 1624 Ma Cao gửi tiếp sang Đàng Trong thêm 6 giáo sĩ do Gabriel de Mattos đứng đầu, trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng nền móng cho giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã ở Việt Nam trong nữa đầu thế kỷ XVII. A. de Rhodes có mặt ở Việt nam từ tháng 12 năm 1624 đến 1645 1 song lại có tác dụng đặc F 0 P P biệt trong việc mở mang việc đạo ở đây. 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 52
- A. de Rhodes có năng khiếu đặc biệt trong việc học các thứ tiếng nước ngoài. Sau sáu tháng đến Đàng Trong đã có thể giảng đạo bằng tiếng Việt. Sau đó A. de Rhodes kế tục các giáo sĩ đến trước hoàn chỉnh dạng chữ viết tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh và trong thời gian ở Việt Nam A. de Rhodes đã hoàn chỉnh cuốn từ điển Việt – Bồ Đào Nha – La Tinh. A. de Rhodes cũng là giáo sĩ áp dụng thành công phương pháp tiếp cận vua chúa, qua lại bằng lễ vật quí, nhất là những người thân thích của vua chúa, quan lại để được tự do truyền đạo và lôi kéo thêm nhiều người theo đạo. Sau khi đến Hội An A. de Rhodes đã tiếp xúc với Sãi Vương và cải giáo cho một người bà con của chúa có tên thành là Maria Madeleine, Maria Madeleine đã thuyết phục những người xung quanh theo đạo và che chở cho các giáo sĩ, lại lập một nhà nguyện tại nhà của mình. Vào năm 1627, ở Đàng Ngoài A. de Rhodes cũng dùng lễ vật quí dâng Trịnh Tráng ở cửa Bạng ( Thanh Hóa) và được phép về Hà Nội giảng đạo và được chúa Trịnh cho dựng ngôi nhà lớn ở gần dinh mình để vừa làm nhà ở vừa làm nhà thờ. A. de Rhodes cải giáo cho người chị của chúa và kéo thêm 17 người trong gia đình theo đạo. Song song với truyền đạo A. de Rhodes quan tâm đến việc đào tạo tầng lớp cốt cán để hổ trợ cho mình trong việc truyền đạo và giúp duy trì đời sống cho giáo dân khi vắng thừa sai hay linh mục. Cho đến trước khi rời khỏi Việt Nam A. de Rhodes cùng với các cộng sự gây dựng nền móng đầu tiên cho giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Ở Đàng Trong Thiên Chúa giáo được truyền bá rộng rãi ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Thuận Hóa, Quảng Bình với số giáo dân khoảng 50.000 người. Thành tích của A. de Rhodes không chỉ dừng lại đó. Khi rời Ma Cao về Châu Âu A. de Rhodes còn nhận nhiệm vụ trọng đại do các cha bề trên không phải quốc tịch Bồ Đào Nha giao cho nhiệm vụ là vận động tòa thánh La Mã chọn một nước bảo trợ mới, đủ sức phục vụ cho việc phát triển đạo đang thuận lợi ở Viễn Đông, nhất là ở Việt Nam để thay thế cho Bồ Đào Nha không còn đủ sức đảm đương.
- Cuộc vận động này đã dẫn đến việc Tòa thánh La mã cử các Thế diện Tông tòa người Pháp đảm đương việc điều hành truyền giáo ở Viễn Đông và sự ra đời của Hội Thừa sai Pari nhằm đào tạo các thừa sai Pháp làm nhiệm vụ truyền giáo ở vùng này. 1.1.2.2 Thời kỳ các thế diện Tông tòa Pallu, Lambert. Cuộc vận động tòa thánh Vatican tìm một quốc gia khác thay thế Bồ Đào Nha ở Viễn Đông gặp nhiều khó khăn vì bị nước này phản đối. Đến 1658 với áp lực và nhiệt tình của nước Pháp, Giáo hoàng đồng ý cho giáo sĩ Pháp sang Viễn Đông với điều kiện tự lo liệu chi phí và phương tiện đi lại. Các giáo sĩ quốc tịch Pháp là Pallu, Lambert, Cotolendi được cử làm thế diện Tông tòa ở Viễn Đông. Các giáo sĩ thuộc quốc tịch Pháp nếu hoạt động ở Viễn Đông đều phải phục tùng giám mục Pháp. Trước khi sang Viễn đông Pallu đã cùng giáo sĩ Pháp nhiệt tình với cuộc truyền giáo ở Viễn Đông, đứng ra thành lập tổ chức lấy tên là Hội thừa sai Pari lo việc đào tạo các giáo sĩ để gửi sang Viễn Đông. Hội được vua Louis XIV và các quý tộc nhiệt liệt ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần, chính thức ra mắt vào ngày 27/10/1663, trụ sở đặt tại phố Bac, Paris “ Người ta khâm phục lòng nhiệt thành của các vị yếu nhân này cho việc Chúa đồng thời cũng là cho sự bành trướng thế lực Pháp” và “ nước Pháp sang Á Châu, mang theo đạo Thiên Chúa giống như người Tây Ban Nha hay người Bồ Đào Nha trước đây” 1 F 1 P Hai sự kiện lớn trên đã đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc truyền bá Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Kể từ đây, nước Pháp nắm độc quyền truyền giáo cũng như bành trướng thế lực ở đây. Hai phương diện đó không tách rời trong nhận thức và hành động của các giáo sĩ thừa sai Pháp đến truyền giáo ở Việt Nam. Năm 1662, Pallu cùng 9 đạo sĩ lên đường sang Viễn Đông và tới Juthia thủ đô cũ của Thái Lan năm 1664. Tại đây Pallu cùng với Lambert tổ chức cuộc với các giáo sĩ thừa sai Pháp tổ chức họ thành giáo đoàn, đề ra một qui chế hoạt động nghiêm ngặt. Một chủng viện cũng được lập ở đây thu nhận chủng sinh người Việt và người Trung Hoa, Pallu cũng định ra cho các giáo sĩ Pháp phương hướng ứng xử hòa nhã đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha. Do có khó khăn không 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 57
- thể ra Đàng Ngoài làm nhiệm vụ, năm 1665 Pallu ủy nhiệm cho thừa sai Deydier ra Bắc làm Cố chính điều hành việc đạo, rồi trở về Châu Âu, đến Rô -ma vận động Giáo hoàng xác định quyền hành của giám mục Pháp đối với thừa sai thuộc các quốc tịch khác. Năm 1681, Pallu cử hai giáo sĩ Lefebre và Geffrard đem lễ vật và thư đến Đàng Ngoài yêu cầu cho phép công ty Ấn Độ được phép lập thương điếm ở Bắc Kỳ cho phép được tự do truyền đạo, giáo dân được tự do theo đạo và mong mỏi nhà vua cải giáo. Trong khi Pallu lo việc truyền đạo thì ở Pháp một công ty thương mại lấy tên công ty Ấn Độ được thành lập năm 1664 với quy mô và hoạt động đúng như dự kiến của Pallu đã phác thảo trước khi đi Viễn Đông. Công ty này sau đó đã hỗ trợ đắc lực cho các giáo sĩ Pháp trong cuộc truyền giáo ở Viễn Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Sau Pallu là Lambert. Tháng 6 – 1664, Lambert cử thừa sai Chevreuil sang thăm dò mang theo thư ủy nhiệm và một tiền khá lớn cùng với một thông ngôn người Nhật đến Hải Phố rồi lên huế. Nhân buổi lễ Đức Mẹ lên trời do giáo sĩ Dòng tên tổ chức, Chevreuil tuyên bố là giám mục chính thức của địa phận rồi sau đó trở lại cửa Hàn. Tại nơi này, Chevreuil bị các giáo sĩ Dòng Tên tẩy chay và làm khó dễ. Năm 1665, có lệnh cấm đạo của Hiền Vương cả các giáo sĩ Dòng Tên và Chevreuil bị trục xuất. Tháng 8 năm 1665 Chevreuil cùng với thừa sai Hainques mang theo giấy xác nhận của Lambert cử hai người làm giám mục Đàng Trong. Chevreuil bị ốm nằm ở Bà Rịa rồi sau đó về Thái Lan. Hainques cùng Brindeau ra miền Trung ra sức hoạt động truyền giáo bất chấp sự cấm đạo của chính quyền. Vào thời điểm này Hainques gửi hai thầy giảng là Trang và Bền sang Thái chịu chức linh mục và trở về cùng Hainques tham gia truyền đạo. Năm 1670 cả hai linh mục Hainqueus và Brindeau mất. Hai linh mục Trang và Bền trốn sang Thái Lan. Đàng Trong trong một thời gian dài không có linh mục. Cũng vào năm này Lambert đi kinh lý Đàng Ngoài. Trước đó vào năm 1665, Pallu cử thừa sai Deydier ra Bắc với tư cách là Cố chính. Deydier giả làm lái buôn, ẩn náu trong nhà các giáo dân và làm việc đạo rất tích cực, có hiệu quả. Deydier triệu tập các thầy giảng ngày ngày bồi dưỡng thêm về giáo lý. Năm 1669, Lambert cùng thừa sai Bourges và một thừa sai khác ra kinh lý Đàng Ngoài, đến Phố Hiến trốn lên đất liền gặp Deydier tiến hành một số việc quan trọng, trước hết Lambert truyền chức thêm 7 thầy cả, 20 thầy bổn, 20 thầy chịu phép cắt tóc, được coi như hàng giáo sĩ khởi đầu cho Đàng Ngoài. Ngày 14/2/1670, Lambert triệu tập Công đồng Nam Định nhằm lập lại kỹ luật địa phận. Cùng lúc Lambert lập một dòng nữ tu bản xứ lấy tên là
- dòng chị em mến Câu Rút sau đổi tên Dòng chị em mến Thánh giá. Chính những nữ tu của Dòng chị em mến Thánh giá trong suốt thời kỳ truyền giáo đã có những đóng góp hết sức to lớn cho việc củng cố, phát triển đạo và gây dựng uy tín với người dân. Ngoài việc ngắm nguyện, đọc kinh, tự kiểm và sám hối, các nữ tu còn hoạt động xã hội nhất là chữa bệnh cho dân, tự nguyên phục vụ trong cô nhi viện, các trại hủi do giáo hội mở. Tháng 4 năm 1670 Lambert trở về Thái sau đó cùng các thừa sai khác vào Đàng Trong để thực hiện chức vụ giám mục của mình. Sau khi đi kinh lí ở các tỉnh phía nam, Lambert lập tu viện Dòng chị em mến Thánh giá ở Quảng Ngãi rồi về Hải Phố. Ở đây Lambert kêu gọi sự hòa hợp trong giáo hội và. Tháng 2 năm 1672 Lambert về Thái Lan mang theo 12 học dinh người Việt và trở lại Đàng Trong gặp chúa Hiền Vương nhưng không gặp được vì có tang. Lambert gữi lễ vật cho chúa rồi về Hải Phố. Năm 1679 qua đời tại Thái Lan. Lambert là giám mục tiền khởi của Tòa thánh La Mã và giáo sĩ thừa sai Paris có những đóng góp cụ thể và thiết thực cho cuộc truyền bá của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Bằng những hành động của mình, Lambert khẳng định quyền truyền giáo của pháp ở Việt Nam trước sự kháng cự bền bỉ của Thừa sai dòng Tên. Với hai công đồng Nam Định và Hải Phố, Lambert đã củng cố đội ngũ các thừa sai Pháp, đội ngũ các linh mục và thầy giảng bản xứ đưa cuộc truyền giáo vào nề nếp, tạo đà cho các giám mục địa phận sau đó đẩy mạnh việc phát triển đạo.Ngoài ra việc lập dòng chị em Mến Thánh giá càng tô điểm thêm công lao của Lambert trong công cuộc truyền giáo ở Việt Nam. Nhờ công lao của Pallu và Lambert, việc truyền giáo ở Việt Nam vào nề nếp và có tổ chức. Từ thế kỷ XVII – XVIII là thời kì truyền giáo của các giám mục địa phận. mặc dù bối cảnh Việt Nam thời kỳ này là chiến tranh, nội chiến và cấm đạo nhưng việc truyền giáo vẫn duy trì khi có cớ hội. Ở Đàng Trong, năm 1670 khi Lambert mất ở Thái Lan, thừa sai Mahot được cử làm giám mục địa phận Đàng Trong. Thời gian tại chức, Mahot triệu tập công đồng Hải Phố để chỉnh đốn việc đạo và bàn việc đào tạo linh mục bản xứ. Năm 1684, giám mục Mahot mất, thừa sai Joseph Duchêne thay thế nhưng cũng qua đời sau hai ngày nhậm chức.
- Từ 1684 đến 1691, Đàng Trong không có giám mục. Pérez thừa sai Tây Ban Nha được cử làm giám mục Đàng Trong năm 1891 nhưng không được thừa sai Pháp chấp nhận. Pérez chết năm 1727, Alexander ( Thừa sai người Ý) thay thế nhưng gặp nhiều khó khăn về tranh chấp quyền hành và bất đồng về lễ nghi tôn giáo. Trong khi các giáo sĩ Dòng Tên muốn tha cấm việc thờ cúng tổ tiên thì các giáo sĩ Thừa sai Paris kiên quyết phản đối và xung đột xảy ra. Alexander mất năm 1728, Đàng Trong lại một thời gian dài không có giám mục. Trong khi đó sự xung đột các dòng kéo dài và căng thẳng tới mức Tổng hội truyền giáo cử cha Achards de la Baume với cương vị Khâm sai Tòa thánh đến để dàn xếp. Tháng 5 năm 1739, Baume đi thẳng đến Hải Phố rồi Huế triệu tập giáo sĩ các dòng kí giấy hoàn toàn tuân thủ các quyết định của Khâm sai Tòa thánh, tiếp đó phân chia Đàng Trong làm các địa phận nhỏ và giao cho mỗi dòng cai quản một địa phận . Tuy có những rắc rối nội bộ trên nhưng giáo hội Đàng Trong may mắn được hưởng 10 năm tha cấm dưới thời chúa Ninh Vương ( 1721 – 1737) nên việc đạo vẫn tiến triển. Năm 1743 địa phận Đàng Trong có 300 nhà thờ, 70.000 bổn đạo với 29 linh mục ngoại quốc và 200 thầy giảng. Riêng ở Huế có 5 nhà thờ 1 2F P Năm 1743, thừa sai Lefebre được cử làm giám mục Đàng Trong. Theo lệnh Giáo hoàng, Lefebre triệu tập công đồng Huế bàn về việc thống nhất quan điểm về lễ nghi tôn giáo tồn tại dai dẳng nhưng không đi đến kết quả. Năm 1750 Võ Vương ban hành việc cấm đạo, có 26 thừa sai bị bắt rồi trục xuất. Lefebre trốn qua Cao Miên rồi mất ở đó năm 1760. Việc đạo ở Đàng Trong phó mặc trong tay 3 linh mục và các thầy giảng bản xứ. Thừa sai Piguel được cử thay thế Lefebre, nhưng không đến Đàng Trong được do chính sách cấm đạo. Đến khi Võ Vương mất, Huệ Vương lên ngôi việc cấm đạo có phần nới lỏng, Piguel mới đến Đàng Trong, đi thăm các xứ đạo sau 15 năm không có giám mục. Do sức yếu Piguel trở về Cao Miên và mất năm 1771. Trước khi mất đã chỉ định thừa sai Pigneau de Béhaine ( Bá Đa Lộc) làm phó giám mục Đàng Trong. Pigneau đến Đàng Trong từ 1767, được cử làm giám đốc chủng viện Hòn Đất. Đầu năm 1770 tình hình Hà Tiên bất ổn, Pigneau đem 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 67
- chủng viện qua Pondicheri ( Ấn Độ). Năm 1774 được phong làm giám mục rồi trở về Hà Tiên năm 1775. Thời gian này ở Đàng Trong bùng nổ phong trào nông dân Tây Sơn, tình hình khá hỗn loạn, Pigneau đã cứu thoát hậu duệ duy nhất của chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh và từ đó giữa Pigneau và Nguyễn Ánh có mối quan hệ khắng khít cho đến khi Pigneau từ trần 1899. Trong khoảng 20 năm đó Pigneau có vai trò đặc biệt trong việc tồn tại và trở lại ngôi vua của Nguyễn Ánh Cuộc truyền giáo trong ba thập kỷ cuối thế thế kỷ XVIII không được tiến triển nhiều vì trong thực tế với khởi nghĩa Tây Sơn Đàng Trong bị chia cắt làm hai phần: miền Nam ( Nam Kỳ sau này) và Bắc ( Trung Kỳ sau này). Từ 1775 Pigneau phong cho Labartette làm giám mục phó phụ trách miền Trung. Song việc đạo không tiến triển do ở những vùng Tây Sơn kiểm soát đều bị cấm đạo. Tuy nhiên từ 1789 trở đi khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định thì việc đạo được khôi phục ở những vùng đất Nguyễn Ánh kiểm soát. Tính đến năm 1800, ở Đàng Trong có: 1 giám mục Thế diện Tông Tòa, 5 thừa sai, 15 linh mục bản xứ, 50.000 giáo dân 1 3F P Khi chủ động cứu vớt Nguyễn Ánh vào khoảng 1777 và sau đó tích cực giúp đỡ Nguyễn Ánh, Pigneau nuôi hi vọng Nguyễn Ánh sẽ cải giáo và Thiên chúa giáo hóa Việt Nam. Nhưng điều mong đợi của Pigneau không hề xảy ra vì dù chịu ơn Pigneau nhưng Nguyễn Ánh không thích đạo Thiên chúa, không chấp nhận đạo này vì những tín ngưỡng truyền thống của dân tộc nhất là việc thờ cúng ông bà tổ tiên không được duy trì ở Thiên chúa giáo.. Trong nhiều lần tranh luận Nguyễn Ánh cũng đã bày tỏ thái độ kiên quyết của mình với Pigneau. Trong sắc lệnh về tôn giáo năm 1804 Gia Long công khai Thiên Chúa giáo là thứ dị đoan và ra lệnh “ …từ nay trong các tổng , các làng có nhà thờ của Thiên chúa giáo cấm sửa chữa hoặc xây lại những ngôi nhà thờ bị hư nát, còn cất nhà thờ mới ở những nới chưa có tuyệt nhiên cấm hẳn”. 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 67
- Tuy nhiên trong suốt thời gian ở ngôi Gia Long không hề ra một sắc chỉ cấm đạo nào và Thiên Chúa giáo được bình yên. Tuy nhiên ở những năm này Giáo hội Pháp vừa trải qua cơn bão táp của cách mạng tư sản nên không đủ sức cung cấp cho Việt Nam những giáo sĩ thừa sai cần thiết. Năm 1812, ở phía Nam chỉ còn giám mục Labartette, cha chính địa phận Jarot và thừa sai Audemar. Vì thế trong thời gian dài ấy việc truyền đạo không phát triển mà chỉ là thời gian để Giáo hội Việt Nam củng cố và ổn định tổ chức để đối phó với những đợt cấm đạo ngày càng gay gắt từ thời Minh Mạng trở đi. Khoảng thời gian 20 năm dưới thời Minh Mạng, lực lượng truyền giáo được tăng cường. Các giám mục như Labartette mất năm 1822 rồi Taberd nhận chức giám mục 1827 ở Trung và Nam Kỳ, Havard nhận chức năm 1829, Retord được phong giám mục 1839, đều là những người có năng lực và tận tụy. Cùng thời gian này nhiều giáo sĩ thừa sai được cử đến tăng cường nhất là cho miền Trung và miền Nam. Nhưng cũng trong thời gian này giáo hội ở Việt Nam chịu nhiều tổn thất do các đợt cấm đạo của Minh Mạng. Là người có học vấn và có những đóng góp trong việc trị nước, Minh Mạng coi việc đi đến hạn chế Thiên chúa giáo cũng là cách để bình ổn trật tự xã hội và phòng ngừa sự dòm ngó của phương Tây nhất là thực dân Pháp. Ngày 12 – 02 – 1825 Minh Mạng cấm tất cả thương nhân nước ngoài để các giáo sĩ ở lại Việt Nam sau mỗi lần đến buôn bán “Phải canh chừng mọi nẻo cửa khẩu trên núi, trên đường bộ cũng như đường thủy, không cho một Tây Dương đạo trưởng nào có thể lén lút xâm nhập rồi trà trộn trong dân, rao giảng những điều tà giáo ở trong nước”. Cuối năm 1832 nhân vụ án Lê Văn Duyệt – nhân vật trước đó dám công khai lên tiếng bảo vệ một số giáo sĩ mà ông cho là đã ít nhiều có công với triều đình. Minh Mạng liền hạ lệnh bắt kế khai tất cả những người lính nào là tín đồ Thiên Chúa giáo. Kết quả có 12 ngưới bị bắt. Ngày 6 – 1 – 1833 lần đầu tiên Minh Mạng ban chiếu chỉ cấm đạo với lời lẽ rất kiên quyết: “Trẫm truyền cho tất cả những ai đã theo tà đạo, từ quan lại cho đến thứ dân, nếu còn biết sợ uy quyền của Trẫm thì phải thật lòng cải tà quy chính. Các khanh đều phải kiểm soát đạo này trong địa hạt của mình xem chúng có tuân thượng lệnh hay không và bắt chúng phải đạp lên cây thập
- tự. Các nhà và quán của đạo này đều phải triệt hạ hết. Sau này nếu còn ai theo đạo thì phải nghiêm trị. Trẫm muốn tiêu diệt tận gốc tà đạo. Đó là thành ý của Trẫm, thần dân phải nghe theo và thi hành”. Ngày 15-7-1834, nhân cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1832-1835) và của Nông Văn Vân ( 1833-1835), Minh Mạng đã ban hành Thập điều huấn dụ. Trong đó điều thứ bảy có nội dung phê phán rất gay gắt với Thiên Chúa giáo: “ Thứ đạo ấy quy tụ rất nhiều điều sai trái mà ta không nên làm theo, đạo ấy phi lý và vô luân hơn mọi thú đạo xấu xa khác, vì đàn ông và đàn bà chung sống như thú vật, đua nhau phạm tội ác, gieo rắc sự bất hòa, ngu muội đâm đầu vào chốn cực hình và vào chổ chết, phá hoại lời giáo huấn chân chính và gây thương tổn cho nhân bản” Ngày 25 – 01 – 1836, Minh Mạng lại ban chỉ dụ cấm đạo lần thứ hai và lần này việc cấm đạo còn có vẻ nghiêm ngặt hơn lần trước: “Trẫm cấm việc mở cửa biển cho tàu bè của bọn mọi rợ vào, trừ cửa Hàn. Hễ bắt được bọn đạo trưởng của Tây Dương theo tàu vào nước thì phải đem xử tử ngay. Hễ bắt được đạo trưởng nào của Tây Dương lén lút ở lại trong nước thì củng phải đưa đi xử tử. Xử tử luôn những kẻ đã chứa chấp bọn đạo trưởng ấy trong nhà mình. Địa phương nào có bọn đạo trưởng ẩn náo thì quan lại của địa phương ấy cũng bị xử tử vì đã không cố sức tìm hết cách để bắt” Ngày 18 – 01 – 1839, một lần nữa Minh Mạng lại ban chiếu cấm đạo. Lần này Minh Mạng ra sức đốc thúc các quan địa phương phải ráo riết thực hiện những tờ chiếu cấm đạo mà Min h Mạng đã ban hành trước đó Thời Thiệu Trị (1841-1847) thái độ chung của triều Nguyễn đối với Thiên Chúa giáo có phần dễ chịu hơn. Trong một giới hạn nhất định nào đó hiện tượng bài xích tuy vẫn tiếp tục nhưng không khí căng thẳng đã giảm bớt rất nhiều. Thời Tự Đức (1848-1883)là thời triều đình nhà Nguyễn ban hành nhiều chiếu chỉ cấm đạo nhất. Hiện tượng này cò lẽ xuất phát từ hai nguyên nhân khác nhau. Một là thực dân Pháp đã đi từ chỗ dòm ngó đến can thiệp rồi cuối cùng là nổ súng xâm lược nước ta. Giáo sĩ và cả giáo dân bị nghi ngờ là lực lượng đã cam tâm hợp tác với thực dân Pháp nên bị triều đình trấn áp. Hai là ngoài sự thiếu tỉnh táo và sâu sắc của triều đình, Tự Đức còn chịu áp lực mạnh mẽ của lối tư
- duy cực đoan trong một bộ phận những giáo sĩ yêu nước. Chính họ là nhưng người đã hô ban khẩu hiệu “Bình Tây sát tả” và một số chủ trương vội vã khác. Tất nhiên là còn có rất nhiều nguyên nhân khác nữa nhưng người chịu trách nhiệm cao nhất và trước hết vẫn là Tự Đức. Chiếu chỉ cấm đạo của Tự Đức ban hành khá nhiều nhưng tinh thần và mức độ cấm đạo thì cũng tương tự nhau. Từ năm 1848 đến 1861 Tự Đức đã ban hành 6 chiếu chỉ cấm đạo Với những sắc lệnh này đã làm các địa phận Thiên chúa giáo trong cả nước phải trải qua giai đoạn sóng gió và thiệt hại lớn. Sóng gió chỉ tạm yên khi triều đình Huế ký điều ước 1862, trong đó có hai khoản quy định “ Những thần dân của hai quốc gia Pháp và Tây Ban Nha được phép truyền bá đạo Thiên chúa trong vương quốc An Nam và các thần dân của vương quốc này, bất kể ai, muốn đi theo đạo Thiên chúa giáo thì đều tự do và không có sự ép buộc, nhưng cũng không ai được ép buộc mọi người đi theo đạo này nếu họ không muốn.” Từ sau điều ước 1862, thái độ của vua Tự Đức đối với Thiên Chúa giáo có phần bớt gay gắt. Một phần do thấy không đủ sức chống đối với Pháp ở Nam Kỳ, lại lo Bắc Kỳ rơi vào tay các cuộc khởi nghĩa nên Tự Đức và đa số các đình thần chủ trương hòa hoãn với Pháp để tập trung đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, mặc khác dùng biện pháp thương lượng với Pháp để Pháp không mở rộng việc chiếm đóng sang các tỉnh Miền Tây Nam Kỳ. Do đó, vào dịp sinh nhật của mình ngày 4 tháng 7 năm 1862 Tự Đức ra lệnh ân xá cho các giáo dân đang bị giam cầm nhất là những người già, phụ nữ và trẻ em, trả lại cho họ nhà cửa, ruộng vườn, cho miễn thuế thân, đồng thời vẫn còn giữ lại một số điều lệnh quản thúc các giáo sĩ thừa sai. Năm 1863, Tự Đức cử phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp để thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Được chính phủ Pháp tiếp đón hứa sẽ cử người sang thương lượng ngay tại Huế. Đại tá Aubaret được cử cầm đầu phái đoàn của Pháp. Ngày 15 tháng 7 năm 1864, hai bên đã tạm thời nhất trí một dự thảo điều ước mới thay thế cho điều ước 1862. Trong khi điều ước mới đang chờ chính phủ Pháp phê duyệt thì ở kinh thành Huế, nhân kì thi năm đó đã nổ ra cuộc phản đối kịch liệt của văn thân, sĩ tử, chống lại sự nhượng bộ của triều đình với Pháp. Sợ rằng hành động của văn thân ảnh hưởng đến cuộc điều đình, Tự Đức ra lệnh đàn áp họ và ngay sau đó ra chỉ dụ kêu gọi sự bình tĩnh của văn thân và sự hòa hợp lương giáo. Tháng 4
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p |
340 |
56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác đánh giá thành tích nhân viên tại công ty cổ phần Đăng Hải, Đà Nẵng
13 p |
265 |
52
-
Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Quản trị hệ thống mạng phân phối sản phẩm viễn thông Panasonic tại thị trường miền trung của công ty đầu tư và phát triển thương mại
24 p |
229 |
26
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng cá nhân trong hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Đà Nẵng
26 p |
126 |
22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị tài chính và phân tích các chỉ số tài chính tại công ty trách nhiệm hữu hạn La Vie
87 p |
122 |
21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng hệ thống thông tin kế toán phục vụ quản trị cước viễn thông - công nghệ thông tin tại viễn thông Quảng Bình
13 p |
123 |
19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động quan hệ công chúng tại Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam
100 p |
98 |
15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên Long
93 p |
29 |
13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đà Nẵng
26 p |
246 |
11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Xây dựng hệ thống trả lương 3Ps tại Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam
172 p |
96 |
11
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Qquản trị quan hệ khách hàng tại công ty Thông tin di động VMS chi nhánh Kon Tum
26 p |
174 |
9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần ngoại thương Việt Nam chi nhánh Quy Nhơn
26 p |
94 |
8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng TMCP Phương Tây - Chi nhánh Đà Nẵng
26 p |
80 |
8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện hệ thống quản lý thành tích tại Công ty cổ phần Thương mại đầu tư HB
105 p |
33 |
7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank) – Chi nhánh Đà Nẵng
26 p |
103 |
6
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Hệ thống thông tin: Xây dựng hệ thống hỗ trợ lựa chọn địa điểm đặt máy ATM tại thành phố Hải Phòng bằng kỹ thuật phân cụm không gian
93 p |
41 |
5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại chi nhánh Mobifone Đắk Lắk
94 p |
15 |
5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông tại chi nhánh Viettel Gia Lai
107 p |
15 |
4
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)