Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu đa dạng sinh học và sinh thái họ Quao (Bignoniaceae juss. 1789) trong hệ thực vật Nam bộ - Việt Nam
lượt xem 14
download
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu đa dạng sinh học và sinh thái họ Quao (Bignoniaceae juss. 1789) trong hệ thực vật Nam bộ - Việt Nam được thực hiện nhằm xác định thành phần loài, đặc điểm sinh thái, phân bố và giá trị sử dụng của họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam bộ - Việt Nam; phân loại, thành lập khóa tra cho họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam bộ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu đa dạng sinh học và sinh thái họ Quao (Bignoniaceae juss. 1789) trong hệ thực vật Nam bộ - Việt Nam
- THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ٭٭٭٭ ٭٭٭٭ ĐẶNG VĂN SƠN NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ SINH THÁI HỌ QUAO (BIGNONIACEAE Juss. 1789) TRONG HỆ THỰC VẬT NAM BỘ - VIỆT NAM Chuyên ngành: Sinh Thái Học Mã số: 60 42 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. TRẦN HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
- CHƯƠNG 1 - MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Thực vật đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người, ngay từ thời tiền sử con người đã biết sử dụng hoa, quả, củ của các loài cây hoang dại để làm thức ăn. Do đó, con người cần phải nhận biết các loài cây ăn được, khác với các loài cây không ăn được thông qua một hay một vài đặc điểm bên ngoài. Đến khi nghề nông phát triển thì số lượng loài cây mà con người biết đến ngày càng nhiều. Vì vậy một yêu cầu thực tế đặt ra là phải phân loại chúng để đưa vào sử dụng trong đời sống. Nhiệm vụ của phân loại học lúc đầu là tìm ra phương pháp sắp xếp cây cỏ thành nhóm, loại riêng biệt. Về sau nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt dưới ánh sáng của học thuyết Đacuyn, phân loại học thực vật đã đặt ra cho mình nhiệm vụ to lớn hơn là sắp xếp tất cả các loài vào một trật tự tự nhiên gọi là hệ thống, hệ thống ấy phải phản ánh được quá trình tiến hóa của thực vật. Sự phát triển của thực vật học luôn gắn liền với sự phát triển tri thức khoa học của loài người, cùng với sự phát triển về phương pháp và công cụ nghiên cứu, ngày nay giới thực vật được sắp xếp ngày càng phù hợp với tự nhiên hơn, làm sáng tỏ quan hệ thân thuộc giữa các loài, các chi, các họ. Điều này không những có tầm quan trọng về mặt lý thuyết mà còn có ý nghĩa thực tế rất lớn, góp phần vào việc phát triển, sử dụng những cây có lợi và hạn chế những cây có hại. Họ Quao (Bignoniaceae) là một trong những họ thực vật thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta), với khoảng hơn 107 chi và 900 loài [46], phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, họ Quao có khoảng 8 chi với 22 loài và 3 taxon dưới loài [40] phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam, từ vùng ven biển đến núi cao, trong đó có rất nhiều loài có giá trị tài nguyên như làm thuốc, làm cảnh, cho gỗ, cho rau ăn,… Riêng vùng Nam Bộ - Việt Nam theo kết quả của nghiên cứu này có 7 chi với 8 loài và 1 taxon dưới loài. Ở vùng Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung đã có một số tác giả nghiên cứu về họ Quao (Bignoniaceae), nhưng những nghiên cứu này hoặc đã lâu, hoặc chỉ sơ bộ nên việc điều tra, nghiên cứu họ thực vật này một cách đầy đủ, có hệ thống và cập nhật được nhiều thông tin nhất là một trong những nhiệm vụ cần thiết và thiết thực trong công tác nghiên cứu hệ thực vật Việt Nam, tiến tới góp phần biên soạn bộ sách “Thực vật chí Việt Nam”. Từ những yêu cầu đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu đa dạng sinh học và sinh thái họ Quao (Bignoniaceae Juss. 1789) trong hệ thực vật Nam Bộ - Việt Nam” với mục tiêu nhằm cung cấp những dữ liệu về thành phần loài, sinh thái, phân bố và giá trị sử dụng của họ thực vật này ở vùng Nam Bộ. 1.2 Mục đích của đề tài
- - Xác định thành phần loài, đặc điểm sinh thái, phân bố và giá trị sử dụng của họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam Bộ - Việt Nam. - Hoàn thành việc phân loại, thành lập khóa tra cho họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam Bộ một cách có hệ thống làm cơ sở để nghiên cứu họ Quao ở Việt Nam và tiến tới biên soạn Thực vật chí Việt Nam, cũng như phục vụ tốt hơn công tác nghiên cứu, đào tạo các chuyên ngành có liên quan. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các taxon thuộc họ Quao (Bignoniaceae) có nguồn gốc tự nhiên hiện diện trong hệ thực vật Nam Bộ - Việt Nam, trên cơ sở các tư liệu, các tiêu bản khô, các ảnh chụp và các mẫu tươi sống được thu thập thông qua các chuyến khảo cứu thực địa. Phạm vi nghiên cứu là các rừng phòng hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển ở phần đất liền Nam Bộ - Việt Nam. 1.4 Ý nghĩa khoa học và thực tiển Kết quả của đề tài là cơ sở cho việc nghiên cứu toàn bộ các taxon thuộc họ Quao (Bignoniaceae) ở Việt Nam và biên soạn Thực vật Chí Việt Nam về họ thực vật này. Kết quả của đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu về họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam Bộ, giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý thuận lợi hơn trong việc bảo vệ, khai thác và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên. Kết quả của đề tài là tài liệu cơ bản về phân loại họ Quao ở vùng Nam Bộ và Việt Nam, góp phần bổ sung kiến thức cho chuyên ngành phân loại học thực vật. Kết quả của đề tài là cơ sở phục vụ cho các ngành khoa học ứng dụng và sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, y dược, tài nguyên sinh vật, đa dạng sinh học,… 1.5 Những đóng góp mới của đề tài Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về sinh học, sinh thái và phân bố của họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam Bộ, Việt Nam. Có 8 loài và 1 taxon dưới loài thuộc họ Quao được mô tả đặc điểm và giá trị sử dụng. Tất cả các loài đều được minh họa bằng hình ảnh. Đã bổ sung cho hệ thực vật Nam Bộ 2 loài, đồng thời ghi nhận được 3 loài thuộc họ Quao có giá trị bảo tồn theo thang đánh của Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế gới (IUCN, 2009) và Sách đỏ Việt Nam (2007). 1.6 Bố cục của đề tài
- Bố cục của đề tài bao gồm: - Chương 1 - Mở đầu - Chương 2 - Tổng quan tư liệu - Chương 3 - Nội dung và phương pháp nghiên cứu - Chương 4 - Kết quả và thảo luận - Chương 5 - Kết luận và kiến nghị - Danh mục các công trình công bố của tác giả - Tài liệu tham khảo - Phụ lục
- CHƯƠNG 2 - TỔNG QUAN TƯ LIỆU 2.1 Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu 2.1.1 Địa hình Nam Bộ là phần phần đất tận cùng ở phía Nam Việt Nam, kéo dài từ phía Nam của dãy Trường Sơn đến tận mũi của bán đảo Cà Mau, có tổng diện tích 63.487,85km2, với mật độ dân số lớn thứ hai trong cả nước (400 người/km2) chỉ sau châu thổ sông Hồng [22], gồm 2 thành phố và 17 tỉnh thành là Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạch Liêu, Kiên Giang và Cà Mau. Địa hình Nam Bộ được phân chia thành hai miền rõ rệt là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Tây Nam Bộ là phần hạ lưu của sông Mê Kông, nơi đây có độ cao trung bình chỉ khoảng một vài mét so với mực nước biển, với một số lượng nhỏ các núi riêng biệt xuất hiện trên vùng đồng bằng. Phần lớn có cấu tạo là đá granit và đôi khi là đá vôi, núi cao nhất là núi Cấm (An Giang) có độ cao 710m [22], đồi núi tập trung chủ yếu ở hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Đồi núi An Giang có nhiều đỉnh có hình dạng, độ cao và độ dốc khác nhau, phân bố theo vành đai cánh cung kéo dài gần 100km, khởi đầu từ xã Phú Hữu (huyện An Phú) qua thị xã Châu Đốc, rồi bao trùm lên gần hết diện tích hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn kéo đến xã Vọng Thê và Vọng Đông, cuối cùng dừng lại ở thị trấn Núi Sập (huyện Thoại Sơn); khu vực Bảy Núi (hay còn gọi là Thất Sơn, gồm các núi Năm Giếng, núi Két, núi Cấm, núi Dài, núi Tượng, núi Nước và núi Cô Tô) [27]. Đồi núi Kiên Giang tập trung chủ yếu tại ven biển phía Tây Bắc, thuộc các huyện Hòn Đất, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên độ cao trung bình dưới 200m; về cấu tạo địa chất có thể chia thành 3 loại: (1) đồi núi cấu tạo bằng đá granit, có các núi Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Sóc,… (2) đồi núi đá vôi hình thành trên nền móng gẫy cổ xưa, có các núi Chùa Hang, Bình Trị, Hang Tiền, Khoe Lá, Ngang, Trà Đuốc, Mây Huỳnh, Sơn Trà, Mo So, hang Cây Ớt, Còm,… (3) núi đá phiến xen với núi đá macma phun trào, có các núi Bãi Ớt, Ông Cộp, Xoa Ảo, Đồng, Nhọn, Lăng Ông, Đại Tô Châu, Tiểu Tô Châu, Bình Sơn,…[27]. Kiểu địa hình phổ biến nhất ở vùng Tây Nam Bộ cho đến nay là đồng bằng ngập nước theo mùa, nằm ở các khu vực miền Bắc và miền Trung. Vùng bị ngập nước nhiều theo mùa ở phía Tây Bắc (vùng bị ngập nước sâu nhất) bao gồm các con đê tự nhiên, cồn cát và các vùng đầm lầy. Một vùng khép kín trong khu vực này gọi là Đồng Tháp Mười, nước khó rút ra và rút ra chậm. Vùng này bị ngập đến 3m vào phần lớn thời gian trong năm. Một vùng mở ở phía Tây Nam gọi là Tứ giác Long Xuyên trong đó có vùng đồng bằng Hà Tiên, rút nước ra vịnh Thái Lan và bị ngập tới 1,5-2m; ngược lại có những vùng đồng bằng ngập nước theo mùa do ảnh hưởng của thủy triều nằm giữa châu thổ ngập nước ít hơn ở mức 0,5-1m. Một vùng trũng cũng chiếm một phần lớn khu
- vực đất liền ở phía Nam của Tây Nam Bộ, khu vực này là vùng ít chịu ảnh hưởng của sông Mê Kông nhất và phần lớn bị ngập nước mặn trong mùa khô, những đầm lầy than bùn trong đó có U Minh Thượng và U Minh Hạ, chiếm ưu thế trong các khu vực thấp nhất của vùng trũng này. Đông Nam Bộ có nhiều vùng là chuyển tiếp giữa cao nguyên cực Nam Trung Bộ với đồng bằng Nam Bộ nên có nhiều đồi núi hơn và địa hình cũng phức tạp hơn. Các dạng địa hình chủ yếu là núi thấp, đồi và đồng bằng. Núi cao nhất là núi Bà Đen (Tây Ninh) có độ cao 986m [26]. Dạng địa hình núi thấp tạo thành những lưng sóng rộng rãi, nhô cao lên là những chóp núi lửa đã tắt từ lâu còn được bảo tồn khá tốt và những đỉnh núi granit, các núi lửa mang hình chóp nón đỉnh bằng, tuy đã bị phá hủy một phần, còn các núi granit được phân biệt bởi những đỉnh nhỏ, sườn dốc và những vách đá màu trắng xám đã bị quá trình phong hóa làm đổ vỡ thành nhiều khối tảng, các núi sót này phân bố rải rác không theo quy luật, đây là phần cuối cùng của dãy Trường Sơn, các núi tiêu biểu là Chứa Chan, Mây Tàu, Gia Kiệm (Đồng Nai), Núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu), Bà Đen (Tây Ninh), Bà Rá (Bình Phước),… Dạng địa hình đồi tạo thành các dạng đồi lượn sóng rất thoải và rộng với các đỉnh bằng phẳng, cấu tạo bởi phù sa cổ, đất chịu quá trình rửa trôi mạnh từ trên xuống, do đó không được phì nhiêu nhưng thích hợp với việc trồng các loại cây lâu năm, ở nhiều nơi còn có phủ một lớp đất đỏ bazan trên mặt màu mỡ. Dạng địa hình đồng bằng phổ biến là các cánh đồng lúa, bãi cát, cồn cát, bãi lầy,… được tạo thành do sự bồi tụ của sông và biển.
- Hình 2.1 Khu vực nghiên cứu trong hệ thống bản đồ Việt Nam Tóm lại, địa hình Nam Bộ chủ yếu là bằng phẳng và thấp, trải dài dọc theo hệ thống sông Mê Kông nên rất thuận lợi cho hệ sinh vật phát triển, đặc biệt là thực vật bậc cao có mạch.
- 2.1.2 Thổ nhưỡng Đa số các loại đất ở Nam Bộ là đất phù sa. Những loại đất có tính acid cao chiếm một diện tích khá lớn, các loại đất này có trong các vùng đầm lầy có thủy triều nơi đất bị úng nước và bị nước biển tràn qua và giàu chất hữu cơ. Quá trình phân hủy tạo ra các hợp chất trong đất (như sunfua) có thể tạo thành acid trong điều kiện nhất định. Khi được giữ ẩm, chúng ở trạng thái trung tính. Tuy nhiên, trong các điều kiện khô chúng trở nên có tính acid, khi acid sunfuric thoát ra khỏi đất sẽ gây độc cho thực vật. Ngoài đất phù sa trong vùng còn có nhiều loại đất khác như đất đỏ vàng, đất xám, đất phèn, đất cát, đất đá,… 2.1.3 Khí hậu Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa ở mức độ cao và lượng mưa hàng năm thường dao động trong khoảng 1.500-2.000mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 với phần lớn lượng mưa rơi vào tháng 9 và tháng 10. Mùa khô (tháng 12 đến tháng 3) rất khô và lượng mưa nằm dưới mức 100mm từ 4 đến 6 tháng và một số khu vực gần như không có mưa trong một tháng [22]. Tuy nhiên, theo Nguyễn Khanh Vân và nnk (2000) thì vùng Nam Bộ thuộc kiểu khí hậu cận xích đạo gió mùa, mưa hè. Lượng mưa hàng năm dao động từ 1.296,7mm tại Châu Đốc, tỉnh An Giang đến 2.469,2mm tại Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. 2.1.4 Hệ sinh vật 2.1.4.1 Hệ thực vật Những khu rừng ở Nam Bộ thay đổi từ rừng thường xanh đến rừng rụng lá, đồng cỏ thứ sinh có phân bố rộng và rừng tre nứa. Những cây rụng lá theo mùa thuộc chi Lagerstroemia chiếm ưu thế ở khu vực tán lá cao 35-45m trong các khu rừng nửa rụng lá của khu vực này. Hiện nay, có 5 dạng thảm thực vật tự nhiên chính đặc trưng cho vùng Nam Bộ đó là: rừng đầm lầy nước ngọt, rừng ngập mặn, đồng cỏ, rừng thường xanh và rừng rụng lá. Rừng đầm lầy nước ngọt phân bố ở các khu vực có đất liên tục bị bảo hòa nước. Những khu rừng này có lẽ một thời đã bao phủ các khu vực rộng lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng những hoạt động của con người đã làm giảm đáng kể vùng phân bố của chúng và làm thay đổi các thành phần của những khu rừng này. Các đầm lầy có Tràm, đặc trưng bởi cây Tràm (Melaleuca leucadendra), một thành viên của họ Sim (Myrtaceae) mọc trong các khu vực ngập nước theo mùa, nơi có hàm lượng muối thấp, có tích lũy các hợp chất hữu cơ bị phân hủy và nhờ nước mang hạt cây đến. Tràm có thể mọc trên cát thạch anh không màu mỡ cũng như trên vùng đồng cỏ bị xuống cấp nhưng chúng thích sống ở các bờ sông ngập nước và trong khu vực phù sa ven biển. Tràm thường chiếm ưu thế trong quần xã, mọc thành rừng khá thuần nhất. Kiểu thảm thực vật này thường gặp ở vùng đất ngập nước U Minh và các khu rừng nhỏ hơn
- phân bố ở vùng Đồng Tháp Mười và đồng bằng Hà Tiên. Mặc dù có mức độ đa dạng thấp, nhưng những khu rừng này là một phần không thể thiếu được của hệ sinh thái. Chúng làm giảm bớt lượng nước chảy trong mùa mưa, giữ nước ngọt trong mùa khô, giảm tính acid của đất và là môi trường sống cho nhiều loài sinh vật nước cũng như các động vật hoang dã. Rừng ngập mặn phân bố ở những vùng bị ngập nước có hàm lượng muối cao hơn so với các khu rừng đầm lầy, chúng mọc dọc theo bờ biển và các cửa sông ở Nam Bộ. Mắm (Avicennia spp.) là loài chiếm ưu thế trong các quần xã ngập mặn sống gần biển nhất và gần như thường xuyên bị ngập nước mặn. Các loài ngập mặn thuộc chi Đước (Rhizophora) phân bố ngay phía trong về phía đất liền của các khu rừng này. Ở các vùng khô hơn, thành phần của quần xã lại thay đổi. Các vùng nước lợ gần với khu vực nước ngọt là nơi phân bố của các loài ưa lợ mà ưu thế là Dừa nước (Nypa). Rừng ngập mặn tạo thành mắt xích về mặt sinh thái nối giữa các hệ sinh thái trên cạn và hệ sinh thái biển. Có chức năng lọc nước ngọt trước khi chảy ra biển, đóng vai trò là vườn ươm cho cá mới nở, giúp ngăn cản sự xói mòn, ngập úng do thủy triều và bão gây ra. Rừng ngập mặn ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân địa phương, theo ước tính cứ 1 ha rừng ngập mặn có thể đóng góp xấp xỉ 44 tấn cá ngoài khơi mỗi năm [22]. Đồng cỏ phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm các quần xã với các loài thuộc họ Cói (Cyperaceae) và họ Cỏ (Poaceae) chiếm ưu thế, chúng mọc trên cả loại đất có acid sunfat và đất phù sa. Mặt dù vùng đồng cỏ thường bị bỏ qua trong các chương trình bảo tồn và được cho là vùng đất không có giá trị trong các kế hoạch phát triển. Tuy nhiên, đây là nơi cư trú của nhiều loài thực vật, động vật và góp phần quan trọng tạo nên đa dạng sinh học của khu vực. Theo một nghiên cứu ở đồng bằng Hà Tiên, các quần xã thực vật đa dạng nhất là đồng cỏ, bao gồm 94 loài cỏ và cói [22]. Rừng thường xanh chiếm phần lớn diện tích rừng tự nhiên ở Nam Bộ, phân bố tập trung ở các khu dự trữ sinh quyển, vườn Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và rừng phòng hộ. Đây là nơi bảo tồn các loài động thực vật quí hiếm, góp phần bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã hội của vùng. Nhiều loài thực vật có giá trị bảo tồn trong sinh cảnh này như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa Craib), Cẩm lai Bà Rịa (Dalbergia oliveri Gamble ex Prain), Dầu song nàng (Dipterocarpus dyeri Pierre), Dáng hương trái to (Pterocarpus macrocarpus Kurz), Gõ mật (Sindora siamensis Teysm. ex Miq.), Lười ươi (Scaphium macropodium Beumée), Ba gạc lá to (Rauvolfia cambodiana Pierre ex Pit.) và nhiều loài có giá trị sử dụng như làm thuốc, gỗ, làm cảnh,... Rừng rụng lá thường phân bố xen kẽ trong các vùng của kiểu rừng thường xanh và ở vị trí thấp, thường là các sườn đồi hoặc ven các thung lũng có độ ẩm cao và rụng lá vào mùa khô do thiếu nước. Kiểu rừng này tập trung chủ yếu ở một số tỉnh như Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây Ninh,… Với các loài thực vật chiếm ưu thế như Bằng Lăng (Lagerstroemia calyculata Kurz), Dầu lông (Dipterocarpus intricatus Dyer), Lim xẹt (Peltophorum spp.),…
- 2.1.4.2 Hệ động vật Do địa hình phần lớn là bằng phẳng và thấp nên hệ động vật, đặc biệt là động vật trên cạn ở Nam Bộ không đa dạng như ở miền Bắc và miền Trung của Việt Nam. Điều này có thể giải thích là do các quần thể ở vùng đồng bằng khó bị tách biệt hơn so với các loài sống ở trên núi và như vậy làm giảm khả năng phân hóa và tăng xác suất của việc phân tán trong sinh cảnh đồng nhất. Một lý do quan trọng nữa là các hệ sinh thái, trong đó có đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn đã bị biến đổi rất nhiều do các hoạt động nông nghiệp trong hơn 2 thập kỷ qua, làm cho phần lớn đất ngập nước đã bị mất, kết hợp với những sức ép lớn từ việc săn bắn, việc mất đi môi trường sống đã dẫn tới sự suy giảm nghiêm trọng tính đa dạng của hệ động vật [22]. Các loài chim cư trú trong vùng đất ngập nước và sinh sản trong vùng đồng bằng sông Cửu Long đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Loài Cò quăn lớn (Pseudibis gigantea) thuộc nhóm cực kỳ nguy cấp, mặc dù chưa bao giờ gặp phổ biến, chỉ có 2 ghi nhận gần đây có ở Việt Nam và cả hai quần thể này đều cho là không tồn tại được. Săn bắn cũng làm thay đổi hoàn toàn quần xã thú ở đây. Tê giác một sừng có môi trường sống ưa thích là rừng ẩm ở vùng đồng bằng, đặc biệt là gần sông suối, có thời phân bố ở toàn bộ vùng phía Nam. Hiện chỉ còn lại ở Vườn Quốc gia Cát Tiên và có lẽ là quần thể duy nhất còn tồn tại ở lục địa Đông Nam Á [22]. Về thú: ở Nam Bộ rất ít được biết đến, đã ghi nhận được hơn 50 loài động vật trên cạn (không kể dơi) và 31 loài động vật sống dưới nước kể từ khi bắt đầu những đợt khảo sát vào cuối thế kỷ 19. Các loài thú này bao gồm Hổ (Panthera tigris), Sói lửa (Cuon alpinus), Voi (Elephas maximus), Trâu rừng (Bubalus arnee),… Về Chim: Nam Bộ là vùng có sinh cảnh quan trọng cho các loài chim cư trú và chim di cư. Mức độ đa dạng cao nhất tập trung ở các vùng đồng cỏ và vùng đầm lầy ngập nước theo mùa tại U Minh, đồng bằng Hà Tiên và Đồng Tháp Mười. Những khu vực này phù hợp cho các loài chim nước sống chuyên hóa và làm tổ trên cây như Già đẫy Java (Leptoptilos javanicus), Học cổ trắng (Ciconia episcopus), Cò trắng Trung Quốc (Egretta eulophotes), Quắm đen (Plegadis falcinellus) và một số chim di cư mà một thời đã sinh sản ở vùng Nam Bộ nhưng hiện tại không còn làm tổ ở đây, trong đó có Sếu đầu đỏ (Grusantigone sharpii), Cò lạo Ấn Độ (Mycteria leucocephala) và Bồ nông chân xám (Pelecanus philippensis). Đáng chú ý là có 4 trong 5 loài chim đặc hữu ở Đông Dương sống ở Nam Bộ có phân bố trong các khu rừng thường xanh, bán thường xanh và rừng tre nứa, một trong số các loài này là Gà so cổ hung (Arborophila davidi) thuộc nhóm nguy cấp và nhiều loài khác có vùng phân bố hẹp cũng sống ở đây như Gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini), Chích chạch má xám (Macronous kelleyi),... Về Bò sát và ếch nhái: ở Nam Bộ khu hệ Bò sát và ếch nhái ít đa dạng hơn so với các khu khác của Việt Nam. Nhiều loài Bò sát và ếch nhái là những loài sống ở vùng đồng bằng có quan hệ mật thiết với môi trường nước như Kỳ đà hoa (Varanus salvator), Rồng đất (Physignathus cocincinus) hoặc sống hoàn
- toàn dưới nước như Cua đinh (Amyda cartilaginea), Rắn Phô Đôn (Fordonia leucobalia), Nhái lưỡi (Glyphoglossus molossus), Ếch gáy dô (Limnonectes toumanoffi),…và đặc biệt là trong thời gian gần đây các nhà khoa học đã phát hiện ở Nam Bộ có nhiều loài Thằn lằn mới và đặc hữu có giá trị cho khoa học như Thằn lằn ngón Bà Đen (Cyrtodactylus badenensis), Thòi lòi (Cyrtodactylus nigriocularis), Thằn lằn ngón đốm (Cyrtodactylus paradoxus),… Về Cá: theo ước tính số lượng các loài cá sống trên các hệ thống sông của Nam Bộ (sông Mê Kông) là gần 1.200 loài. Trong đó có khoảng 260 loài đã được ghi nhận tại đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù số lượng thực tế có thể cao hơn con số này. Nhiều loài cá sống trong hệ thống sông Mê Kông là những loài di cư, chúng di chuyển xuôi ngược dòng sông hùng vĩ này và các nhánh sông của nó cùng với những thay đổi về lượng nước theo mùa. Hiện tượng di cư này thường diễn ra vào ban đêm và đóng một vai trò quan trọng trong chu kỳ sinh sản khi các quần thể di chuyển giữa vùng kiếm ăn và vùng sinh sản. Về động vật không xương sống: giống như các khu vực khác của Việt Nam, nhóm động vật không xương sống vẫn còn ít được quan tâm nghiên cứu. Một số loài phổ biến ở Nam Bộ như Cua bùn (Scylla olivacea), Ốc bưu vàng (Pamacea canaliculata), Rầy (thuộc họ Delphcacidae), Ve sầu (thuộc họ Cicadellidae),… Tóm lại; hệ động vật ở Nam Bộ tuy không đa dạng hơn so với các miền khác của Việt Nam nhưng đóng vai trò vô cùng quan trọng, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của vùng và cả nước. 2.2 Lịch sử nghiên cứu họ Quao (Bignoniaceae) Từ giữa thế kỷ 18, nhà thực vật học người Thụy Điển tên là Linnaeus (1753) đã dựa vào các đặc điểm hình thái bên ngoài ở cơ quan sinh dưỡng và sinh sản của thực vật để sắp xếp chúng thành các nhóm taxon khác nhau (trong đó có họ Quao) [37]. Đây là kiểu phân chia chủ quan nhưng nó là kiểu phân chia tiến bộ nhất thời bấy giờ, về sau người ta vẫn sử dụng cách phân chia này để nghiên cứu thực vật. Năm 1789, Jussieu [35] là người đầu tiên trên thế giới đặt tên cho họ Quao (Bignoniaceae) trên cơ sở lấy từ tên chi Bignonia, bổ sung một họ mới cho giới thực vật và danh pháp này được sử dụng cho đến ngày nay. Trên cơ sở phân chia và sắp xếp từng nhóm taxon, Linnaeus đã mô tả họ Quao với 13 chi và 127 loài bao gồm: chi Bignonia có 69 loài, Tecoma có 9 loài, Jacaranda có 9 loài, Spathodea có 13 loài, Amphilophium có 3 loài, Eccremocarpus có 3 loài, Salpigloffis có 1 loài, Incarvillea có 4 loài, Gelfemium có 1 loài, Tourrettia có 1 loài, Martynia có 5 loài, Didymocarpus có 7 loài và Aeschynanthus có 2 loài [38]. Những mô tả này tuy chưa được chi tiết nhưng bước đầu làm nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về họ thực vật này.
- Kế tiếp Linnaeus, phải kể đến De Candolle (1845) là người đã mô tả, phân tích một cách chi tiết hơn những đặc trưng về hình thái học của từng taxon trong họ Quao. Tác giả đã mô tả và tách họ Quao ra thành hai phân họ là Bignonieae và Crescentieae với 50 chi và 513 loài [32]. Hai nhà thực vật học G. Bentham và J. D. Hooker trong cuốn “Genera Plantarum” (1876) [31] đã chia họ Quao thành 4 phân họ với 53 chi và 440 loài, bao gồm: phân họ Bignonieae có 21 chi với 293 loài, phân họ Tecomeae có 22 chi với 69 loài, phân họ Jacarandeae có 5 chi với 50 loài và phân họ Crescentieae có 4 chi với 28 loài. Hệ thống phân loại của G. Bentham và J. D. Hooker dựa vào sự khác biệt chủ yếu của các đặc điểm hình thái như quả, tràng hoa,… Đây là một hệ thống phân loại được sử dụng rộng rãi thời bây giờ. Rất nhiều nhà thực vật trên thế giới đã từng lựa chọn hệ thống này để nghiên cứu thực vật ở mỗi quốc gia hay khu vực. Năm 1969, J. Hutchinson [34] trong cuốn “The families of flowering plants” đã xếp họ Quao vào bộ Bignoniales cùng với 3 họ thực vật khác là Cobaeaceae, Pedaliaceae và Martyniaceae, đồng thời tác giả cũng xây dựng khóa phân loại để phân biệt 4 họ thực vật này. Trong công trình này, tác giả chỉ mô tả đặc điểm nhận dạng, giá trị sử dụng mà không đưa ra số lượng chi, loài cũng như mô tả chi tiết chúng. A. Takhtajan (1966, 1973) [43, 44] trên cơ sở khái quát hóa nhiều dẫn liệu từ nhiều khảo cứu khác nhau đã xếp họ Quao vào bộ Scrophulariales cùng với 10 họ thực vật khác là Solanaceae, Buddlejaceae, Scrophulariaceae, Pedaliaceae, Martyniaceae, Gesneriaceae, Orobanchaceae, Lentibulariaceae, Myoporaceae, Acanthaceae và Plantaginaceae; với khoảng 120 chi và 800 loài. Theo tác giả, họ Quao rất gần với họ Scrophulariaceae bởi những đặc điểm về cấu tạo của hoa, nhưng ở đây chủ yếu là cây thân gỗ, lá thường kép lông chim hay chân vịt, hạt lớn, dẹt, có cánh màng rộng, phôi thẳng thường không có nội nhũ, phân bố chủ yếu ở các nước Nhiệt Đới, nhất là Nam Mỹ, ít ở châu Phi và châu Á. Hệ thống phân loại của Takhtajan là hệ thống có giá trị và được sử dụng phổ biến nhất hiện nay bởi vì nó được xây dựng dựa trên sự phân tích một cách sâu sắc toàn diện toàn bộ những tính chất hình thái, giải phẫu, phấn hoa và tế bào học. Vị trí của họ Quao (Bignoniaceae) trong hệ thống phát sinh của các bộ thực vật có hoa như sau (theo Takhtajan 1973):
- Bignoniaceae Scrophulariales Gentianales Saxifragales Magnoliales T. Santisuk (1987) [41] trong công trình “Flora of Thailand” đã công bố 12 chi với 23 loài thuộc họ Quao có ở Thái Lan, trong đó có đề cập đến số lượng chi và loài của họ Quao trên thế giới khoảng 120 chi với 650 loài. Các chi và loài được xây dựng khóa phân loại, mô tả chi tiết về đặc điểm hình thái, phân bố nhưng không có hình ảnh minh họa và thiếu tài liệu công bố. Alwyn H. Gentry (1992) [33] đã phát hiện và mô tả 6 loài mới ở vùng Amazon thuộc họ Quao cho khoa học, bao gồm: Arrabidaea affinis A. Gentry, sp. nov; Cuspidaria emmonsii A. Gentry, sp. nov; Distietis occidentalis A. Gentry, sp. nov; Haplolophium nunezii A. Gentry, sp. nov; Schlegelia cauliflora A. Gentry, sp. nov; và Schlegelia hirsuta A. Gentry, sp. nov. Công bố này không chỉ góp phần bổ sung thành phần loài cho họ Quao ở vùng Nam Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, mà còn cho thấy đây là một họ thực còn nhiều bí ẩn cần được nghiên cứu. Z. Zhiyum & T. Santisuk (1998) [45], trong công trình “Flora of China” đã công bố họ Quao trên thế thới có khoảng từ 116 - 120 chi với 650 - 750 loài và mô tả 12 chi với 35 loài của họ thưc vật này có ở Trung Quốc bằng tiếng Anh. Ở đây nhóm tác giả mô tả khá chi tiết các chi và loài, xây dựng khóa phân loại, nhưng không có hình ảnh minh họa, thiếu tài liệu công bố và mẫu nghiên cứu. Michelle L. Zjhra (2006) [46] đã phát hiện và mô tả 11 loài mới thuộc họ Quao cho khoa học ở Madagascar, bao gồm: Colea resupinata M. L. Zjhra, sp. nova; Colea gentryi M. L. Zjhra, sp. nova; Colea ramiflora M. L. Zjhra, sp. nova; Colea rosea M. L. Zjhra, sp. nova; Colea sytsmae M. L. Zjhra, sp. nova; Ophiocolea vokoanensis M. L. Zjhra, sp. nova; Phyllarthron nocturnum M. L. Zjhra, sp. nova; Phyllarthron vokoanensis M. L. Zjhra, sp. nova; Phyllarthron sahamalazensis M. L. Zjhra, sp. nova;
- Rhodocolea multiflora M. L. Zjhra, sp. nova và Rhodocolea lemuriphia M. L. Zjhra, sp. nova, và cũng trong công bố này, trên cơ sở các nghiên cứu từ trước kết hợp với các số liệu phân tích của mình, tác giả đã thống kê được thành phần taxon thuộc họ Quao trên thế giới hiện nay có khoảng 107 chi với 900 loài. Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về họ Quao được bắt đầu từ rất sớm bởi các nhà thực vật người Pháp. Đầu tiên phải kể đến J. Loureiro (1793) [39] trong công trình “Flora Cochinchinensis” ông đã phát hiện và mô tả nhiều loài mới cho hệ thực vật Việt Nam trong đó có họ Quao. Mãi đến năm 1927, H. Lecomte [36] chủ biên một công trình đồ sộ “Flore Générale de L’Indochine” với công bố về họ Quao của Paul Dop thì các taxon thuộc họ thực vật này ở Đông Dương và Việt Nam mới được mô tả chi tiết. Tác giả đã mô tả 17 chi với 35 loài thuộc họ Quao, trong đó có rất nhiều loài là cây du nhập. - Chi Crescentia có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là C. cujete L. - Chi Kigelia có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là K. pinnata DC. - Chi Oroxylum có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là O. indicum Vent. - Chi Millingtonia có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là M. hortensis L.f. - Chi Campsis có 2 loài ở Đông Dương và Việt Nam là C. radicans Seem. và C. longiflora K. Schumann in Engl. - Chi Stenolobium có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là S. stans Seem. - Chi Stereospermum có 7 loài ở Đông Dương và Việt Nam có 4 loài là S. chelonoides DC., S. annamense A. Chevalier, S. Cylindricum Pierre, S. neuranthum Kurz. và 3 loài còn lại không có ở Việt Nam là S. mekongense P. Dop., S. fimbriatum DC., S. suaveolens DC. - Chi Radermachera có 10 loài ở Đông Dương và Việt Nam có 6 loài là R. alata P. Dop, R. tonkinensis P. Dop, R. bracteata P. Dop, R. pierrei P. Dop, R. grandiflora P. Dop, R. poilanei P. Dop và 4 loài còn lại không có ở Việt Nam là R. brilletii P. Dop, R. eberhardtii P. Dop, R. boniana P. Dop, R. pagetii Craib. - Chi Haplophragma có 2 loài ở Đông Dương và Việt Nam là H. adenophyllum P. Dop. và H. serratum P. Dop. - Chi Spathodeopsis có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là S. collignonii P. Dop. - Chi Spathodea có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là S. campanulata P. Beauvois. - Chi Heterophragma có 1 loài ở Đông Dương là H. vestitum P. Dop, ở Việt Nam không có loài này. - Chi Mayodendron có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là M. igneum Kurz. - Chi Dolichandrone có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là D. rheedi Seem. - Chi Markhamia có 2 loài ở Đông Dương và Việt Nam là M. pierrei P. Dop và M. stipulata Seem. - Chi Hexaneurocarpon có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là H. brilletii P. Dop. - Chi Tripinna có 1 loài ở Đông Dương và Việt Nam là T. tripinnata Loureiro.
- Đây là công trình khoa học to lớn, là kết quả điều tra nghiên cứu họ Quao nói riêng và hệ thực vật Đông Dương nói chung của các nhà thực vật người Pháp trong nhiều năm qua. Ngày nay các nhà khoa học Việt Nam vẫn sử dụng bộ sách này làm tài liệu để tiến hành các công trình nghiên cứu về thực vật học và nó là chỗ dựa quan trọng trong việc nghiên cứu hệ thực Việt Nam. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì tài liệu này chưa đảm bảo tính tiêu chuẩn trong mô tả, trích dẫn tài liệu không đồng nhất và đặc biệt là việc sử dụng tên khoa học còn thiếu chính xác. Chính vì vậy mà “Flore Générale de L’Indochine” không thể sử dụng như là một tài liệu chuẩn mà cần có phê phán và kế thừa có chọn lọc thì việc nghiên cứu họ Quao ở từng vùng và tiến tới biên soạn bộ “Thực vật chí Việt Nam” mới chính xác và thành công được. Pételot A. (1936) [42] đã dựa vào công trình trên để định loại và xác định các loài có giá trị làm thuốc của họ Quao. Tác giả đã giới thiệu công dụng của 4 loài thuộc họ thực vật này là Oroxylon indicum Vent, Stereospermum chelonoides DC., Spathodea campanulata P. Beauv. và Millingtonia hortensis Lin. trong công trình của mình. Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương (1960) [11], trong công trình “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” đã mô tả ngắn gọn với hình vẽ đơn giản 11 loài thuộc 11 chi của họ Quao. Trong lần tái bản năm 1972 [12], Phạm Hoàng Hộ mô tả 17 loài thuộc 14 chi. Như vậy, tác giả đã bổ sung 3 chi và 6 loài so với công bố trước đó. Trong đó có 8 loài là cây du nhập để trồng làm cảnh, làm thuốc hay lấy bóng mát. Cả 2 công trình này tác giả đều mô tả quá ngắn gọn, hình vẽ đơn giản và có nhiều sai sót về danh pháp. Võ Văn Chi và Dương Đức Tiến [7] trong công trình “Phân loại học thực vật bậc cao” 1978 thì cho rằng họ Quao trên thế giới có 120 chi với hơn 800 loài, riêng ở Việt Nam có khoảng 18 chi với 35 loài, trong đó có nhiều loài là cây du nhập. Cây mọc chủ yếu ở vùng nhiệt đới, đặc biệt ở Nam Mỹ, vùng nhiệt đới châu Phi, ở Madagasca và ở châu Á, trong đó có nhiều loài cho gỗ tốt và nhiều loài được trồng làm cảnh. Năm 1985, T. Santisuk & J. E. Vidal [40], trong công trình “Flore du Cambodge du Laos et du Vietnam” đã mô tả 26 loài và 3 taxon dưới loài thuộc 9 chi của họ Quao là cây hoang dại phân bố ở Đông Dương, trong đó ở Việt Nam có 22 loài và 3 taxon dưới loài thuộc 8 chi thuộc họ thực vật này bao gồm: Dolichandrone spatacea (L.f.) Schumann, Dolichandrone columnaris Santisuk, Dolichandrone serrulata (A.P.de Candolle) Seemann, Fernandoa adenophylla (Wallich es G.Don) Steenis, Fernandoa bracteata (Don) Steenis, Fernandoa brilletii (Dop) Steenis, Fernandoa collignonii (Dop) Steenis, Fernandoa serrata (Dop) Steenis, Markhamia stipulata var. stipulata (Wallich) Seemann & Schumann, Markhamia stipulata var. pierrei (Dop) Santisuk, comb. & stat.nov., Markhamia stipulata var. kerrii Sprague, Millingtonia hortensis L.f., Oroxylum indicum (L.) Kurz, Pauldopia ghorta (Buchanan-Hamilton ex G.Don) Steenis, Radermachera boniana Dop, Radermachera eberhardtii Dop, Radermachera hainanensis Merrill, Radermachera ignea (Kurz) Steenis, Radermachera inflata Steenis, Radermachera
- sinica (Hance) Hemsley, Radermachera stellata Steenis, Stereospermum colais (Buchanan-Hamilton ex Dillwyn) Mabberley, Stereospermum annamense A. Chevalier ex Dop, Stereospermum cylindricum Pierre ex Dop, Stereospermum neuranthum Kurz. Đây là công trình được xem là đầy đủ nhất từ trước đến nay về nghiên cứu họ Quao ở khu vực Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, hạn chế của công trình này là chỉ dựa vào những tiêu bản khô được sưu tập từ trước những thập niên 70 kết hợp với những tài liệu liên quan để mô tả các taxon, nên dẫn đến có nhiều sai sót về đặc điểm hình thái, sinh thái và phân bố của từng taxon, thiếu ảnh chụp minh họa và giá trị sử dụng. Phạm Hoàng Hộ (1993) [13], trong công trình “Cây cỏ Việt Nam” và được tái bản năm 2000 [21] đã mô tả 17 chi với 36 loài thuộc họ Quao bao gồm: chi Pyrostegia có 1 loài, chi Pachyptera có 1 loài, chi Jacaranda có 2 loài, chi Crescentia có 2 loài, chi Kigelia có 1 loài, chi Campsis có 2 loài, chi Tecoma có 1 loài, chi Millingtonia có 1 loài, chi Oroxylon có 1 loài, chi Tabebuia có 1 loài, chi Stereospermum có 4 loài, chi Radermachera có 7 loài, chi Fernandoa có 5 loài, chi Pauldopia có 1 loài, chi Spathodea có 1 loài, chi Dolichandrone có 3 loài và chi Markhamia có 2 loài. Nhìn chung, trong cả 2 công trình của Phạm Hoàng Hộ, tác giả đã thống kê và mô tả lại toàn bộ các loài thuộc họ thực vật này hiện có ở Việt Nam kể cả các loài du nhập (9 chi với 12 loài), tuy nhiên những mô tả này còn sơ sài, thiếu tài liệu trích dẫn và mẫu vật nghiên cứu. Đáng chú ý là ở đây chi Markhamia tác giả chỉ mô tả 1 loài là M. stipulata (Wall.) Seem. Ex Schum và 1 taxon dưới loài là M. stipulata var. pierrei (Dop) Sant., trong khi đó theo nhiều tài liệu cũng như qua kiểm chứng thực tế của chúng tôi thì chi này hiện nay ở Việt Nam có 3 taxon dưới loài là Markhamia stipulata var. stipulata (Wallich) Seemann & Schumann, Markhamia stipulata var. pierrei (Dop) Santisuk, comb. & stat.nov., Markhamia stipulata var. kerrii Sprague và chúng có những đặc điểm phân biệt khá rõ ràng. Trần Đình Lý (1993) [20] đã thống kê họ Quao ở Việt Nam có 25 chi với 40 loài (kể cả các loài du nhập), trong đó tác giả nêu gắn gọn giá trị sử dụng và nguồn gốc của 14 loài thuộc 7 chi. Nguyễn Tiến Bân (1997) [3] đã thống kê họ Quao ở Việt có khoảng từ 17-18 chi với 40 loài (kể cả các loài du nhập). Trần Hợp (2002) [16] đã mô tả, nêu đặc điểm sinh thái, phân bố, giá trị sử dụng kèm theo hình vẽ của 21 loài thuộc 14 chi của họ Quao ở Việt Nam (kể cả các loài du nhập). Vũ Xuân Phương (2005) [30] đã thống kê họ Quao ở Việt Nam có 17 chi với khoảng 36 loài (kể cả loài du nhập). Tóm lại, tất cả các nghiên cứu trên đều được tiến hành trên diện rộng và chủ yếu là biên tập lại những tài liệu đã có từ trước, nên dẫn đến có nhiều sai sót và thiếu thông tin cập nhật. Vì vậy, việc điều tra, nghiên cứu họ Quao ở một khu vực cụ thể làm cơ sở cho việc nghiên cứu trên phạm vi cả nước và tiến tới biên soạn Thực chí Việt Nam cho họ thực vật này là điều cần thiết.
- CHƯƠNG 3 - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Nội dung nghiên cứu - Tập hợp các tư liệu khoa học để làm cơ sở cho việc phân loại họ Quao (Bignoniaceae) ở vùng Nam Bộ, Việt Nam. - Mô tả các đặc điểm hình thái, giải phẫu và sinh thái của các loài thuộc họ Quao ở vùng Nam Bộ. - Xây dựng khóa phân loại cho các loài thuộc họ Quao. - Xây dựng bản đồ phân bố cho các loài thuộc họ Quao ở vùng Nam Bộ. - Ghi chép các giá trị kinh tế của họ Quao và bước đầu đánh giá giá trị tài nguyên của những loài có ích trong họ thực vật này. 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Địa điểm và thời gian thực địa Khảo sát thực địa được tập trung chủ yếu vào các rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia trong khu vực nghiên cứu. Đã tiến hành 23 đợt khảo sát tại 14 địa điểm như sau: Bảng 3.1 Địa điểm và thời gian khảo sát thực địa STT Địa điểm khảo sát Tỉnh, thành phố Thời gian 1 VQG Mũi Cà Mau Cà Mau 6-20/08/2007 2 VQG Tràm Chim Đồng Tháp 3-8/12/2009 3 KBTTN Láng Sen Long An 8-12/12/2009 4 Núi Cô Tô An Giang 12-16/01/2010 5 Núi Sam An Giang 2-5/02/2010 22-25/03/2006 6 KDTSQ Cần Giờ Hồ Chí Minh 21-24/09/2009 7 Củ Chi Hồ Chí Minh 22-24/01/2010 12-14/12/2008 8 KBTTN Bình Châu – Phước Bữu Bà Rịa – Vũng Tàu 29-31/10/2009 9 Núi Dinh Bà Rịa – Vũng Tàu 16-20/10/2009 10 Tân Phú Đồng Nai 4-6/04/2008
- 29-31/08/2009 11 VQG Cát Tiên Đồng Nai 8-14/11/2006 2-7/07/2007 8-23/12/2008 12 VQG Bù Gia Mập Bình Phước 13-23/05/2009 5-10/10/2009 16-26/11/2009 12-16/05/2006 13 VQG Lògò – Xamát Tây Ninh 19-25/09/2006 13-16/12/2009 14 Núi Bà Đen Tây Ninh 26-28/9/2006 3.2.2 Tổng quan tư liệu Tập hợp, phân tích và kế thừa có chọn lọc các công trình khoa học, các kết quả khảo sát đánh giá, các tư liệu có liên quan để tổng hợp thông tin, định hướng cho nội dung và phương pháp nghiên cứu. 3.2.3 Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa 3.2.3.1 Xác định địa điểm và tuyến khảo sát Để thu mẫu một cách đầy đủ và đại diện cho vùng nghiên cứu, việc chọn tuyến và điểm thu mẫu là cần thiết. Tuyến khảo sát thường xuyên qua các môi trường sống của thực vật, nghĩa là các tuyến đó cắt ngang các vùng đại diện cho khu vực nghiên cứu. Trên các tuyến chọn ra những điểm chốt, tức là những điểm đặc trưng nhất để thu mẫu phục vụ cho nghiên cứu.
- - Hình 3.1 Vị trí các điểm khảo sát trong vùng nghiên cứu 3.2.3.2 Thu và xử lý mẫu ngoài thực địa ♦ Mẫu tiêu bản thực vật Mỗi mẫu thu phải có đầy đủ các bộ phận như lá (lá non, lá trưởng thành), hoa (chùm hoa, hoa lưỡng tính) và quả (quả non, quả già có hạt),… kích thước mẫu vừa phải, khoảng từ 35-45 cm, được đặt trong
- các tờ giấy báo. Mỗi một cá thể loài thu từ 4-8 mẫu. Mỗi loài ở các địa danh khác nhau, thu 2-4 mẫu để vừa nghiên cứu các biến dạng của loài, vừa để trao đổi. Các mẫu thu trên cùng một cây thì đánh dấu cùng một số hiệu mẫu, các mẫu thu trên cùng loài khác cây thì đánh dấu khác số hiệu mẫu. Khi thu mẫu, cần ghi chép ngay vào nhật ký thực địa những thông tin như địa điểm lấy mẫu, thời gian lấy mẫu, người lấy mẫu, độ cao so với mực nước biển, tọa độ thu mẫu, sinh cảnh lấy mẫu, kích thước cây, đặc điểm vỏ cây, tên địa phương, tên khoa học (nếu biết), công dụng theo dân gian và đặc biệt là các đặc điểm dễ mất sau khi mẫu sấy khô, ngâm tẩm như màu sắc của hoa, quả, nhựa mủ, mùi vị,… Mỗi đợt khảo sát thường được tiến hành từ 4-10 ngày, vì vậy để tránh hư hỏng mẫu cũng như chống rụng lá, các mẫu này được buột chặt thành bó và cho vào túi polyetylen cỡ lớn, mỗi túi có thể chứa nhiều bó mẫu. Sau đó dùng cồn pha loãng với nước sạch ở nồng độ từ 70-80 % rồi đổ cho thấm ướt các tờ báo và buột chặt miệng lại để chuyển về nơi có điều kiện sấy khô. ♦ Mẫu gỗ và lá dùng cho giải phẫu Mẫu gỗ (cành hóa gỗ) và lá được cắt thành từng đoạn vừa phải cho vào lọ nhựa hoặc túi polyetylen nhỏ, sau đó cho dung dịch acid acetic (1 phần) pha với cồn tuyệt đối (3 phần) vào để cố định, sau thời gian 24 giờ dùng cồn rửa sạch acid acetic rồi làm các công đoạn tiếp theo hoặc ngâm vào cồn 700 để bảo quản. Mục đích cố định này là giữ nguyên cấu trúc của các mô cũng như của tế bào. Nhờ đó mà hình thái của nó ít bị thay đổi, giữ được trong tình trạng gần với lúc sống nhất. Ngoài ra, việc cố định này còn có tác dụng ngăn chặn quá trình tự phá hủy do men hay sự thối rữa trong các mô và làm cho các mô cứng rắn hơn, qua đó sẽ dễ cắt và dễ nhuộm [17]. Tất cả được gắn nhãn ghi số hiệu, địa điểm thu mẫu, tên địa phương, tên khoa học và thời gian thu thập tương ứng với mẫu tiêu bản để có thể biết được tên thực vật. 3.2.4 Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 3.2.4.1 Xử lý và giám định tên thực vật ♦ Xử lý và sấy khô Sau khi đưa mẫu về phòng thí nghiệm việc đầu tiên là cần tiến hành xử lý kịp thời. Trước tiên chuyển từng mẫu vật ở các tờ giấy báo cũ vào các tờ giấy báo mới, đồng thời vuốt cho các lá phẳng ra và đảm bảo lá luôn luôn có mặt sấp và mặt ngửa để có thể quan sát dễ dàng cả hai mặt lá mà không cần phải lật mẫu. Cứ sau 5-6 mẫu nên chèn thêm một tấm cacton để tạo thông thoáng giúp cho mẫu chóng khô và không phải thay giấy báo hằng ngày. Cứ khoảng từ 20-25 mẫu thì cho vào một cặp mắt cáo rồi buộc chặt thành bó, phơi ra nắng hoặc cho vào tủ sấy để sấy khô. ♦ Xác định tên khoa học
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Ứng dụng kỹ thuật thủy canh (Hydroponics) trồng một số rau theo mô hình gia đình tại địa bàn Đăk Lăk
127 p | 774 | 254
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu tách chiết Enzyme Alginate lyase từ vi sinh vật có trong rong biển và bước đầu ứng dụng nó để thủy phân alginate
79 p | 212 | 38
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Tìm hiểu ảnh hưởng của liều lượng và thời điểm bón phân Kali đến khả năng chịu hạn cho giống ngô CP 888 tại xã EaPhê huyện Krông Pắc tỉnh Đăk Lăk
110 p | 181 | 31
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Các chỉ số sinh học và đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến tuổi dậy thì của nữ Êđê và kinh tỉnh Đăk Lăk
81 p | 163 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Xây dựng quy trình định lượng Cytomegalovirus (CMV) trong máu, nước tiểu bằng phương pháp Real Time PCR
89 p | 149 | 30
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Phân lập và tuyển chọn một số chủng nấm mốc có hoạt tính Chitinase cao tại tỉnh Đắk Lắk
92 p | 173 | 28
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu tỉ lệ các nhóm máu trong hệ ABO của người Êđê và tương quan giữa các nhóm máu với một số bệnh trên bệnh nhân tại bệnh viện tỉnh Đắk Lắk
164 p | 194 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Định danh các phân chủng vi nấm Cryptococcus neoformans trên bệnh nhân HIV AIDS viêm màng não và khảo sát độ nhạy cảm đối với các thuốc kháng nấm hiện hành
114 p | 123 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Nghiên cứu nhân nhanh in vitro cây đu đủ đực (Carica Papaya L.)
66 p | 66 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Nghiên cứu tổng hợp nano bạc bằng phương pháp sinh học định hướng ứng dụng trong kiểm soát vi khuẩn gây nhiễm trùng bệnh viện
54 p | 81 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Định lượng một số hợp chất polyphenol và sự biểu hiện của gen mã hóa enzyme tham gia tổng hợp polyphenol ở chè
63 p | 51 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Đặc điểm đột biến gen Globin của các bệnh nhân thalassemia tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
75 p | 58 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học: Nghiên cứu hoạt tính kháng sinh và gây độc tế bào của vi nấm nội sinh trên cây thông đỏ (Taxus chinensis)
67 p | 45 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Nghiên cứu tác động của dịch chiết lá khôi (Ardisia gigantifolia Stapf.) lên sự biểu hiện của các gen kiểm soát chu kỳ tế bào của tế bào gốc ung thư dạ dày
62 p | 49 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng và đột biến gene JAK2 V617F trên bệnh nhân tăng tiểu cầu tiên phát tại bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
54 p | 51 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Nghiên cứu tác động của Vitamin C lên sự tăng trưởng, chu kỳ tế bào và apoptosis của tế bào ung thư dạ dày
59 p | 56 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Đặc điểm HLA và kháng thể kháng HLA trên bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
66 p | 55 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Sinh học ứng dụng: Nghiên cứu xây dựng quy trình chẩn đoán Helicobacter pylori bằng Nested PCR từ dịch dạ dày
61 p | 61 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn