intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

189
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch luận văn làm rõ các PCTL cơ bản cần có của HDVDL. Từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm định hướng và phát triển những PCTL cơ bản phù hợp với nghề, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HDVDL.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ THANH TRÀ MỘT SỐ PHẨM CHẤT TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS Hoàng Tâm Sơn TP.HỒ CH1 MINH, 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc đến:  PGS.TS Hoàng Tâm Sơn – người hướng dẫn khoa học, đã luôn tận tình hướng dẫn, gắn bó, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.  Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho toàn thể học viên lớp cao học tâm lý K18. Xin gửi lời cảm ơn đến:  Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Du lịch trường Đại học dân lập Văn Lang;  Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Du lịch trường Đại học Tôn Đức Thắng;  Ban Giám đốc công ty du lịch Nam Long, Sai Gon Tourist, Fiditour, Lửa Việt và Tavitour;  Cùng các bạn sinh viên đang học tập tại hai trường đại học trên; đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài, góp phần quan trọng để đề tài nghiên cứu triển khai có kết quả. Tôi xin gửi lời cảm ơn các Anh, Chị, Bạn bè cùng khóa học; đồng nghiệp; người thân và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như quá trình thực hiện luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2010 Trần Thị Thanh Trà
  3. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL&ĐT : Cán bộ quản lý và đào tạo ĐLC : Độ lệch chuẩn HD : Hướng dẫn HDV : Hướng dẫn viên HDVDL : Hướng dẫn viên du lịch P : Mức ý nghĩa PC : Phẩm chất PCTL : Phẩm chất tâm lý SV : Sinh viên TB : Trung bình
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 làm tăng năng suất lao động, đời sống vật chất của con người được đáp ứng đầy đủ, trong khi thời gian lao động giảm bớt. Ngày càng có nhiều người thường xuyên rời khỏi nơi cư trú của mình để đến một nơi khác, để hòa mình vào thiên nhiên, khám phá những điều mới lạ, để phục hồi sức khỏe hay chỉ để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức món ngon, vật lạ… Tất cả những điều này góp phần thúc đẩy nhu cầu về đời sống tinh thần của con người, trong đó du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa – xã hội. Ngành du lịch được xem là ngành công nghiệp không khói được đa số các nước trong khu vực và trên thế giới quan tâm phát triển từ rất sớm. Nhận thức được tiềm năng to lớn của nó, Việt Nam đã và đang đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển du lịch, nhất là trong những năm gần đây, dẫn đến hệ quả nhu cầu lao động trong ngành du lịch tăng cao. Đây là cơ hội và cũng là thách thức cho những người quan tâm, yêu thích và muốn thử thách mình trong một ngành công nghiệp khá mới mẻ ở Việt Nam. Nước ta lại đang trong thời kỳ xây dựng và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp văn minh, hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO vào ngày 7 tháng 11 năm 2006 đã mở ra cơ hội mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, tranh thủ công nghệ để phát triển và nhất là thay đổi bộ mặt, cách nhìn của bạn bè quốc tế về đất nước và con người Việt Nam. Thông qua du lịch và hoạt động du lịch, chúng ta sẽ phần nào làm được điều đó. Bên cạnh đó, khoa học tâm lý cũng đã chỉ ra rằng, bất kỳ hoạt động nào của con người muốn đạt hiệu quả cao cũng đòi hỏi chủ thể có những phẩm chất tương ứng đáp ứng yêu cầu của hoạt động đó, nhất là với những hoạt động có tính chất chuyên môn. Hoạt động du lịch cũng vậy. Trong hoạt động du lịch, vai trò của HDVDL là rất cần thiết. Đó là những “sứ giả văn hóa” dưới mắt du khách trong, ngoài nước. Đó là những đại diện cho tổ chức du lịch trực tiếp điều hành, hướng dẫn, phục vụ du khách trong các chuyến tham quan du lịch. Chất lượng trong chuyến du lịch thế nào, sản phẩm du lịch thế nào, hình ảnh của công ty du lịch đối với khách hàng ra sao…tùy thuộc rất nhiều vào khả năng lao động của HDVDL. Hoạt động của HDVDL có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp tới hình ảnh, con người, phong tục, tập quán và văn hóa địa phương; hoạt động này được coi là một loại nghề đặc biệt có yêu cầu với chủ thể về những PCTL để vừa hoàn thành được những nhiệm vụ đặt ra, vừa thực hiện tốt những kỹ năng nghề nghiệp, vừa để khắc phục những hiện tượng tâm lý tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình hoạt động. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và xác định những PCTL cơ bản của HDVDL có ý nghĩa hết
  5. sức quan trọng để làm cơ sở cho việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn lực HDV. Nếu HDV không đảm bảo được những PC mà nghề đòi hỏi – nhất là những PCTL - thì hiệu quả hoạt động nghề sẽ hạn chế, tình hình HDV không có kiến thức, không có trình độ, không có kỹ năng, không có năng lực…ngày càng nhiều, dẫn đến sản phẩm du lịch mà chúng ta tạo đang cố gắng tạo ra hoàn toàn vô nghĩa. Trong thực tiễn, ngày càng nhiều ý kiến cho rằng muốn trở thành HDVDL chỉ cần có khả năng nói lưu loát, có ngoại hình, có khả năng sử dụng trình độ ngoại ngữ ở một phạm vi nào đó, biết cười liên tục …là có thể làm HD. Và thực tế, không ít HDV như vậy. Ngoài việc thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức chuyên môn về nghề nghiệp, một số HDV dễ dàng bị lôi kéo, dụ dỗ vào các tệ nạn xã hội, làm mất tư cách, đạo đức của HDV nói riêng và hình ảnh đại diện của đất nước nói chung. Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu đề tài: “Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch” là hết sức cần thiết, vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa có gía trị thực tiễn. Nghiên cứu này góp phần đáp ứng nhu cầu hiện nay về việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ HDVDL có đầy đủ PCTL cơ bản về nghề nghiệp, đạo đức, tác phong trong công cuộc xây dựng hình ảnh, quảng bá về đất nước và con người Việt Nam ra thị trường thế giới cùng với sự phát triển không ngừng của ngành công nghiệp không khói. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn làm rõ các PCTL cơ bản cần có của HDVDL. Từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm định hướng và phát triển những PCTL cơ bản phù hợp với nghề, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HDVDL. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Một số PCTL cơ bản của HDVDL. 3.2. Khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên các nhóm: - Hướng dẫn viên du lịch đang công tác tại các công ty lữ hành. - Khách du lịch. - Sinh viên năm thứ tư thuộc chuyên ngành HD đang học tập tại trường ĐH Tôn Đức Thắng và ĐHDL Văn Lang. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. 4.2. Nghiên cứu thực trạng một số phẩm chất tâm lý cơ bản của HDVDL và các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển các PCTL của họ.
  6. 4.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc rèn luyện và phát triển PCTL cơ bản theo yêu cầu của ngành nghề hiện tại. 5. Giả thuyết nghiên cứu 5.1. Không phải tất cả các PCTL cần có theo yêu cầu của ngành nghề hiện nay đều là những PCTL cơ bản của HDVDL. 5.2. Không có sự khác biệt giữa các nhóm khách thể khi lựa chọn những PCTL cơ bản cần có của HDVDL. 6. Phạm vi nghiên cứu Tập trung nghiên cứu về PCTL cơ bản của người HDVDL và tìm ra những giải pháp hợp lý để nâng cao việc rèn luyện và phát triển những PCTL của HDVDL. 7. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau: 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: sử dụng các phương pháp đọc, phân tích, khái quát các tài liệu văn bản nhằm nhằm xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề cần nghiên cứu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng các phương pháp: 7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi với mẫu điều tra là 300 cho 3 nhóm khách thể nghiên cứu: SV, HDVDL, KDL. 7.2.2. Phương pháp quan sát. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: dành cho nhóm Cán bộ quản lý và Đào tạo 7.3 Phương pháp xử lý số liệu thống kê bằng phần mền SPSS for Windows 11.5 . 8. Đóng góp mới của đề tài 8.1. Về mặt lý luận: Dựa trên việc tổng hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận của tâm lý học hiện đại về PCTL nói chung tìm ra được những PCTL cơ bản của HDVDL. 8.2. Về thực tiễn: Dựa trên việc nghiên cứu thực tiễn sẽ định hình được PCTL cơ bản, cần thiết cho HDVDL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HDVDL.
  7. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề Khi xuất hiện sự phân công lao động cũng đồng thời xuất hiện những đòi hỏi khác nhau đối với những chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực của sự phân công đó. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự phân công lao động mang tính chuyên môn hóa ngày càng cao và nó cũng được nghiên cứu khi phân công lao động xã hội đã xác định những loại hình nghề nghiệp. Nhằm phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả lao động của con người, hợp lý hóa quá trình sản xuất và tiết kiệm trong đào tạo nghề, đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu vấn đề PCTL trên những bình diện khác nhau. 1.1.1. Phẩm chất tâm lý qua nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Ngay từ thời Cổ đại, triết gia Arixtốt (384 – 322 TCN) đã có quan niệm về “phẩm hạnh” của giới thượng đẳng; nội dung của phẩm hạnh là biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi, Người có phẩm hạnh sẽ thu hút, điều khiển được người khác và họ đều cao thượng, đáng kính. Ngay cả việc tuyển chọn người vào phục vụ trong cung đình phải trải qua sự tuyển chọn cực kỳ khắt khe về kỹ năng lao động, về sự phục tùng, tính nhẫn nhục chịu đựng, lòng dũng cảm, tinh thần khắc phục khó khăn. Các triết gia Trung hoa Cổ đại như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng đã có những quan niệm về “trí” và “đức” của người “quân tử”. Khổng Tử cho rằng, người quân tử phải “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, lấy chữ “đức” làm trọng, thu phục nhân tâm làm việc lớn, lòng dạ ngay thẳng, đức độ khoan dung…. Kể cả khi tham mưu trong việc tuyển chọn chức sắc tham gia việc triều chính, Gia Cát Lượng đã thông qua một số tiêu chí, trong đó PCTL được xem là vấn đề cơ bản để tuyển chọn: hỏi lẽ thị phi để xem chí hướng, hỏi mưu kế để xem sự nhận thức, nói trước tai họa để xem sự dũng cảm, làm cho say rượu để xem tính tình, cân bằng lợi lộc để xem sự liêm khiết, đặt kỳ hạn công việc để xem xét chữ tín…[ 30,tr.10]. Năm 1983, nhà TLH người Anh F.Galton đã dùng test chẩn đoán nhân cách để phục vụ cho việc tư vấn nghề; năm 1908, nhà TLH người Mỹ F.Parsons cũng đã dùng test và bảng hỏi anket để nghiên cứu năng lực học sinh nhằm mục đích hướng nghiệp. Ở Liên Xô (trước đây), từ những năm 20 của thế kỷ 20, việc nghiên cứu tâm lý phục vụ cho tuyển chọn, tư vấn và đào tạo nghề đã được chú trọng. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu nhân cách học sinh phục vụ hướng nghiệp được thành lập trong viện nghiên cứu lao động trung ương và tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Matxcơva, nhiều nhà
  8. TLH nổi tiếng như: K.K. Platônôv, G.G.Gôlubev, E.A.Climov, V.I.Segurova…đã đi sâu nghiên cứu về xu hướng, về hứng thú nghề nghiệp như là PC quyết định hiệu quả hoạt động nghề. Trong lĩnh vực nghiên cứu về phẩm chất nghề nghiệp và sự phát triển nghề cũng đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu trong các công trình như: R.Parsons (1942), I.C.Diggory (1966), I.G.Bachman (1977). Các nghiên cứu đã phát hiện ra một số kỹ năng nghề nghiệp và sự hình thành phát triển những kỹ năng đó trong quá trình lao động. Họ đã đưa ra những tiêu chí đánh giá người lao động trong đó đặc biệt là các kỹ năng lao động. Trên cơ sở đó để tuyển chọn và huấn luyện người lao động đem lại hiệu quả kinh tế và lợi nhuận cho các nhà tư bản. Một số tác giả khác khi nghiên cứu sự hình thành nghề và PCTL của nghề đã chú trọng đến mặt động cơ (R.A.Roe 1914) hay đặc điểm quá trình nhận thức về nghề ở cá nhân (D.E.Super 1958). Nhà TLH R.M.Stogdill đã nghiên cứu sâu về những PC của người lãnh đạo và xác định người lãnh đạo cần có 5 đặc điểm về thể chất (chiều cao, ngoại hình, sức khỏe,…), 4 đặc điểm về tri thức, 16 đặc điểm về nhân cách, 9 đặc điểm về xã hội và 6 đặc điểm tính cách… Ông cho rằng, từng đặc điểm riêng lẽ có thể không có ý nghĩa, nhưng một nhóm đặc điểm thì liên quan rất chặt chẽ với sự thành công. Stogdill khẳng định rằng: “có một mối tương quan nhất định giữa các đặc điểm về sự thông minh, uyên bác, đáng tin cậy, trách nhiệm, sự tham gia xã hội, và địa vị kinh tế - xã hội của người lãnh đạo so với người không phải là lãnh đạo” [30, tr.11]. Tác giả Ph.N.Gônôbôlin với công trình “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” đã nêu lên các PCTL phù hợp với công việc giảng dạy và giáo dục học sinh. Đó là các PC như: đạo đức, chí hướng, hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức, hoạt động trí tuệ, tình cảm, PC ý chí [13]. Tóm lại, qua các nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài cho thấy vấn đề PCTL trong hoạt động nghề từ lâu đã được khá nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động, từ yêu cầu của công việc đòi hỏi ở chủ thể phải có những PCTL để đáp ứng. Đồng thời chính trong hoạt động lại là điều kiện để hình thành và phát triển những PCTL mà hoạt động đó đòi hỏi. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về PCTL trong hoạt động nghề nói chung đã cung cấp những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi định hướng trong quá trình nghiên cứu của mình. 1.1.2. Phẩm chất tâm lý qua nghiên cứu của các tác giả trong nước. Ở Việt Nam, từ lâu cha ông ta cũng đã rất chú ý tới những PCTL trong sử dụng người: Trong “binh thư yếu lược”, vị anh hùng dân tộc – nhà quân sự kiệt xuất – Trần Quốc Tuấn đã nêu 8 phương pháp để chọn người làm tướng, 8 phương pháp đó nhằm xác định những PCTL là: sự linh hoạt (biến hóa), khả năng diễn đạt, lòng trung thành, tư cách đạo đức (đức hạnh), tính liêm khiết (thanh liêm), tác phong đứng đắn, lòng dũng cảm, khả năng tự chủ [8].
  9. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ phải luôn tự tu dưỡng, trau dồi PC cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, vì “đạo đức là cái gốc của người làm cách mạng”; Người còn cho rằng: con đường để hình thành phát triển những phẩm chất của mỗi người chúng ta đó là giáo dục, tự giáo dục và tự rèn luyện. “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” “Sống ở trên đời người cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công” Tác giả Khăm Kẹo Vông Phi La trong công trình nghiên cứu về PC nhân cách của người hiệu trưởng trường tiểu học cho rằng người hiệu trưởng tiểu học cần phải có ba nhóm PC: nhóm PC đạo đức, nhóm PC tư tưởng – chính trị, nhóm PC công việc. Trong đó, nhóm PC đạo đức giữ vị trí quan trọng hàng đầu [16]. Tác giả Phạm Tất Dong trong nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề những PC cá nhân đáp ứng yêu cầu của nghề và tuyển chọn tâm lý đối với nghề, đặc biệt đối với nghề y, đòi hỏi phải có những PC: tinh thần trách nhiệm; sự tận tình; sự thông cảm; sự quan tâm; lòng từ thiện [5], [6], [7], [8]. Trong luận án tiến sĩ “Cơ sở tâm lý học của sự hình thành và phát triển nhân cách người thầy thuốc quân đội tương lai ”của mình, tác giả Nguyễn Sinh Phúc đưa ra mô hình các PC nhân cách của bác sỹ quân y gồm 15 PC sau: Năng lực tổ chức chỉ huy; Năng lực chuyên môn; Lòng nhân ái; Lập trường tư tưởng; Sẵn sàng nhận nhiệm vụ; Khả năng giao tiếp; Tinh thần trách nhiệm; Nhiệt tình công tác, Tính kỷ luật; Uy tín; Trung thực; Ham nghiên cứu khoa học, Khiêm tốn; Tính tập thể; Tính sáng tạo [21]. Tác giả Trần Trọng Thủy đề cập nhiều đến việc xây dựng họa đồ nghề nghiệp cho các nghề (Professiogramme) trong đó cũng rất chú trọng vấn đề mô tả những đặc điểm tâm lý của nghề trong họa đồ tâm lý mà phần hết sức quan trọng là những PCTL đáp ứng đòi hỏi của nghề [31]. Trong lĩnh vực nghiên cứu PC và PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề cụ thể cũng đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu sâu và chỉ ra một số PCTL cơ bản đáp ứng yêu cầu của nghề như: Tác giả Nguyễn Thị Phương Anh (1966) trong nghiên cứu: “Một số đặc điểm tâm lý - xã hội của nhà doanh nghiệp”, phân tích các đặc điểm của hoạt động kinh doanh đã nêu ra 14 PCTL của nhà doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh doanh. Đó là: Bền bỉ; Cần cù; Có chí; Dám mạo hiểm; Có đầu óc tính toán kinh doanh; ham học hỏi, hiểu biết; Linh hoạt, năng động; Nhạy bén; Óc sáng kiến, sáng tạo; Quảng giao; Quyết đoán; Thạo việc, Có kinh nghiệm về lĩnh vực mình kinh doanh; Thận trọng; Thông minh; Tự tin [1].
  10. Tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) trong “Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý – xã hội của giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam” đã chia các PC thành 3 nhóm: những khả năng, những kỹ năng và những PCTL đặc trưng hiện có ở giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong đó có 60 PC cụ thể [22]. Trên lĩnh vực tâm lý học quân sự có khá nhiều tác giả nghiên cứu về PCTL của người quân nhân trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quân sự, như: Tác giả Nguyễn Mai Lan xác định 22 PCTL đặc trưng của Mã dịch viên thuộc 4 nhóm: Xu hướng, Tính cách, Năng lực, Khí chất bao gồm các PCTL: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp bảo vệ bí mật quốc gia; Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự phát triển của ngành Cơ yếu; Tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; Tính kỷ luật cao; Bản lĩnh chính trị vững vàng theo chủ nghĩa Mac-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Ý thức trau dồi PC đạo đức và trình độ chuyên môn mã dịch; Tính cẩn thận chính xác; Kỹ năng ghi nhớ các nhóm ký tự; Kỹ năng thao tác trên máy mã; Kỹ năng xử lý thông tin; Kỹ năng tri giác vận động; Tính độc lập trong công việc; Gắn bó với nghề; Tính kín đáo; Năng động, hoạt bát; Tư duy từ ngữ; Điềm tĩnh; Vốn từ chuyên môn phong phú, Khả năng kiềm chế; Nhạy cảm; Khả năng thích nghi tình huống nghề nghiệp [17]. Tác giả Đỗ Văn Thọ trên cơ sở phân tích đặc điểm hoạt động của Cảnh sát hình sự đã nêu lên hai nhóm đặc điểm tâm lý (biểu hiện thông qua tính tích cực và tiêu cực) và 22 PCTL cần có của những chiến sĩ công an: Lòng yêu nghề, hứng thú với nghề; Lòng trung thành với Đảng CSVN, với nhà nước CHXHCN Việt Nam; Tinh thần đấu tranh bảo vệ lẽ phải; Tinh thần chịu đựng gian khổ, nỗ lực vượt khó; Khả năng tư duy linh hoạt, nhanh nhạy; Trí nhớ tốt; Khả năng thích nghi cao, dễ hòa nhập; Khả năng giao tiếp tốt; Khả năng phản ứng nhanh; Lòng dũng cảm; Tính kiên quyết; Tính quyết đoán; Tính độc lập; Khả năng tự chủ, tự kiềm chế; Tính thận trọng; Tính kiên trì; Tính trung thực; Khả năng phán đoán tốt; Có lòng tin vào những điều tốt đẹp; Khả năng quan sát tốt; Tính kỷ luật (cao); Tinh thần trách nhiệm (cao). Tác giả Nguyễn Văn Tập trong công trình nghiên cứu của mình đã xác định 28 PCTL cần có của cán bộ quản giáo trong hoạt động cải tạo phạm nhân: Nhận thức sâu sắc về Chủ nghĩa Mac-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng; Nắm vững đường lối, chính sách, pháp luật; Trung thành với Đảng, với chế độ XHCN; Tính giáo dục; Tính vị tha, nhân ái; Liêm khiết; Tận tụy với công việc; Tinh thần trách nhiệm cao; Tính công tâm (công bằng); Tính kế hoạch; Tính kỷ luật; Tính đoàn kết; Tính nguyên tắc; Tính trung thực; Tính cương quyết; Tính kiên trì; Tính dũng cảm; Tính nghị lực; Tính tự chủ; Tính quyết đoán; Năng lực nghiệp vụ CA; Năng lực tổ chức; Năng lực sư phạm; Năng lực giao tiếp; Thói quen nói năng lịch sự, có văn hóa; Tác phong đàng hoàng, đĩnh đạc; Tác phong sâu sát, cụ thể, rõ ràng [25]. Các tác giả nói trên là những người đi đầu, đột phá trong việc nghiên cứu tâm lý nghề nghiệp ở Việt Nam. Tuy kết quả nghiên cứu như thế nào đi nữa, nhưng chắc chắn những tác giả trên với
  11. các công trình nghiên cứu của mình đã góp phần lớn vào thực tiễn tuyển chọn và đào tạo nghề ở nước ta. Riêng đối với ngành du lịch, trong quá trình tìm hiểu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và quá trình tìm kiếm tài liệu phục vụ cho luận văn, chúng tôi nhận thấy: cho đến nay có rất ít các công trình khoa học nghiên cứu chính thức về những PCTL cần có của những người làm công tác du lịch, đặc biệt là đối với HDV. Những công trình này hầu hết chỉ tập trung ở việc đưa ra một số nhận định và ý kiến chủ quan được đút kết từ kinh nghiệm thực tiễn của những người làm công tác HD, cũng như của một số tác giả hiện đang thực hiện công tác giảng dạy tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp hiện nay:  PGS.TS. Nguyễn Văn Đính - Nguyễn Văn Mạnh (1995), Giáo trình tâm lý và Nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch, Nxb Thống kê, Hà Nội [10].  ThS Sơn Hồng Đức (2003), Du lịch và Kinh doanh lữ hành - tài liệu lưu hành nội bộ, Đại học dân lập Văn Lang [11].  Nguyễn Văn Quảng (2006), Để trở thành hướng dẫn viên du lịch giỏi, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh [23].  Trần Quốc Thành, Nguyễn Quang Uẩn (1998), Đề cương bài giảng tâm lý học du lịch – lưu hành nội bộ, Hà Nội [26].  Trần Quốc Thành, Nguyễn Sơn Đức (2005), Đề cương bài giảng Tâm lý du khách và nghệ thuật giao tiếp, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội [27].  Tổng cục du lịch (1997), Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch - tài liệu bồi dưỡng hướng dẫn viên du lịch - lưu hành nội bộ, Hà Nội [32]. Những nhận định, đóng góp của các tác giả nói trên khi đề cập những PC cần có/ tiêu biểu của HDVDL đã bước đầu khái quát tuy chưa rõ ràng và cụ thể nhưng cũng giúp chúng ta xây dựng được hệ thống PCTL cần có của những người làm du lịch nói chung và HDVDL nói riêng. Tóm lại, từ thời Cổ đại đến nay, trong và ngoài nước đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về PCTL của nhiều tác giả trên nhiều lĩnh vực: giáo dục, quản lý, kinh doanh, y học, hoạt động quân sự, …. Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng: đặc điểm, tính chất của hoạt động đòi hỏi chủ thể của hoạt động ấy phải có những PC tương ứng để thực hiện. Đồng thời chính trong hoạt động ấy lại làm nảy sinh và phát triển những PCTL mà hoạt động ấy đòi hỏi. Những nghiên cứu trên là một trong những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi xây dựng cơ sở lý luận định hướng trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay vẫn chưa có một công trình, một đề tài nào nghiên cứu về PCTL của HDVDL một cách đầy đủ và hệ thống.
  12. Do đó, vấn đề PCTL của HDVDL trong hoạt động HD du lịch rất cần thiết phải có sự nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học đáp ứng với đòi hỏi của lý luận cũng như thực tiễn vấn đế này. 1.2. Một số khái niệm công cụ 1.2.1. Khái niệm phẩm chất, phẩm chất tâm lý. 1.2.1.1. Khái niệm “phẩm chất” Trong từ điển tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên (36) có định nghĩa: Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật. Theo định nghĩa này có thể hiểu “phẩm chất” là những thuộc tính, đặc điểm của đối tượng mà căn cứ vào đó người ta có thể đánh giá, xác định giá trị đối tượng đó. Trong tiếng Anh, danh từ Quality được dùng với nghĩa là: phẩm chất, đặc tính, loại, hạng. Theo từ điển Tâm lý học (Dictionary of psychology) của J.P.Chaplin thì PC là “mức độ tương đối giữa cái tốt hoặc cái tuyệt với về lĩnh vực nào đó” [2, tr.686]. Trong từ điển Tâm lý học (The dictionary of psychology) của Raymond J.Corsini “Phẩm chất (quality) là đặc điểm (hoặc đặc trưng) về cảm giác (Sensation) hoặc thực thể khác để cho nó trở thành độc đáo, là sự khác về chất (loại, thứ, hạng) chứ không phải về số lượng” [1, tr.796]. Như vậy, theo cách hiểu này, PC được hiểu là những đặc điểm (đặc trưng) về thực thể hoặc về sự phản ánh thế giới (tinh thần) của đối tượng để tạo nên sự khác biệt với đối tượng khác về tính chất, giúp đánh giá phân loại hay xếp hạng đối tượng. Có hai loại phẩm chất: PC của thực thể (vật chất - Entity) và PC của cảm giác (tinh thần - Sensation). Tuy cách nói khác nhau, nhưng có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau: PC là đặc điểm, thuộc tính gắn bó với đối tượng; PC là mức độ giá trị của những đặc điểm, thuộc tính…của đối tượng để tạo nên sự khác biệt của chúng, làm cơ sở cho sự đánh giá, phân loại, xếp hạng; Có những phẩm chất thiên về tinh thần (xét riêng về khía cạnh con người), nhưng cũng có những phẩm chất thiên về thực thể vật chất (cả con người và đồ vật, vật chất). Trong thực tiễn đời sống xã hội, chúng ta thường dùng những khái niệm: phẩm chất tốt, phẩm chất chưa tốt, không đảm bảo đầy đủ các phẩm chất theo yêu cầu của nghề nghiệp,…, khi nhận xét hay đánh giá về một người nào đó, Phẩm chất và Năng lực là hai khía cạnh được đề cập đến nhiều nhất. Thực chất là nói về hai nhóm phẩm chất cơ bản của nhân cách. Như vậy, có thể thống nhất hiểu “phẩm chất” là những đặc điểm của người hay vật đạt mức độ chất lượng cần thiết đáp ứng yêu cầu nào đó của xã hội, và tạo nên sự khác biệt về hạng, loại với đối tượng khác. Phẩm chất thường được xem xét theo những tiêu chí nhất định và được phân biệt với những đặc điểm âm tính (thói, tật, kém phẩm chất,…) và những đặc điểm không điển hình khác.
  13. 1.2.1.2. Khái niệm “phẩm chất tâm lý” Cho đến nay, các tài liệu ở Việt Nam (kể cả các loại từ điển Tâm lý học của các tác giả trong và ngoài nước) chưa thấy một tài liệu nào định nghĩa hay giải thích thế nào là PCTL? Tuy nhiên, khái niệm này lại được dùng khá phổ biến trong các công trình nghiên cứu và tác phẩm của một số tác giả như: Lê Duẩn trong “Thanh niên với cách mạng XHCN”[9] ; Gônôbôlin Ph.N: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”; Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị : “Tâm lý học sư phạm đại học”; Ngô Công Hoàn: “Tâm lý học xã hội trong Quản lý”; Lê Văn Hồng: “Tâm lý học Lứa tuổi và Sư phạm”; Hoàng Minh Thao: “Một cách đo phẩm chất nhân cách đặc trưng của hiệu trưởng trường PTTH” [29]; Nguyễn Văn Nhận – Nguyễn Bá Dương – Nguyễn Sinh Phúc: “Tâm lý học Y học”; Đỗ Văn Thọ: “Những phẩm chất tâm lý cơ bản của Cảnh sát hình sự” [30]; Nguyễn Mai Lan: “Những phẩm chất tâm lý đặc trưng của Mã dịch viên”; Nguyễn Văn Tập: “Phẩm chất tâm lý của cán bộ quản giáo trong hoạt động quản lý cải tạo phạm nhân”; ….. Tác giả Ngô Công Hoàn không dùng khái niệm PCTL, nhưng cho rằng người Cán bộ quản lý cần có những phẩm chất: 1. Phẩm chất đạo đức; 2. Phẩm chất trí tuệ; 3. Những năng lực của nhân cách quản lý (Nhu cầu làm công tác quản lý, Năng lực tổ chức, Năng lực chuyên môn, Năng lực hợp tác với mọi người) [14]. Tác giả Nguyễn Ngọc Bích cho rằng theo cách nói của người Việt Nam, cấu trúc nhân cách gồm có 3 nhóm PC: 1. Phẩm chất chính trị, tư tưởng (Lý tưởng, lập trường, niềm tin, các quan điểm tự nhiên, xã hội, con người); 2. Phẩm chất đạo đức, tác phong (Các thái độ đối với xã hội, đối với người khác và với bản thân, tính nết, tính khí, lối sống, thói quen đạo đức); 3. Các năng lực, sở trường và năng khiếu [3]. Tác giả Lê Văn Hồng cũng đề cập đến PC người giáo viên bao gồm: 1. Thế giới quan khoa học 2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ 3. Lòng yêu trẻ 4. Lòng yêu nghề 5. Một số phẩm chất đạo đức và ý chí của người thầy giáo: tinh thần, nghĩa vụ mình vì mọi người – tinh thần nhân đạo, tôn trọng, thái độ công bằng, chính trực – Thái độ ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn [15, tr.169]. Tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị đã dùng khái niệm “PC nghề nghiệp của nhân cách người cán bộ giảng dạy” và cho rằng: Nhân cách người cán bộ giảng dạy bao gồm nhiều những phẩm chất như tư tưởng chính trị, đạo đức, các năng lực và các phẩm chất tâm lý khác [28]. Tác giả Nguyễn Mai Lan trong luận án Tiến sĩ: “Những phẩm chất tâm lý đặc trưng của Mã dịch viên” đã định nghĩa: phẩm chất tâm lý là những thuộc tính tâm lý biểu hiện về mặt tính cách,
  14. đạo đức, trí tuệ, năng lực của con người, nó qui định hành vi, cách ứng xử có ý nghĩa xã hội của người đó trong những tình huống khác nhau và xác định 22 phẩm chất tâm lý đặc trưng của Mã dịch viên thuộc 4 nhóm: Xu hướng, Tính cách, Khí chất, Năng lực. Tác giả Nguyễn Văn Nhận, Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Sinh Phúc [19] khi đề cập đến những phẩm chất tâm lý của người thầy thuốc cho rằng, người thầy thuốc phải có: a) Các phẩm chất tâm lý: 1. Kiến thức sâu rộng (về chuyên môn y học, về các ngành khoa học xã hội, nhân văn); 2. Biết nghiên cứu khoa học và tổ chức hoạt động thực tiễn; 3. Các phẩm chất về tâm lý nhận thức cảm tính (độ nhạy cảm, óc quan sát); 4. Các phẩm chất tư duy lâm sàng. b) Các phẩm chất nhân cách: 1. Các phẩm chất đạo đức; 2. Các phẩm chất nghề nghiệp (yêu nghề, say mê lao động nghề nghiệp – kĩ xảo, kĩ năng nghề nghiệp - năng lực giao tiếp). c) Một số phẩm chất tâm lý cá nhân khác: 1. Tinh thần trách nhiệm; 2. Tính trung thực; 3. Sự dũng cảm; 4. Tính tự chủ; 5. Tính khiêm tốn. Trong luận án tiến sĩ: “Những phẩm chất tâm lý cơ bản của Cảnh sát hình sự” của mình, tác giả Đỗ Văn Thọ cho rằng: phẩm chất tâm lý là những thuộc tính, những đặc điểm tinh thần của cá nhân (phân biệt với PC sinh lý, thể chất); là những thuộc tính, đặc điểm tâm lý tích cực được đánh giá theo hệ thống tiêu chí nhất định, bao gồm những PC chính trị, đạo đức; những PC trí tuệ, năng lực; những PC ý chí, tính cách. Những PC đó hình thành, phát triển, thể hiện ở hoạt động và giao tiếp, đồng thời chi phối toàn bộ hoạt động và giao tiếp của cá nhân trong đời sống và trong nghề nghiệp [30, tr.20] Còn tác giả Nguyễn Văn Tập với công trình nghiên cứu của mình đã cho rằng: PCTL là những thuộc tính tâm lý quy định hành vi và cách ứng xử có ý nghĩa xã hội của con người trong những tình huống khác nhau của quan hệ giao tiếp và hoạt động. PCTL thường là những thuộc tính tâm lý biểu hiện mặt tư tưởng, tính cách, ý chí, năng lực, phong cách của con người. Có nhiều cách phân loại các PCTL, chẳng hạn phân loại theo cấu trúc nhân cách sẽ có các PC xu hướng; các PC tính cách; các PC năng lực; các PC khí chất. Hoặc PCTL cũng được phân loại dựa trên cơ sở của sự phân loại giá trị (giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị kinh tế) theo cách phân loại này sẽ có các nhóm PCTL như: nhóm PCTL thuộc về chính trị - tư tưởng, nhóm PCTL thuộc về đạo đức, nhóm PCTL thuộc trình độ năng lực. Qua các cách sử dụng khái niệm như trên cho thấy một thực tế là: nhiều tác giả trong khi đề cập đến những PC của người cán bộ/ PC nghề nghiệp nào đó thường né tránh không dùng khái niệm PCTL; có tác giả dùng khái niệm này đồng nghĩa với nhân cách; có tác giả lại phân biệt tách rời PCTL và PC nhân cách, coi chúng là hai loại khác nhau; có tác giả lại coi tri thức là PCTL; hoặc ngược lại không coi PC chính trị, năng lực của con người là PCTL. Có tác giả coi năng lực là PCTL nhưng lại phân chia: “PC tâm lý – PC nhân cách – PC tâm lý khác”.
  15. Trong các tác giả trên khi đề cập đến khái niệm, chỉ có tác giả Nguyễn Mai Lan và Nguyễn Văn Tập đưa ra định nghĩa, nhưng cuối cùng lại quy về PC nhân cách. Dường như các tác giả nói trên đều có một sự gò ép nào đó khi dùng khái niệm PCTL và PC nhân cách. Phải chăng các tác giả không muốn động đến một vấn đề có thể nảy sinh tranh cãi hay vì một lý do tế nhị nào đó, nhưng rõ ràng là khái niệm PCTL vẫn chưa có được cách hiểu thống nhất với nhau. Tuy nhiên khi đề cập đến PCTL hay PC nhân cách, các tác giả đều nói đến những đặc điểm về ý thức chính trị, đạo đức, những đặc điểm về nhận thức, tình cảm, tính cách, ý chí, năng lực … của con người, tức là đều nói về những PC tinh thần chứ không phải những PC về sinh lý – thể chất hay đặc điểm xã hội thuần túy. Theo quan điểm của Ph.N.Gônôbôlin trong tác phẩm “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, tuy không đưa ra định nghĩa nhưng ông đã đề cập đến người giáo viên cần có những PC: Phẩm chất đạo đức, chí hướng; Năng lực sư phạm; Phẩm chất ý chí. Chúng tôi nhất trí với quan niệm của Gônôbôlin coi những PC thuộc về năng lực, ý chí, đạo đức, xu hướng…là những PCTL, bởi năng lực, khí chất hay bất cứ hiện tượng tâm lý nào của cá nhân, tuy đều có yếu tố sinh vật tham gia (cơ sở sinh lý), nhưng chúng đều là hiện tượng tinh thần – là tâm lý – không thể coi năng lực là cái gì khác hay tương đương với PCTL, các năng lực cụ thể nào đó chính là PCTL. Còn khi nói đến nhân cách cũng tức là nói đến những thuộc tính tâm lý cơ bản tạo nên nhân cách, do đó, PC nhân cách chính là PCTL. Nhưng “nhân cách” không phải là sự cộng lại tất cả các đặc điểm tâm lý mà là kết tinh của những đặc điểm đặc trưng, không phải tất cả các PCTL đều là PC nhân cách (mặc dù chúng cũng góp phần nhất định tạo nên đặc trưng nhân cách của cá nhân). PCTL là khái niệm bao trùm lên khái niệm PC nhân cách, không thể thay thế cho nhau được và cũng hoàn toàn không tách rời nhau. Một vấn đề nữa đặc ra là, PCTL là “cái xã hội” hay “cái sinh vật” hay là một cái gì khác nữa? Về vấn đề này, có thể nhất trí với quan điểm của E.V. Xôrôkhôva (1996) khi cho rằng: Các PCTL không chỉ quy về cái xã hội, cũng không quy về sinh học hay nằm giữa (hoặc dưới) hai phạm trù này. Tuy nhiên cũng không nên tách chúng ra khỏi 1 phạm trù nào: những PCTL dường như thấm sâu vào cả cái xã hội và sinh học bằng hình thức nhất định, xuyên sâu, gắn liền chúng. Mặt khác, có nhiều đặc điểm xã hội, sinh học được thể hiện trong hành vi và hoạt động của con người thông qua các PCTL [18, tr.125]. Khi đề cập đến vấn đề tuyển chọn tâm lý nghề nghiệp, một số nhà tâm lý cho rằng: PCTL – nhân cách chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện giáo dục, hoàn cảnh sống và hoạt động để hình thành, phát triển, tuy nhiên cũng có nhiều PC chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố bẩm sinh.
  16. Như vậy, việc tách riêng để định nghĩa PCTL là gì chỉ có tính qui ước một cách trừu tượng tương đối để nghiên cứu chứ không có ý định phân định máy móc, rạch ròi PCTL hay PC nhân cách. Trong luận văn này, chúng tôi đồng tình với quan điểm của Nguyễn Văn Thọ và tạm xác định PCTL là những thuộc tính, những đặc điểm tinh thần của cá nhân được quy định, hình thành và phát triển thông qua hoạt động và giao tiếp của con người, đồng thời chi phối lại toàn bộ đời sống và hoạt động nghề nghiệp của cá nhân. PCTL thường là những thuộc tính tâm lý thể hiện về mặt đạo đức; trí tuệ, năng lực và ý chí, tính cách của con người. Theo đó, mức độ năng lực của con người về nhận thức, hành động, các thái độ tích cực của cá nhân với xung quanh…đều là biểu hiện của các PCTL. Tất cả các đặc điểm tâm lý đạt đến mức độ tương đối ổn định, tích cực (có ích) cho hoạt động của cá nhân, cho việc đánh giá về cá nhân, đó là những phẩm chất tâm lý. Nói cách khác PCTL là đặc tính hay mức độ chất lượng cần thiết của các chức năng tâm lý, giúp cá nhân tiến hành các hoạt động đạt đến mục đích. Đương nhiên những biểu hiện tâm lý nhất thời, không gắn bó với chức năng tâm lý của cá nhân, không có ý nghĩa để đánh giá thì chưa phải là PCTL. 1.2.2. Khái niệm nghề nghiệp và PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề 1.2.2.1. Khái niệm nghề nghiệp Nghề là khái niệm thông dụng trong xã hội. Theo từ điển Tiếng Việt [37]: Nghề nghiệp là cách nói khái quát của Nghề - Nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội: nghề dạy học, nghề nông, nghề khám chữ bệnh, nghề làm báo, … ” Theo tác giả E.A.Climốp: nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội, do sự phân công lao động mà có. Nó tạo khả năng cho con người sử dụng sức lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển [30]. Còn theo tác giả Phạm Tất Dong: “Nghề là nhóm những chuyên môn gần nhau” [5], trong mỗi nghề lại có những chuyên môn hẹp hơn. Trong tiếng Anh, nghề nghiệp được gọi là profession (công việc chuyên môn) dùng để phân biệt với job (việc làm). Với cách phân biệt như trên ta có thể hiểu nghề nghiệp bao hàm trong nó một phạm vi rộng hơn; là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Trong khi đó, chuyên môn dùng để chỉ một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…)
  17. với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.Trong mỗi nghề lại bao gồm nhiều chuyên môn khác nhau. Theo tác giả Đặng Danh Ánh, trên thế giới có khoảng 65.000 nghề và chuyên môn khác nhau. Ở Việt Nam theo danh mục nghề đào tạo công nhân do Viện khoa học dạy nghề xây dựng có khoảng 400 nghề, còn trong xã hội thực tế lại có hàng chục nghìn nghề khác nhau. Có nhiều cách phân loại nghề dựa trên những căn cứ khác nhau thành những nghề và nhóm nghề nhất định. Căn cứ vào mức độ phức tạp kỹ thuật, về trình độ chuyên môn mà nghề đòi hỏi để thực hiện công việc, các nghề được chia thành 3 nhóm:  Các nghề không chuyên môn hóa cao (lao động đơn giản, không cần qua đào tạo nghề).  Các nghề nửa chuyên môn hóa (chỉ cần đào tạo các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đủ để thực hiện các thao tác đơn giản hay những thao tác được chuyên môn hóa trong dây chuyền sản xuất).  Các nghề chuyên môn hóa (đòi hỏi đào tạo chính quy, chuyên sâu) [20]. Căn cứ vào yêu cầu tâm lý của nghề đòi hỏi, các nghề được chia thành 8 nhóm:  Những nghề thụôc lĩnh vực hành chính.  Những nghề tiếp xúc với con người.  Những nghề thợ.  Những nghề kỹ thuật.  Những nghề thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật.  Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học.  Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên.  Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt [5]. Căn cứ vào quan hệ tác động qua lại và phụ thuộc giữa con người và đối tượng tác động trong lao động, ta có thể chia các nghề thành 5 nhóm:  Người – Thiên nhiên.  Người – Kỹ thuật.  Người – Người.  Người – Dấu hiệu.  Người – Nghệ thuật. Đây là cách phân loại không chia theo ngành kinh tế mà theo những đặc điểm tâm – sinh lý của cá nhân phù hợp với đòi hỏi của hoạt động nghề nghiệp. Mỗi cách phân loại đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, chúng không thể bao hàm lẫn nhau, vì vậy tùy theo mục đích nghiên cứu mà tiếp cận vấn đề theo cách phù hợp. Như vậy, có thể hiểu khái niệm nghề nghiệp được dùng để chỉ một lĩnh vực hoạt động của con người, mang tính chuyên môn (có đối tượng, phương thức, công cụ phương tiện, sản phẩm,…riêng, chủ thể lao
  18. động chuyên nghiệp) và tương đối ổn định, được qui định bởi nhu cầu và sự phân công lao động xã hội. 1.2.2.2. Sự phù hợp nghề và vấn đề PC cá nhân đáp ứng yêu cầu nghề PC cá nhân đáp ứng yêu cầu nghề là một trong những vấn đề cơ bản được quan tâm trong những nghiên cứu về nghề nghiệp và có liên quan nhiều đến khái niệm “Phù hợp nghề”. Theo tác giả Đặng Danh Ánh, sự phù hợp nghề đối với 1 người là: người đó phải có nguyện vọng (tự giác) làm nghề đó; người đó phải có khả năng làm nghề đó (có đặc điểm thể chất, tâm lý đáp ứng đòi hỏi nghề - phân biệt với năng lực nghề là những thuộc tính tâm lý giúp chủ thể nắm vững một nghề cụ thể; xã hội, tập thể và gia đình cần người đó làm nghề đó [2]. Còn theo tác giả Phạm Tất Dong, sự phù hợp nghề là tập hợp những đặc điểm tâm – sinh – lý đảm bảo cho con người đạt kết quả cao trong lao động nghề nghiệp [8]. Từ góc độ của tâm lý học lao động, phù hợp nghề thường được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thứ nhất được hiểu theo bình diện cá nhân, tức là những đặc điểm của cá nhân có đáp ứng được yêu cầu mà nghề đòi hỏi để có thể thuận lợi trong việc thực hiện các công việc đạt hiệu quả cao hay không? Ở bình diện này sự phù hợp nghề chủ yếu được xem xét trên cơ sở hứng thú của cá nhân đối với nghề và năng lực nghề của cá nhân đó nhằm phục vụ cho công tác tư vấn nghề nghiệp, giúp cho việc chọn nghề có cơ sở vững chắc hơn; Nghĩa thứ hai được hiểu theo bình diện xã hội, tức là sự phù hợp nghề không chỉ được xem xét không chỉ trên cơ sở tương ứng giữa những đòi hỏi của nghề với hứng thú và năng lực cá nhân của chủ thể, mà còn ở khía cạnh những yêu cầu của thị trường lao động [20, tr.81]. Ở bình diện này, sự phù hợp nghề đối với cá nhân không chỉ là người đó muốn và có thể làm nghề đó mà còn ở chỗ xã hội có cần nghề đó hay không và cần như thế nào? Theo tác giả Phạm Tất Dong, có 3 mức độ phù hợp nghề: Phù hợp hoàn toàn, phù hợp có mức độ, không phù hợp [7, tr.75], còn theo tác giả Mạc Văn Trang và các cộng sự, có 4 mức độ phù hợp nghề: Rất phù hợp (cao), phù hợp (trung bình), ít phù hợp (dưới trung bình), không phù hợp (kém) [33]. Vấn đề PC cá nhân đáp ứng yêu cầu của nghề được xem xét ở góc độ hẹp hơn, đó là những đặc điểm tâm – sinh – lý xã hội mà cá nhân khi làm nghề cần phải có thì mới thực hiện được những công việc cụ thể của nghề một cách có hiệu quả, đồng thời tránh được những sai sót không mong muốn và thuận lợi cho sự phát triển nhân cách. Những PC cá nhân đáp ứng yêu cầu của nghề bao gồm những PC thuộc về thể chất (giải phẫu, sinh lý), những PCTL và PC xã hội (phân chia 1 cách tương đối), trong đó những PC đáp ứng yêu cầu của nghề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó là yếu tố giúp cá nhân có thể huy động tối đa tiềm năng của mình (phát huy những đặc điểm cá nhân thuận lợi) để học và hành nghề có hiệu quả cao, đồng thời có thể giúp khắc phục bớt những khuyết điểm của cá nhân (những đặc điểm không đáp ứng tốt đòi hỏi của nghề) về những mặt khác.
  19. Với mục đích nghiên cứu những PCTL cơ bản nhằm định hướng và phát triển nghề, trong luận văn này chỉ đề cập đến những PCTL đáp ứng đòi hỏi của nghề mà người HDVDL cần phải có để thực hiện tốt các công việc cụ thể và phát triển nhân cách nói chung, nhân cách nghề nghiệp nói riêng. 1.2.2.3. PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề Một người có thể là chuyên gia giỏi ở lĩnh vực này nhưng lại không thể làm được ở một lĩnh vực/ nghề khác, điều đó liên quan chặt chẽ đến sự khác biệt cá nhân về PC, đặc biệt là những PCTL. Hiệu quả của bất kỳ lao động nghề nghiệp nào cũng phụ thuộc rất lớn vào mức độ đáp ứng những PCTL của chủ thể với những đòi hỏi của nghề. Xã hội đòi hỏi phải tuyển chọn những người phù hợp với từng ngành nghề trong sản xuất. Sự tuyển chọn đó cần phải được thực hiện trước hết trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học năng lực của từng cá nhân và cân nhắc đến hứng thú của họ. Năng lực là một trong những vấn đề được quan tâm nghiên cứu vì nó có ý nghĩa thực tiễn và lý luận to lớn bởi "sự phát triển năng lực của mọi thành viên trong xã hội sẽ đảm bảo cho mọi người tự do lựa chọn một nghề nghiệp phù hợp với khả năng của cá nhân, làm cho hoạt động của cá nhân có kết quả hơn, ...và cảm thấy hạnh phúc khi lao động". Phạm Tất Dong trong cuốn "Giúp bạn chọn nghề" đã định nghĩa năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề đặt ra. Trong bất cứ hoạt động nào của con người, để thực hiện có hiệu quả, con người cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết và tổ hợp những phẩm chất này được gọi là năng lực. Theo quan điểm của Tâm lý học mác xít, năng lực của con người luôn gắn liền với hoạt động của chính họ. Như chúng ta đã biết, nội dung và tính chất của hoạt động được quy định bởi nội dung và tính chất của đối tượng tạo nên nó. Tuỳ thuộc vào nội dung và tính chất của đối tượng mà hoạt động đòi hỏi ở chủ thể những yêu cầu xác định. Nói một cách khác thì mỗi một hoạt động khác nhau, với tính chất và mức độ khác nhau sẽ đòi hỏi ở cá nhân những thuộc tính tâm lý (điều kiện cho hoạt động có hiệu quả) nhất định phù hợp với nó. Như vậy, khi nói đến năng lực nghề nghiệp có nghĩa là chúng ta nói đến sự tương ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra. Nếu không có sự tương ứng này thì con người không thể theo đuổi nghề được. Ở mỗi một nghề nghiệp khác nhau sẽ có những yêu cầu cụ thể khác nhau, nhưng tựu trung lại theo tác giả Mạc Văn Trang thì năng lực nghề nghiệp được cấu thành bởi 3 thành tố sau:  Tri thức chuyên môn.  Kỹ năng hành nghề.  Thái độ đối với nghề
  20. Năng lực nói chung và năng lực nghề nghiệp nói riêng không có sẵn như một số nhà Tâm lý học tư sản quan niệm mà nó được hình thành và phát triển qua hoạt động học tập, lao động và trong hoạt động nghề nghiệp. Chúng ta có thể khẳng định rằng học hỏi và lao động không mệt mỏi là con đường phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Nói tới những PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề không có nghĩa chỉ là những PCTL tạo nên năng lực nghề (giúp chủ thể nắm vững chuyên môn, có tay nghề thành thạo), mà còn là những PC giúp cho chủ thể tránh được những sai sót có thể dẫn tới những sự cố trong hoạt động nghề, phát huy được tối đa sự nỗ lực trong hoạt động để đạt hiệu quả cao và phát triển nhân cách thuận lợi. Do đó, có thể hiểu: “PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề là những PCTL giúp cho chủ thể thuận lợi cả trong học tập tiếp thu tri thức và thực hành để đạt hiệu quả cao, tránh được những sai sót, đồng thời thuận lợi cho việc phát triển nhân cách của cá nhân”. 1.2.2.4.Nguồn gốc của những PC đáp ứng yêu cầu của nghề và điều kiện hình thành, phát triển những PC đó. a) Nguồn gốc của những PC cá nhân đáp ứng yêu cầu của nghề. Những PC cá nhân đáp ứng yêu cầu của 1 nghề cụ thể đòi hỏi trên nhiều mặt: sinh lý, tâm lý, và một số nghề còn đòi hỏi những đặc điểm xã hội (thành phần giai cấp, tín ngưỡng). Các PC đó luôn đan xen, hòa quyện vào nhau, nhưng để nghiên cứu có thể phân chia tương đối theo 2 loại nguồn gốc: 1. Những PC có nguồn gốc tự nhiên: Là những PC thuộc về mặt sinh lý – thể chất hay những tiền đề sinh học. Đó là những đặc điểm về ngoại hình, kiểu thần kinh, đặc điểm giác quan, sức khỏe, giọng nói,…đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghề. Những PC này là tiền đề rất cơ bản để hình thành, phát triển những PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề và năng lực nghề, thiếu những PC sinh học phù hợp thì không thể phát triển những PCTL tương ứng – đặc biệt là năng lực. 2. Những PC có nguồn gốc xã hội: Là những PC được hình thành và phát triển trong hoạt động và giao tiếp của cá nhân. Đó là những PC xã hội – tâm lý mà cá nhân có được do tiếp thu, lĩnh hội từ những tác động giáo dục của xã hội và giao tiếp với xung quanh (giáo dục chung, đào tạo nghề, hoạt động nghề, tự tu dưỡng) trên cơ sở những tiền đề tự nhiên (đặc điểm sinh lý – thể chất) của mình, bao gồm những kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, … b) Điều kiện hình thành, phát triển những PC nghề phù hợp. Theo những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định, đối với một nghề cụ thể, những PC đáp ứng yêu cầu của nghề có thể gồm 3 loại: Một là những tiền đề bẩm sinh, thuận lợi và những PC do giáo dục chung đem lại; hai là những PC hình thành và phát triển qua giáo dục – đào tạo nghề; và là những PC được hình thành, phát triển, củng cố trong hoạt động thực tiễn và sự tu dưỡng, rèn luyện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2