intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

504
lượt xem
98
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh của trường. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn trong trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc nói riêng cũng như trên phạm vi toàn tỉnh Vũng Tàu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM THỊ TRÚC NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU Chuyên ngành: Tâm lí học Mã số: 603180 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Người nghiên cứu đề tài xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: - Các Thầy (Cô) giáo trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy trong suốt năm tháng học cao học. - TS. Trần Thị Quốc Minh - Người hướng dẫn luận văn, đã tận tình chỉ bảo trong quá trình hoàn thành luận văn. - Ban giám hiệu và các Thầy (Cô) giáo của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình nghiên cứu thực trạng. Người nghiên cứu cũng xin được cảm ơn các em học sinh của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã cộng tác nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu thực trạng. Xin trân trọng cảm ơn!
  3. LỜI CAM ĐOAN Người nghiên cứu xin cam đoan rằng luận văn này do chính bản thân người nghiên cứu thực hiện, số liệu trong luận văn là có thực do quá trình người nghiên cứu nghiên cứu thực trạng tại bốn trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Nếu vi phạm người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của phòng Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
  4. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................. 2 0T T 0 LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................... 3 0T 0T MỤC LỤC ...................................................................................................................................... 4 0T T 0 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................. 6 0T 0T MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 1 0T T 0 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ........................................................................................................................ 1 0T 0T 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: ............................................................................................................... 3 0T 0T 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:....................................................... 3 0T T 0 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU: ........................................................................................................... 3 0T 0T 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: ............................................................................................................... 3 0T 0T 6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: ................................................................................................ 3 0T 0T 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:........................................................................................................ 4 0T 0T 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI: .......................................................................................... 4 0T T 0 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ..................................................................................................... 5 0T 0T 1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề: ................................................................................................. 5 0T 0T 1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí: ..................................................................................................... 11 0T 0T 1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí: .................................................................................. 11 T 0 T 0 1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan: ...................................................................................... 14 T 0 T 0 1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn: ......................................................................................................... 14 T 0 0T 1.2.2.2. Trị liệu tâm lí và tham vấn: ............................................................................................... 16 T 0 0T 1.2.2.3. Tham vấn và cố vấn: ......................................................................................................... 17 T 0 0T 1.2.2.4. Tham vấn và công tác xã hội: ........................................................................................... 18 T 0 T 0 1.3. Lí luận chung về nhu cầu và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT: ...................................... 19 0T T 0 1.3.1.Nhu cầu: ................................................................................................................................... 19 T 0 0T 1.3.1.1. Khái niệm: ........................................................................................................................ 19 T 0 0T 1.3.1.2. Đặc điểm nhu cầu: ............................................................................................................ 20 T 0 0T 1.3.1.3. Các mức độ của nhu cầu: .................................................................................................. 22 T 0 0T 1.3.1.4. Sự hình thành nhu cầu: ..................................................................................................... 23 T 0 0T 1.3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:........................................................................... 24 T 0 T 0 1.3.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT: .......................................................................... 24 T 0 T 0 1.3.2.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT: ................................................................... 28 T 0 T 0 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC SINH THPT 0T HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU ............................................................... 31 T 0 2.1. Mục đích nghiên cứu: ...................................................................................................................... 31 0T 0T 2.2. Cách thức nghiên cứu: ..................................................................................................................... 31 0T 0T
  5. 2.2.1. Mẫu nghiên cứu: ...................................................................................................................... 31 T 0 0T 2.2.2. Dụng cụ nghiên cứu và cách tiến hành: .................................................................................... 32 T 0 T 0 2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng: ........................................................................................................ 32 0T 0T 2.3.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT:................................ 33 T 0 T 0 2.3.1.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT xét theo trường:............................. 36 T 0 T 0 2.3.1.2.Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp: .................................... 38 T 0 T 0 2.3.1.3. Mức độ cần được tham vấn tâm lí ở các lĩnh vực xét theo giới tính ................................... 39 T 0 T 0 2.3.2. Lí do học sinh THPT cần được tham vấn trong các lĩnh vực: .................................................... 42 T 0 T 0 2.3.2.1. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo trường: .................... 45 T 0 T 0 2.3.2.2. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp: .......................... 47 T 0 T 0 2.3.2.3. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo giới: ........................ 49 T 0 T 0 2.3.3. Cách thức học sinh giải quyết khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực: .................................. 51 T 0 T 0 2.3.3.1.Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo trường: T 0 T 0 ..................................................................................................................................................... 53 2.3.3.2. Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo lớp và T 0 giới tính: ....................................................................................................................................... 54 T 0 2.3.4 Mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí ở trường phổ thông:........................ 56 T 0 T 0 2.4. Một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR Vũng Tàu:....... 59 0T T 0 2.4.1.Cơ sở để xây dựng biện pháp: ................................................................................................... 59 T 0 0T 2.4.2. Một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng T 0 Tàu: ................................................................................................................................................... 59 T 0 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................................... 62 0T 0T 1. KẾT LUẬN: ...................................................................................................................................... 62 0T T 0 2. KIẾN NGHỊ: ...................................................................................................................................... 63 0T T 0 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................. 1 0T 0T PHỤ LỤC........................................................................................................................................ 5 0T T 0
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT THPT: Trung học phổ thông THCS: Trung học cơ sở THCN: Trung học chuyên nghiệp TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh TB: Trung bình ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn X: Chi bình phương P: Mức ý nghĩa quan sát N: Số người RCT: Rất cần thiết CT: Cần thiết KCT: Không cần thiết
  7. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem lại những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người trong xã hội, đặc biệt là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây ra không ít những mâu thuẫn, xung đột và tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự bản thân mỗi cá nhân không thể giải quyết được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp của tham vấn tâm lí - một loại hình dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại. Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát triển của học sinh THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách mạnh mẽ nhất - diễn ra không hoàn toàn phẳng lặng, êm xuôi mà ở mỗi giai đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu, căng thẳng, xung đột riêng. Vì thế, trong quá trình phát triển trẻ em luôn có những sự mất cân bằng với các hiện tượng bất thường. Trong nhiều trường hợp, những hiện tượng bất thường đó chỉ là tạm thời, là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên ở một số trường hợp khác, chúng là biểu hiện của sự nhiễu loạn tâm lí ở trẻ khiến cha mẹ, thầy cô giáo lo lắng, bực bội và nhiều khi bất lực . Nói như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “Bề ngoài trông như yên lành nhưng cái khổ hàng ngày vẫn bao trùm các em”. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng các học sinh, sinh viên ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn tâm lí trong việc lựa chọn những chân giá trị của thời đại, trong định hướng nghề, và sự lựa chọn việc làm; trong quan hệ giao lưu và những khó khăn nảy sinh trong chính nội tại quá trình phát triển tâm lí lứa tuổi. Vì vậy nhu cầu cần được trợ giúp và định hướng để giải quyết những khó khăn tâm lí ở học sinh rất lớn. Nhiều mô hình trợ giúp học sinh
  8. được thử nghiệm, trong đó tham vấn tâm lí là một trong những hình thức đang được phát triển và kỳ vọng. Như vậy, có thể thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan trọng với nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có nhiều thay đổi trong tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về tâm lí, nếu học sinh được tham vấn, giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại, các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những hành vi lệch chuẩn. Việc ra đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất cần thiết. Đối với học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu, là địa bàn huyện vùng sâu nhưng kinh tế cũng đang dần phát triển, văn hoá nơi thành thị du nhập đã tạo ra một số xáo trộn trong cuộc sống nơi đây, dẫn đến những biến động không nhỏ tới tâm lí của các em. Các em cũng gặp phải những khó khăn tâm lí cần được tháo gỡ mà không phải thầy cô hay cha mẹ nào cũng có thể giúp đỡ để các em có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng phát triển nhân cách đúng đắn. Đây là một nhu cầu có thực và ngày càng trở nên cấp thiết của học sinh THPT. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những nguyên nhân cơ bản nào gây ra những khó khăn tâm lí của các em? nhu cầu tham vấn tâm lí của các em ở mức độ nào? lĩnh vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? để từ đó xác định phương hướng tổ chức các hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của các em học sinh trên phạm vi của huyện cũng như toàn tỉnh. Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “ Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” làm đề tài nghiên cứu khoa học nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em học sinh THPT, từ đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thông để hoạt động tham vấn tâm lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT.
  9. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn trong trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc nói riêng cũng như trên phạm vi toàn tỉnh Vũng Tàu. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: - Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT. 3.2. . Khách thể nghiên cứu : 458 học sinh và 35 giáo viên chủ nhiệm THPT huyện Xuyên Mộc thuộc bốn trường: Hòa Bình, Xuyên Mộc, Phước Bửu, Hòa Hội. 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc biểu hiện ở mức cao, tuy nhiên có sự khác biệt về nội dung cần được tham vấn ở các trường xét theo khối lớp và giới tính do nhiều nguyên nhân. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: - Nghiên cứu một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài. - Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. - Đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho học sinh THPT trên địa bàn huyện. 6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biểu hiện của nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu năm học 2009 -2010
  10. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: - Tổng hợp tài liệu có liên quan để hình thành cơ sở lí luận cho đề tài. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Điều tra bằng phiếu hỏi. Đây là phương pháp chính của đề tài. Chúng tôi thiết kế 2 loại bảng hỏi dành cho học sinh và giáo viên nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là khảo sát mức độ cần thiết của học sinh về tham vấn tâm lí, nhu cầu tham vấn tâm lí ở nội dung và hình thức tham vấn… - Phỏng vấn. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trên 10 học sinh và 10 giáo viên nhằm tìm hiểu rõ hơn về thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT, đặc biệt là nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp cần thực hiện. Đồng thời phỏng vấn để kiểm tra, khẳng định lại kết quả điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu được những kết quả đáng tin cậy. 7.3. Phương pháp xử lí số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS để xử lí, tổng kết số liệu điều tra đưa ra các kết luận định lượng làm cơ sở cho các kết luận định tính. 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài đã mô tả được thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT, lí do học sinh THPT cần được tham vấn, mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí trong trường học… Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho học sinh THPT trên địa bàn huyện.
  11. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề: Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sử tồn tại và phát triển của cơ thể. Khi bàn đến nhu cầu, các triết gia kinh điển đã viết: “ Bản thân nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn, hành động thoả mãn và công cụ đã đạt được để thoả mãn nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu mới, vừa nảy sinh ra những nhu cầu mới này là sự việc lịch sử đầu tiên {19; 76}. Từ đầu thế kỷ XIX , Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lí của cá nhân bắt nguồn từ những nhu cầu của nó ( về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…). Vào giữa thế kỷ XIX, V.Koller, E.Thorndike, N.E.Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được thúc đẩy bởi nhu cầu và đưa ra thuật ngữ “ luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích và đáp ứng của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi. Cuối thế kỷ XIX, S.Freud đã đưa vấn đề nhu cầu vào Lý thuyết bản năng của con người. Theo Freud, lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành vi của con người đều hướng tới việc mong muốn những nhu cầu của cơ thể. Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu cầu ở con người. Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng, những nhân tố thực của hoạt động tâm lí của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội {32}. Đại diện tiêu biểu cho trường phái tâm lí học nhân văn là A.Maslow trong công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng… Những nhu cầu này có bản chất, bản năng đặc trưng cho giống người. Như vậy, theo ông “tính người” của nhu cầu được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. Mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan đến cấu trúc cơ thể của con người và được dựa trên một nền tảng di truyền nhất định. Ông đã hình dung nhu cầu và sự phát
  12. triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang gồm năm bậc từ thấp đến cao: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng và nhu cầu tự thể hiện. Mỗi bậc nhu cầu của con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó, nếu một nhu cầu ở bậc thấp không được đáp ứng cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát triển tiếp theo. Theo ông, sau khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu bậc cao hơn {32}. Còn nhà tâm lí học người Mỹ - Herry Murray đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu gồm 20 loại nhu cầu {11, 172}. Ông cho rằng, nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ nhằm mục đích đạt được sự thích ứng. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của S.Freud nhưng theo ông nếu chỉ giải thích như Freud thì quá đơn giản. Theo thuyết của ông, những nhu cầu tâm lí xác định được ở con người là những mức độ khác nhau và cường độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Ở người này có những loại nhu cầu này mãnh liệt nhưng ở người khác lại có những loại nhu cầu khác. Tuy nhiên ông không hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội dung của các nhu cầu, động cơ của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động cơ gây ra hành động. Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của con người được bổ sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom Harré… Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định đây chính là tác nhân tích cực cho sự phát triển cá nhân. Trong tâm lí học Xô Viết, khái niệm nhu cầu giữ vai trò nền tảng trong việc nghiên cứu chủ thể, không có nó thì không có cuộc sống. Nhưng để thỏa mãn các nhu cầu cần phải có hoàn cảnh thích hợp, phải có những phương tiện cho phép thỏa mãn những nhu cầu. Khi đã có sẵn nhu cầu và phương tiện thỏa mãn nhu cầu thì chủ thể sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đưa đến thỏa mãn nhu cầu. Đó chính là tâm thế thực hiện hành động, nó là một khâu cần thiết với thực tại và các chức năng tâm lí. Người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu và ý nghĩa của nó
  13. đối với hoạt động của con người là D.N.Uznadze trong cuốn sách Tâm lí học đại cương xuất bản năm 1940. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu cấp thấp (nhu cầu tồn tại - đói, khát, tình dục…) và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ…). Trong những hành vi hàng ngày của mình con người không chỉ mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp mà còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao và ở mỗi cá nhân khác nhau mức độ mỗi loại nhu cầu này là khác nhau. Sự chiếm ưu thế của nhu cầu cấp cao hay cấp thấp ở mỗi cá nhân là do điều kiện sống, điều kiện giáo dục, phụ thuộc vào ấn tượng, sự thể nghiệm mà con người thấy có ý nghĩa {32}. Dựa trên quan điểm triết học Mac-Lênin, X.L.Rubinstêin cho rằng, con người có nhu cầu sinh vật nhưng bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của con người về một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn nhu cầu thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông, nhu cầu là một thành tố của động cơ, chính là hạt nhân của nhân cách cho nên nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác nhau của nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm tin. Vì vậy thực tế nhu cầu là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lí, tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân cách chúng ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải khám phá ra quá trình nảy sinh và biểu hiện của nhu cầu, đồng thời phải thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ quan (trạng thái tâm lí của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu. Từ quan niệm trên ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa mang tính chủ động. Cụ thể: Nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể nhưng được thỏa mãn hay không thỏa mãn lại phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ động của nhu cầu); mặt khác nhu cầu
  14. sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính tích cực của nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự hình thành và phát triển của nhu cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo những giai đoạn, cấp độ nhất định. Khi đề cập đến nhu cầu A.N.Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là trạng thái tâm lí bên trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng thái thiếu thốn của cơ thể. Nhưng do chưa có đối tượng để thỏa mãn nên ở cấp độ này nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức mạnh của các chức năng tâm lí và tạo ra sự kích thích chung. Kết quả, dẫn đến các hành vi tìm tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai, cao hơn, nhu cầu gặp gỡ đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả năng kích thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lí học (ở cấp độ tâm lí) phải gắn liền với đối tượng của nó. Nói cách khác nhu cầu phải được “vật hoá”, “đối tượng hoá” vào trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ thể về phía đó. Sự phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung đối tượng của nó{25; 589}. Leonchiev đi sâu phân tích bản chất tâm lí của nhu cầu và đã khẳng định: “Nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Nhu cầu không chỉ là những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hoàn toàn hoạt động của con người mà nó nảy sinh trong quá trình hoạt động và sau đó quay trở lại chi phối hoạt động của con người theo sơ đồ: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động Ông cho rằng, nhu cầu của con người không chỉ được sản xuất ra mà còn được cải biến ngay trong quá trình sản xuất và tiêu thụ và đó cũng chính là mấu chốt để hiểu được bản chất các nhu cầu của con người. Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu tham vấn tâm lí của đối tượng học sinh THPT đã được một số tác giả thực hiện:
  15. Trong đề tài “Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ thông” nhóm tác giả Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã chỉ ra các khía cạnh thể hiện khó khăn tâm lí ở học sinh THPT là khó khăn trong việc xác định lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai, khó khăn trong học tập, băn khoăn về sự phát triển tâm sinh lí của bản thân, khó khăn trong quan hệ với cha mẹ, thầy cô. Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong nhà trường và những hình thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực tiếp tại trường, qua thư, qua điện thoại {13}. Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), Võ Thị Tích (2004) đã tìm hiểu nhu cầu về nội dung và hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực của nhà tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng tham vấn trong nhà trường là việc rất cần thiết với yêu cầu phải có chuyên viên tham vấn có trình độ chuyên môn về tâm lí giáo dục và phải có một số phẩm chất cần thiết như: dễ gần và thân thiện, biết thông cảm và chia sẻ, tôn trọng và giữ bí mật…{26},{29}. Nghiên cứu về nội dung tham vấn giới tính của học sinh nhóm tác giả Ngô Đình Qua, Nguyễn Thượng Chí (2006) đã đưa ra kết luận là cả học sinh THCS và học sinh THPT đều có nhu cầu được tư vấn về tâm lí - giới tính, nhưng số học sinh THPT có nhu cầu chiếm tỉ lệ % cao hơn. Nhu cầu này chưa được người lớn đáp ứng đầy đủ vì vậy cần phải có phòng tư vấn tâm lí giáo dục đặt tại các trường trung học {28}. Tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng (2006) trong nghiên cứu về tham vấn học đường nhìn từ góc độ giới đã đề cập đến sự khác biệt về nhu cầu tham vấn của học sinh nam và nữ. Theo nhóm tác giả, nhà tham vấn học đường cần nắm được những mối quan tâm khác nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ, phân tích được các tác động của mối quan hệ tham vấn, hiệu quả giữa nhà tham vấn học đường là nam hay nữ khi làm việc với học sinh là nam hay nữ… Từ đó đề xuất việc nâng cao nhận thức về giới của các nhà tham vấn học đường thông qua các khóa học lấy giới làm trung tâm trong quá trình tham vấn {8}.
  16. Nghiên cứu về “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinhTHPT tác giả Nguyễn Hà Thành (2009) đã đưa ra kết luận: Tất cả học sinh THPT đều có nhu cầu hiểu biết và được giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học sinh THPT mong muốn chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản được chính thức đưa vào trường học {30}. Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở các trường THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có gần 50 trường phổ thông có phòng tham vấn tâm lí nhưng chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mức độ tiếp cận với hoạt động này của học sinh còn khá khiêm tốn (chỉ có 0.3% học sinh thường xuyên đến phòng tham vấn, số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ thỉnh thoảng và thường xuyên chiếm chưa đến 7%). Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng có ba nhóm yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp xuất phát từ bản thân học sinh, những người làm công tác tham vấn trong trường THPT và từ phía nhà trường, xã hội {20}. Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết trên tạp chí Tâm lí học, các bài tham luận đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học, đề cập đến nhu cầu của tham vấn cũng như sự cần thiết của chuyên viên tâm lí trong trường học và cách thức tổ chức các hoạt động tham vấn trong trường {14}, {12}, {7}, {16}, {24}… đã phản ánh phần nào về nhu cầu tham vấn tâm lí của thanh thiếu niên, đặc biệt các vấn đề tâm lí hay gặp phải của họ cũng như các hình thức tham vấn phù hợp. Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu đòi hỏi về tham vấn trong xã hội hiện nay là rất lớn, nhất là ở lứa tuổi học sinh phổ thông mà hoạt động tham vấn một cách chuyên nghiệp ở nước ta còn rất mới mẻ cả về nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là trên địa bàn huyện vùng sâu vùng xa thì hoạt động tham vấn gần như bị bỏ ngỏ, các công trình nghiên cứu còn rất ít ỏi. Điều đó đang đặt ra cho chúng ta sự nỗ lực rất nhiều trong nghiên cứu, phát triển tham vấn trên mọi phương diện. Xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn này chúng tôi triển khai đề tài “Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” nhằm đánh giá chính
  17. xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em nơi đây và để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong các trường phổ thông hiện nay. 1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí: 1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí: Tham vấn (Counseling) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng 10 – 15 năm trở lại đây, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này. Không riêng gì ở Việt Nam mà tại các nước Phương tây và Bắc Mỹ thuật ngữ tham vấn cũng được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi, nó dùng để chỉ những hoạt động của người giúp đỡ thông thường hoặc của tình nguyện viên, họ được xem như như là người làm công tác trợ giúp. Hay những người làm công tác tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ xã hội hoặc các trường học với nền tảng kiến thức về tâm lí học, công tác xã hội hoặc các ngành khác. Dưới đây có thể dẫn ra một số cách hiểu của các tác giả trong và ngoài nước về khái niệm này: Theo hiệp hội tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997): Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khoẻ tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lí. Định nghĩa này cũng xác định rằng quá trình tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng, trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình. P.K.Onner cho rằng, tham vấn là một quá trình vì vậy đòi hỏi nhà tham vấn phải dành thời gian nhất định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần thục để giúp đỡ thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai các giải pháp trong điều kiện cho phép. Richard Nelsson(1997) cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay đổi cách thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên một cuộc
  18. sống tốt đẹp hơn. Theo ông, tham vấn là một quá trình can thiệp, giải quyết vấn đề với một mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt giữa người làm tham vấn và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở những cấp độ khác nhau, có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà tâm lí học, cán sự xã hội hay đơn thuần là một phần công việc của giáo viên, y tá, tình nguyện viên {9}. Trong Từ điển Tâm lí học, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hiểu tham vấn là quá trình các chuyên gia chẩn đoán, tìm hiểu căn nguyên và thiết lập cách xử lí đối với những trẻ em có vấn đề về tâm lí {36}. Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai: Tham vấn tâm lí là một hoạt động mà nhà chuyên môn bằng kiến thức, hiểu biết và kỹ năng nghề nghiệp của mình, thấu hiểu những cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của đối tượng (cá nhân, gia đình hay nhóm), giúp họ khai thác nguồn lực, tiềm năng cho quá trình giải quyết {22}. TS Trần Thị Giồng thì định nghĩa: “Tham vấn là sự tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ, trong quá trình này nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ có thể tự giải quyết vấn đề đang gặp phải”. PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, Tham vấn là tham vấn với chính thân chủ đang có vấn đề cần tìm cách giải quyết phù hợp. TS. Trần Thị Minh Đức đã đưa ra khái niệm khá toàn diện, phản ánh nhiều góc độ. Theo tác giả, tham vấn là một tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn - người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận, với thân chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lí cần được giúp đỡ. Thông qua các kỹ năng trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình, giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình {9}. Như vậy, quá trình tham vấn nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của mình, nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình
  19. giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ, quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, giám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình. Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tham vấn như sau:  Tham vấn là một tiến trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc và phải mang tính liên tục. Một quá trình tham vấn bao gồm các giai đoạn cụ thể khác nhau có thể kéo dài trong một vài ngày, một tuần, một tháng, thậm chí một vài năm. Thông thường một ca tham vấn có thể diễn ra với 5 giai đoạn sau: • Giai đoạn 1: Thiết lập quan hệ. • Giai đoạn 2: Thu thập, xử lí thông tin, đánh giá vấn đề. • Giai đoạn 3: Tìm kiếm cách giải quyết và giúp thân chủ lựa chọn giải pháp thích hợp nhất. • Giai đoạn 4: Giám sát và trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp. • Giai đoạn 5: Kết thúc tham vấn. Tham vấn là một hoạt động diễn ra trong một quá trình với các hoạt động xây dựng mối quan hệ, khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề.  Tham vấn là sự trợ giúp: Trợ giúp trong quá trình tham vấn là giúp thân chủ những công cụ, phương tiện tâm lí để họ tự giúp chính bản thân mình, củng cố lại cái tôi của họ từ đó có đủ tự tin trong việc ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống. bản chất của tham vấn là phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết vấn đề của chính mình chứ không phải là đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường hiểu. Nhiệm vụ của nhà tham vấn phải làm là một chỗ dựa tinh thần để thân chủ có cơ hội và có đủ tự tin nhìn lại mình một cách khách quan.  Tham vấn là trợ giúp, khai thác tiềm năng của thân chủ để thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình. Khả năng thích ứng ở mỗi con người là rất lớn và bản thân thân chủ đến với nhà tham vấn cũng có khả năng này nhưng chưa ý thức được hoặc cố tình không ý thức được. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp thân chủ nhìn thấy tiềm năng của chính mình, đánh thức và sử dụng
  20. chúng để xử lí tình huống mà họ đang gặp phải. Những khó khăn của thân chủ là những vấn đề mang tính chất riêng tư và chính họ là người trong cuộc, là người trực tiếp cảm nhận, trải nghiệm, đánh giá hậu quả của tình huống và trực tiếp lượng giá những tác động tích cực hoặc tiêu cực do việc giải quyết tình huống mang lại. Vì vậy chỉ có thân chủ mới là người hợp lí và có đủ điều kiện để thực thi các chiến lược cải thiện cuộc sống cho chính bản thân họ. Tất nhiên họ không thể làm việc một cách độc lập mà cần có sự giúp đỡ của nhà tham vấn nhưng quyền quyết định và đứng ra thực hiện cuối cùng phải là thân chủ. Họ phải tích cực, chủ động giải quyết vấn đề và cải thiện tình trạng cho chính bản thân mình. Với ý nghĩa này tham vấn có tác dụng là giúp thân chủ nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống. Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động tham vấn được diễn ra trên cơ sở mối quan hệ giao tiếp đặc biệt, đòi hỏi sự tương tác tích cực giữa người làm tham vấn và đối tượng. Người làm tham vấn là người được trang bị các giá trị, thái độ đạo đức nghề nghiệp, những tri thức hiểu biết về tâm lí con người và các kỹ năng tham vấn để thấu hiểu đối tượng, giúp đối tượng vượt lên chính mình. Còn đối tượng được tham vấn do nhiều nguyên nhân khác nhau trở nên mất cân bằng về tâm lí, khó khăn trong thích nghi, hoà nhập xã hội. Trong đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT. Từ những phân tích ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Tham vấn tâm lí là một tiến trình trợ giúp đối tượng(người đang có khó khăn về tâm lí cần được giúp đỡ) nâng cao nhận thức, duy trì sự thăng bằng tâm lí, tăng cường khả năng ứng phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của bản thân, ra quyết định phù hợp với hoàn cảnh của mình và thực hiện quyết định một cách hiệu quả. 1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan: 1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn: Tư vấn – trong tiếng Anh là consultation - được xem như quá trình tham khảo về lời khuyên hay sự trao đổi quan điểm về vấn đề nào đó để đi đến một quyết định.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0