BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Xuân Khang
TÍNH BỀN VỮNG TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG- TRƢỜNG HỢP TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh-Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Xuân Khang
TÍNH BỀN VỮNG TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG- TRƢỜNG HỢP TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Quản lý Công
Mã số: 60340403
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG
TP. Hồ Chí Minh-Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tính bền vững tài chính của chính quyền địa
phƣơng - trƣờng hợp tỉnh Long An” là công trình nghiên cứu của chính tác giả.
Nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong
thời gian qua. Số liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận
văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hồng Thắng.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 3 năm 2016
Tác giả luận văn
Lê Xuân Khang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các hình vẽ, bảng biểu
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .......................................... 1
1.1. Động cơ nghiên cứu ..................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ................................................................... 3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4
1.5. Nguồn dữ liệu ............................................................................................... 4
CHƢƠNG 2. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT............................................. 5
2.1. Tài chính chính quyền địa phương ............................................................... 5
2.1.1. Vai trò kinh tế của chính quyền địa phương ............................................... 5
2.1.2. Tài chính chính quyền địa phương .............................................................. 6
2.1.3. Quản lý tài chính của chính quyền địa phương .......................................... 7
2.2. Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương ................................. 9
2.3. Lược khảo những nghiên cứu liên quan ..................................................... 15
2.4. Khung phân tích ......................................................................................... 18
2.4.1. Quy mô của chính quyền địa phương ....................................................... 19
2.4.2. Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương ......................... 20
2.4.3. Cấu trúc dân cư ........................................................................................... 21
2.4.4. Nền tảng kinh tế của địa phương ............................................................... 21
2.4.5. Phân cấp ngân sách ..................................................................................... 24
2.4.6. Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương ...................... 24
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 27
3.1. Quy trình nghiên cứu .................................................................................. 27
3.2. Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu .................................................... 30
3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu.......................................................................30
3.3.1. Phân tích thống kê mô tả ............................................................................ 30
3.3.2. Kiểm định Cronbach Alpha ....................................................................... 30
3.3.3. Phân tích nhân tố khám phá ....................................................................... 31
3.3.4. Phân tích hồi quy đa biến ........................................................................... 32
CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 34
4.1. Tổng quan kết quả điều tra mẫu phân tích ................................................. 34
4.1.1. Đặc điểm cá nhân đại diện được khảo sát ................................................. 34
4.1.2. Thống kê về các nhân tố trong mô hình nghiên cứu ................................ 39
4.2. Kiểm định giả thuyết về sự khác biệt của các đặc tính cá nhân được khảo sát
.................................................................................................................... 45
4.2.1. Kiểm định giả thuyết về trị trung bình cho các thang đo ......................... 45
4.2.2. Kiểm định khác biệt về đặc tính cá nhân đến việc đánh giá tác động các
nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS) ............ 46
h EFA .................................. 49 4.3.
............................................................ 53 4.4.
4.5. Đánh giá chi tiết cho từng nhân tố sau EFA ............................................... 58
4.6. Điều chỉnh mô hình và giả thiết nghiên cứu .............................................. 60
4.7. Phân tích mô tả và tương quan giữa các nhân tố sau EFA ......................... 61
..................................... 62 4.8.
4.8.1 Kết quả mô hình.......................................................................................... 62
............................................... 64 4.8.2.
........................................................... 65 4.8.3.
................................ 65 4.8.4.
........................................................ 65 4.8.5.
CHƢƠNG 5. NHẬN ĐỊNH VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ................................. 68
5.1. Nhận định từ kết quả nghiên cứu ............................................................... 68
5.2. Gợi ý chính sách ......................................................................................... 73
5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ..................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt ....................................................................................................... 88
Tài liệu tiếng Anh ....................................................................................................... 88
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANOVA: Phân tích phương sai (Analysis of Variance).
EFA: Phân tích nhân tô khám phá (Exploratory Factor Analysis).
GDP: tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product).
KMO: Hệ số Kaiser - Mayer – Olkin.
OLS: Phương pháp bình phương bé nhất (Ordinary Least Squares).
SIG : Mức ý nghĩa quan sát (Observed significance level).
SPSS: Phần mềm thống kê cho khoa học xã hội (Statistical Package for the
Social Sciences).
UNDP: Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development
Programme).
VIF: Hệ số nhân tố phóng đại phương sai (Variance inflation factor).
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1 Quy mô của chính quyền địa phương.
Bảng 4.2 Cấu trúc dân cư.
Bảng 4.3 Nền tảng kinh tế địa phương.
Bảng 4.4 Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương.
Bảng 4.5 Phân cấp ngân sách.
Bảng 4.6 Cấu trúc nguồn thu ngân sách.
Bảng 4.7 Thống kê mô tả chung cho các nhân tố ảnh hưởng.
Bảng 4.8 Kiểm định trị trung bình cho các thang đo.
Bảng 4.9 Kiểm định khác biệt về Giới tính.
Bảng 4.10 Kiểm định khác biệt về vị trí nơi làm việc.
Bảng 4.11 Kiểm định khác biệt về số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực
nhà nước.
Bảng 4.12 Kiểm định khác biệt về thời gian làm việc trong ngành tài chính.
Bảng 4.13 Kiểm định khác biệt từng cặp về thời gian làm việc trong ngành tài
chính.
Bảng 4.14 .
Bảng 4.15 Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập lần 1.
Bảng 4.16 Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập sau cùng.
Bảng 4.17 Phân tích độ tin cậy các thang đo sau EFA.
Bảng 4.18 Các khái niệm nghiên cứu.
Bảng 4.19 Phân tích mô tả và tương quan giữa các nhân tố sau EFA.
Bảng 4.20 Kiểm định kết quả các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương.
Bảng 4.21 .
Bảng 5.1 Các loại thuế phân chia giữa trung ương và địa phương ở một số quốc
gia.
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1 Thu, chi ngân sách theo khu vực.
Hình 2.1 Khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương.
Hình 2.2 Mức cung cấp hàng hóa công đạt hiệu suất Pareto.
Hình 3.1 Sơ đồ quy trình nghiên cứu.
Hình 4.1 Giới tính.
Hình 4.2 Trình độ học vấn.
Hình 4.3 Cơ quan làm việc.
Hình 4.4 Vị trí tại cơ quan làm việc.
Hình 4.5 Thời gian làm việc trong ngành Tài chính.
Hình 4.6 Thời gian đã làm việc trong khu vực Nhà nước.
Hình 4.7 Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nước.
Hình 4.8 Kinh phí nhận hàng năm.
Hình 4.9 Cơ cấu đánh giá chung về các nhân tố tác động đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương.
Hình 4.10 Mô hình nghiên cứu.
.
-P Plot.
Hình 5.1 13 Địa phương điều tiết về ngân sách trung ương.
1
CHƢƠNG 1.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Động cơ nghiên cứu
Tùy vào thể chế và cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính ở mỗi quốc gia mà hệ
thống ngân sách chính phủ được chia là nhiều cấp với tên gọi khác nhau. Tại Việt
Nam, hệ thống ngân sách nhà nước gồm hai cấp chính là ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách cấp tỉnh, ngân
sách cấp huyện và ngân sách cấp xã.
Bền vững ngân sách cấp quốc gia và bền vững ngân sách cấp địa phương là
một mối quan tâm lớn của hầu hết các nhà nước. Chính phủ ở bất kỳ đất nước nào
cũng hướng đến xây dựng một nền tài khóa bền vững để trước hết bảo vệ ngân sách
nhà nước các cấp trước những cú sốc kinh tế nhằm cung cấp hiệu quả hàng hóa,
dịch vụ công trong dài hạn. Như vậy, bền vững tài khóa gián tiếp thậm chí trực tiếp
hỗ trợ tăng trưởng bền vững và nâng cao dần phúc lợi xã hội cho cộng đồng dân cư.
Cân đối bền vững ngân sách nhà nước sẽ không thể có được nếu thiếu bền
vững tài khóa cấp địa phương. “Quản lý ngân sách Việt Nam đang có trục trặc về
phân cấp. Chúng ta nói hằng năm bội chi ngân sách Việt Nam 5% GDP, nếu bóc
tách phân cấp mức thâm hụt 5% này thì sẽ biết ngay địa chỉ đang gây thâm hụt là ở
đâu. Và thực tế, bài toán thâm hụt ngân sách đang nằm chủ yếu từ các địa phương.
Các địa phương nhận trợ cấp ngân sách được phân bổ xuống mà không có động lực
cũng như phát huy hiệu quả hơn nguồn vốn nhận được. Việc phân cấp ngân sách
diễn ra nhanh nhưng các điều kiện đi kèm như năng lực của bên được phân cấp,
năng lực thực thi, giám sát, giải trình trách nhiệm... không theo kịp. Thực thi các quy định quá lỏng lẻo, chế tài kém”1.
Thống kê số liệu quyết toán ngân sách nhà nước cho thấy sau 5 năm (từ năm
2009 -2013), số chi bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương
năm 2013 bằng 1,74 lần năm 2009. Loại trừ yếu tố lạm phát, sau 5 năm ngân sách
trung ương phải chi trợ cấp nhiều hơn cho các địa phương. Vùng Bắc Trung bộ và
1 Đỗ Thiên Anh Tuấn (2015). Cần truy địa chỉ gây thâm hụt ngân sách. Báo Tuổi trẻ thứ Sáu 30-10-2015
2
duyên hải miền Trung, vùng miền núi phía Bắc và vùng đồng bằng sông Cửu Long
là khu vực nhận trợ cấp nhiều nhất từ ngân sách trung ương. Ngược lại, Vùng Đông
Nam bộ đang là khu vực có tổng thu ngân sách trên địa bàn lớn nhất với 4/6 địa
phương tự cân đối ngân sách và điều tiết nguồn thu phân chia về ngân sách trung ương (xem hình 1.1)2.
(Nguồn: Số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2013)
Hình 1.1: Thu, chi ngân sách theo khu vực
Long An, một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong gần 80%
địa phương ở Việt Nam thường xuyên nhận bổ sung từ ngân sách trung ương dưới
cả hai hình thức là bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu, nhưng vẫn có kết dư.
Vào năm 2004 lần đầu tiên và có thể coi là duy nhất cho đến nay, Long An lọt vào
danh sách 15 địa phương tự cân đối được thu chi cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh
Phúc, Đà Nẵng, Khánh Hòa, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Tây
Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ. Nhiều năm trở lại đây,
Long An không còn nằm trong danh sách này nữa. Trong giai đoạn 2011-2015,
2http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tinh-thanh-dang-ngon-nhieu-ngan-sach-trung-uong-nhat 20151031143233692.chn
3
ngân sách tỉnh Long An thường xuyên nhận bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu
từ ngân sách trung ương. Khoản bổ sung từ ngân sách trung ương đạt đỉnh điểm
2.486 tỷ đồng năm 2013 sau đó giảm còn 1.765 tỷ đồng vào năm 2015 (xem hình
1.2). Tuy nhiên có một dấu hiệu đáng mừng tại Long An, đó là số bổ sung trong cân
đối từ ngân sách trung ương ổn định ở mức 697,9 tỷ đồng mỗi năm trong thời kỳ ổn
định ngân sách 2012-2015, phần còn lại là bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung
ương.
Hình 1.2: Tổng thu ngân sách địa phƣơng tỉnh Long An giai đoạn 2011-
2015.
(Nguồn: Tổng hợp thu, chi ngân sách giai đoạn 2011-2015 và dự báo giai đoạn
2016-2020, Sở Tài chính Long An).
Xuất phát từ hiện trạng ngân sách tỉnh Long An vẫn còn phụ thuộc vào khoản
trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương, tôi chọn đề tài “Tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương - trường hợp tỉnh Long An” để làm luận văn tốt nghiệp
bậc cao học với hy vọng nhận diện và định lượng những nhân tố có thể tác động
đến tính bền vững tài chính của một chính quyền địa phương cụ thể Vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Từ đó đưa ra các hàm ý về mặt chính sách góp phần tạo ra và
duy trì tính bền vững tài chính của những địa phương tương tự.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
4
Luận văn hướng đến hai mục tiêu sau đây:
- Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến bền vững tài chính tỉnh Long An.
- Đề xuất được giải pháp xây dựng tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương.
Để đạt hai mục tiêu nêu trên, Luận văn xuất phát từ hai câu hỏi:
- Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương theo thông lệ quốc tế
được hiểu như thế nào?
- Giải pháp khả thi nhằm nâng cao tính bền vững tài chính của chính quyền
tỉnh Long An là gì?
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương, lấy tỉnh Long An là một tình huống điển hình.
Tài chính của chính quyền địa phương trong khuôn khổ nghiên cứu này bao
gồm tổng thể những hoạt động liên quan đến thu, chi và vay nợ trong phạm vi một
vùng lãnh thổ cấp tỉnh của Việt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, song khái
niệm tài chính của chính quyền địa phương trong luận văn này có thể sử dụng
tương đương với khái niệm ngân sách địa phương.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nhân tố khám phá (EFA) để nhận diện những
nhân tố và định lượng mức tác động của chúng đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương.
1.5. Nguồn dữ liệu
Dữ liệu sử dụng trong Luận văn là thông tin sơ cấp thông qua điều tra tại tỉnh
Long An và các thông tin về tình hình phát triển kinh tế xã hội của các xã trên địa
bàn tỉnh Long An, số liệu thống kê về thu - chi ngân sách, … từ báo cáo quyết toán,
dự toán về ngân sách nhà nước hàng năm, các báo cáo tổng kết, sách báo, tạp chí,
các công trình nghiên cứu có liên quan về ngân sách nhà nước và ngân sách cấp địa
phương.
5
CHƢƠNG 2.
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương này trình bày lý thuyết nền về tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương. Phần đầu chương mô tả vai trò kinh tế của chính quyền địa
phương. Tiếp theo là trình bày về tài chính của chính quyền địa phương và những
góc tiếp cận khác nhau về tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Sau
đó là phần lược khảo những công trình nghiên cứu liên quan để hình thành khung lý
thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến bền vững tài chính của chính quyền địa phương.
2.1. Tài chính chính quyền địa phƣơng
Tổ chức bộ máy quản lý hành chính ở các quốc gia có nhiều kiểu nhưng tựu
trung ở hai hình thức phổ biến là tổ chức theo kiểu liên bang và tổ chức phi liên
bang. Điển hình cho mô hình liên bang là Mỹ, Đức, India, Malaysia, Myanmar,
Thụy Sỹ,…. Điển hình cho tổ chức phi liên bang là Pháp, Anh, Việt Nam, Thái
Lan,…. Tuy nhiên, kiểu nào cũng có cấp chính quyền địa phương. Theo Hội đồng
Địa phương của New-Zeland, chính quyền địa phương là “hệ thống những thành
viên được bầu cử từ địa phương đại diện cho cộng đồng dân cư trong địa hạt và ra quyết định nhân danh họ”3 . Địa phương ở đây được hiểu là một vùng lãnh thổ có
giới hạn địa lý và cùng chung môi trường tự nhiên, điều kiện kinh tế và/hoặc truyền
thống, tập tục văn hóa. Cấp chính quyền địa phương là cấp gần cộng đồng cư dân
nhất. Trong khuôn khổ Luận văn này, địa phương được hiểu là cấp tỉnh trong mô
hình hành chính như Việt Nam.
2.1.1. Vai trò kinh tế của chính quyền địa phƣơng
Nhìn từ góc độ kinh tế học, cũng như khu vực tư nhân, chính quyền các cấp là
đơn vị sản xuất hàng hóa công và cung cấp dịch vụ công. Chính quyền trung ương
sản xuất hàng hóa, dịch vụ công phạm vi cả nước, còn chính quyền địa phương
cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cấp địa phương. Hàng hóa, dịch vụ công địa
3 “Local government is the system of locally elected members representing their communities and making decisions on their behalf“ (http://www.localcouncils.govt.nz/lgip.nsf/wpg_url/About-Local-Government- Local-Government-in-New-Zealand-Index)
6
phương chỉ phục vụ người dân trên một địa bàn nhất định nên mang tính đặc trưng
của vùng, miền.
Hàng hóa, dịch vụ công cấp địa phương có thể kể ra dưới đây:
- Công viên, cổng chào, công trình kiến trúc, quảng trường, vỉa hè, cây xanh,
đèn đường, bồn hoa,…;
- Trường mầm non, trường phổ thông, trường dạy nghề công lập;
- Thư viện, khu văn hóa, vui chơi cộng đồng;
- Đường giao thông địa phương;
- An ninh, trật tự, phòng cháy, chữa cháy địa phương;
- Khu thể thao địa phương;
- Viện dưỡng lão, viện trẻ em cơ nhỡ;
- Cấp nước, thoát nước;
- Y tế cộng đồng;
- Hệ thống kênh, rạch nội thị,…
Hàng hóa, dịch vụ công địa phương trước hết được cung cấp nhằm thỏa mãn
nhu cầu của người dân trên địa bàn, nhưng không thể vì tính địa phương mà bỏ qua
tính quốc gia. Mặt khác, mức thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ công cũng khác nhau
giữa những cư dân nên việc phân tích hiệu quả cung cấp hàng hóa, dịch vụ công
gặp nhiều khó khăn.
2.1.2. Tài chính của chính quyền địa phƣơng
Để sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ trong suốt thời gian tồn tại, chính
quyền địa phương phải thực hiện ba hoạt động liên quan đến đồng tiền: (1) thu thuế
và phí, (2) chi vận hành và đầu tư để tạo hàng hóa, dịch vụ công (3) vay nợ (khi thu
không bằng chi). Ba hoạt động này hợp thành tài chính của chính quyền địa
phương, thường gọi tắt là tài chính địa phương. Như vậy, tài chính của chính quyền
địa phương là tổng thể những hoạt động liên quan đến thu, chi và vay nợ trong
phạm vi một vùng lãnh thổ được xác định bởi địa giới hành chính. Tùy theo đặc
điểm ở mỗi quốc gia mà nguồn thu cụ thể và nhiệm vụ chi cụ thể của địa phương sẽ
khác nhau.
7
Ở Việt Nam, chính quyền địa phương có ba nguồn thu chính:
(1) Các khoản thu địa phương hưởng 100% gồm các khoản thuế, lệ phí, phí và
thu thuộc địa phương (thu từ giao quyền sử dụng đất, bán tài sản công,…). Tùy mỗi
quốc gia mà tên gọi cụ thể những khoản thu này sẽ khác nhau;
(2) Các khoản thu địa phương hưởng theo tỷ lệ phần trăm cùng với ngân sách
trung ương, thường được gọi tắt là thu phân chia;
(3) Trợ cấp từ ngân sách trung ương gồm trợ cấp cân đối (subsidy) và trợ cấp
theo mục tiêu (intergovernmental transfers).
Ở Việt Nam, chính quyền địa phương có các khoản chi chủ yếu như sau:
(1) Chi đầu tư phát triển cho các dự án do địa phương quản lý; đầu tư và hỗ
trợ vốn cho các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt
hàng, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của địa phương theo quy định của
pháp luật;
(2) Chi thường xuyên cho (i) hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ
chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội, (ii) hoạt động sự nghiệp các loại,
(iii) bảo đảm xã hội, bao gồm cả chi thực hiện các chính sách xã hội, và (iv) hỗ trợ
hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp;
(3) Chi trả nợ lãi các khoản do chính quyền địa phương vay;
(4) Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính địa phương.
Ở Việt Nam, theo Luật Ngân sách Nhà nước 2015, chính quyền địa phương
cấp tỉnh được bội chi để để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn
đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định. Bội chi ngân sách địa phương được
bù đắp bằng các nguồn vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương, vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cho vay lại và các khoản vay khác trong
nước.
2.1.3. Quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng
Chính quyền địa phương thu thuế và phí nhằm tài trợ các khoản chi thường
xuyên và đầu tư, qua đó cung cấp hàng hóa, dịch vụ công trong suốt thời gian tồn
8
tại của chính quyền địa phương. Muốn vậy, một trong nhiều nhiệm vụ quan trọng
của chính quyền địa phương là quản lý tốt tài khóa.
Theo PWC (2011), quản lý tài chính (financial governance) là quá trình xây
dựng và thực thi các quyết định liên quan đến đồng tiền nhằm đạt mục đích tài
chính và phi tài chính của một đơn vị. Quản lý tài chính của chính quyền địa
phương thể hiện qua quá trình xây dựng và thực thi kế hoạch tài khóa trung hạn, kế hoạch ngân sách trung hạn4 và dự toán ngân sách hàng năm. Kế hoạch tài khóa
trung hạn bao gồm dự báo trung hạn về các đại lượng kinh tế vĩ mô cùng với dự báo
trung hạn về khả năng thu, phân tích tính bền vững của nợ, các gói chi ngân sách
cứng, kỷ luật tài khóa và rủi ro tài khóa … ở cấp địa phương. Kế hoạch ngân sách
trung hạn là những dự báo về các khoản chi trung hạn thuộc chính sách hiện hành
của cơ quan tham mưu cho chính quyền địa phương và chương trình mục tiêu trên
địa bàn. Dự toán ngân sách hàng năm chính là kế hoạch thu, chi để thực hiện nhiệm
vụ của chính quyền địa phương.
Quản lý tài chính dù ở khu vực tư hay khu vực công cũng phải chứa đựng
những thuộc tính như hiệu suất (efficiency), hiệu quả (effectiveness) và minh bạch
(transparency). Trong khu vực công, những thuộc tính này được hình thành từ hoặc
chịu chi phối của hệ thống luật pháp và giám sát của cộng đồng. Hiệu quả quản lý
tài chính của chính quyền địa phương được thể hiện ở số lượng và chất lượng dịch
vụ công do địa phương cung cấp trong mối tương quan với ngân sách cho trước.
Chất lượng của dịch vụ công thể hiện thông qua mức đáp ứng những đòi hỏi của
người dân trong khuôn khổ trách nhiệm pháp quy của chính quyền. Quản lý tài
khóa hiệu quả sẽ góp phần gia tăng niềm tin của cộng đồng dân cư trên địa bàn đối
với chính quyền và hoàn thiện những giá trị của bộ máy (value of organization).
Tuy nhiên quản lý hiệu quả tài chính của chính quyền địa phương bị ảnh
hưởng tiêu cực của một loạt tồn tại khách quan. Thứ nhất là địa phương không quan
tâm xây dựng kế hoạch ngân sách trung hạn, tức là khuôn khổ ngân sách cho
4 Luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam 2015 gọi là Kế hoạch Tài chính 5 năm và Kế hoạch Tài chính – Ngân sách 3 năm.
9
khoảng thời gian từ 03 đến 05 năm. Thứ hai, mục tiêu tài chính và phi tài chính tại
địa phương chưa toàn diện và dễ bị thay đổi bởi những sự kiện mang tính chính trị.
Thứ ba, tính minh bạch của các báo cáo giải trình, báo cáo quyết toán ngân sách
chưa dễ tiếp cận có nguy cơ làm giảm sút hiệu lực giám sát của cộng đồng.
Những tồn tại tiêu cực này được hình thành từ những nguyên nhân có thể kể
ra như sau. Thứ nhất, người lãnh đạo địa phương là một chính khách xuất thân từ
dân cử hoặc điều động của tổ chức chính trị chứ không phải chuyên gia về kinh tế
hay tài chính công. Thứ hai, đại biểu hội đồng nhân dân không phải 100% là cán bộ
chuyên trách. Thứ ba, cả người đứng đầu chính quyền địa phương lẫn đại biểu hội
đồng địa phương đều làm việc theo nhiệm kỳ. Thứ tư, ngân sách cho các hoạt động
giám sát thường rất eo hẹp nên không trang trải đủ chi phí.
Nếu các tồn tại này không kiểm soát được thì quản lý tài khóa không những
không thể có hiệu quả mà còn phải đương đầu với nhiều rủi ro. Đầu tiên là rủi ro là
các quyết định tài khóa được đưa ra không dựa trên nền tảng kỹ năng tài chính căn
bản. Thứ hai là nguy cơ không đảm bảo đủ kinh phí cho những cam kết trung và dài
hạn. Thứ ba là rủi ro về tính hữu dụng của những công trình mang tính nhiệm kỳ,
tức là chúng chỉ phát huy thậm chí chưa kịp phát huy tác dụng trong nhiệm kỳ. Thứ
tư, có thể để lại gánh nặng tài chính kéo dài cho thế hệ tương lai.
2.2. Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng
Ở lĩnh vực nhà nước và theo cách gọi tại Việt Nam, bền vững tài chính nhà
nước còn có thể được gọi là bền vững tài khóa hoặc bền vững ngân sách nhà nước.
Trong Luận văn này, những cách gọi đó là tương đương nhau.
Trước hết, tính từ “bền vững" trong cụm từ “phát triển bền vững” được Ủy
ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (World Commission on Environment and
Development, 1987) giải thích như sau: một sự phát triển được coi là bền vững nếu
nó thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đầu thập niên 90 của Thế kỷ XX, tính bền vững
trong các dự án thuộc chính sách công được đề cập. Các tổ chức lớn của thế giới
như Liên Hợp Quốc với UNDP, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á,
10
… gợi ý chính phủ ở các quốc gia đang phát triển lồng tính bền vững vào những dự
án phát triển.
Từ năm 1990, Ngân hàng Thế giới bắt đầu tài trợ nghiên cứu về tính bền vững
tài khóa quốc gia. Trong công trình hợp tác của Burnside (2003) với Ngân hàng Thế
giới, ông lưu ý rằng tính bền vững tài khóa quốc gia có nhiều khía cạnh song nó
thường liên quan đến chính sách tài khóa của chính phủ. Cụ thể, thuộc tính cơ bản
minh họa bền vững tài khóa cấp quốc gia là khả năng thanh toán (solvency). Nó
được thể hiện ở hai khía cạnh. Một là “khả năng của chính phủ để thực hiện nghĩa
vụ trả nợ của mình một cách vĩnh viễn mà không tuyên bố vỡ nợ”. Hai là, “khả
năng tài chính để chính phủ duy trì những chính sách hiện hành mà vẫn đảm bảo
thanh khoản” (Gorina, 2013).
Vấn đề bền vững tài khóa cấp quốc gia đã được nhiều chính phủ trên thế giới
quan tâm và chú trọng thời gian gần đây, nhất là trước yêu cầu đảm bảo tính ổn
định nguồn thu của ngân sách nhà nước, hạn chế thâm hụt ngân sách và kiểm soát
gia tăng nợ công. Ở cấp địa phương, một trong những thách thức lớn nhất chính
quyền địa phương phải đối mặt là bền vững tài khóa (financial sustainability). Vì
nếu không đạt được trạng thái này thì mọi cam kết phát triển và năng lực cạnh tranh
của địa phương cũng như việc xây dựng Chỉ số Kết quả Lõi (Key Performance
Indicators, KPIs) cấp địa phương đều vô nghĩa.
Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Công Quốc tế (IPSASB) xem bền vững tài khóa
như là “khả năng của một chủ thể trong việc đáp ứng nghĩa vụ và cam kết tài chính
ở hiện tại và tương lai”. IPSASB thừa nhận rằng việc đánh giá tính bền vững tài
khóa đòi hỏi nhiều loại dữ liệu. “Những dữ liệu này bao gồm các thông tin tài chính
và phi tài chính về các điều kiện kinh tế và nhân khẩu học hiện tại, giả định về xu
thế quốc gia và xu thế toàn cầu như năng suất, khả năng cạnh tranh tương đối của
nền kinh tế quốc gia hay nền kinh tế địa phương và thay đổi dự kiến trong các biến
nhân khẩu học như tuổi tác, tuổi thọ, giới tính, thu nhập, trình độ học vấn và bệnh
tật” (IPSASB, 2011: 6).
11
Đó là bền vững tài khóa cấp quốc gia. Bền vững tài khóa cấp địa phương cũng
có nhiều cách tiếp cận.
Gorina (2013) dẫn Chapman (2008) định nghĩa bền vững tài khóa ở địa
phương là “khả năng dài hạn của chính quyền trong việc luôn đáp ứng các trách
nhiệm tài chính của mình” và xác định ba loại áp lực mà chính quyền địa phương
tại các quốc gia phải đối mặt khi duy trì bền vững tài khóa cấp mình: (i) tính chu kỳ
của kinh tế địa phương, (ii) cơ cấu dân số, khuynh hướng tiêu dùng và cơ cấu nguồn
thu ngân sách trên địa bàn, và (iii) mức độ phân cấp giữa các cấp chính quyền.
IPSASB (2011) phân biệt ba phương diện mở rộng của tính bền vững tài khóa:
năng lực tài chính (fiscal capacity), năng lực dịch vụ (service capacity), và độ nhạy
cảm (sensitiveness or vulnerability). Năng lực tài chính là khả năng trả nợ của chính
quyền địa phương “…liên tục suốt thời gian dự kiến mà không gia tăng mức thuế”
(IPSASB, 2011: 8). Năng lực dịch vụ là mức độ mà: (a) chính quyền địa phương có
thể duy trì cung cấp dịch vụ theo khối lượng và chất lượng ít nhất không đổi đến cư
dân hiện tại hoặc tương lai và (b) đáp ứng các nghĩa vụ liên quan đến các chương
trình quyền lợi cho người thụ hưởng hiện tại và tương lai (IPSASB, 2011: 8). Độ
nhạy cảm hay khả năng dễ bị thương tổn là mức phụ thuộc tài chính vào các nguồn
tài trợ nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền địa phương (ví dụ trợ cấp từ chính
quyền trung ương) và năng lực của địa phương gia tăng mức thu và/hoặc tạo nguồn
thu mới (IPSASB, 2011: 8).
Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Chính phủ (GASB) đã xem bền vững tài khóa
như là “tầm nhìn tương lai của điều kiện kinh tế” (the forward-looking aspect of
economic condition) và định nghĩa là “trách nhiệm và sự sẵn lòng của chính quyền
trong việc tạo ra các dòng vào của nguồn lực cần thiết (inflows of resources
necessary) để vừa thực thi những cam kết cung cấp dịch vụ ở hiện tại vừa đáp ứng
được nghĩa vụ tài chính trong tương lai khi chúng đáo hạn mà không đẩy nghĩa vụ
tài chính sang thế hệ tương lai”. (GASB, 2011: x). Sự sẵn lòng của chính quyền tạo
ra các dòng vào của nguồn lực cần thiết là đặc điểm nổi bật trong định nghĩa của
GASB. GASB (2011) đề nghị Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp nên
12
thực hiện 4 dự báo trong phần báo cáo tài chính: dự báo dòng vào của nguồn lực, dự
báo dòng tiền ra, dự báo về cam kết tài chính và dự báo thực thi nghĩa vụ nợ (hoàn
gốc và trả lãi).
Dollery và Grant (2011) xem xét sáu nghiên cứu về tính bền vững tài khóa
trong ở các địa phương nước Úc và kết luận rằng hầu hết nghiên cứu này đều thiên
về “kế toán”, có nghĩa là họ đang tập trung một cách rất hạn hẹp vào kế toán và chỉ
tiêu tài chính. Dollery & Grant (2011) bàn luận phương pháp tiếp cận hiện tại để
phát triển bền vững tài khóa từ 2 phương diện.
Trước tiên, họ thừa nhận rằng các cuộc thảo luận về bền vững tài khóa không
nên đem lồng với các cuộc thảo luận về khả năng tài chính. Chính quyền địa
phương Australia luôn luôn có khả năng tài chính, bởi vì họ có quyền đánh thuế, và
vì Luật Chính quyền địa phương liên kết với người dân để đáp ứng các nghĩa vụ
chưa thanh toán. Chính phủ không thể “tách khỏi doanh nghiệp” như các thực thể
thương mại làm. Nhưng chính phủ có thể hoặc không thể đạt bền vững tài khóa
trong khi có khả năng tài chính.
Thứ hai, Dollery & Grant (2011) tin rằng các khuôn khổ hiện tại cần kết hợp
phân tích các mục tiêu xã hội và môi trường, và các chức năng của chính phủ. Các
nhà nghiên cứu tài chính cần nhìn nhận rằng tính bền vững tài khóa là phụ thuộc
vào các nguồn tài trợ cho các chương trình môi trường và xã hội. “Nếu không có
nhu cầu kinh tế theo quy định để đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững môi
trường và xã hội ở chính quyền địa phương, do đó hầu như không có ý nghĩa để sử
dụng bền vững tài khóa dài hạn độc lập”. (Dollery và Grant, 2011: 44)
Gorina (2013) cho rằng Hagist và Vatter (2009) tiếp nối Chapman (2008) khi
họ nêu bật tầm quan trọng của những thay đổi về nhân khẩu học và sự dịch chuyển
dân số. Theo quan điểm của họ, ngân sách thành phố là bền vững về tài chính nếu
nó cho phép chính phủ duy trì “bộ quy tắc hiện hành về các đầu ra và đầu vào của
các sản phẩm công cộng (hàng hoá, dịch vụ, thuế và các khoản thu khác)…và mức
cân bằng đô thị có liên quan đến tiềm năng sản xuất thành phố.” (Hagist và Vatter,
13
2009: 6) “Tiềm lực sản xuất thành phố” có liên quan trực tiếp đến chất lượng và số
lượng của lực lượng lao động ở địa phương.
Hagist và Vatter (2009) sử dụng thông tin kế toán chi tiết cho ba thành phố
của Đức và kiểm tra tính bền vững của tiềm lực tài chính của họ dưới nhiều kịch
bản về nhân khẩu học. Họ vận dụng những thay đổi về nhân khẩu học thông qua dự
báo của tỷ suất sinh, tỷ lệ tử vong, và sự di cư. Mô phỏng khả năng của chính phủ
để thu hẹp khoảng cách tài chính theo các kịch bản khác nhau trong vòng 50 năm
cho phép các tác giả kết luận rằng “thặng dư hay thâm hụt dường như không phải là
yếu tố quyết định đến việc làm thế nào để thành phố bền vững về tài chính” (Hagist
và Vatter, 2009: 24). Ngược lại, tỷ lệ sinh, tuổi thọ, tỷ lệ phần trăm của dân số từ
các nhóm từ 30-50 tuổi, và tỷ suất di cư xuất hiện để trở thành chỉ tiêu bền vững
quan trọng.
Những thay đổi trong cấu trúc dân cư là trung gian ảnh hưởng nghịch biến đến
khoản thâm hụt vận hành (lỗ hổng cơ sở của ngân sách, primary budget gap) và trả
nợ (lỗ hổng nợ vay). Các tác giả bàn luận cách tiếp cận dòng tiền để đánh giá tính
bền vững tài khóa và thừa nhận rằng “chỉ tập trung vào những lỗ hổng tài chính hay
nợ mà không có bất cứ so sánh gì với sức mạnh kinh tế trong tương lai của các con
nợ là không đủ”. (Hagist và Vatter, 2009:8).
Đáng chú ý là Hagist và Vatter (2009) là những người tiên phong trong việc
sử dụng mô phỏng để phân tích về bền vững tài khóa của địa phương, một trong
nhiều cách tiếp cận chủ đạo trong nghiên cứu bền vững tài khóa quốc gia. Tuy
nhiên phương pháp mô phỏng đã được áp dụng để nghiên cứu các chủ đề liên quan
đến tính bền vững tài khóa, chẳng hạn như việc quản lý số dư quỹ và sự lỏng lẻo tài
chính (Hendrick, 2004; Kriz, 2003). Bởi vì mô hình bền vững tài khóa vẫn chưa
được phát triển, nên việc nghiên cứu các khái niệm liên quan đến sự căng thẳng tài
chính và tình hình tài chính có liên quan đến việc xây dựng một khuôn khổ.
Báo cáo của Price Waterhouse Coopers (PWC) về bền vững tài khóa địa
phương ở Úc (năm 2006) là một ví dụ điển hình của những nghiên cứu này. PWC
(2006) định nghĩa tính bền vững tài khóa là “khả năng của chính quyền địa phương
14
trong việc quản lý các yêu cầu tài chính, các rủi ro tài chính được dự báo và những
cú sốc trong dài hạn mà không cần sử dụng các biện pháp tăng thu mạnh hay cắt giảm chi lớn”5. PWC phát triển 5 Chỉ số Kết quả Lõi (KPIs) đo bền vững tài khóa
cấp địa phương gồm: Thặng dư hay thâm hụt vận hành (Operating surplus or
deficit), Khả năng trả lãi (Interest coverage), Tỷ số bền vững (Sustainability ratio),
Tỷ số hiện thời (Current ratio), và Khả năng đảm bảo chi (Rates coverage).
Ủy ban Đánh giá Bền vững Tài khóa của Nam Úc (2005) định nghĩa bền vững
tài khóa từ cách tiếp cận kinh tế học như sau: “a council’s finances can be judged to
be sustainable in the long term only if they are strong enough-currently and in the
foreseeable future-to allow the council to manage financial risks and shocks over
the long-term financial planning period without having to introduce substantial or
disruptive revenue (or expenditure) adjustments during that period.” (Tạm dịch: tài
chính địa phương được đánh giá là bền vững dài hạn chỉ khi nó đủ mạnh ở hiện nay
và tương lai để cho phép địa phương kiểm soát được những cú shock và rủi ro tài
khóa trong giai đoạn kế hoạch tài khóa dài hạn mà không cần phải đưa thêm những
khoản thu mới hay cắt giảm chi).
Như vậy, tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương thể hiện ở:
• Khả năng chi trả ngắn hạn (currently healthy finance): ít điều chỉnh ngân
sách trong tức thời hoặc ngân sách đủ thanh toán cho những khoản chi ngắn hạn;
• Khả năng chi trả dài hạn (long-term healthy finance) dựa trên chính sách thu
và chi không thay đổi trong khoảng 3 đến 5 năm với giả định nền kinh tế và tình
hình xã hội không đổi;
• Đủ dự trữ, dự phòng (margin of comfort in the council’s finance) ở hiện tại
và tương lai để chính quyền địa phương chịu đựng được những cú shock hay rủi ro
tài khóa mà không cần phải gia tăng đáng kể (substantial increase) thuế hay cắt
giảm mạnh chi tiêu.
5 “Fiscal sustainability as a council’s ability to manage “expected financial requirements and financial risks and shocks over the long term without the use of disruptive revenue and expenditure measures”. PWC (…)
15
Tóm lại, có thể hiểu bền vững tài chính của chính quyền địa phương là khả
năng tài chính (financial capacity) của chính quyền địa phương trong việc đáp ứng
những yêu cầu về tài chính (financial requirements) và phòng vệ rủi ro tài khóa
trong dài hạn mà không cần đưa thêm đáng kể các khoản thu mới hay cắt giảm
mạnh khoản chi hiện hành. Nói ngắn gọn hơn, bền vững tài chính là duy trì dài hạn
sự cân đối giữa khả năng tài chính và yêu cầu tài chính. Khả năng tài chính là tổng
nguồn thu ngắn hạn và dài hạn mà địa phương có thể động viên (mobilise) thông
qua chính sách thu và huy động trái phiếu. Yêu cầu tài chính là tổng các khoản chi
(tiêu dùng và đầu tư) nhằm đáp ứng các cam kết chi theo luật định và phòng vệ
được những cú sốc tài khóa (financial shock).
2.3. Lƣợc khảo những nghiên cứu liên quan
Gorina (2013) sử dụng dữ liệu của U.S. Census Bureau Annual Survey of
Government Finances and Employment, U.S. Census Bureau Decennial Census,
Bureau of Labor Statistics, và Government Finance Officers Association đã nêu ra
ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự bền vững tài chính của chính quyền địa phương
tại Mỹ. Một là cơ cấu hoạt động của chính quyền địa phương (government
structure). Hai là tính đa dạng của nguồn thu và khả năng kiểm soát thu trên địa bàn
(financial structure and performance). Ba là, nền tảng kinh tế của địa phương (local
economic base).
Gorina (2013) dẫn Chapman (2008) cho rằng tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương chịu tác động của ba áp lực, đó là (i) tính chu kỳ của kinh
tế địa phương, (ii) cấu trúc dân số, xu hướng tiêu dùng và cơ cấu nguồn thu tại địa
bàn, và (iii) mức độ phân cấp giữa các cấp chính quyền. Tính chu kỳ của kinh tế địa
phương phản ảnh tác động của chu kỳ kinh doanh đến tình hình tài chính của chính
quyền và thường phổ biến cho tất cả ba cấp chính quyền. Cấu trúc dân số, khuynh
hướng tiêu dùng và cơ cấu nguồn thu ngân sách bao gồm những thay đổi về nhân
khẩu học, xu hướng đô thị hóa, sự di dời tổng thể của dân cư và doanh nghiệp,
chuyển dịch cơ cấu từ việc tiêu thụ hàng hóa đến tiêu thụ các dịch vụ, và sự gia tăng
các nguồn thu mới như thu từ thương mại điện tử, thu từ nguồn tài nguyên mới đưa
16
vào khai thác,…. Ảnh hưởng của các yếu tố này đến khả năng của địa phương để
luôn đáp ứng các nghĩa vụ tài chính trực tiếp và hữu hình.
Gorina (2013) dẫn Chapman kết luận, áp lực cấu trúc dân cư có lẽ ảnh hưởng
mạnh nhất đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương bởi vì một số
trong số khía cạnh đó nằm dưới sự kiểm soát của những người hoạch định chính
sách địa phương. Áp lực phân cấp xuất phát từ các mối quan hệ giữa chính quyền
địa phương với chính phủ trung ương khi mà chính phủ trung ương không trực tiếp
cung cấp các dịch vụ tại địa phương, chúng tác động đến các điều kiện tài chính của
địa phương thông qua “các chương trình liên chính phủ với nhiều ràng buộc”.
Vũ Đình Ánh (2012) cho rằng thu ngân sách địa phương hiện đang bộc lộ một
số bất cập, hạn chế mà nổi bật nhất là tính bền vững không cao trong các nguồn thu
của ngân sách địa phương, theo đó hạn chế khả năng tăng thu, nguồn thu không ổn
định và quy mô thu chưa gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế-xã hội của địa
phương. Đến lượt mình, do nguồn thu hạn hẹp và cơ cấu thu chưa hợp lý lại làm
giảm cơ hội và khả năng phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Do những khoản
thu ngân sách nhà nước quan trọng như thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu, thu thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành,... đều
thuộc về ngân sách trung ương nên những khoản thu 100% của ngân sách địa
phương đều có quy mô nhỏ và hay biến động. Trong đó chủ yếu là thu từ đất đai
trong khi sự phát triển của thị trường bất động sản và quy định về giá đất còn nhiều
bất cập. Kết quả tất yếu là mặc dù tỷ trọng thu ngân sách địa phương chiếm khoảng
một nửa tổng thu ngân sách nhà nước hằng năm, song vẫn thấp xa so với nhu cầu
chi ngân sách địa phương nên có tới hơn 5/6 tỉnh, thành phố trên cả nước không có
số thu điều tiết về ngân sách trung ương và được giữ lại toàn bộ nguồn thu phân
chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương nhưng cũng không đủ để
thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước trên địa bàn mà phải thường xuyên
nhận bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương với quy mô
hàng trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm.
17
Thu ngân sách địa phương thiếu tính bền vững trở thành mảnh đất màu mỡ
cho cơ chế xin-cho, giảm sự chủ động tích cực của địa phương, đồng thời tăng sự
phụ thuộc và ỷ lại vào trung ương. Hơn nữa, do buộc phải dựa chủ yếu vào nguồn
thu từ đất nên không ít chính quyền địa phương thay vì thúc đẩy phát triển sản xuất,
kinh doanh lại tập trung khai thác nguồn thu từ đất tới mức tận thu, thậm chí chấp
nhận vi phạm quy định về quản lý đất đai trong khi nguồn lực này không phải là vô
hạn và ẩn chứa rất nhiều rủi ro.
Huỳnh Thế Du (2014) dẫn Shick (2005) về bốn yếu tố bền vững của ngân
sách địa phương. Một là, khả năng thanh toán (solvency): khả năng chính quyền địa
phương thanh toán được gốc và lãi mọi khoản nợ. Hai là, tăng trưởng (growth):
chính sách chi nhằm tạo tăng trưởng kinh tế trên địa bàn. Ba là, ổn định (stability):
năng lực của chính quyền địa phương trong việc trang trải nghĩa vụ tương lai bằng
khoản thuế sẵn có mà không gia tăng thuế một cách đáng kể. Bốn là, công bằng
(fairness): khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính từ hiện tại cho đến khi đáo hạn mà
không chuyển gánh nặng nợ sang thế hệ tương lai.
Abt Associates Inc. (1994) cho rằng bền vững tài chính được đo lường chính
xác (gauge) thông qua ba chỉ tiêu cơ bản: thặng dư hay bội thu ngân sách (the
surplus of revenues over expenditures); khả năng thanh toán ngắn hạn (liquidity); và
khả năng đảm bảo nợ (solvency: the relationship of assets and debt or liabilities).
León (2001) cho rằng bền vững tài chính phải dựa trên bốn cột trụ (pillard):
Chiến lược và kế hoạch tài chính (Financial and Strategic Planning); Tính đa dạng
hóa các nguồn thu (Diversification of Sources of Funding); Quản lý tài chính và
hành chính tốt (Sound Administration and Finance); Chủ động tạo được thu nhập
(Own Revenue Generation).
Đồng thời, León nêu 6 yêu cầu cơ bản để bền vững tài khóa cấp chính quyền
địa phương:
1. Phải có cam kết dài hạn từ phía lãnh đạo và đội ngũ công chức, viên chức.
2. Chỉ đạo sâu sát và quyết đoán.
18
3. Phải đầu tư thời gian và tiền để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội trên địa bàn.
4. Xây dựng được kế hoạch vận hành chi tiết.
5. Xây dựng được nhóm quản lý hiệu quả.
6. Có tinh thần làm việc theo nhóm.
Cuối cùng, León xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá bền vững tài khóa xoay
quanh 4 cột trụ.
- Chiến lược và kế hoạch tài chính;
- Tính đa dạng hóa các nguồn thu;
- Quản lý tài chính và hành chính tốt;
- Chủ động tạo được thu nhập.
2.4. Khung phân tích
Xuất phát từ nội hàm của khái niệm bền vững tài chính của chính quyền địa
phương và trên cơ sở lược khảo những công trình đã nêu ở phần trên, Luận văn đề
xuất khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương qua các nhân tố sau.
Quy mô của chính quyền địa phương
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương
19
Cấu trúc dân cư
Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng
Nền tảng kinh tế địa phương
Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương
Phân cấp ngân sách
Hình 2.1: Khung phân tích các nhân tố ảnh hƣởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng
2.4.1. Quy mô của chính quyền địa phƣơng
Quy mô của chính quyền địa phương thể hiện thông qua số lượng người
hưởng lương nhân sách cùng với quy mô hoạt động của chính quyền. Số lượng
người hưởng lương nhân sách gồm: công chức, viên chức và nhân viên trong biên
chế, nhân viên làm việc theo hợp đồng và số lượng người hưởng lương hưu. Quy
mô hoạt động của chính quyền địa phương thể hiện qua các cơ quan hành chính,
đoàn thể và đơn vị công ích như: công ty cấp thoát nước, đơn vị phòng cháy chữa
cháy, nhà máy xử lý chất thải rắn, nước thải, nhà cung cấp điện, cung cấp khí ga,
đơn vị xe buýt, công ty vệ sinh môi trường đô thị, chăm sóc công viên, cây xanh,….
Các phát hiện cho thấy sự gia tăng số lượng nhân viên trong biên chế có sự
liên quan nghịch biến với mức kinh phí về nghĩa vụ lương hưu. Chính quyền có
nguồn nhân sự dồi dào ở phòng ban tài chính có vẻ như không quản lý nguồn kinh
phí lương hưu hiệu quả hơn chính quyền có lực lượng nhân sự “khiêm tốn” hơn. Sự
chuyên môn hóa và giám sát ở mức cao hơn việc sử dụng các nguồn lực cho các
chương trình khác nhau không làm tăng hiệu suất. Theo dự đoán, số lượng kế hoạch
lương hưu mà chính quyền có tham gia và tỷ lệ phần trăm các nhân viên toàn thời
gian gây ra sức ép tiêu cực lên mức kinh phí kế hoạch hưu trí.
20
Điều quan trọng phải nhìn nhận đó là quản lý tài chính của địa phương theo
hướng duy trì sự bền vững tài khóa có thể mâu thuẫn với quản lý ngân sách được
định hướng theo hướng cải thiện cung cấp dịch vụ hoặc/và đáp ứng các ý thích của
người dân. Nói cách khác, chính quyền ít “hào phóng” hơn, có sự thận trọng về tài
chính, có thể có khả năng bền vững tài khóa cao hơn. Trong khi thắt chặt ngân sách
có thể là một phương thuốc cho các vấn đề về tài khóa, nó có thể không phải là một
nền tảng hoàn toàn chuẩn mực trong cung cấp dịch vụ công.
Một câu hỏi gây tranh cãi cho các nhà quản trị công không phải là làm sao để
tối thiểu hóa chi tiêu mà là làm thế nào để cung cấp ở mức tối ưu các dịch vụ công
một cách hiệu quả. Có một tính huống như sau. Giả sử 1 đồng chi phí mang lại 1,2
đồng lợi ích. Nếu chính quyền địa phương chủ trương tiết kiệm thì cứ mỗi đồng cắt
giảm chi phí sẽ làm giảm lợi ích trị giá 1,2 đồng. Nếu chính quyền địa phương “hào
phóng” thì cứ mỗi đồng chi phí tăng thêm sẽ làm tăng lợi ích trị giá 1,2 đồng. Ngay
cả khi đạt hiệu suất chi tiêu như thế (1 đồng chi mang lại 1,2 đồng lợi ích) thì chính
quyền địa phương có nên vay thêm nợ trên thị trường tài chính để gia tăng chi
không? Câu trả lời không đơn giản và không thuần túy mang tính kinh tế mà sẽ phụ
thuộc vào nhiều vấn đề mang tính chính trị, xã hội.
2.4.2. Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng
Số lượng và trình độ nhân viên bộ phận quản lý tài chính nhiều hơn có thể bổ
sung nguồn lực cho chính quyền trong việc lên kế họach và quản lý kinh phí. Việc
lập kế hoạch có hiệu suất cao hơn có thể làm giảm áp lực mất cân đối ngân sách nhà
nước. Mặc khác, số lượng công việc thủ công và số lượng công việc được công
nghệ thông tin hóa hoặc tự động hóa cũng có thể ảnh hưởng đến cân bằng ngân sách
vì nếu tự động hóa hay tin học hóa càng nhiều thì phải chi mua sắm tài sản máy
móc thiết bị càng cao cộng với khoản chi duy tu, sửa chữa thường xuyên và khoản
chi huấn luyện nhân viên sử dụng thiết bị.
Năng lực tài chính của chính quyền địa phương thể hiện qua các khía cạnh:
chính quyền địa phương đã xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại
địa phương chưa; chính quyền địa phương đã xây dựng được kế hoạch tài chính 05
21
năm; chính quyền địa phương đã cụ thể hóa thành được kế hoạch tài chính-ngân
sách 03 năm. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của chính quyền địa phương còn thể
hiện qua sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thuộc ngành tài chính (Sở Tài chính,
Cục thuế, Cục Hải quan, Kho bạc nhà nước) với cơ quan ngoài ngành tài chính như
Ngân hàng, Công An,.. Sự phối hợp chặt chẽ này sẽ giúp chính quyền địa phương
quản lý tốt hơn hoạt động tài chính trên địa bàn từ khâu lập kế hoạch thu, chi, đến
khâu kiểm soát thực thi kế hoạch thu, chi và những hành động chống thất thu hoặc
chống lãng phí chi.
2.4.3. Cấu trúc dân cƣ
Cấu trúc dân cư trên địa bàn được xem là một nhân tố có thể tác động đến bền
vững tài chính của chính quyền địa phương. Cấu trúc dân cư được xem xét từ những
tiêu chí gồm: tiêu chí thu nhập, tiêu chí độ tuổi lao động, khuynh hướng tiêu dùng
hoặc khuynh hướng tiết kiệm.
Tiêu chí thu nhập: tỷ lệ cư dân có thu nhập cao, tỷ lệ cư dân có thu nhập trung
bình và tỷ lệ cư dân có thu nhập thấp so với mặt bằng cả nước.
Tiêu chí độ tuổi lao động: tỷ lệ cư dân trong độ tuổi lao động và tỷ lệ cư dân
ngoài độ tuổi lao động.
Tiêu dùng: khuynh hướng tiêu dùng và tỷ lệ tiêu dùng biên của cư dân.
Khuynh hướng tiêu dùng sẽ cho biết cư dân trên địa bàn thích tiêu dùng hàng hóa
công, dịch vụ công nào. Tỷ lệ tiêu dùng biên của cư dân sẽ cho biết cư dẫn sẵn lòng
nộp thêm bao nhiêu thuế để tiêu dùng hàng hóa công, dịch vụ công khi thu nhập của
họ tăng thêm một đơn vị.
Cấu trúc dân cư thể hiện qua những biến: số lượng người nộp thuế thu nhập cá
nhân và các khoản thu ngân sách trên địa bàn; số lượng người nghèo, cận nghèo; số
lượng người thuộc diện hưởng chính sách như học sinh, thanh niên xung phong,
thương binh, gia đình có công, gia đình liệt sỹ…; số lượng người về hưu; số lượng
người đang có việc làm hoặc đang xin việc;….
2.4.4. Nền tảng kinh tế của địa phƣơng
22
Nền tảng kinh tế địa phương có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình ngân
sách địa phương. Một nền tảng kinh tế vững sẽ tạo khả năng tài chính cho chính
quyền địa phương duy trì các dịch vụ công trong hiện tại và trong tương lai.
Nền tảng thu hay còn gọi là cơ sở thu ngân sách địa phương thể hiện ở thành
phần dân cư và mức độ phát triển kinh tế của địa phương. Thêm vào đó là nhu cầu
chi tiêu nói chung của người dân, sở thích của người dân đối với mọi loại hình dịch
vụ, trong đó nhu cầu, sở thích về dịch vụ do chính quyền địa phương cung cấp.
Năng lực thu của chính quyền địa phương là những khả năng của chính phủ để
tăng số thu từ nền tảng thu của địa phương sẽ bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng tiêu
dùng và sở thích phúc lợi của người dân trên địa bàn, vốn cũng chính là người nộp
thuế cho chính quyền địa phương.
Lý thuyết về người tiêu dùng cho thấy thu nhập ảnh hưởng đến sự lựa chọn
của người dân giữa hàng hóa, dịch vụ tư hoặc công và tác động đến sự sẵn lòng của
người dân để chấp nhận việc tăng thuế và phí nhằm hỗ trợ cho việc cung cấp hàng
hoá và dịch vụ công. Đặc điểm nhân khẩu học địa phương, chẳng hạn như độ tuổi
bình quân cư dân, dân tộc, cũng như tỷ lệ nghèo đói và tình trạng việc làm có thể là
những yếu tố có liên quan mà chính quyền địa phương phải xem xét trong việc cung
cấp dịch vụ xã hội như chăm sóc y tế, trợ giúp người lớn tuổi neo đơn, hỗ trợ thu
nhập, giao thông công cộng, và các dịch vụ khác.
đây cho mức sản lượng hàng hóa công cung cấp tối ưu là Q3 chứ không phải tại
mức sản lượng Q2 và càng không phải Q1.
Giả sử một địa phương có hai nhóm người. Nhóm người thu nhập thấp có
đường cầu D1, nhóm người thu nhập cao có đường cầu D2 về cùng một mặt hàng do
chính quyền địa phương cung cấp. Nếu thu thuế chỉ bằng đoạn DO để cung cấp Q1
sản phẩm thì cơ sở thu tại địa phương vẫn còn “phần dư” có thể khai thác. Nếu thu
23
thuế vào nhóm người thu nhập cao bằng đoạn BO để cung cấp Q2 sản phẩm thì cơ
sở thu tại địa phương vẫn còn “phần dư” và có thể xảy ra nguy cơ nhóm thu nhập
thấp trở thành “người thụ hưởng không trả tiền”. Tại mức sản lượng Q3, cơ sở thu
tại địa phương được khai thác triệt để: nhóm người thu nhập thấp trả thuế bằng đoạn
EO, nhóm người thu nhập cao trả thuế bằng đoạn CO. Như vậy đạt hiệu suất Pareto
ở ba khía cạnh: lượng hàng hóa công cung cấp cho địa phương nhiều nhất, khai thác
cơ sở thu (đánh thuế) triệt để nhất, và không để xảy ra hiện tượng “người thụ hưởng
không trả tiền” vốn là một hiện tượng tạo ra những người dân thấp nhất là ỷ lại,
Mức thuế; Chi phí
sống bám vào thuế của người dân khác và cao nhất là trốn thuế.
S
E
A B C D E
D3 D2 D1 Lượng hàng hóa công Q1 Q2
Q3 Hình 2.2: Mức cung cấp hàng hóa công đạt hiệu suất Pareto
Như nói trên, khả năng thu là khả năng của chính quyền địa phương có thể
khai thác cơ sở thu tăng theo thu nhập của người dân. Một phát hiện khá thú vị
(Cooper, 1996 trích dẫn Lu, 1994) tìm thấy rằng các địa phương có cơ sở thu phong
phú hơn có xu hướng giảm chi phí vốn đòi hỏi trên những dự án công, chương trình
chi tiêu công để gia tăng số lượng hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho cư dân.
Điều này không gây mất cân bằng tài khóa hiện hành (vì cơ sở thu phong phú)
nhưng có thể ảnh hưởng đến tính bền vững ngân sách địa phương trong dài hạn vì
phải thường xuyên cung cấp dịch vụ công khi mà cơ sở thu phong phú trước đây
biết đâu sẽ bị suy giảm qua thời gian.
24
Nền tảng kinh tế của địa phương được thể hiện qua những khía cạnh: kinh tế
địa phương da dạng, đa ngành; GDP của địa phương; địa phương có cửa khẩu hoặc
đường biên giới; chu kỳ kinh doanh ổn định hay có nhiều biến động; vị trí của địa
phương trong vùng hay khu vực.
2.4.5. Phân cấp ngân sách nhà nƣớc
Phân cấp ngân sách nhà nước hay phân cấp tài khóa là việc phân chia nguồn
thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Nhìn từ
cấp độ địa phương, ngân sách địa phương có ba nguồn thu chính: (1) nguồn thu
ngân sách địa phương hưởng 100%, (2) nguồn thu phân chia với ngân sách trung
ương theo một tỷ lệ xác định vào đầu thời kỳ ổn định ngân sách và (3) nguồn thu từ
trợ cấp của ngân sách trung ương cho địa phương gồm trợ cấp trong cân đối và trợ
cấp có mục tiêu.
Nguồn thu ngân sách địa phương hưởng 100% thường bao gồm các khoản thu
mang tính địa phương như thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, thuế tài nguyên
không kể thuế tài nguyên của ngân sách trung ương, xổ số kiến thiết,….
Nguồn thu phân chia với ngân sách trung ương theo một tỷ lệ xác định vào
đầu thời kỳ ổn định ngân sách bao gồm các khoản thu lớn như: thuế giá trị gia tăng,
không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng hoạt động xổ
số; thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp từ dầu, khí
và thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động xổ số; thuế thu nhập cá nhân; thuế tiêu
thụ đặc biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước không kể thuế tiêu thụ đặc biệt từ hoạt
động xổ số; thuế bảo vệ môi trường,…
Nguồn thu từ trợ cấp của ngân sách trung ương cho địa phương gồm trợ cấp
trong cân đối và trợ cấp có mục tiêu. Trong bối cảnh Việt Nam, có hơn 50 địa
phương thường xuyên nhận trợ cấp trong cân đối của ngân sách trung ương. Điều
đó cho thấy khả năng tự chủ tài chính của đại bộ phận địa phương ở Việt Nam là
chưa cao và gây áp lực lớn cho những địa phương còn lại.
2.4.6. Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phƣơng
25
Cơ cấu nguồn thu và các hoạt động tài chính của chính quyền địa phương
cũng có thể tác động đến tính bền vững tài khóa của địa phương. Nguồn thu của địa
phương gồm: thu từ thuế, từ phí, lệ phí, từ bán tài sản công, từ vay nợ ngoài nước,
trong nước, từ quyên góp, từ nhận viện trợ, từ trợ cấp của chính quyền trung
ương,… Hoạt động tài chính của chính quyền địa phương thể hiện qua: nỗ lực thu (tax effort)6, chi phí tài trợ các hoạt động chính phủ, tài sản đang dùng trong khu
vực chính quyền, tài sản đang dùng tại các doanh nghiệp nhà nước địa phương, sự
tham gia của chính quyền địa phương vào thị trường tài chính, những hình thức vay
nợ của chính quyền địa phương, chi phí vốn ngân sách nhà nước, thay đổi tài sản
thuần của chính quyền,…
Cơ cấu nguồn thu và các hoạt động tài chính của chính quyền địa phương có
thể ảnh hưởng đến mức thâm hụt tài chính địa phương. Cụ thể, những tác động của
sự đa dạng nguồn thu là rất quan trọng để xác định. Nếu đa dạng hóa dẫn đến thâm
hụt ngân sách ít hơn, kết quả này cần cho việc hướng dẫn khuyến nghị chính sách
cho chính phủ tìm cách tăng cường vị thế tài chính của họ. Nếu đa dạng hóa nguồn
thu dẫn đến thâm hụt ngân sách nhiều hơn, sau khi chính phủ cố gắng đa dạng hóa
cần phải nhận thức được hiệu ứng này và có thể cân nhắc lợi ích của đa dạng hóa
(thu bổ sung) đối với chi phí của nó (thâm hụt tiềm năng) một cách cẩn thận hơn.
Nợ của chính quyền địa phương đồng biến với quy mô thâm hụt ngân sách.
Bởi chính thâm hụt được bù đắp bằng nợ. Thâm hụt càng nhiều và càng trải qua
nhiều năm thì mức dư nợ càng cao. Vay nợ dai dẳng để bù đắp thâm hụt ngân sách
đến một thời gian nào đó sẽ trở thành một nhân tố gây thâm hụt, chứ không còn là
nguồn để bù đắp thạm hụt nữa.
Một câu hỏi đáng lưu ý là sự phát triển của thị trường tài chính có liên quan
đến mức thâm hụt ngân sách không. Vì thị trường tài chính phát triển sẽ khiến chính
quyền địa phương cảm thấy dễ phát hành trái phiếu đô thị và các chi phí liên quan
6
đến nợ cũng trở nên rẻ hơn.
26
Kết luận chương 2
Chính quyền địa phương có vai trò cung cấp hàng hóa, dịch vụ công địa
phương cho người dân trên địa bàn. Để đảm bảo sản xuất hàng hóa và cung cấp
dịch vụ trong suốt thời gian tồn tại, chính quyền địa phương phải thường xuyên tạo
nguồn và duy trì nguồn thu, chi vận hành và đầu tư để tạo hàng hóa, dịch vụ công
và vay nợ nhằm bù đắp thiếu hụt. Tất cả những hoạt động này tạo nên tài chính của
chính quyền địa phương. Tùy theo đặc điểm ở mỗi quốc gia mà nguồn thu cụ thể và
nhiệm vụ chi cụ thể của địa phương sẽ khác nhau.
Không chỉ ở cấp quốc gia, mà vấn đề bền vững tài khóa cấp địa phương đã
được nhiều chính phủ trên thế giới quan tâm và chú trọng thời gian gần đây, nhất là
trước yêu cầu đảm bảo tính ổn định nguồn thu của ngân sách nhà nước, hạn chế
thâm hụt ngân sách, kiểm soát gia tăng nợ công và phân cấp mạnh cho địa phương.
Nhìn chung, bền vững tài khóa được xem như là “khả năng dài hạn của chính quyền
trong việc luôn đáp ứng các trách nhiệm tài chính của mình” và phụ thuộc vào
nhiều nhân tố. Sơ bộ, luận văn đề xuất 6 nhân tố có thể tác động đến bền vững tài
khóa của chính quyền địa phương. Đó là: (1) Quy mô của chính quyền địa phương;
(2) Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương; (3) Cấu trúc dân cư trên
địa bàn; (4) Nền tảng kinh tế địa phương; (5) Phân cấp ngân sách nhà nước hay
phân cấp tài khóa; (6) Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương. Từ
khung phân tích này, tác giả tiến hành thiết kế nghiên cứu và thực hiện những kiểm
định cần thiết.
27
CHƢƠNG 3.
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 3 này, tác giả giới thiệu về quy trình nghiên cứu được thực hiện trong
quá trình nghiên cứu. Qua đó sẽ chỉ ra cách mà tác giả trả lời và giải thích các hiện
tượng và trình bày đã nêu trong chương 2, bao gồm: Thiết kế nghiên cứu, tổng thể
của nghiên cứu, nguồn dữ liệu, các công cụ nghiên cứu cơ bản, các biến xử lý được
sử dụng trong nghiên cứu.
3.1. Quy trình nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tuần tự theo hai bước. Bước 1 là nghiên cứu khám
phá sử dụng phương pháp định tính được tiến hành thông qua phỏng vấn các
chuyên gia nhằm phát hiện, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát dùng để đo
lường các khái niệm nghiên cứu. Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng
phương pháp định lượng bằng cách phỏng vấn trực tiếp với bảng câu hỏi chi tiết
nhằm đánh giá các thang đo và kiểm định mô hình lý thuyết. Quy trình thực hiện
nghiên cứu được tiến hành theo kỹ thuật Delphi, bao gồm các bước như sau:
Bước 1: Kiểm tra lại tuyên bố thật rõ ràng và đầy đủ với một vài chuyên gia
trước khi thông qua lần cuối cùng. Kế đến, chọn lựa và liên hệ với những người
tham gia vào cuộc phỏng vấn.
Bước 2: Phát bảng câu hỏi đến danh sách những người tham gia. Trang bìa
của thư thăm dò phải giải thích (1) quy trình của phỏng vấn; (2) thời gian hoàn
thành toàn bộ quá trình Delphi; (3) thời hạn hoàn thành câu hỏi vòng 1; (4) giấu tên
những người tham gia; (5) cơ chế phản hồi khi hoàn thành quá trình. Tên, số điện
thoại và địa chỉ của người liên hệ được ghi rõ ở phần tiêu đề.
Bước 3: Dựa vào các câu hỏi được trả về, tác giả sẽ đối chiếu (collate) với các
kết quả ban đầu, nhóm ra các phản hồi tương tự. Tác giả có thể hiệu chỉnh lại một
chút các phúc đáp nhưng không làm sai ý nghĩa của câu trả lời.
Bước 4: Bảng câu hỏi thứ 2 được tạo ra với mỗi kết quả được trình bày cùng
với các thang đo, như thang đo định danh, thang đo thứ bậc…
28
Điều chỉnh bảng câu hỏi và các thang đo cho phù hợp với thực tế nghiên cứu
thông qua việc đánh giá độ tin cậy của các thang đo.
Bước 5: Gửi bảng câu hỏi đến khách hàng. Xác nhận thời gian nhận thư phúc
đáp (nếu gửi bảng câu hỏi bằng bưu điện hoặc email).
Bước 6: Thu thập bảng trả lời và đối chiếu với số lượng bảng câu hỏi của vòng
2 đã phát ra, tính toán giá trị mean, mode của mỗi phúc đáp. Thống kê và tổ chức lại
tất cả những ý kiến của khách hàng.
Bước 7: tác giả sử dụng công cụ SPSS 20.0 để phân tích dữ liệu, đánh giá và
đưa ra kết luận về mô hình được kiểm định.
Bước 8: Đánh giá kết quả, kiến nghị và nêu các giải pháp.
Theo (Creswell, 2009), có bốn hình thức thu thập dữ liệu: các bảng câu hỏi tự
thực hiện (tự điền câu trả lời vào); các cuộc phỏng vấn; việc xem xét lại hồ sơ có
cấu trúc để thu thập thông tin về tài chính, y tế, hay học đường; và những sự quan
sát có cấu trúc. Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn hình thức thu thập dữ liệu là
phát và thu hồi các bảng câu hỏi tự thực hiện. Các hình thức thu thập dữ liệu này dễ
thực hiện, tiết kiệm chi phí, không tiết lộ danh tánh, giảm sai lệch do diễn giả bộ
câu hỏi khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp thu thập dữ liệu này không thực hiện
được với người không biết chữ, tỷ lệ phản hồi thấp, câu hỏi có thể bị hiểu nhầm.
Khái quát quy trình này được thể hiện trong sơ đồ sau:
29
Điều chỉnh các biến và thang đo Câu hỏi nghiên cứu và thiết lập bảng câu hỏi
Cronbach’s Alpha Phỏng vấn chuyên gia (nghiên cứu khám phá) Đánh giá độ tin cậy của các thang đo, loại bỏ các biến quan sát không phù hợp
Câu hỏi nghiên cứu và thiết lập bảng câu hỏi
Kiểm tra nhân tố trích được, kiểm tra phương sai trích được. Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Thiết lập thang đo nháp
Hoàn chỉnh thang đo
Định nghĩa các biến
Thu thập dữ liệu (N=200)
Thiết lập giả thiết và mô hình nghiên cứu
Phân tích dữ liệu
Cơ sở lý thuyết và xem xét tài liệu
Đánh giá và kết luận
Xác định vấn đề và tuyên bố vấn đề
Sơ đồ quy trình nghiên cứu
30
3.2. Phƣơng pháp chọn mẫu và quy mô mẫu
Trong nghiên cứu khoa học việc xác định kích thước mẫu là quan trọng, kích
cỡ mẫu phải đạt được tính đại diện. Có nhiều lý thuyết về xác định kích thước mẫu,
ở nghiên cứu này ta dựa vào hai lý thuyết, đó là theo Hoelter thì kích thước mẫu tối
thiểu phải là 200 (trích Nguyễn Thị Minh Tâm, 2008) và theo Bollen (trích Nguyễn
Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2007) thì kích thước mẫu tối thiểu phải là 5
mẫu cho một biến quan sát. Theo đó với 26 biến quan sát thì kích thước mẫu tối
thiểu là 26 x5 bằng 130 quan sát. Để mẫu nghiên cứu đạt mức tốt và đảm bảo độ tin
cậy thì tác giả chọn kích thước mẫu 200 quan sát cho đề tài nghiên cứu này. Song,
để đạt được cỡ mẫu 200 quan sát sau khi đã loại bỏ các mẫu không đạt yêu cầu về
thông tin hoặc chất lượng thấp, nghiên cứu quyết định sử dụng 220 bảng câu hỏi,
lên kế hoạch phân phối các bảng câu hỏi đến các đối tượng khảo sát và thu hồi trực
tiếp.
ấy mẫu thuận tiện sẽ giúp tác giả dễ chọn ra những người am hiểu về tính
bền vững của tài chính chính quyền địa phương.
3.3. Phƣơng pháp phân tích dữ liệu
Bảng câu hỏi sẽ được điều tra thử trên 20 đối tượng để rà soát lỗi, sau đó sẽ
tiến hành hoàn chỉnh để ra bảng câu hỏi nghiên cứu chính thức. Các dữ liệu khi
nghiên cứu chính thức sau khi thu hồi về sẽ tiến hành sàng lọc, mã hóa, nhập liệu và
tiến hành làm sạch dữ liệu trước khi phân tích. Quá trình phân tích sẽ được thực
hiện trên phần mềm SPSS phiên bản 20.0 với các nội dung sau:
3.3.1. Phân tích thống kê mô tả
Mục đích của phân tích là cung cấp thông tin tổng quan về mẫu nghiên cứu
dựa vào tần suất, tỉ lệ, trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, các biểu đồ thống
kê...
3.3.2. Kiểm định Cronbach’s Alpha
Kiểm định Cronbach’s Alpha cho phép đánh giá mức độ tương quan chặt chẽ
giữa các câu hỏi trong thang đo, do đó cho phép ta loại bỏ những biến có hệ số
31
tương quan thấp. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) thì một tập
hợp các mục hỏi dùng để đo lường được đánh giá là tốt phải có hệ số α lớn hơn
hoặc bằng 0,8.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Đình Thọ (2011) hệ số α lớn thì tốt nhưng nếu nó quá
lớn (α> 0,95) thì cho thấy có nhiều biến trong thang đo không có khác biệt nhau.
Đây là hiện tượng trùng lắp trong đo lường. Do đó, trong một số trường hợp, hệ số
α từ 0,6 trở lên là có thể chấp nhận.
3.3.3. Phân tích nhân tố khám phá
Đây là phương pháp thống kê dùng để rút gọn một tập hợp gồm nhiều biến
quan sát phụ thuộc lẫn nhau thành một tập biến ít hơn để chúng có ý nghĩa hơn
nhưng vẫn chứa đựng đầy đủ thông tin của tập biến ban đầu (Hair và cộng sự,
1998). Việc phân tích nhân tố khám phá này chỉ phù hợp khi thỏa mãn các điều kiện
như:
(1) Hệ số KMO: là một chỉ tiêu dùng để xem xét sự thích hợp của EFA, EFA
thích hợp khi: 0,5 ≤ KMO ≤ 1; Kiểm định Bartlet xem xét giả thuyết về độ tương
quan giữa các biến quan sát, nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (sig ≤ 0,05) thì
các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005, p.262).
(2) Hệ số tải nhân tố (hay trọng số nhân tố) (Factor Loading) > 0,5 để tạo giá
trị hội tụ (Hair và Ctg 1998, 111). Hệ số tải nhân tố là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý
nghĩa thiết thực của EFA. Hệ số tải nhân tố > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu thì
cỡ mẫu ít nhất phải là 350; hệ số tải nhân tố > 0,4 được xem là quan trọng; và ≥ 0,5
được xem là có ý nghĩa thực tiễn. Nếu cỡ mẫu khoảng 100 thì nên thì nên chọn tiêu
chuẩn hệ số tải nhân tố > 0,55; nếu cỡ mẫu khoảng 50 thì hệ số tải nhân tố > 0,75.
Với mẫu khảo sát thu được trong nghiên cứu này là 200, tác giả chấp nhận hệ số tải
nhân tố từ 0,5 trở lên. Với các biến không đạt tiêu chí này thì bị loại vì không phải
là biến quan trọng trong mô hình.
(3) Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích ≥ 50%. (Hair và Ctg,
1998 và Gerbing & Anderson, 1988).
32
(4) Hệ số Eigenvalue >1 (Gerbing và Anderson, 1998). Số lượng nhân tố được
xác định dựa trên chỉ số eigenvalue - đại diện cho phần biến thiên được giải thích
bởi mỗi nhân tố.
(5) Hệ số tải nhân tố (Factor Loading) lớn nhất của từng biến quan sát ≥ 0,5
(được xem là có ý nghĩa thực tiễn, Hair & ctg, 1998).
(6) Khác biệt hệ số tải nhân tố của một biến quan sát giữa các nhân tố phải ≥
0,3 để tạo giá trị phân biệt giữa các nhân tố (Jabnoun và Al-Tamimi, 2003).
3.3.4. Phân tích hồi quy đa biến
Trước khi tiến hành phân tích hồi quy cần tiến hành kiểm định hệ số tương
quan giữa biến phụ thuộc (tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương) và
biến độc lập (các yếu tố ảnh hưởng).
Tiếp theo, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến bằng phương pháp bình
phương nhỏ nhất thông thường (Ordinal Least Squares – OLS). Hệ số xác định R2
hiệu chỉnh được dùng để xác định độ phù hợp của mô hình. Kiểm định F được sử
dụng để khẳng định khả năng mở rộng mô hình này áp dụng cho tổng thể cũng như
kiểm định t để bác bỏ giả thuyết các hệ số hồi quy của tổng thể bằng 0.
Nhằm đảm bảo độ tin cậy của phương trình hồi quy được xây dựng cuối cùng
là phù hợp, một loạt các dò tìm sự vi phạm của các giả định cần thiết trong mô hình
hồi quy tuyến tính cũng được thực hiện.
Các giả định được kiểm định trong phần này bao gồm: liên hệ tuyến tính
(dùng biểu đồ phân tán Scatterplot), phương sai của phần dư không đổi (dùng hệ số
hạng Speaeman), phân phối chuẩn của phần dư (dùng Histo-gram và P-P plot), tính
độc lập của phần dư (dùng đại lượng thống kê Dur-bin-Watson), hiện tượng đa cộng
tuyến (hệ số phóng đại VIP).
Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương là một khía cạnh trong nghiên cứu kinh tế vừa mang tính chuyên biệt lại
vừa mang tính tổng hợp. Để có thể giải quyết yêu cầu của nghiên cứu, đề tài sử
dụng cách tiếp cận theo nguyên tắc toàn diện và tiếp cận theo kinh tế vi mô. Sử
33
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu tài liệu,
phương pháp điều tra phỏng vấn, nghiên cứu khám phá bằng phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng thông qua các mô hình phân tích nhân tố khám phá,
phân tích hồi quy đa biến để giải quyết các vấn đề nghiên cứu là xác định các nhân
tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương từ đó tìm ra
giải pháp tốt hơn.
34
CHƢƠNG 4.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ các giả thuyết và mô hình nghiên cứu trong chương 2 và chương 3, bài
nghiên cứu sẽ thực hiện các mô hình nghiên cứu và đưa ra kết quả đo lường các
nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương tại Long
An. Cấu trúc trong chương này sẽ bao gồm Thống kê mô tả đặc điểm mẫu nghiên
cứu, phân tích kết quả nghiên cứu thực nghiệm và thảo luận kết quả.
4.1. Tổng quan kết quả điều tra mẫu phân tích
Dựa trên các yêu cầu và thiết kế nghiên cứu đã đặt ra ở các chương trước, tác
giả đã thực hiện điều tra khảo sát với các đối tượng nghiên cứu là các cá nhân hiện
đang làm việc tại Cơ quan tài chính, Cơ quan kho bạc, Cơ quan thuế, Cơ quan kế
hoạch-đầu tư, Cơ quan hải quan, Ủy ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thể, Cơ
quan Đảng, Cơ quan khác trên địa bàn tỉnh Long An năm 2015. Sau khi tiến hành
phân loại, loại bỏ các quan sát không thích hợp. Kết quả thu được 200 phiếu điều tra
đạt yêu cầu trong tổng số phiếu thu về đủ để phân tích dữ liệu có ý nghĩa về mặt
khoa học trong đề tài nghiên cứu này.
4.1.1. Đặc điểm cá nhân đại diện đƣợc khảo sát
Thống kê chung về thông tin người được điều tra trong mẫu khảo sát 200
phiếu cho thấy các đối tượng được khảo sát trong mẫu phần lớn là nữ, chiếm tỷ lệ
Nguồn: Tác giả tính toán
66,5%.
Hình 4.1 Giới tính
35
Với mẫu nghiên cứu này, số người hoàn tất bậc đại học và cao đẳng chiếm đa
số (93,0%) và tỷ trọng nhỏ các cá nhân được khảo sát có trình độ trên đại học và
Nguồn: Tác giả tính toán
hoàn tất bậc phổ thông.
Hình 4.2 Trình độ học vấn
Và hiện tại, họ đang làm việc ở nhiều cơ quan khác nhau như Cơ quan tài chính,
Cơ quan kho bạc, Cơ quan thuế, Cơ quan kế hoạch-đầu tư, Cơ quan hải quan, Ủy
Nguồn: Tác giả tính toán
ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thể, Cơ quan Đảng, Cơ quan khác.
Hình 4.3 Cơ quan làm việc
36
Trong đó, đối tượng được khảo sát đang làm việc nhiều nhất tại các cơ quan
tài chính (chiếm 40%), cơ quan kho bạc (chiếm 20%), cơ quan thuế (10%). Điều
này giúp chúng ta thu thập thông tin nhiều hơn trong quá trình khảo sát khi nghiên
cứu các nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.
Tại nơi làm việc của mình họ là lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương, Đội
trưởng, tổ trưởng hoặc chuyên viên. Kết quả khảo sát cho thấy, các đối tượng được
Nguồn: Tác giả tính toán
khảo sát chọn trong mẫu với cấp độ chuyên viên là chủ yếu (80%).
Hình 4.4 Vị trí tại nơi làm việc
Kinh nghiệm cũng là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá của các đối
tượng được khảo sát. Kết quả cho thấy, các đối tượng được khảo sát có thâm niên
công tác trong ngành tài chính khá đa dạng: một năm, 1-3 năm, 3-7 năm, trên 7 năm
kinh nghiệm. Trong đó, những người được điều tra có thời gian làm việc trong
ngành tài chính phân bổ chủ yếu ở nhóm trên 7 năm (chiếm tỷ lệ 55%); 3-7 năm
(chiếm 33%) và tỷ trọng nhỏ đối tượng được khảo sát có kinh nghiệm dưới 3 năm.
Nguồn: Tác giả tính toán
37
Hình 4.5 Thời gian đã làm việc trong ngành tài chính
Thế nên, trình độ học vấn, cơ quan làm việc, vị trí nơi làm việc cũng như kinh
nghiệm (thời gian làm việc) đều có ảnh hưởng đến nhận thức và đánh giá về các
Nguồn: Tác giả tính toán
nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.
Hình 4.6 Thời gian đã làm việc trong khu vực Nhà nƣớc
Với thông tin thu thập về thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước phần lớn
họ đã làm việc trong khu vực này từ 5-20 năm (76,5%). Điều này phần nào thể hiện
thâm niên làm việc của họ và giúp chúng ta có nhiều thông tin chính xác hơn trong
quá trình thu thập, phân tích kết quả nghiên cứu.
38
Ngoài ra, với câu hỏi được khảo sát “Anh, chị đã từng chuyển vị trí làm việc
trong khu vực nhà nước mấy lần?”. Kết quả cho thấy phần lớn họ rất ít chuyển vị trí
làm việc khi làm việc trong khu vực nhà nước (chiếm 61%), 34,5 % có chuyển vị trí
Nguồn: Tác giả tính toán
từ 1-2 lần và rất ít người chuyển vị trí làm việc trên 3 lần trong mẫu khảo sát này.
Hình 4.7 Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nƣớc
Về kinh phí tài chính mà cơ quan nhận được hàng năm, phần lớn các đối
tượng được khảo sát trả lời tại cơ quan họ chỉ nhận dưới 50 tỷ đồng (chiếm 98%) và
rất ít cơ quan nhận trên 50 tỷ đồng theo nguồn thông tin các đối tượng được khảo
Nguồn: Tác giả tính toán
sát cung cấp.
Hình 4.8 Kinh phí nhận hàng năm
39
Tóm lại, với các biến về đặc điểm đối tượng được thu thập trong mẫu khảo sát
bao gồm: Giới tính, trình độ, cơ quan làm việc, vị trí nơi làm việc, kinh nghiệm, số
lần chuyển vị trí lam việc trong khu vực nhà nước, kinh phí nhận hàng năm. Tất cả
góp phần giúp kết quả phân tích của chúng ta có những đánh giá khách quan hơn.
Như vậy xét về thông tin từ đặc điểm đối tượng đại diện trả lời phiếu khảo sát, kết
quả cho thấy dữ liệu điều tra của đề tài là đủ độ tin cậy cho các phân tích tiếp theo.
4.1.2. Thống kê về các nhân tố trong mô hình nghiên cứu
Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ)
Mối quan hệ giữa Quy mô của chính quyền địa phương và tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương đã được khẳng định trong lý thuyết và các
nghiên cứu thực nghiệm. Kết quả khảo sát cho thấy trên 50% các đối tượng được
khảo sát khẳng định mối quan hệ này và chỉ có 10,50% phủ nhận.
Bảng 4.1. Quy mô của chính quyền địa phƣơng
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Không đồng ý
Bình thƣờng
Đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
QMCQ QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5
3,70 3,73 3,76 3,68 3,67 3,66
0,81 1,06 0,91 1,00 0,99 0,96
8,00 11,50 6,00 7,50 6,50 8,50
29,20 20,50 26,50 31,00 33,50 34,50
37,80 39,50 45,00 36,00 35,00 33,50
Hoàn toàn không đồng ý 2,50 3,00 2,00 3,00 3,00 1,50
22,50 25,50 20,50 22,50 22,00 22,00
Nguồn: Tác giả tính toán
Đi sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố Quy mô của chính quyền địa
phương cho thấy các đối tượng được khảo sát đánh giá yếu tố Nhiều nhân viên
trong biên chế nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất đến tính bền vững tài chính (trung bình
điểm đánh giá 3,76/5). Bên cạnh đó, yếu tố Việc ra đời nhiều cơ quan sự nghiệp
công lập ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương có
điểm bình quân cho mức độ đồng ý thấp nhất trong thang đo (trung bình điểm đánh
giá 3,66/5).
40
Nhìn chung, trung bình mức độ đồng ý của các đối tượng được khảo sát về
Quy mô của chính quyền địa phương ở mức trung bình (3,70/5) với mức độ thống
nhất khá cao (sai lệch chuẩn 0,81).
Cấu trúc dân cƣ (CTDC)
Kết quả từ các nghiên cứu lý thuyết và thực chứng đã chứng minh Cấu trúc
dân cư có tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Kết
quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khẳng định mối quan hệ này chiếm đến 64,13% trong
khi đó chỉ có khoảng 12,88% số đối tượng được khảo sát phủ nhận mối quan hệ
này.
Bảng 4.2. Cấu trúc dân cƣ
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Không đồng ý
Bình thƣờng
Đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
4,88 5,00 2,00 5,50 7,00
31,88 55,50 30,00 19,00 23,00
CTDC CTDC1 CTDC2 CTDC3 CTDC4
3,78 4,22 3,84 3,53 3,54
0,82 1,12 1,00 1,08 1,15
8,00 5,00 7,00 10,50 9,50
23,00 8,50 26,00 28,50 29,00
32,25 26,00 35,00 36,50 31,50
Nguồn: Tác giả tính toán
Như vậy, phần lớn các đối tượng được khảo sát đồng ý rằng Cấu trúc dân cư
có tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Tác giả phân
tích sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố Cấu trúc dân cư cho thấy yếu tố
Nhiều người nộp thuế trên địa bàn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của địa
phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất (trung bình điểm đánh giá 4,22/5). Trong khi
đó, yếu tố Nhiều người về hưu sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương phần lớn không được đồng tình nên mức độ đồng ý thấp nhất khi
xét trong thang đo này.
Nhìn chung, mức độ đồng ý của các đối tượng được khảo sát về nhân tố Cấu
trúc dân cư được xác nhận ở mức trung bình (trung bình 3,78/5) với sai lệch chuẩn
thấp (0,82).
Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT)
41
Nhân tố Nền tảng kinh tế địa phương cũng có ảnh hưởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương; kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 65,9% đối
tượng được khảo sát đồng ý khẳng định mối quan hệ này và rất ít các đối tượng
được khảo sát phủ nhận.
Bảng 4.3. Nền tảng kinh tế địa phƣơng
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Không đồng ý
Bình thƣờng
Đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
2,50 3,00 3,00 3,50 1,50 1,50
27,00 48,50 30,00 27,50 14,50 14,50
7,30 5,00 5,00 7,00 10,00 9,50
24,30 10,00 20,50 24,00 34,50 32,50
38,90 33,50 41,50 38,00 39,50 42,00
NTKT NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5
3,86 4,20 3,91 3,79 3,56 3,59
0,74 1,01 0,99 1,04 0,91 0,90
Nguồn: Tác giả tính toán
Tác giả phân tích sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố cho thấy yếu tố
Kinh tế địa phương da dạng, đa ngành sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất (trung bình điểm đánh giá:
4,20/5). Tuy nhiên, các sai lệch chuẩn trong đánh giá về các khía cạnh của nhân tố
này khá cao (độ lệch chuẩn 1,01). Trong khi đó, yếu tố Chu kỳ kinh doanh sẽ ảnh
hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương phần lớn không
được đồng tình nên mức độ đồng ý thấp nhất khi xét trong thang đo này.
Nhìn chung, mức độ đồng ý của các đối tượng được khảo sát về nhân tố Nền
tảng kinh tế địa phương được xác nhận ở mức trung bình (3,86/5). Và các sai lệch
chuẩn trong đánh giá về các khía cạnh của các nhân tố này khá thấp, cho thấy sự
thống nhất ý kiến của các đối tượng được khảo sát về nhân tố này.
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng (QLTC)
Kết quả từ các nghiên cứu lý thuyết và thực chứng đã chứng minh Năng lực
quản lý tài chính của chính quyền địa phương có ảnh hưởng đến tính bền vững của
tài chính chính quyền địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khẳng định mối
42
quan hệ này chiếm 72,88% số đối tượng được khảo sát, trong khi đó chỉ khoảng
9,76% số đối tượng được khảo sát phủ nhận mối quan hệ này.
Bảng 4.4. Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Không đồng ý
Bình thƣờng
Đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
3,88
0,86
4,13 3,50 3,00 3,50 6,50
28,88 35,00 30,50 28,50 21,50
5,63 7,50 5,00 3,50 6,50
17,38 10,50 15,50 18,50 25,00
44,00 43,50 46,00 46,00 40,50
QLTC QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4
3,99 3,96 3,93 3,64
1,04 0,97 0,96 1,09
Nguồn: Tác giả tính toán
Xét cụ thể hơn cho từng biến quan sát với thang đo Năng lực quản lý tài chính
của chính quyền địa phương, biến quan sát Chính quyền địa phương xây dựng được
chiến lược phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương có mức độ đồng ý cao nhất (trung bình điểm đánh giá 3,99/5).
Ngược lại, biến quan sát Sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thuộc ngành tài
chính sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương không
được đồng ý nhiều (trung bình điểm đánh giá 3,64/5).
Với thang đo Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, mức độ
đồng ý của các đối tượng được khảo sát về nhân tố này được xác nhận cũng ở mức
trung bình (khoảng 3,88/5) tuy nhiên với mức độ thống nhất khá cao giữa ý kiến các
đối tượng được khảo sát về nhân tố này (sai lệch chuẩn 0,86).
Phân cấp ngân sách (PCNS)
Phân cấp ngân sách là một nhân tố trung gian ảnh hưởng đến Năng lực quản lý
tài chính của chính quyền địa phương. Kết quả từ khảo sát cho thấy có 78,17% các
đối tượng được khảo sát đồng ý khẳng định mối quan hệ này và chỉ có khoảng
5,34% phủ định mối quan hệ này.
43
Bảng 4.5. Phân cấp ngân sách
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Không đồng ý
Bình thƣờng
Đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
1,17 1,00 2,50
45,67 51,00 43,50 42,50
PCNS PCNS1 PCNS2 PCNS3
4,17 4,28 4,13 4,12
0,83 0,86 0,95 0,98
4,17 3,00 5,50 4,00
16,50 17,50 16,50 15,50
32,50 28,50 33,50 35,50
Nguồn: Tác giả tính toán
Đi sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố Phân cấp ngân sách cho thấy
các đối tượng được khảo sát đánh giá yếu tố Tỷ lệ phân chia nguồn thu với ngân
sách trung ương cao sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa
phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất đến Năng lực quản lý tài chính của chính quyền
địa phương (trung bình điểm đánh giá 4,28/5).
Nhìn chung, trung bình mức độ đồng ý các đối tượng được khảo sát về Phân
cấp ngân sách ở mức khá cao (trung bình 4,17/5) với mức độ thống nhất rất cao (sai
lệch chuẩn 0,83).
Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS)
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khẳng định mối quan hệ này chiếm 69,63% số
đối tượng được khảo sát trong khi đó chỉ có khoảng 10,25% số đối tượng khảo sát
phủ nhận mối quan hệ này.
Bảng 4.6. Cấu trúc nguồn thu ngân sách
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Không đồng ý
Bình thƣờng
Đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
2,75 1,00 1,00 2,00 7,00
CTNS CTNS1 CTNS2 CTNS3 CTNS4
3,90 4,19 4,13 3,74 3,54
0,74 0,94 0,87 0,99 1,17
7,50 4,50 3,50 10,00 12,00
20,13 16,50 15,50 24,00 24,50
36,63 31,00 41,50 40,50 33,50
33,00 47,00 38,50 23,50 23,00
Nguồn: Tác giả tính toán
Xét cụ thể hơn cho từng biến quan sát với Thang đo Cấu trúc nguồn thu ngân
sách, biến quan sát Số thu cao từ ngành dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài
44
chính của tài chính địa phương có mức độ đồng ý cao nhất (trung bình điểm đánh
giá 4,19). Ngược lại, biến quan sát Số thu cao từ chuyển nguồn hoặc kết dư ngân
sách sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của tài chính địa phương không
được các đối tượng được khảo sát đồng ý nhiều (trung bình điểm đánh giá 3,54/5).
Với thang đo Cấu trúc nguồn thu ngân sách, mức độ đồng ý của các đối tượng
được khảo sát về nhân tố này được xác nhận ở mức trung bình (trung bình 3,90/5)
tuy nhiên với mức độ thống nhất khá cao giữa ý kiến các đối tượng được khảo sát
về nhân tố này (sai lệch chuẩn 0,74).
Đánh giá chung về sự tác động của các nhân tố đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phƣơng (BVNS)
Thống kê đánh giá chung về tác động của các nhân tố đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương cho thấy các đối tượng được khảo sát đồng ý (tỷ
lệ đồng ý là 83,5%), 14,50% với mức độ đánh giá là bình thường, số người trả lời
Nguồn: Tác giả tính toán
không đồng ý chỉ chiếm khoảng 2%.
Hình 4.9 Cơ cấu đánh giá chung về các nhân tố tác động đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phƣơng
Đánh giá chung về các nhân tố ảnh hƣởng đến tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phƣơng
45
Thống kê chung về các biến tác động đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương. Theo đó, các đối tượng được khảo sát đều có mức độ đồng ý khá
cao về tính biến động của các nhân tố mà đề tài đặt ra ảnh hưởng đến đánh giá của
họ. Trong đó, mức độ đồng ý cao nhất là sự ảnh hưởng của Phân cấp ngân sách với
mức điểm trung bình đạt 4,17/5, mức độ đồng ý thấp nhấp ở nhân tố Quy mô của
chính quyền địa phương đạt 3,70/5.
Bảng 4.7. Thống kê mô tả chung cho các nhân tố ảnh hƣởng
Các quan sát Quy mô của chính quyền địa phương Cấu trúc dân cư Nền tảng kinh tế địa phương Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương Phân cấp ngân sách Cấu trúc nguồn thu ngân sách
Trung bình Độ lệch chuẩn 0,81 0,82 0,74 0,86 0,83 0,74
3,70 3,78 3,86 3,88 4,17 3,90
Nguồn: Tác giả tính toán
Từ các kết quả trên giúp ta định hình được sơ bộ kết quả ảnh hưởng của các
nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương tại tỉnh Long An
trong mẫu được khảo sát.
4.2. Kiểm định giả thuyết về sự khác biệt của các đặc tính cá nhân đƣợc
khảo sát
Để khẳng định có hay không những sự khác biệt giữa các đặc tính của đối
tượng khảo sát có ảnh hưởng đến việc đánh giá nhân tố tác động đến tính bền vững
tài chính của chính quyền địa phương tại tỉnh Long An, tác giả tiến hành thực hiện
các kiểm định để nhận diện sự khác biệt này.
4.2.1. Kiểm định giả thuyết về trị trung bình cho các thang đo
Tiến hành kiểm định trị trung bình của tổng thể lần lượt cho các thang đo Quy
mô chính quyền địa phương (QMCQ), Cấu trúc dân cư (CTDC), Nền tảng kinh tế
địa phương (NTKT), Năng lực quản lý tài chính (QLTC), Phân cấp ngân sách
(PCNS), Đánh giá tác động các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương (BVNS) với giả thuyết Ho: Trung bình thang đo bằng 3 (Mức độ bình
thường).
46
Bảng 4.8. Kiểm định trị trung bình cho các thang đo
Trung bình
Giá trị P
Độ lệch chuẩn
Chỉ số
Ho: Trung bình thang đo = 3 Khác biệt trung bình
4,085 3,698 3,637 3,861 3,879 4,173
0,721 0,808 0,902 0,741 0,856 0,830
1,085 0,698 0,637 0,963 0,879 1,173
BVNS QMCQ CTDC NTKT QLTC PCNS
0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu
Kết quả cho thấy các giá trị p = 0,000 < 0,05 nên bác bỏ giả thuyết Ho với
mức ý nghĩa 5%. Căn cứ trung bình mẫu, khác biệt trung bình và kết quả kiểm định
vừa rồi, ta có thể nói rằng Trung bình của các thang đo là trên mức 3 (bình thường);
hay các đối tượng được khảo sát có mức độ trả lời trung bình là từ đồng ý trở lên ở
hầu hết các nhân tố.
4.2.2. Kiểm định khác biệt về đặc tính cá nhân đến việc đánh giá tác
động các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng
(BVNS)
Để so sánh về sự khác biệt về các đặc tính cá nhân đến việc đánh giá tác động
các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương, tác giả tiến
hành phân tích trên các đặc điểm của các đối tượng được khảo sát bao gồm: Giới
tính, Vị trí nơi làm việc, Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nước, Thời
gian làm việc trong ngành tài chính. Cụ thể như sau:
Giới tính
Bảng 4.9. Kiểm định khác biệt về Giới tính
Chỉ số
Giới tính
Số quan sát
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Giá trị P
Khác biệt trung bình
Nữ
67
3,910
0,753
-0,262
0,015
Nam
133
4,173
0,691
Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính
47
Chỉ số
Giới tính
Số quan sát
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Giá trị P
Khác biệt trung bình
Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu
quyền địa phương (BVNS)
Với mức ý nghĩa 5%, kết quả kiểm định cho thấy có sự khác biệt trong việc
đánh giá các nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền giữa cá
nhân nam và nữ (vì p = 0,015<0,05). Và cá nhân nam có mức độ đồng ý cao hơn so
với cá nhân nữ khi được hỏi về thang đo này.
Vị trí nơi làm việc
Bảng 4.10. Kiểm định khác biệt về vị trí nơi làm việc
Vị trí nơi làm việc
Khác biệt trung bình
Độ lệch chuẩn
Giá trị P
Đội trưởng, tổ trưởng
0,600
0,341
0,186
Chuyên viên
0,763
0,324
0,051
Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương
-0,600
0,341
0,186
Đội trưởng, tổ trưởng
Tukey HSD
0,163
0,133
0,442
-0,763
0,324
0,051
Chuyên viên
Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Chuyên viên Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Đội trưởng, tổ trưởng
-0,163
0,133
0,442
Đội trưởng, tổ trưởng
0,600
0,341
0,240
Chuyên viên
0,763
0,324
0,059
Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương
-0,600
0,341
0,240
Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS)
Đội trưởng, tổ trưởng
Bonferroni
0,163
0,133
0,670
-0,763
0,324
0,059
Chuyên viên
Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Chuyên viên Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Đội trưởng, tổ trưởng
-0,163
0,133
0,670 Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự đánh giá về các nhân tố đến tính bền vững tài
chính của chính quyền có sự khác biệt ở các các nhân ở tứng vị trí làm việc như
Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương; Đội trưởng, tổ trưởng và Chuyên viên.
48
Cấp độ chuyên viên có mức độ đồng ý cao hơn so với Lãnh đạo cơ quan cấp sở và
tương đương (p = 0,051). Và không có sự khác biệt trong mức độ đánh giá giữa Đội
trưởng, tổ trưởng, Chuyên viên với Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương (p lần
lượt là 0,186 và 0,442).
Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nƣớc
Bảng 4.11. Kiểm định khác biệt về số lần chuyển vị trí làm việc trong khu
vực nhà nƣớc
Chỉ số
Nhóm
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Giá trị P
0,216
Trên 5 lần Từ 03 đến 05 lần Từ 01 đến 02 lần
Số quan sát 1 8 69
3,000 3,750 4,145
0,491 0,083
Chưa từng
122
4,082
0,061
Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu
Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS)
Khi xem xét Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nước đến việc
đánh giá của cá nhân, kết quả cho thấy số lần chuyển việc khác nhau (Trên 5 lần; Từ
03 đến 05 lần; Từ 01 đến 02 lần; Chưa từng) không có tác động đến việc đánh giá
của các cá nhân. (p=0,216)
Thời gian làm việc trong ngành tài chính
Bảng 4.12. Kiểm định khác biệt về Thời gian làm việc trong ngành tài chính
Chỉ số
Nhóm
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Giá trị P
Trên 7 năm Trên 3 đến 7 năm Trên 1 đến 3 năm
Số quan sát 110 66 17
4,264 3,818 4,059
0,059 0,096 0,181
0,001
Một năm
7
3,857
0,340
Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu
Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS)
Bảng trên trình bày kết quả phân tích ANOVA. Với mức ý nghĩa 5%, quan sát
với p = 0,001 ta có thể nói sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trong việc đánh giá
các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền giữa 4 nhóm có thời gian
làm việc trong ngành tài chính khác nhau (Trên 7 năm, Trên 3 đến 7 năm, Trên 1
49
đến 3 năm, Một năm). Tuy nhiên khi kiểm định sự khác biệt từng cặp, tác giả vẫn
chưa rút ra quy luật cụ thể trong thang đo này về sự biến thiên mức độ đồng ý khi
thời gian làm việc tăng dần.
Bảng 4.13. Kiểm định khác biệt từng cặp về thời gian làm việc trong ngành
tài chính
Nhóm
Độ lệch chuẩn
Giá trị P
Khác biệt trung bình
Trên 3 đến 7 năm
0,108
0,000
.445
Trên 7 năm
Trên 1 đến 3 năm
0,181
0,672
0,205
Một năm
0,271
0,441
0,406
Trên 7 năm
0,108
0,000
-.445
Trên 1 đến 3 năm
0,189
0,582
-0,241
Trên 3 đến 7 năm
Một năm
0,277
0,999
-0,039
Tukey HSD
Trên 7 năm
0,181
0,672
-0,205
Trên 3 đến 7 năm
0,189
0,582
0,241
Trên 1 đến 3 năm
Một năm
0,313
0,917
0,202
Đánh giá tác động
Trên 7 năm
0,271
0,441
-0,406
của các nhân tố
Một năm
Trên 3 đến 7 năm
0,277
0,999
0,039
đến tính bền vững
Trên 1 đến 3 năm
0,313
0,917
-0,202
tài chính của chính
Trên 3 đến 7 năm
0,108
0,000
0,445
quyền địa phương
Trên 7 năm
Trên 1 đến 3 năm
0,181
1,000
0,205
Một năm
0,271
0,814
0,406
(BVNS)
Trên 7 năm
0,108
0,000
-0,445
Trên 1 đến 3 năm
0,189
1,000
-0,241
Trên 3 đến 7 năm
Một năm
0,277
1,000
-0,039
Bonferroni
Trên 7 năm
0,181
1,000
-0,205
Trên 3 đến 7 năm
0,189
1,000
0,241
Trên 1 đến 3 năm
Một năm
0,313
1,000
0,202
Trên 7 năm
0,271
0,814
-0,406
Một năm
Trên 3 đến 7 năm
0,277
1,000
0,039
Trên 1 đến 3 năm
-0,202
0,313
1,000 Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu
Với các kết quả phân tích được trình bày ở bên trên nhằm giúp chúng ta có
những định hướng cụ thể trong việc đưa ra các hàm ý chính sách quan trọng trong
phần chương 5 về các đặc tính của đối tượng được khảo sát ảnh hưởng đến việc
đánh giá các nhân tố tác động tính bền vững tài chính của chính quyền tại Long An.
4.3.
50
Kiểm định thang đo để đánh giá các giả thuyết ban đầu thông qua hai bước là
kiểm tra độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha và hệ số tương quan
biến tổng (Item-total correlation); và kiểm định giá trị của thang đo thông qua phân
tích nhân tố khám phá (EFA).
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại
(internal consistency) thông qua hệ số Cronbach’s Alpha (α) và hệ số tương quan
biến tổng (Item total correlation). Tiêu chuẩn đánh giá thang đo theo Nunnally &
Burnstein (1994) và Hoàng Trọng (2005); Nguyễn Đình Thọ (2011) như sau:
(1) Mức ý nghĩa của hệ số Cronbach’s Alpha: 0,6 ≤ α ≤ 0,95: chấp nhận được
và α từ 0,7 đến 0,9 là tốt. Nếu α > 0,95: có hiện tượng trùng lắp trong các mục hỏi
nên không chấp nhận được.
(2) Hệ số tương quan biến - tổng phải lớn hơn 0,3. Đây là hệ số tương quan
của 1 biến với điểm trung bình của các biến khác trong cùng một thang đo, do đó hệ
số này càng cao, sự tương quan của biến với các biến khác trong nhóm càng cao.
Các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3 được coi là biến rác và bị loại
khỏi thang đo. Tuy nhiên, khi loại biến sẽ bị mất thông tin nên cần chú ý đến nội
dung của thang đo trước khi loại biến.
tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương
Quy mô của chính quyền địa phương (QMCQ), Cấu trúc dân cư (CTDC), Nền tảng
kinh tế địa phương (NTKT), N
hơn 0,6).
Bảng 4.14. a các nhân tố tác động
Tƣơng quan biến - tổng
Trung bình thang đo nếu loại biến
Phƣơng sai thang đo nếu loại biến
Giá trị cronbach’s alpha nếu loại biến
1. Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ): Cronbach’s alpha: 0,877
QMCQ1
14,760
11,480
0,521
0,898
51
Tƣơng quan biến - tổng
Trung bình thang đo nếu loại biến
Phƣơng sai thang đo nếu loại biến
Giá trị cronbach’s alpha nếu loại biến
14,730 14,815 14,825 14,830
0,776 0,759 0,712 0,804
0,837 0,839 0,850 0,829
10,831 QMCQ2 10,423 QMCQ3 10,748 QMCQ4 QMCQ5 10,413 2. Cấu trúc dân cƣ (CTDC): Cronbach’s alpha: 0,744
10,910 11,290 11,600 11,590
7,318 7,393 6,141 5,389
0,361 0,433 0,639 0,755
0,783 0,740 0,627 0,547
CTDC1 CTDC2 CTDC3 CTDC4 3. Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT): Cronbach’s alpha: 0,791
9,063 8,371 8,123 8,844 8,781
0,450 0,611 0,615 0,581 0,602
0,790 0,737 0,736 0,748 0,742
14,835 NTKT1 15,125 NTKT2 15,240 NTKT3 15,475 NTKT4 15,445 NTKT5 4. Năng lực quản lý tài chính (QLTC): Cronbach’s alpha: 0,865
11,525 11,555 11,590 11,875
6,924 6,630 6,927 7,075
0,682 0,835 0,764 0,597
0,841 0,779 0,808 0,878
QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 5. Phân cấp ngân sách (PCNS): Cronbach’s alpha: 0,874
8,245 8,390 8,405
3,392 2,722 2,674
0,907 0,758 0,781
0,658 PCNS1 0,826 PCNS2 PCNS3 0,803 6. Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS): Cronbach’s alpha: 0,733
CTNS1 CTNS2 CTNS3 CTNS4
11,400 11,455 11,850 12,050
5,930 5,626 5,244 4,952
0,455 0,604 0,580 0,488
0,710 0,636 0,640 0,706
Nguồn: Tác giả tổng hợp
-
52
nên các biến này phù hợp để giải thích trong thang đo. Vì vậy, các biến đo lường
thành phần Quy mô của chính quyền địa phương đều được sử dụng trong phân tích
EFA tiếp theo.
-
phù hợp để giải thích trong thang đo. Vì vậy, các biến đo lường thành phần Cấu trúc
dân cư đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
tương quan bi -
Các biến này đủ điều kiện để giải thích cho thang đo và được sử dụng trong phân
tích EFA tiếp theo.
Thang đo (QLTC): Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương có
hệ số Cr
biến QLTC4 có hệ số tương quan biến-tổng nhỏ nhất 0,597
0,835. Các biến này đủ điều kiện để giải thích cho thang đo và
được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Thang đo (PCNS): Phân cấp ngân sách có hệ số Cronbach’s alpha là 0,874 lớn
hơn 0,6. Các hệ số tương quan biến tổng của các biến đo lường thành phần n
-
điều kiện để giải thích cho thang đo và được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
53
giải thích cho thang đo và được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Như vậy, kết quả đánh giá thang đo bằng phương pháp Cronbach’s alpha cho
các thang đo trước khi phân tích nhân tố khám phá (EFA) cho các thành phần nhân
tố cho thấy tất cả 6 nhân tố đều đủ điều kiện để thực hiện phân tích EFA.
4.4.
Phân tích EFA phải thỏa mãn 6 điều kiện như sau:
(1) Hệ số KMO: là một chỉ tiêu dùng để xem xét sự thích hợp của EFA, EFA
thích hợp khi: 0,5 ≤ KMO ≤ 1; Kiểm định Bartlet xem xét giả thuyết về độ tương
quan giữa các biến quan sát, nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (sig ≤ 0,05) thì
các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005, p.262).
(2) Hệ số tải nhân tố (hay trọng số nhân tố) (Factor Loading) > 0,5 để tạo giá
trị hội tụ (Hair và Ctg 1998, 111). Hệ số tải nhân tố là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý
nghĩa thiết thực của EFA. Hệ số tải nhân tố > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu thì
cỡ mẫu ít nhất phải là 350; hệ số tải nhân tố > 0,4 được xem là quan trọng; và ≥ 0,5
được xem là có ý nghĩa thực tiễn. Nếu cỡ mẫu khoảng 100 thì nên thì nên chọn tiêu
chuẩn hệ số tải nhân tố > 0,55; nếu cỡ mẫu khoảng 50 thì hệ số tải nhân tố > 0,75.
Với mẫu khảo sát thu được trong nghiên cứu này là 200, tác giả chấp nhận hệ số tải
nhân tố từ 0,5 trở lên. Với các biến không đạt tiêu chí này thì bị loại vì không phải
là biến quan trọng trong mô hình.
(3) Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích ≥ 50%. (Hair và Ctg,
1998 và Gerbing & Anderson, 1988)
(4) Hệ số Eigenvalue >1 (Gerbing và Anderson, 1998). Số lượng nhân tố được
xác định dựa trên chỉ số eigenvalue - đại diện cho phần biến thiên được giải thích
bởi mỗi nhân tố.
54
(5) Hệ số tải nhân tố (Factor Loading) lớn nhất của từng biến quan sát ≥ 0,5
(được xem là có ý nghĩa thực tiễn, Hair & ctg, 1998).
(6) Khác biệt hệ số tải nhân tố của một biến quan sát giữa các nhân tố phải ≥
0,3 để tạo giá trị phân biệt giữa các nhân tố (Jabnoun và Al-Tamimi, 2003).
Sau khi kiểm tra điều kiện (1) của phân tích nhân tố khám phá là xác định số
lượng nhân tố thông qua điều kiện (3) là phương sai trích ≥ 50% và (4) là
eigenvalue >1. Tiếp đến, kiểm tra giá trị hội tụ theo điều kiện (2) và giá trị phân biệt
theo điều kiện (5) (6) của các thang đo nhằm điều chỉnh để phục vụ cho việc chạy
hồi quy mô hình tiếp theo. Chạy mô hình theo phương pháp “Principle component”
và chọn phép xoay Varimax (là phương pháp xoay vuông góc và cố định gốc). Kết
quả phân tích EFA phải đáp ứng giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Cuối cùng, tiến
hành đặt tên lại các nhân tố và xây dựng lại mô hình và giả thiết nghiên cứu. Các
thành phần của các nhân tố dùng để tính toán chỉ được hình thành sau khi kiểm tra
EFA và Cronbach’s alpha.
Chạy EFA lần 1, các biến giải thích được chia thành 7 nhân tố. Dựa vào các
tiêu chí khi phân tích EFA với 7 nhân tố này:
+ Điều kiện (1): 0,5 ≤ KMO = 0,762 ≤ 1.
+ Điều kiện (2): Kiểm định Bartlet xem xét giả thuyết về độ tương quan giữa
các biến quan sát, vì kiểm định này có sig = 0,000 ≤ 0,05 nên các biến quan sát có
tương quan với nhau trong tổng thể (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc,
2005, p.262).
+ Điều kiện (3): tổng phương sai trích (giá trị commulative) = 72,761 > 50%
tại eigenvalue = 1,266 > 1 (Điều kiện 4).
+ Điều kiện (5): Hệ số tải nhân tố lớn nhất của từng biến quan sát ≥ 0,5 (được
xem là có ý nghĩa thực tiễn, Hair & ctg, 1998).
+ Kết quả cho thấy có 8 biến: cùng đo lường 1 lúc từ 2 nhân tố trở lên và khác
biệt hệ số tải nhân tố của biến quan sát giữa các nhân tố không đảm bảo được điều
kiện > 0,3 (theo điều kiện 5): CTDC1 đo lường cho 3 nhân tố (2,4,6); CTDC2 đo
lường cho 2 nhân tố (3,6); CTDC4 đo lường cho 2 nhân tố (2,6); NTKT1 đo lường
55
cho 2 nhân tố (3,4); NTKT3 đo lường cho 2 nhân tố (4,5); QLTC1 đo lường cho 2
nhân tố (2,3); CTNS1 đo lường cho 2 nhân tố (3,4); CTNS4 đo lường cho 2 nhân tố
(2,7). Do đó, các biến sẽ lần lượt bị loại trong lần phần tích EFA tiếp theo.
Nhân tố 4
5
6
7
2
3
1 0,646 0,851 0,856 0,822 0,883
0,371
0,459
0,312
0,318
0,321 0,741 0,804 0,799
0,376
0,711 0,784 0,632
0,444 0,883 0,887
0,343
0,769 0,885 0,843 0,736
0,807 0,851 0,834 0,469
0,329
0,313
0,426 0,772 0,743 0,711
0,762 0,000 72,761 1,266
Bảng 4.15. Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập lần 1
QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5 CTDC1 CTDC2 CTDC3 CTDC4 NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5 QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 PCNS1 PCNS2 PCNS3 CTNS1 CTNS2 CTNS3 CTNS4 Các kiểm định Giá trị KMO Giá trị Sig (Bartlett's Test of Sphericity) Tổng phương sai trích Giá trị Eigenvalues
Ghi chú: Phương pháp trích: Phân tích nhân tố xác định.
Phương pháp xoay: Xoay Varimax vuông góc với chuẩn hóa của Kaiser
56
Chạy EFA cuối cùng, sau khi loại 2 biến bao gồm CTDC1, CTNS1. Các biến
đo lường cho mô hình đã thỏa điều kiện (xem bảng dưới). Như vậy, kết quả sau khi
các biến bị loại, EFA trích được 7 nhân tố tại eigenvalue là 1,176 và tổng phương
sai trích đạt được là 75,103%.
Tóm tại, sau khi thực hiện EFA, loại bỏ các biến không đạt yêu cầu, còn lại 3
biến (của 7 thang đo) được chấp nhận. Đồng thời, xem xét giá trị KMO = 0,743 >
0,5 và giá trị Sig = 0,000 cho thấy phân tích nhân tố phù hợp với dữ liệu.
Bảng 4.16. Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập sau
3
2
Nhân tố 4
5
6
7
1 0,883 0,858 0,855 0,824 0,646
0,892 0,847 0,780 0,732
0,866 0,838 0,817
0,825 0,784 0,758
0,808 0,735 0,689
0,891 0,888
0,759 0,753 0,734
0,743 0,000 75,103
cùng
QMCQ5 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ1 QLTC2 QLTC3 QLTC1 QLTC4 PCNS2 PCNS3 PCNS1 CTDC3 CTDC4 CTDC2 NTKT2 NTKT1 NTKT3 NTKT5 NTKT4 CTNS2 CTNS4 CTNS3 Các kiểm định Giá trị KMO Giá trị Sig (Bartlett's Test of Sphericity) Tổng phương sai trích
1,176
Giá trị Eigenvalues
57
Ghi chú: Phương pháp trích: Phân tích nhân tố xác định.
Phương pháp xoay: Varimax vuông góc với chuẩn hóa của Kaiser
, bao gồm 05 biến quan sát: Nhiều cơ quan nhà nước sẽ ảnh
hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ1), Nhiều
nhân viên trong biên chế nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương (QMCQ2), Tỷ lệ cao của nhân viên trong khu vực nhà
nước so với dân số địa phương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương (QMCQ3), Nhiều đoàn thể nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền
vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ4), Việc ra đời nhiều cơ quan sự
nghiệp công lập ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
Nhân tố thứ hai, bao gồm 04 biến quan sát: Chính quyền địa phương xây
dựng được chiến lược phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của tài
chính địa phương (QLTC1), Chính quyền địa phương xây dựng được kế hoạch tài
chính 05 năm sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính địa phương (QLTC2),
Chính quyền địa phương xây dựng được kế hoạch tài chính-ngân sách 03 năm sẽ
ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính địa phương (QLTC3), Sự phối hợp chặt
chẽ của các cơ quan thuộc ngành tài chính sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính
của chính quyền
quản lý tài chính của chính quyền địa phương.
Nhân tố thứ ba, bao gồm 03 biến quan sát: Tỷ lệ phân chia nguồn thu với
ngân sách trung ương cao sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương (PCNS1), Thường xuyên nhận bổ sung trong cân đối từ ngân
sách trung ương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa
phương (PCNS2), Thường xuyên nhận bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương
sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
58
Nhân tố thứ tƣ, bao gồm 03 biến quan sát: Nhiều người nghèo trên địa bàn sẽ
ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTDC2),
Nhiều người về hưu sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa
phương (CTDC3), Nhiều người có việc làm sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền
Cấu trúc dân cư.
Nhân tố thứ năm, bao gồm 03 biến quan sát: Kinh tế địa phương da dạng, đa
ngành sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương
(NTKT1), GDP của địa phương lớn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương (NTKT2), Địa phương có cửa khẩu lớn sẽ ảnh hưởng đến
tính bền vững tài chính của chính quyền ân tố này
được đặt tên là Nền tảng kinh tế địa phương.
Nhân tố thứ sáu, bao gồm 02 biến quan sát: Chu kỳ kinh doanh sẽ ảnh hưởng
đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (NTKT4), Vị trí trung tâm
kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
- Vị trí.
Nhân tố thứ bảy, bao gồm 03 biến quan sát: Số thu cao từ nội địa sẽ ảnh
hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTNS2), Số thu
cao từ hoạt động xổ số sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương (CTNS3), Số thu cao từ chuyển nguồn hoặc kết dư ngân sách sẽ ảnh
hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
nhân tố này được đặt tên là Cấu trúc nguồn thu ngân sách.
4.5. Đánh giá chi tiết cho từng nhân tố sau EFA
Kết quả thống kê các chỉ số trong phân tích độ tin cậy và phân tích nhân tố
khám phá riêng cho từng nhân tố để đánh giá lại và chi tiết thang đo sau phân tích
EFA được trình trong bảng sau:
Bảng 4.17. Phân tích độ tin cậy các thang đo sau EFA
59
Giá trị Eigen
Hệ số KMO
Bartlett's Test
Nhân tố cấu thành
Các mục
Tải nhân tố
Hệ số Cronbach ‘s Alpha
Tổng phƣơng sai trích (%)
3,414
68,287
0,877 0,821
0,000
Quy mô của chính quyền địa phƣơng
2,095
69,841
0,783 0,659
0,000
Cấu trúc dân cƣ
2,012
67,075
0,752 0,668
0,000
Nền tảng kinh tế địa phƣơng
1,818
90,881
0,900 0,500
0,000
Chu kỳ - Vị trí
2,885
72,119
0,865 0,760
0,000
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng
2,397
79,915
0,874 0,697
0,000
Phân cấp ngân sách
1,921
64,026
0,710 0,677
0,000
Cấu trúc nguồn thu ngân sách
QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5 CTDC2 CTDC3 CTDC4 NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5 QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 PCNS1 PCNS2 PCNS3 CTNS2 CTNS3 CTNS4
0,656 0,864 0,860 0,836 0,894 0,768 0,889 0,846 0,800 0,865 0,790 0,953 0,953 0,824 0,926 0,885 0,752 0,832 0,928 0,918 0,792 0,820 0,788
Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát
Kết quả phân tích cho thấy, tất cả các thang đo đều đạt yều cầu nghiên cứu. Cụ
thể: Hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều lớn hơn 0,6 (chuẩn là 0,5), độ tin
cậy của các thang đo trong mô hình đều đạt giá trị về độ tin cậy chung của từng
nhân tố lớn hớn 0,6 và độ phù hợp của thang đo với hệ số KMO ≥ 0,5 với kiểm định
Bartlett cho giá trị sig nhỏ hơn 1%. Tổng phương sai trích đều lớn hơn 50%.
Vì vậy, qua kết quả phân tích độ tin cậy thang đo trước EFA, phân tích EFA
và đánh giá lại thang đo sau khi loại các biến không phù hợp, tạo lập nhân tố trong
phân tích EFA chung, thông qua phân tích EFA cho từng nhân tố và đánh giá độ tin
cậy thang đo Cronbach’ Alpha cho thấy dữ liệu nghiên cứu đạt độ tin cậy, giá trị
60
phân biệt và hội tụ. 6 nhân tố độc lập ban đầu được tách thành 7 nhân tố độc lập với
điều chỉnh các biến đo lường các nhân tố.
4.6. Điều chỉnh mô hình và giả thiết nghiên cứu
Như vậy, sau khi đánh giá sơ bộ thang đo về các nhân tố ảnh hưởng đến tính
bền vững tài chính của chính quyền địa phương có 23 biến quan sát đo lường cho 7
nhân tố được sẽ sử dụng trong mô hình nghiên cứu. Số biến và nhân tố được điều
chỉnh cụ thể trong bảng phía dưới.
Bảng 4.18. Các khái niệm nghiên cứu
STT
Phân cấp ngân sách (PCNS)
Cấu trúc dân cƣ (CTDC)
Chu kỳ - Vị trí (CKVT)
Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT)
Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS)
Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ)
QMCQ1 QMCQ 2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng (QLTC) QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4
1 2 3 4 5
PCNS 1 PCNS 2 PCNS 3
CTDC 2 CTDC 3 CTDC 4
NTKT1 NTKT2 NTKT3
NTKT4 NTKT5
CTNS2 CTNS3 CTNS4
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Giả thuyết nghiên cứu điều chỉnh sau EFA:
H1: Quy mô của chính quyền địa phương có ảnh hưởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương.
H2: Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương có ảnh hưởng đến
tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.
H3: Phân cấp ngân sách có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương.
H4: Cấu trúc dân cư có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương.
H5: Nền tảng kinh tế địa phương có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương.
H6: Chu kỳ - Vị trí có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương.
Quy mô của chính quyền địa phương
61
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương
H1
H2
Phân cấp ngân sách
H3
Cấu trúc dân cư
H4
Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng
Nền tảng kinh tế địa phương
H5
H6
Chu kỳ - Vị trí
Cấu trúc nguồn thu ngân sách
H7
H7: Cấu trúc nguồn thu ngân sách có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương.
Từ các khái niệm nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu được điều chỉnh, mô hình
nghiên cứu của đề tài có dạng:
Hình 4.10 Mô hình nghiên cứu
Như vậy, so với mô hình nghiên cứu đề nghị ban đầu mô hình nghiên cứu sau
khi điều chỉnh bao gồm 7 nhân tố độc lập; 7 nhân tố độc lập này được đo lường lại
bằng việc điều chỉnh thang đo sau khi đã loại đi một số biến không có ý nghĩa và đo
lường cùng một lúc nhiều thành phần.
Mô hình nghiên cứu của đề tài bao gồm 7 nhân tố với 23 biến quan sát (đã
BVNS = β0 + β1
*QMCQ + β2
*QLTC + β3
*PCNS + β4
*CTDC + β5
*NTKT
*CTNS + e
được đề cập ở trên):
*CKVT + β7
+ β6
4.7. Phân tích mô tả và tƣơng quan giữa các nhân tố sau EFA
Kết quả phân tích tương quan cho thấy các nhân tố Quy mô của chính quyền địa
phương, Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân
sách, Cấu trúc dân cư, Nền tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu trúc nguồn
62
thu ngân sách đều có tương quan dương với tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương và có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (p-value < 0,05). Do
đó, có thể kết luận mô hình đo lường phù hợp với lý thuyết.
BVNS QMCQ CTDC NTKT
CKVT QLTC
PCNS CTNS
Bảng 4.19. Phân tích mô tả và tƣơng quan giữa các nhân tố sau EFA
Các mục
Trung bình
Độ lệch chuẩn
4,085
0,721
1,000
0,277**
0,153*
0,345**
0,212** 0,294** 0,468** 0,527**
Nhân tố cấu thành BVNS
QMCQ
3,698
0,808 0,277**
1,000 0,202**
0,205**
0,178*
0,084
0,171*
0,135
3,637
0,902
0,153*
0,202**
1,000
0,355**
0,165* 0,377** 0,273** 0,272**
CTDC
3,963
0,827 0,345**
0,205** 0,355**
1,000
0,429** 0,282** 0,358** 0,323**
NTKT
3,570
0,865 0,212**
0,178*
0,165*
0,429**
1,000
0,107 0,201** 0,299**
CKVT
3,879
0,856 0,294**
0,084 0,377**
0,282**
0,107
1,000 0,320** 0,359**
QLTC
4,173
0,830 0,468**
0,171* 0,273**
0,358**
0,201** 0,320**
1,000 0,387**
PCNS
3,800
0,812 0,527**
0,135 0,272**
0,323**
0,299** 0,359** 0,387**
1,000
CTNS
BVNS QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5 CTDC2 CTDC3 CTDC4 NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5 QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 PCNS1 PCNS2 PCNS3 CTNS2 CTNS3 CTNS4
Nguồn: Tác giả tính toán
Như vậy, các nhân tố đặt ra ban đầu đều đạt độ tin cậy (hệ số tin cậy > 0,6) cho
phân tích nhân tố khám phá từ dữ liệu điều tra, 25 biến quan sát ban đầu qua phân
tích độ tin cậy và nhân tố khám phá đã loại bỏ một số biến không đạt tiêu chuẩn còn
23 biến phù hợp. Thống kê chung về các nhân tố cho thấy nhân tố Phân cấp ngân
sách được đánh giá cao nhất (4,173/5) có tác động đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương và đây cũng là nhân tố được sự thống nhất của người trả lời
với độ lệch chuẩn 0,830. Riêng nhân tố Chu kỳ - Vị trí có mức độ đồng ý thấp nhất
trong mẫu nghiên cứu này (3,570/5).
4.8.
4.8.1 Kết quả mô hình
63
của chính quyền
bền vững tài chính của chính quyền
của chính quyền địa phương.
d
của chính quyền địa phương làm biến phụ thuộc.
Như đã trình bày, phân tích hồi quy được sử dụng để kiểm định mô hình
nghiên cứu với kỹ thuật ước lượng bình phương bé nhất (OLS) được sử dụng để
ước lượng các tham số của mô hình. Ngoài ra, các tiêu chuẩn kiểm định trong OLS
cũng được sử dụng để đánh giá độ phù hợp của mô hình.
Bảng dưới trình bày kết quả kiểm định mô hình lý thuyết về mối quan hệ
tuyến tính giữa các nhân tố Quy mô của chính quyền địa phương, Năng lực quản lý
tài chính của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân sách, Cấu trúc dân cư, Nền
tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu trúc nguồn thu ngân sách với tính bền
vững tài chính của chính quyền địa phương.
Bảng 4.20. Kiểm định kết quả các nhân tố ảnh hƣởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phƣơng
VIF
Kỳ vọng
Hệ số chuẩn hóa
Kết quả kiểm định Ho
Dấu kết quả hồi quy
Giá trị P
Dương
Dương
0,179*** 0,002
Dương
Dương
0,074 0,248
Chấp nhận 1,085
Dương
Dương
0,261*** 0,000
Bác bỏ 1,321
Dương
Âm
-0,126**
0,048
Chấp nhận 1,321
Dương
Dương
0,129*
0,058
Chấp nhận 1,306
Chấp nhận 1,488
Giả thuyết nghiên cứu QMCQ BVNS QLTC BVNS PCNS BVNS CTDC BVNS NTKT BVNS
Dương
Âm
-0,028
0,661
64
Dương
Dương
0,376*** 0,000
1,288 Bác bỏ
CKVT BVNS CTNS BVNS
1,365 Chấp nhận
Các kiểm định R2 R2 hiệu chỉnh Thống kê F (sig)
0,411 0,390 19,140 (0,000)
Ghi chú: Ký hiệu: * biểu thị P < 10%, ** biểu thị P < 5%, *** biểu thị P < 1%.
Dữ liệu thực nghiệm chỉ ra rằng, Kết quả ước lượng các hệ số ước lượng
chuẩn hóa của các tham số β1 = 0,179, β3 = 0,261, β7 = 0,376 có ý nghĩa thống kê ở
mức 1%; β4 = -0,126 có ý nghĩa thống kê ở mức 5%; β5 = 0,129 có ý nghĩa thống kê
ở mức 10%. Kết quả này cho thấy các biến độc lập: Quy mô của chính quyền địa
phương (QMCQ), Phân cấp ngân sách (PCNS), Nền tảng kinh tế địa phương
(NTKT), Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS) đều có tương quan dương với tính
bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Cấu trúc dân cư (CTDC) có tương
quan âm với tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, kết
quả thực nghiệm này chưa đủ bằng chứng để chứng mình cho giả thuyết về ảnh
hưởng của Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương (QLTC) và Chu
kỳ - Vị trí (CKVT) đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương
(BVTC).
2
2
4.8.2.
h của
quyền địa phương, Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, Phân
cấp ngân sách, Cấu trúc dân cư, Nền tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu
trúc nguồn thu ngân sách.
65
4.8.3.
4.8.4.
Spearman's rho Hệ số tương quan hạng Sig. (2-tailed) Số quan sát
ABSRE
Bảng 4.21. p
4.8.5. n dƣ
-P Plot.
66
Hình 4.11
- -
Hình 4.12 y P-P Plot
Kết luận chương 4
Chương này mô tả quy trình nghiên cứu định lượng các nhân tố ảnh hưởng
đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Từ lý thuyết và lược khảo
công trình nghiên cứu liên quan, tác giả đã thiết kế nghiên cứu, xây dựng thang đo,
67
kiểm định thang đo, kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Với
Cronbach’s Alpha đủ lớn và thông qua EFA, các thang đo đã được kiểm định độ tin
cậy và sự phù hợp: Bảy nhân tố độc lập gồm Quy mô của chính quyền địa phương,
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân sách, Cấu
trúc dân cư, Nền tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu trúc nguồn thu ngân
sách với 23 biến quan sát đã được kiểm định đủ điều kiện đo lường.
Kết quả kiểm định mô hình bằng phân tích hồi quy bằng phương pháp bình
phương bé nhất (OLS) đã ủng hộ 5 giả thuyết (H1, H3, H4, H5, H7) và có 4 nhân tố
có ảnh hưởng dương (Quy
sách có tác động mạnh nhất đến tính
bền vững tài chính của chính quyền địa phương trong mẫu khảo sát này. Nhân tố
Cấu trúc dân cư có tác động thấp nhất đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương.
Chương 5 sẽ nhận định kết quả nghiên cứu, nêu những thành công, hạn chế
của nghiên cứu, đồng thời khuyến nghị những giải pháp cơ bản và đề xuất hướng
nghiên cứu tiếp theo.
68
NHẬN ĐỊNH VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
CHƢƠNG 5.
Sau khi đã trình bày kết quả nghiên cứu, phần này sẽ đưa ra những nhận định
về kết quả nghiên cứu và gợi ý về mặt chính sách.
5.1. Nhận định từ kết quả nghiên cứu
định của mô hình bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS), có
thể rút ra nhận định sau đây từ kết quả nghiên cứu.
Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS)
Cấu trúc nguồn thu ngân sách có ảnh hưởng mạnh nhất đến tính bền vững của
tài chính chính quyền địa phương. Hệ số hồi quy chuẩn hóa của nhân tố này là
0,376. Nhân tố này gồm 03 biến quan sát: Số thu cao từ nội địa sẽ ảnh hưởng đến
tính bền vững của tài chính địa phương (CTNS2), Số thu cao từ hoạt động xổ số sẽ
ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính địa phương (CTNS3), Số thu cao từ
chuyển nguồn hoặc kết dư ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính
địa phương (CTNS4). Như vậy kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Gorina (2013), Huỳnh Thế Du (2014), Abt Associates Inc. (1994, León (2001).
Hầu hết 13 tỉnh thuộc Vùng Tây-Nam bộ trong đó có tỉnh Long An đều có xổ
số và toàn bộ số thu từ xổ số để lại 100% cho ngân sách địa phương gồm: thuế tiêu
thụ đặc biệt từ xổ số, thuế giá trị gia tăng từ xổ số và thuế thu nhập doanh nghiệp từ
xổ số. Bên cạnh đó Long An có số thu từ các khoản thuế liên quan đến nhập khẩu
và xuất khẩu tăng tương đối cao trong những năm gần đầy. Tất cả điều đó góp phần
không nhỏ vào việc tạo ra và củng cố bền vững tính bền vững cho ngân sách nhà
nước cấp địa phương hiện tại và tương lai.
Cấu trúc và hoạt động tài chính là một biến số quan trọng có thể ảnh hưởng
đến cán cân thu, chi thuộc tài chính địa phương. Cơ cấu nguồn thu da dạng sẽ giúp
địa phương dễ xoay trở hơn. Nếu đa dạng hóa dẫn đến thâm hụt ngân sách ít hơn,
kết quả này cần cho việc hướng dẫn khuyến nghị chính sách cho chính quyền trung
ương tìm cách tăng cường vị thế tài chính cho địa phương. Nếu đa dạng hóa nguồn
69
thu dẫn đến thâm hụt ngân sách nhiều hơn, sau khi chính quyền địa phương cố gắng
đa dạng hóa cần phải nhận thức được hiệu ứng này và có thể cân nhắc lợi ích của đa
dạng hóa (thu bổ sung) đối với chi phí của nó (thâm hụt tiềm năng) một cách cẩn
thận hơn.
Tất cả những điều trên đã gợi ý rất nhiều về chính sách nhằm đảm bảo tính
bền vững của tài chính địa phương. Chúng tôi sẽ thảo luận gợi ý này ở phần tiếp
sau.
Phân cấp ngân sách (PCNS)
Phân cấp ngân sách (PCNS) có tác động đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương đứng ở vị trí thứ hai với hệ số hồi quy chuẩn hóa 0,261.
Phân cấp ngân sách (PCNS) có ảnh hưởng quan trọng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương. Nhân tố này được đo lường thông qua 03 biến
quan sát: Tỷ lệ phân chia nguồn thu với ngân sách trung ương cao sẽ ảnh hưởng đến
tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (PCNS1), Thường xuyên nhận
bổ sung trong cân đối từ ngân sách trung ương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương (PCNS2), Thường xuyên nhận bổ sung có mục
tiêu từ ngân sách trung ương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương (PCNS3). Như vậy, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
León (2001).
Tại Việt Nam, trong thời kỳ 2011-2015 có 50 địa phương không tự cân đối
được ngân sách và phải nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương. Tỉnh Thanh
Hóa đứng đầu các địa phương nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương với 6.503 tỷ
đồng, bằng 40% tổng cân đối chi trong năm; tỉnh Nghệ An nhận trợ cấp 5.138 tỷ
đồng, bằng 37,5% tổng chi; tỉnh Nam Định nhận trợ cấp 3.249,5 tỷ đồng, tức xấp xỉ
50% tổng chi; tỉnh Thái Bình nhận trợ cấp 2.753,9 tỷ, bằng 41% tổng chi; Trà Vinh
nhận trợ cấp 2.078 tỷ, bằng 50% tổng chi; tỉnh Lào Cai nhận trợ cấp 2.160 tỷ
đồng.… Thậm chí, dù là những địa phương dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa hàng
năm với từ 3 đến 4 triệu tấn mỗi tỉnh và đóng góp chủ yếu vào lượng gạo xuất khẩu
cả nước như tỉnh An Giang vẫn phải nhận trợ cấp 2.019 tỷ đồng bằng 32,5% tổng
70
chi, tỉnh Kiên Giang nhận trợ cấp 1.992 tỷ đồng bằng 33% tổng chi, tỉnh Đồng Tháp
nhận trợ cấp 1.174 tỷ đồng bằng 21,7% tổng chi, và tỉnh Hậu Giang nhận trợ cấp
1.254 tỷ đồng bằng 47% tổng chi. Ngân sách tỉnh Long An thuộc danh sách này với
mức nhận trợ cấp 1.765 tỷ đồng xấp xỉ 20% tổng chi.
Ngược với danh sách trên là 13 địa phương có số thu trên địa bàn lớn và điều
tiết về trung ương là thành phố Hồ Chí Minh với tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung
ương là 77%, theo sau và cách xa là Bình Dương với tỷ lệ 60%, thành phố Hà Nội
58%, Bà Rịa-Vũng Tàu 56%, Đồng Nai 49%, Vĩnh Phúc 40%, Quảng Ngãi 39%,
Quảng Ninh 30%, Khánh Hòa 23%, Đà Nẵng 15%, Hải Phòng 12%, Cần Thơ 09%,
và Bắc Ninh 07% (xem hình 5.1).
Hình 5.1: 13 địa phƣơng điều tiết về ngân sách trung ƣơng
(Nguồn: Số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2013, Bộ Tài chính)
5.2.
Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ)
Quy mô của chính quyền địa phương (QMCQ) giữ vị trí thứ ba trong tác động
đến tính bền vững của tài chính địa phương với hệ số hồi quy là 0,179. Nhân tố này
được đo lường qua 05 biến quan sát: Nhiều cơ quan nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính
bền vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ1), Nhiều nhân viên trong
biên chế nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa
71
phương (QMCQ2), Tỷ lệ cao của nhân viên trong khu vực nhà nước so với dân số
địa phương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương
(QMCQ3), Nhiều đoàn thể nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của
chính quyền địa phương (QMCQ4), Việc ra đời nhiều cơ quan sự nghiệp công lập
ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ5). Kết
quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của León (2001). Tổ chức và hoạt động của
chính phủ gồm: Nhân viên; nhân viên toàn thời gian; nhân viên quản lý tài chính;
Số lượng người hưởng lương hưu; công ty cấp nước; cứu hỏa, công ty xử lý chất
thải rắn, nước thải; nhà cung cấp điện, cung cấp khí ga, vận chuyển.
Các phát hiện cho thấy sự gia tăng số lượng nhân viên toàn thời gian có sự liên
quan nghịch biến với mức kinh phí về nghĩa vụ lương hưu. Chính quyền có nguồn
nhân sự dồi dào ở phòng ban tài chính có vẻ như không quản lý nguồn kinh phí
lương hưu hiệu quả hơn chính quyền có lực lượng nhân sự “khiêm tốn” hơn. Sự
chuyên môn hóa và giám sát ở mức cao hơn việc sử dụng các nguồn lực cho các
chương trình khác nhau không làm tăng hiệu suất. Theo dự đoán, số lượng kế hoạch
lương hưu mà chính quyền có tham gia và tỷ lệ phần trăm các nhân viên toàn thời
gian gây ra sức ép tiêu cực lên mức kinh phí hưu trí.
Điều quan trọng phải nhìn nhận đó là quản lý tài chính của địa phương với ưu
tiên duy trì sự bền vững tài khóa có thể mâu thuẫn với quản lý ngân sách được định
hướng theo hướng cải thiện cung cấp dịch vụ hoặc/và đáp ứng các ý thích của người
dân. Nói cách khác, chính quyền ít “hào phóng” hơn, có sự thận trọng về tài
chính,có thể có khả năng bền vững tài khóa cao hơn. Trong khi thắt chặt ngân sách
có thể là một phương thuốc cho các vấn đề về tài khóa, nó có thể không phải là một
nền tảng hoàn toàn chuẩn mực trong cung cấp dịch vụ công. Một câu hỏi gây tranh
cãi cho các nhà quản trị công không phải là làm sao để tối thiểu hóa chi tiêu mà là
làm thế nào để cung cấp ở mức tối ưu các dịch vụ công một cách hiệu quả.
Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT)
Nền tảng kinh tế địa phương (NTKT) giữ vị trí thứ tư trong tác động đến tính
bền vững tài chính của chính quyền địa phương với hệ số hồi quy là 0,129. Nhân tố
72
này được đo lường qua 03 biến quan sát: Kinh tế địa phương da dạng, đa ngành sẽ
ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (NTKT1), GDP
của địa phương lớn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa
phương (NTKT2), Địa phương có cửa khẩu lớn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài
chính của chính quyền địa phương (NTKT3). Nghiên cứu của Huỳnh Thế Du
(2014), Abt Associates Inc. (1994) cũng cho thấy nền tảng kinh tế địa phương có
ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.
Năm 2015, 10 địa phương dẫn đầu cả nước về dự toán tổng thu ngân sách đều
là những địa phương có nền tảng kinh tế mạnh: thành phố Hồ Chí Minh (dự toán thu
266.776 tỷ đồng), Hà Nội (141.690 tỷ đồng), Bà Rịa - Vùng Tàu (118.650 tỷ đồng),
Hải Phòng (48.275 tỷ đồng), Đồng Nai (37.215 tỷ đồng), Quảng Ninh (35.815 tỷ
đồng), Quảng Ngãi (33.190 tỷ đồng), Bình Dương (32.624 tỷ đồng), Vĩnh Phúc
(21.990 tỷ đồng), Khánh Hòa (14.850 tỷ đồng). 3 địa phương khác chưa phải là tỉnh
công nghiệp, dịch vụ nhưng có số thu lớn và điều tiết về ngân sách trung ương, đó
là Quảng Ngãi (có Nhà máy Lọc hóa dầu Bình Sơn và khu công nghiệp Dung Quất),
Bắc Ninh (tổng thu 13.306 tỷ đồng, có khu công nghiệp Samsung), Hà Tĩnh (9.760
tỷ đồng, có khu kinh tế Vũng Áng)...
Long An là một địa phương có nền tảng kinh tế chưa mạnh và cơ cấu kinh tế
chưa thể coi là một tỉnh công nghiệp, dịch vụ. Tổng sản phẩm năm 2014 của Long
An đạt 19.524,6 tỷ đồng, tăng trưởng 11% so với năm trước. Khu vực nông, lâm,
thủy sản chiếm tỷ trọng 27,3%, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 41,5%, khu
vực thương mại, dịch vụ chiếm 31,2%. GDP bình quân đầu người năm 2014 khoảng
44,5 triệu đồng/người/năm.
Cấu trúc dân cƣ (CTDC)
Cấu trúc dân cư (CTDC) cũng tác động nhưng nghịch biến đến tính bền vững
của tài chính địa phương với hệ số hồi quy là -0,126. Nhân tố này bao gồm 03 biến
quan sát: Nhiều người nghèo trên địa bàn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương (CTDC2), Nhiều người về hưu sẽ ảnh hưởng đến tính
73
bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTDC3), Nhiều người có việc làm
sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTDC4).
Nhân tố cấu trúc dân cư có tác động âm đến tính bền vững tài chính của chính
quyền địa phương là hoàn toàn hợp lý vì nhiều người nghèo trên địa bàn và nhiều
người về hưu sẽ khiến ngân sách địa phương phải chi trợ cấp, trợ giá trong khi nhiều
người có việc làm chưa chắc đã nộp nhiều thuế thu nhập cá nhân vì mức khấu trừ
gia cảnh tương đối cao (9 triệu đồng/tháng cho bản thân người nộp thuế cộng với
4,5 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc).
Ngoài ra, từ kết quả ước lượng cho thấy, chưa có bằng chứng để chứng minh
Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương (QLTC) và Chu kỳ - Vị trí
(CKVT) tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (BVTC).
Nhân tố Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương tác động không có
ý nghĩa thống kê đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương là một
phát hiện thực chứng gây nhiều suy nghĩ. Thứ nhất, có thể vì mọi khoản thu, chi đều
theo chế độ, chính sách nên không cần có năng lực quản lý để “thu vén tấm chiếu
ngân sách” vốn nhỏ bé so với nhu cầu chi đa dạng và tăng nhanh. Thứ hai, nhân sự
tại cơ quan tài chính các cấp cũng không cần thiết cạnh tranh bằng năng lực mà vẫn
được lưu lại làm việc miễn tuân thủ chính sách vốn cồng kềnh, xơ cứng và chậm đổi
mới theo những biến động của cuộc sống.
5.3. Gợi ý chính sách
Trước khi đề xuất khuyến nghị về mặt chính sách, cần phải thảo luận những
quan điểm bền vững tài chính cấp chính quyền địa phương nhằm xác định bộ khung
và phương hướng cho bền vững.
5.2.1 Quan điểm bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng
Quan điểm toàn diện
Chính quyền địa phương là một đơn vị hành chính thực thi nhiều nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật, quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng
74
và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh7. Nên
không thể xem xét vấn đề bền vững tài khóa của chính quyền địa phương chỉ từ góc
độ kinh tế mà phải xuất phát từ quan điểm tổng hợp: quốc phòng - an ninh, an toàn -
an sinh xã hội – phúc lợi cộng đồng - kinh tế.
Bền vững tài chính của chính quyền địa phương không thể tồn tại nếu chủ
quyền đất nước bị đe dọa và an ninh nội địa không chu đáo trong khuôn khổ nguồn
lực giới hạn. Qua từng giai đoạn cụ thể sẽ có những khoản chi mang tính ưu tiên
chiến lược khác nhau. Long An có đường biên giới hơn 130 km với Cam-pu-chia
nên duy trì một khoản chi cho quốc phòng là cần thiết và hợp lý.
Phải đảm bảo công bằng giữa các địa phƣơng về định mức, tiêu chuẩn,
chế độ thu, chi ngân sách
Mỗi chính quyền địa phương là một bộ máy với nhiều cơ quan tham mưu chức
năng. Mọi định mức về tiền lương, phụ cấp, công tác phí, chính sách xã hội, lương
hưu … và định mức chi khác về phúc lợi cộng đồng, bảo vệ môi trường,… phải
theo tiêu chuẩn chung của cả nước. Không thể vì thu ít mà cắt giảm những định
mức này nhằm cân đối ngân sách địa phương. Những địa phương trung tâm kinh tế
và/hoặc cửa ngõ giao thương với nước ngoài, phát sinh nhiều giao dịch chịu thuế
trên địa bàn mặc dù những giao dịch đó thuộc doanh nghiệp địa phương khác, nên
thu được nhiều thì phải điều chuyển một phần về trung ương. Đó là đạo lý. Địa
phương còn lại, số thu ngân sách ít song vẫn phải đảm bảo chính sách xã hội, giữ
gìn quốc phòng và an ninh, trật tự xã hội, thì nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương
là hợp lý.
Không đƣợc lạm thu dẫn đến can kiệt nguồn thu của mọi thế hệ tƣơng lai
Bản chất của bền vững tài khóa là phải duy trì được nguồn lực cho mọi thế hệ
công dân cùng sử dụng và phải cung cấp đầy đủ những dịch vụ công đã cam kết cho
mọi thế hệ công dân. Mặc dù không có thế hệ hiện tại thì không tồn tại thế hệ tương
lai, song thế hệ đương thời không được lạm quyền để vắt kiệt các nguồn thu. Chính
quyền địa phương cũng không nên vì nhiệm kỳ mà tranh thủ thu và chi hoặc mở
7 Điều 17 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2015.
75
rộng nhân sự khu vực nhà nước gây hại đến không gian tài khóa (fiscal space8) cho
nhiều nhiệm kỳ sau.
Không nên sử dụng ngân sách nhà nƣớc cấp vốn bổ sung cho doanh
nghiệp nhà nƣớc
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh bất kể doanh nghiệp nhà nước hay
ngoài nhà nước nên phải tự cân đối vốn từ nguồn tự có và/hoặc vay ngân hàng. Nếu
doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn thì chọn các giải pháp: vay dài hạn ngân hàng, cổ
phần hóa, sáp nhập vào công ty khác, cho thuê, …, thậm chí giải thể. Ngân sách nhà
nước hình thành từ tiền nộp thuế của người dân nên chỉ có thể sử dụng sản xuất ra
những hàng hóa công, dịch vụ công đại chúng. Việc dùng ngân sách bổ sung vốn
cho các doanh nghiệp nhà nước mà không kèm theo đòi hỏi quyết liệt về chi phí sử
dụng vốn ngân sách sẽ gây tâm lý ỷ lại và tạo mảnh đất “ươm mầm” tham nhũng.
Xác định các khoản chi mang tính ƣu tiên chiến lƣợc qua từng giai đoạn
Tùy từng địa phương và tùy từng giai đoạn phát triển, mỗi chính quyền địa
phương nên xác định các khoản chi mang tính ưu tiên chiến lược. Có thể giai đoạn
05 năm này ưu tiên chi cho giảm nghèo, giai đoạn 05 năm sau ưu tiên chi cho chăm
sóc sức khỏe ban đầu của bà mẹ và trẻ em,…Hoặc là giai đoạn 05 năm này ưu tiên
chi cho giáo dục, giai đoạn 05 năm sau ưu tiên chi bảo vệ nhóm người dễ bị thương
tổn hay phát triển giao thông liên thông, xã,…. Nhiệm kỳ này làm chưa xong thì
nhiệm kỳ sau làm tiếp. Thế hệ này làm chưa xong thì thế hệ sau làm tiếp. Không
nên rải đều nguồn lực cho tất cả lĩnh vực: chính sách xã hội, giáo dục, y tế cộng
đồng, hạ tầng giao thông, xử lý rác thải, bảo vệ môi trường, thủy lợi, văn hóa, thể
thao,…cùng một lúc.
Đổi mới quy trình lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán ngân sách
Nên áp dụng quy trình soạn lập ngân sách nhà nước cấp trung ương và cấp địa
phương theo kết quả (out-put based budgeting) thay vì đang lập theo khoản mục
(line-item budgeting) như hiện nay. Phương pháp lập ngân sách theo kết quả đáp
8 Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa không gian tài khóa là room in a government´s budget that allows it to provide resources for a desired purpose without jeopardizing the sustainability of its financial position or the stability of the economy. (http://www.imf.org/external/pubs/ft/fandd/2005/06/basics.htm)
76
ứng được những phúc lợi xã hội mà chính quyền mong muốn, xây dựng được bộ
khung chi tiêu và cả việc minh bạch trong chi tiêu.
Quy trình ngân sách theo kiểu truyền thống dựa trên cơ sở tổng nguồn lực hiện
có và hệ thống các chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành để xây dựng dự toán và
phân bổ ngân sách, không gắn giữa kinh phí đầu vào với kết quả đầu ra, chỉ quan
tâm đến lợi ích trước mắt, thiếu tầm nhìn trung hạn, ngân sách bị phân bổ dàn trải.
Phương pháp soạn lập như vậy tất yếu dẫn đến tình trạng khó kiểm soát và khó đạt
hiệu quả khi cung cấp dịch vụ công. Cần đổi mới một cách cơ bản quy trình này
theo tư duy và phương pháp hiện đại, dựa vào kết quả đầu ra và gắn với tầm nhìn
trung hạn.
Việc lập một kế hoạch ngân sách trung hạn, trong đó hướng đến sự cân bằng
giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư và cơ cấu lại nguồn thu, trong đó
đặc biệt chú trọng đối với kế hoạch chi tiêu trung hạn là việc cần làm để bảo đảm sự
bền vững của nền tài chính quốc gia nói chung và tài chính địa phương nói riêng.
Việc xây dựng ngân sách trên cơ sở trung hạn sẽ đảm bảo việc phân bổ ngân sách
gắn với các chiến lược và định hướng phát triển trong từng thời kỳ, phản ánh được
thứ tự ưu tiên trong phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước đối với từng ngành, từng
lĩnh vực, cũng như hạn chế được phân bổ nguồn lực dàn trải, phân tán.
5.2.2 Hàm ý chính sách
Xuất phát từ kết quả nghiên cứu và từ quan điểm bền vững tài chính của chính
quyền địa phương nêu trên, Luận văn gợi ý về chính sách như sau.
5.2.2.1 Hình thành một cấu trúc nguồn thu địa phương đa dạng và linh hoạt
trên cơ sở khơi thông mọi nguồn lực tài chính.
Một cách chi tiết, ngân sách địa phương bao gồm những khoản thu sau:
- Thu từ thuế;
- Thu từ lệ phí và phí (user fee);
- Thu từ quyền sử dụng đất và công sản
- Vay nợ địa phương;
- Thu kết dư;
77
- Thu viện trợ không hoàn lại và các khoản biếu tặng;
- Thu từ ngân sách trung ương.
Trong các khoản thu trên, thuế giữ vị trí trung tâm và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cấu trúc nguồn thu của bất kỳ địa phương nào kể cả Long An phải dựa trên nền
tảng thuế. Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước mà thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh tế, về sự công
bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Thuế nên hình thành từ giá trị gia tăng
do nền kinh tế cả nước và địa phương tạo ra. Vì vậy, tái cơ cấu kinh tế vùng và địa
phương nhằm khơi thông mọi nguồn lực đồng thời tạo ra nhiều cơ sở thuế (tax base)9, được xem là giải pháp bắt buộc. Song điều đó sẽ chỉ có hiệu quả nếu được cụ
thể hóa bằng hệ thống cơ chế, chính sách và giải pháp thực thi phù hợp từng ngành,
vùng, địa phương kể cả khu vực kinh doanh.
Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy chính phủ Nhật Bản đã tìm cách để thúc đẩy
phát triển bền vững tài chính của chính quyền địa phương thông qua cải cách hệ
thống phân chia nguồn thu và hệ thống thuế địa phương (tác giả Luận văn nhấn
mạnh). Thảo luận về cải cách Hệ thống phân chia nguồn thu địa phương của Nhật
Bản là tập trung vào việc giảm sự phụ thuộc vào trái phiếu địa phương ngắn hạn,
điều chỉnh trợ cấp địa phương thông qua việc xác định nhu cầu tài chính địa
phương, theo đuổi phân quyền địa phương thông qua việc áp dụng các hệ thống
chuyển giao tài chính ngang, và tăng cường trách nhiệm quản lý tài chính địa
phương. Mặt khác, các nhiệm vụ liên quan đến hệ thống thuế ở địa phương là điều
chỉnh sự phân bổ của quốc gia và địa phương nguồn thu. Năm 2006, Chính phủ
Nhật Bản đã tiến hành chuyển giao các nguồn thu 3 nghìn tỷ JPY cho các chính
quyền địa phương, và biện pháp để cải thiện tỷ lệ thuế địa phương về thu nhập thuế và thuế cá nhân cư trú thông qua việc cải cách “trinity” năm 200610.
9 Cơ sở thuế là những giá trị nhân với thuế suất để ra nghĩa vụ thuế, chứ không phải là những tổ chức hay cá nhân nộp thuế. Nghĩa vụ thuế = Cơ sở thuế × Thuế suất 10 Kim, Lee and Suh (2014)
78
Trong dài hạn là phải thực hiện loại bỏ tâm lý “free lunch” hay “free rider”,
tức là thụ hưởng hàng hóa công, dịch vụ công mà không trả tiền. Phí và lệ phí phải
được sử dụng một cách phổ biến và có sự kết nối rõ ràng với lợi ích, mục tiêu của
một chương trình. Trước mắt sử dụng phí cầu đường và người sử dụng trả phí khi
tham gia giao thông.
Cho phép các địa phương được tự chủ hơn trong việc huy động vốn đầu tư,
trong đó có quyền phát hành trái phiếu địa phương đầu tư cho những dự án mà đầu
ra có thu phí. Ngoài ra, các khoản viện trợ quốc tế được xem là nguồn vốn quan
trọng bổ sung cho nguồn vốn đang thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển; vấn đề quan trọng là địa phương nhận đựơc nguồn viện trợ này cần có
phương án sử dụng có hiệu quả, tránh việc sử dụng sai mục đích dẫn đến lãng phí
nguồn thu này.
Đi đôi với điều chỉnh cơ cấu kinh tế địa phương, khơi thông nguồn lực và phát
triển nguồn thu mới để tăng thu cho ngân sách, cần coi trọng công tác chống thất
thu thuế, thực hiện thu đúng, thu đủ nghĩa vụ thuế theo luật định vào ngân sách.
Kiểm soát việc miễn giảm thuế để thu hút đầu tư tại địa phương, cũng như tự ý đặt
các khoản thu ngoài quy định của Chính phủ. Kiểm soát nợ thuế tồn đọng kéo dài;
tăng cường hiệu lực kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp
vi phạm như trốn lậu thuế, gian lận thương mại …
5.2.2.2 Cải tiến phân cấp ngân sách nhà nước
Nếu không xác định lại cơ cấu phân chia nguồn thu thì sẽ không có động lực
thúc đẩy các tỉnh thành cải cách cơ cấu và cải cách hành chính. Ngân sách trung
ương không trợ cấp cho ngân sách địa phương một cách chung chung mà chỉ nên bổ
sung cân đối có khuôn khổ tùy theo ưu tiên chiến lược của địa phương như giảm
nghèo, giáo dục và y tế. Những lĩnh vực khác như xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở
văn hoá-thể thao-du lịch thì nên xem xét xã hội hóa theo hướng hợp tác công -tư
(PPP). Cơ chế phân bổ ngân sách cần được làm rõ và thông tin cho người dân biết
để tạo đồng thuận trong xã hội.
79
Mặc dù số thu trên địa bàn cao, nhưng phải điều tiết nhiều về ngân sách trung ương nên thành phố Hồ Chí Minh11 vẫn phải tìm mọi cách cân đối ngân sách nhà
nước cho tình trạng quá tải về đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục...
mặc dù hàng năm tỷ lệ điều tiết ngân sách về trung ương lớn nhất cả nước. Ngược
lại, nhiều địa phương vẫn thường xuyên nhận trợ cấp ngân sách từ trung ương, tính
năng động sáng tạo bị triệt tiêu, tâm lý ỷ lại trông chờ ngày càng nảy nở. Điều gì sẽ
xảy ra với toàn hệ thống ngân sách nhà nước nếu Chính phủ tăng tỷ lệ giữ lại các
khoản thu phân chia cho 13 tỉnh, thành khi bước vào thời kỳ ổn định ngân sách
mới?
Nên cân đối ngân sách địa phương cần theo nguyên tắc lấy thu thường xuyên
từ trong nội bộ kinh tế địa phương để chi thường xuyên và đảm bảo chi thường
xuyên phải nhỏ hơn khoản thu thường xuyên. Để đảm bảo được nguyên tắc này,
ngân sách nhà nước cấp địa phương phải được phân cấp một số khoản thu và chi
phù hợp với yêu cầu phát triển chung của cả nước, đồng thời phù hợp với nhu cầu
mỗi địa phương. Việc phân cấp đó phải thực hiện theo hướng ngân sách nhà nước là
thống nhất, sự phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi phải ổn định lâu dài, phát huy tính
chủ động, sáng tạo của địa phương, nhưng đồng thời tránh tình trạng phân chia
quyền lực giữa trung ương và địa phương, tránh việc địa phương tự ý đề ra các chế
độ, chính sách để chi cho riêng mình.
Báo cáo Toàn cầu về Phi tập trung hóa và Dân chủ Địa phương năm 2010 của
tổ chức Chính quyền Địa phương và Liên Minh Đô thị (United Cities and Local
Governments, UCLG) cho thấy ở các quốc gia khác nhau, phạm vi nguồn thu phân
chia và tỷ lệ phân chia cũng được xác định khác nhau. Các loại thuế được phân chia
giữa trung ương và địa phương thường bao gồm các loại thuế như thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp. Một số quốc gia phân chia
nguồn thu từ một số loại thuế đặc thù. Ví dụ ở Úc, ngoài thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng còn bao gồm t
11 Thời kỳ ổn định ngân sách 2011-2015, đối với nguồn thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ giữ lại thấp nhất, tiếp sau là Bình Dương, Hà Nội....
80
doanh chứng khoán, thuế tài nguyên.
Bảng 5.1: Các loại thuế phân chia giữa trung ƣơng và địa phƣơng ở một
số quốc gia
Loại thuế phân chia Quốc gia
Thuế thu nhập cá nhân Bồ Đào Nha, Cộng hòa Xlô-va-ki-a, Ét-xtô-ni-a,
Đức, Trung Quốc, Hung-ga-ri, Lát-vi-a, Li-thua-ni-
a, Úc, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni, In-đô-nê-xia, Ba Lan
Thuế thu nhập doanh Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Trung Quốc, Na Uy,
nghiệp Úc, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Phi-líp-pin
Thuế giá trị gia tăng Trung Quốc, Úc, Cộng hòa Séc, Ru-ma-ni, Phi-líp-
pin
Thuế tài nguyên Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin
Thuế xăng dầu Pháp, Úc
Thuế trên đầu tư Đức
Thuế khoán trên hoạt Trung quốc
động kinh doanh chứng
khoán
Thuế phương tiện mô-tô Hung-ga-ri
Thuế ô nhiễm Li-thua-ni-a
(Nguồn: UCLG, 2010)
Phân chia nguồn thu được tiếp cận theo nguyên tắc cơ sở nguồn gốc hay nơi
phát sinh, điều này có nghĩa là các loại thuế được phân chia cho địa phương nơi
phát sinh nguồn thu loại thuế đó. Nguyên tắc này có ưu điểm làm gia tăng quyền tự
chủ cho chính quyền địa phương và giải quyết vấn đề mất cân đối theo chiều dọc,
tuy nhiên nó dẫn đến mất cân bằng nguồn thu giữa các địa phương có nguồn thu lớn
và các địa phương có nguồn thu nhỏ hơn.
Sử dụng “cơ sở nguồn gốc” hoặc “nơi phát sinh” như một yếu tố để quy định
nguồn thu phân chia Một số quốc gia sử dụng nguyên tắc cơ sở nguồn gốc để phân
81
chia nguồn lực với chính quyền địa phương và cơ cấu phân chia dựa trên cơ sở
nguồn thu (nơi phát sinh nguồn thu).
Tại Ni-giê-ri-a, thuế giá trị gia tăng được phân phối cho chính quyền địa
phương dựa trên tiêu chí: 50% số thuế giá trị gia tăng được phân chia giữa các chính
quyền địa phương (30% dựa trên dân số và 20% dựa trên cơ sở nguồn gốc thu).
Ngoài ra, trong số 13% các nguồn thu tài nguyên (không phải dầu mỏ) chuyển giao
cho trung ương thì 30% sẽ được hoàn lại cho chính quyền địa phương dựa trên cơ
sở nguồn gốc khoản thu.
Tại Cộng hòa dân chủ Công-gô, Hiến pháp quy định một nguyên tắc để phân
bổ 40% số thuế quốc gia (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập
doanh nghiệp…) dựa trên cơ sở nguồn gốc theo lãnh thổ và cho các tỉnh. Ở Ga-
bông, chính quyền trung ương chuyển giao tỷ lệ phần tăng thuế thu nhập cá nhân
dựa trên số thu chính quyền địa phương thu được. Phân bổ như sau: 25% cho các
thành phố, 7% cho các quỹ cân bằng của các thành phố, 68% đối với các bang, đối
với các cấp trung gian, tỷ lệ phân phối là 65% cho chính quyền địa phương, 7% cho
các quỹ cân bằng và 28% cho chính quyền trung ương.
Ở Sê-nê-gan, nguyên tắc nguồn gốc bản chất được sử dụng để trả lại nguồn
thu thuế quốc gia như sau: 59% thuế đánh vào phương tiện giao thông, 50% giá trị
tăng lên của bất động sản, 60% phí phạt của tòa án trên lãnh thổ của chính quyền
thành phố và chính quyền nông thôn quản lý.
Tại Mê-hi-cô, các bang được yêu cầu phân phối cho các đô thị của họ ít nhất
20% thu nhập mà họ nhận được từ nguồn thu được phân chia từ các quỹ liên bang.
Mê-hi-cô cũng có một khoản trợ cấp liên bang chiếm tỷ lệ 1% trong nguồn thu của
liên bang được phân phối trên cơ sở khoản thu cho các thành phố trực thuộc trung
ương. Ở Bra-xin cũng có một hệ thống phân chia 25% các khoản thu thuế giá trị gia
tăng tại các bang, trong đó phân phối 75% trên cơ sở nguồn gốc theo giá trị gia tăng
trong các thành phố và 25% còn lại dựa trên công thức được xác định trên các biến
dân số, diện tích đất và các biến số khác…
5.2.2.3 Kiểm soát quy mô của chính quyền địa phương
82
Nên định biên khu vực nhà nước, tinh giản biên chế
Định biên nhân sự hay hoạch định nhân sự (human resource planning - HR
planning) là hành động phổ biến trong mọi tổ chức công hay tư. Đó là quá trình lập
kế hoạch về nhu cầu nhân sự trong một khoảng thời gian nhất định (về mô tả công
việc, vị trí công việc, chức danh...) để xác định được số lượng nhân sự cấn thiết
trong trương lai. Mặc dù định biên nhân sự ko phải là công việc đơn giản, bởi vì nó
còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: sự ổn định của tổ chức, sự biến động của môi
trường bên ngoài tổ chức, áp lực phi chính thức,.... song bắt buộc phải làm nhằm
kiểm soát nhân sự hiện tại và tương lai.
Có thể vì định biên nhân sự cấp địa phương chưa tốt nên nhân tố Năng lực
quản lý tài chính của chính quyền địa phương tác động đến tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương không mang ý nghĩa thống kê. Nếu định biên nhân sự
tốt thì sao?
Thực thi kỷ luật tài khóa cấp địa phương
Phân loại mọi nguồn thu để nắm chắc và sử dụng đúng mục đích. Số thu từ
thuế, phí, lệ phí và các thu liên quan đến nhà và đất được bố trí chi cho con người,
thực hiện cách chính sách an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, đảm bảo
cân đối bền vững và an toàn hệ thống tài chính địa phương. Chỉ vay nợ để đầu tư
phát triển hạ tầng có thu phí. Tuyệt đối không vay để chi cho bộ máy quản lý.
Mọi khoản chi phải nằm trong khuôn khổ ghi trong dự toán ngân sách và thực
hiện chi tiêu theo dự toán.
Xác định trước nguồn tài trợ trước khi đưa ra cam kết
Bền vững tài khóa như Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Chính phủ (GASB) định
nghĩa là “trách nhiệm và sự sẵn lòng của chính quyền trong việc tạo ra các dòng vào
của nguồn lực cần thiết để vừa thực thi những cam kết cung cấp dịch vụ ở hiện tại
vừa đáp ứng được nghĩa vụ tài chính trong tương lai khi chúng đáo hạn mà không
đẩy nghĩa vụ tài chính sang thế hệ tương lai” tức là không tăng thuế trong tương lai
hoặc không vay thêm nợ hiện tại. Vì vậy, trước khi xây dựng một công trình địa
phương hay một chính sách cấp địa phương thì chính quyền địa phương phải cam
83
kết những công trình hay chính sách này được cung cấp nguồn tài chính vĩnh viễn
mà không xâm phạm nguồn tài trợ cho những chương trình, dự án hoặc chính sách
khác của địa phương
Một điển hình về tình hình vội vàng chi tiêu khi chưa có nguồn tài trợ chắc
chắn là dự án nhà hát ở huyện Đan Phượng (Hà Nội) trị giá 117 tỷ đồng. Thanh tra
thành phố Hà Nội công bố kết luận Ủy ban nhân dân huyện đã phê duyệt dự án khi
chưa có nguồn vốn bố trí, không thực hiện quy trình thẩm định vốn, dự án không
thuộc nhóm dự án cấp bách nhưng Ủy ban nhân dân huyện vẫn cho phép nhà thầu
ứng vốn thi công. Đến cuối năm 2015 Ủy ban nhân dân huyện vẫn chưa có nguồn
vốn thanh toán cho gói thầu thiết bị có giá trị 5,9 tỷ đồng và các khối lượng công
trình đã hoàn thành năm 2014, dẫn đến chưa thể bàn giao công trình, đưa vào sử dụng, gây lãng phí ngân sách nhà nước12.
5.2.2.4 Tham vấn cộng đồng về xây dựng ngân sách
Chính quyền địa phương cần phải đảm bảo rằng việc tham vấn cộng đồng
được thực hiện không phải là một vấn đề của việc tuân thủ pháp luật, mà là cộng
đồng đang tích cực tham gia vào sự phát triển ngân sách. Qua đó người dân thực sự
thấy được chính họ là người góp tiếng nói vào việc cung cấp hàng hóa công, dịch vụ
công theo sở thích của họ. Và, họ sẽ giám sát quá trình đó. Đồng thời, khi người dân
được tham gia thì họ có thể hiểu được những vấn đề mà ngân sách có thể gặp phải,
do đó họ sẽ dễ dàng chia sẻ bớt gánh nặng về tài chính đối với ngân sách địa
phương. Thành phố thông minh (Ubiquitous City) của Hàn Quốc là một ví dụ nổi
trội trong vấn đề này: nhiều thành phố của Hàn Quốc khuyến khích người dân cung cấp những ý tưởng sáng tạo để cải thiện hiệu suất của thành phố13.
Tham vấn của cộng đồng đòi hỏi tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình về tài chính ở cấp địa phương. Tăng cường tính minh bạch, công khai
trong quản lý ngân sách ở các cấp chính quyền, đồng thời tăng cường hoạt động
kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo đảm tính hiệu quả của
12 http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/250971/nha-hat-5-trieu-usd-bo-do-giua-ha-noi.html. 13 http://tuoitre.vn/tin/can-biet/20150829/ngo-nghieng-cac-thanh-pho-thong-minh-han-quoc/960597.html
84
quản lý ngân sách. Tăng cường trách nhiệm giải trình của mỗi cấp chính quyền
trong quản lý ngân sách không chỉ với cấp trên mà trước hết là với trước hội đồng
nhân dân và người dân ở địa phương đó.
5.2.2.5 Kiểm soát rủi ro tài khóa
Luật Ngân sách yêu cầu chính quyền địa phương phải cân đối được ngân sách
cấp mình. Để duy trì sự bền vững về tài chính, họ phải đáp ứng các nghĩa vụ dịch vụ
với ngân sách sẵn có. Luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam đòi hỏi ngân sách cấp
tỉnh phải xác lập quỹ dự trữ tài chính và khoản dự phòng ngân sách. Chính quyền
địa phương phải duy trì đầy đủ quỹ dự trữ tài chính và khoản dự phòng ngân sách
để phòng vệ rủi ro tài khóa. Chính quyền địa phương có thể tài trợ cho bội chi bằng
việc sử dụng các khoản dự trữ này. Tuy nhiên, đó không phải là một phương pháp
bền vững để cân bằng ngân sách trong dài hạn.
Giai đoạn 2011-2015, ngân sách tỉnh Long An ổn định được mức nhận trợ cấp
cân đối từ ngân sách trung ương ở mức 697,921 tỷ đồng/năm, còn mức trợ cấp có
mục tiêu giảm từ 1.448,348 tỷ đồng năm 2013 còn 834,495 tỷ đồng. Đây là một tín
hiệu cho thấy tài chính tỉnh đã kiểm soát được mất cân đối ngân sách từ những
khoản thu trên địa bàn. Tuy nhiên rủi ro tài khóa luôn cần phải đề phòng. Cơ quan
tài chính tỉnh nên thường xuyên kiểm soát biến động các nguồn thu, nhiệm vụ chi
hiện tại và tương lai cũng như xây dựng hệ thống cảnh báo tài khóa cấp địa phương
để báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh kèm theo những phương án phòng ngừa.
Mặc dù Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương tác động
không có ý nghĩa thống kê đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương,
song Luận văn vẫn khuyến nghị nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tài chính địa
phương vì họ là đầu tàu trong việc quản lý thu, chi ngân sách về xây dựng giải pháp
phòng vệ rủi ro tài khóa. Có thể bây giờ đội ngũ công chức, viên chức quản lý tài
chính địa phương chưa có cơ hội để bộc lộ khả năng của họ song khi triển khai quy
trình soạn lập ngân sách dựa vào đầu ra, kế hoạch tài chính 05 năm, khuôn khổ chi
tiêu trung hạn, … họ sẽ là phát huy được năng lực của mình. Từ đó mới có thể
khuyến khích các biện pháp sáng tạo để nâng cao hiệu suất sử dụng ngân sách.
85
Tương lai ngắn, chính quyền địa phương sẽ cần những nhân viên có tri thức chứ
không chỉ cần những nhân viên mẫn cán mà thiếu tư duy sáng tạo.
5.4. Hạn chế của đề tài và hƣớng nghiên cứu tiếp theo
Trong giới hạn về thời gian, Luận văn chỉ tiến hành khảo sát tại một tỉnh nên
tính đại diện chưa cao. Khi nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Long An, thì nghiên cứu phát
hiện 05 nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương
và nhân tố Cấu trúc nguồn thu ngân sách tác động mạnh nhất, còn nhân tố Cấu trúc
dân cư đứng hàng thứ năm với tác động nghịch. Nhưng khi nghiên cứu ở địa bàn
khác thì có thể kết quả nghiên cứu sẽ khác. Hạn chế này khiến cho những khuyến
nghị về chính sách không mang tính đại diện cao.
Nếu có điều kiện, tác giả sẽ mở rộng mẫu nghiên cứu theo hướng gia tăng kích
thước mẫu và vượt ra khỏi địa bàn một địa phương. Cụ thể sẽ mở rộng mẫu sang địa
bàn phương khác như: Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Hậu Giang,
Kiên Giang,…. Với việc mở rộng mẫu, hy vọng kết quả sẽ mang tính đại diện cao
hơn và những khuyến nghị chính sách khả thi hơn.
Ngoài ra, trong tương lai tác giả cũng mong muốn nghiên cứu về mối quan hệ
giữa thâm hụt ngân sách nhà nước với phần kết dư của ngân sách địa phương và tỷ
lệ phân chia các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Một chủ đề nữa có liên quan cũng thu hút sự quan tâm của tác giả, đó là
mối tương quan giữa nợ của chính quyền địa phương với tính bền vững tài chính
của chính quyền địa phương.
Một thôi thúc nữa là tác giả sẽ đi tìm tại sao nhân tố Năng lực quản lý tài
chính của chính quyền địa phương lại tác động không có ý nghĩa thống kê đến tính
bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Phải chăng vì cơ chế quản lý tài
chính cấp địa phương hiện nay quá đơn giản nên không cần đến năng lực tư duy của
đội ngũ cán bộ quản lý tài chính công mà chỉ cần nhân viên thừa hành tuân thủ như
những “cỗ máy”? Nếu quả đúng như vậy, thì phát hiện từ kết quả nghiên cứu đã
phản ánh trung thực một hiện trạng không đáng mong muốn về chất lượng đội ngũ
công chức, viên chức thuộc bộ máy nhà nước ở Việt Nam nói chung và Long An
86
nói riêng. Thời gian tới, khi cả nước triển khai xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm,
kế hoạch tài chính - ngân sách 03 năm, khuôn khổ chi tiêu trung hạn, hình thành
quy trình soạn lập ngân sách dựa vào đầu ra, … thì cán bộ ngành tài chính địa
phương cần phải có năng lực để tiếp thu và triển khai thành công.
Một gợi ý nghiên cứu nữa từ vấn đề định biên nhân sự cấp địa phương. Phải
chăng vì định biên chưa tốt nên nhân tố Năng lực quản lý tài chính của chính quyền
địa phương tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương không
mang ý nghĩa thống kê. Nếu định biên nhân sự tốt thì sao?
Kết luận chương 5
Chương 5 đã đưa ra những nhận định từ kết quả nghiên cứu, thảo luận quan
điểm về bền vững tài chính và nêu gợi ý chính sách nhằm tạo ra và duy trì dự bền
vững tài khóa cấp địa phương. Thêm vào đó, chương 5 cũng nêu ra các giới hạn
nghiên cứu cùng với phương hướng nghiên cứu tương lai.
87
KẾT LUẬN
Luận văn xuất phát từ hiện tượng 50 tỉnh, thành phố của Việt Nam chưa tự cân
đối được ngân sách cấp địa phương phải thường xuyên nhận trợ cấp cân đối từ ngân
sách sách trung ương, khiến khó thể có được tính bền vững chứ đừng nói đến duy trì
tính bền vững tài khóa địa phương. Vậy, tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương ở Việt Nam nói chung và tỉnh Long An nói riêng phụ thuộc vào những
nhân tố nào, mức độ bao nhiêu? Luận văn đã thiết kế nghiên cứu và tìm ra 04 nhân
tố tác động dương có ý nghĩa thống kê đến tính bền vững tài chính của chính quyền
địa phương đó là Quy mô của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân sách, Nền
tảng kinh tế địa phương, Cấu trúc nguồn thu ngân sách và 01 nhân tố ảnh hưởng
âm là Cấu trúc dân cư Cấu trúc nguồn thu ngân sách có tác động
mạnh nhất, còn nhân tố Cấu trúc dân cư có tác động thấp nhất.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Đỗ Thiên Anh Tuấn. Nợ nần và năng lực tài khóa của địa phương. Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
2. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên
cứu với SPSS, Nhà xuất bản Thống kê.
3. Huỳnh Thế Du (2008). Tài chính công địa phương. Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright.
4. Luật Ngân sách nhà nước Việt Nam 2015.
5. Nguyễn Thị Nguyệt Anh (2012). Bội chi và giải pháp cân đối ngân sách cấp
tỉnh. Tạp chí Kiểm toán số 1/2012.
6. Vũ Đình Ánh (2012). Tăng tính bền vững cho ngân sách địa phương. Tại
http://www.nhandan.com.vn/kinhte/item/22824702-tang-tinh-ben-vung-cho-
thu-ngan-sach-dia-phuong.html/
Tài liệu tiếng Anh
7. Burnside, Craig (2004). Assessing New Approaches to Fiscal Sustainability
Analysis. World Bank Latin America and Caribbean Department’s report on
Debt Sustainability Analysis. Retrieved from
http://wwwwds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/
IB/2008/06/19/000333037_20080619011109/Rendered/PDF/442760WP0B
OX321tainability01PUBLIC1.pdf.
8. Chapman, J.I. (2008). State and Local Fiscal Sustainability: The Challenges,
Public Administration Review, 68 (S): 115-131.
9. Chapman, J.I. (1999). Local government, Fiscal Autonomy and Fiscal
Stress: The Case Study of California, Lincoln Institute of Land Policy,
Working Paper # WP99JC1.
89
10. Dollery, B. & Grant, B. (2011). Financial Sustainability and Financial
Viability in Australian Local Government, Public Finance and
Management, 11 (1), 28-47.
11. Gorina, E. (2013). Fiscal Sustainability of Local Governments: Effects of
Government Structure, Revenue Diversity, and Local Economic Base. A
Dissertation Presented in Partial Fulfillment of the Requirements for the
Degree Doctor of Philosophy.
12. Government Accounting Standards Board. (2011). Preliminary Views of the
Government Accounting Standards Board on Major Issues related to
Economic Condition Reporting: Financial Projections.
13. Gyu Pan Kim, Hyong Kun Lee, Eun Ji Kim and Young Kyoung Suh (2014).
A Study on Japanese Fiscal Sustainability and Fiscal Discipline. Korea
Institute for International Economic Policy (KIEP) Research Paper Serie.
Jan 2014.
14. Hagist, C. and Vatter, J. (2009). Measuring Fiscal Sustainability on the
Municipal Level: A German Case Study. Research Center for Generational
Contracts Paper Series No. 35. Retrieved from:
http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.1357310.
15. IPSASB. (2011). Exposure Draft 46. Recommended Practice Guideline,
Reporting on the Long-Term Sustainability of a Public Sector Entity’s
Finances. International Federation of Accountants. Retrieved from
http://www.ifac.org/sites/default/files/publications/files/IPSASB_At_A_Gla
nce__RepLong-Term_Sustainability_of_Public_Finances.pdf.
16. Local Government Association (LGA) of South Australia (2015). Financial
Governance.
17. National Audit Office (2013). Financial sustainability of local authorities.
18. National Audit Office (2014). Financial sustainability of local authorities.
19. Patricia León (2001). Four Pillars of Financial Sustainability. Resources
for Success Series, Volume 2.
90
20. PWC (2006). National Financial Sustainability Study of Local Government.
21. UCLG (2010).“Second global report on decentralization and local
democracy, Africa, Latin-America”.