BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Xuân Khang

TÍNH BỀN VỮNG TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG- TRƢỜNG HỢP TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh-Năm 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Xuân Khang

TÍNH BỀN VỮNG TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG- TRƢỜNG HỢP TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Quản lý Công

Mã số: 60340403

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG

TP. Hồ Chí Minh-Năm 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Tính bền vững tài chính của chính quyền địa

phƣơng - trƣờng hợp tỉnh Long An” là công trình nghiên cứu của chính tác giả.

Nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong

thời gian qua. Số liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận

văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hồng Thắng.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 3 năm 2016

Tác giả luận văn

Lê Xuân Khang

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các hình vẽ, bảng biểu

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .......................................... 1

1.1. Động cơ nghiên cứu ..................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ................................................................... 3

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4

1.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4

1.5. Nguồn dữ liệu ............................................................................................... 4

CHƢƠNG 2. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT............................................. 5

2.1. Tài chính chính quyền địa phương ............................................................... 5

2.1.1. Vai trò kinh tế của chính quyền địa phương ............................................... 5

2.1.2. Tài chính chính quyền địa phương .............................................................. 6

2.1.3. Quản lý tài chính của chính quyền địa phương .......................................... 7

2.2. Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương ................................. 9

2.3. Lược khảo những nghiên cứu liên quan ..................................................... 15

2.4. Khung phân tích ......................................................................................... 18

2.4.1. Quy mô của chính quyền địa phương ....................................................... 19

2.4.2. Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương ......................... 20

2.4.3. Cấu trúc dân cư ........................................................................................... 21

2.4.4. Nền tảng kinh tế của địa phương ............................................................... 21

2.4.5. Phân cấp ngân sách ..................................................................................... 24

2.4.6. Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương ...................... 24

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 27

3.1. Quy trình nghiên cứu .................................................................................. 27

3.2. Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu .................................................... 30

3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu.......................................................................30

3.3.1. Phân tích thống kê mô tả ............................................................................ 30

3.3.2. Kiểm định Cronbach Alpha ....................................................................... 30

3.3.3. Phân tích nhân tố khám phá ....................................................................... 31

3.3.4. Phân tích hồi quy đa biến ........................................................................... 32

CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 34

4.1. Tổng quan kết quả điều tra mẫu phân tích ................................................. 34

4.1.1. Đặc điểm cá nhân đại diện được khảo sát ................................................. 34

4.1.2. Thống kê về các nhân tố trong mô hình nghiên cứu ................................ 39

4.2. Kiểm định giả thuyết về sự khác biệt của các đặc tính cá nhân được khảo sát

.................................................................................................................... 45

4.2.1. Kiểm định giả thuyết về trị trung bình cho các thang đo ......................... 45

4.2.2. Kiểm định khác biệt về đặc tính cá nhân đến việc đánh giá tác động các

nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS) ............ 46

h EFA .................................. 49 4.3.

............................................................ 53 4.4.

4.5. Đánh giá chi tiết cho từng nhân tố sau EFA ............................................... 58

4.6. Điều chỉnh mô hình và giả thiết nghiên cứu .............................................. 60

4.7. Phân tích mô tả và tương quan giữa các nhân tố sau EFA ......................... 61

..................................... 62 4.8.

4.8.1 Kết quả mô hình.......................................................................................... 62

............................................... 64 4.8.2.

........................................................... 65 4.8.3.

................................ 65 4.8.4.

........................................................ 65 4.8.5.

CHƢƠNG 5. NHẬN ĐỊNH VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ................................. 68

5.1. Nhận định từ kết quả nghiên cứu ............................................................... 68

5.2. Gợi ý chính sách ......................................................................................... 73

5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ..................................... 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt ....................................................................................................... 88

Tài liệu tiếng Anh ....................................................................................................... 88

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANOVA: Phân tích phương sai (Analysis of Variance).

EFA: Phân tích nhân tô khám phá (Exploratory Factor Analysis).

GDP: tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product).

KMO: Hệ số Kaiser - Mayer – Olkin.

OLS: Phương pháp bình phương bé nhất (Ordinary Least Squares).

SIG : Mức ý nghĩa quan sát (Observed significance level).

SPSS: Phần mềm thống kê cho khoa học xã hội (Statistical Package for the

Social Sciences).

UNDP: Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development

Programme).

VIF: Hệ số nhân tố phóng đại phương sai (Variance inflation factor).

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 4.1 Quy mô của chính quyền địa phương.

Bảng 4.2 Cấu trúc dân cư.

Bảng 4.3 Nền tảng kinh tế địa phương.

Bảng 4.4 Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương.

Bảng 4.5 Phân cấp ngân sách.

Bảng 4.6 Cấu trúc nguồn thu ngân sách.

Bảng 4.7 Thống kê mô tả chung cho các nhân tố ảnh hưởng.

Bảng 4.8 Kiểm định trị trung bình cho các thang đo.

Bảng 4.9 Kiểm định khác biệt về Giới tính.

Bảng 4.10 Kiểm định khác biệt về vị trí nơi làm việc.

Bảng 4.11 Kiểm định khác biệt về số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực

nhà nước.

Bảng 4.12 Kiểm định khác biệt về thời gian làm việc trong ngành tài chính.

Bảng 4.13 Kiểm định khác biệt từng cặp về thời gian làm việc trong ngành tài

chính.

Bảng 4.14 .

Bảng 4.15 Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập lần 1.

Bảng 4.16 Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập sau cùng.

Bảng 4.17 Phân tích độ tin cậy các thang đo sau EFA.

Bảng 4.18 Các khái niệm nghiên cứu.

Bảng 4.19 Phân tích mô tả và tương quan giữa các nhân tố sau EFA.

Bảng 4.20 Kiểm định kết quả các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương.

Bảng 4.21 .

Bảng 5.1 Các loại thuế phân chia giữa trung ương và địa phương ở một số quốc

gia.

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1 Thu, chi ngân sách theo khu vực.

Hình 2.1 Khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương.

Hình 2.2 Mức cung cấp hàng hóa công đạt hiệu suất Pareto.

Hình 3.1 Sơ đồ quy trình nghiên cứu.

Hình 4.1 Giới tính.

Hình 4.2 Trình độ học vấn.

Hình 4.3 Cơ quan làm việc.

Hình 4.4 Vị trí tại cơ quan làm việc.

Hình 4.5 Thời gian làm việc trong ngành Tài chính.

Hình 4.6 Thời gian đã làm việc trong khu vực Nhà nước.

Hình 4.7 Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nước.

Hình 4.8 Kinh phí nhận hàng năm.

Hình 4.9 Cơ cấu đánh giá chung về các nhân tố tác động đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương.

Hình 4.10 Mô hình nghiên cứu.

.

-P Plot.

Hình 5.1 13 Địa phương điều tiết về ngân sách trung ương.

1

CHƢƠNG 1.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Động cơ nghiên cứu

Tùy vào thể chế và cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính ở mỗi quốc gia mà hệ

thống ngân sách chính phủ được chia là nhiều cấp với tên gọi khác nhau. Tại Việt

Nam, hệ thống ngân sách nhà nước gồm hai cấp chính là ngân sách trung ương và

ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách cấp tỉnh, ngân

sách cấp huyện và ngân sách cấp xã.

Bền vững ngân sách cấp quốc gia và bền vững ngân sách cấp địa phương là

một mối quan tâm lớn của hầu hết các nhà nước. Chính phủ ở bất kỳ đất nước nào

cũng hướng đến xây dựng một nền tài khóa bền vững để trước hết bảo vệ ngân sách

nhà nước các cấp trước những cú sốc kinh tế nhằm cung cấp hiệu quả hàng hóa,

dịch vụ công trong dài hạn. Như vậy, bền vững tài khóa gián tiếp thậm chí trực tiếp

hỗ trợ tăng trưởng bền vững và nâng cao dần phúc lợi xã hội cho cộng đồng dân cư.

Cân đối bền vững ngân sách nhà nước sẽ không thể có được nếu thiếu bền

vững tài khóa cấp địa phương. “Quản lý ngân sách Việt Nam đang có trục trặc về

phân cấp. Chúng ta nói hằng năm bội chi ngân sách Việt Nam 5% GDP, nếu bóc

tách phân cấp mức thâm hụt 5% này thì sẽ biết ngay địa chỉ đang gây thâm hụt là ở

đâu. Và thực tế, bài toán thâm hụt ngân sách đang nằm chủ yếu từ các địa phương.

Các địa phương nhận trợ cấp ngân sách được phân bổ xuống mà không có động lực

cũng như phát huy hiệu quả hơn nguồn vốn nhận được. Việc phân cấp ngân sách

diễn ra nhanh nhưng các điều kiện đi kèm như năng lực của bên được phân cấp,

năng lực thực thi, giám sát, giải trình trách nhiệm... không theo kịp. Thực thi các quy định quá lỏng lẻo, chế tài kém”1.

Thống kê số liệu quyết toán ngân sách nhà nước cho thấy sau 5 năm (từ năm

2009 -2013), số chi bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương

năm 2013 bằng 1,74 lần năm 2009. Loại trừ yếu tố lạm phát, sau 5 năm ngân sách

trung ương phải chi trợ cấp nhiều hơn cho các địa phương. Vùng Bắc Trung bộ và

1 Đỗ Thiên Anh Tuấn (2015). Cần truy địa chỉ gây thâm hụt ngân sách. Báo Tuổi trẻ thứ Sáu 30-10-2015

2

duyên hải miền Trung, vùng miền núi phía Bắc và vùng đồng bằng sông Cửu Long

là khu vực nhận trợ cấp nhiều nhất từ ngân sách trung ương. Ngược lại, Vùng Đông

Nam bộ đang là khu vực có tổng thu ngân sách trên địa bàn lớn nhất với 4/6 địa

phương tự cân đối ngân sách và điều tiết nguồn thu phân chia về ngân sách trung ương (xem hình 1.1)2.

(Nguồn: Số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2013)

Hình 1.1: Thu, chi ngân sách theo khu vực

Long An, một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong gần 80%

địa phương ở Việt Nam thường xuyên nhận bổ sung từ ngân sách trung ương dưới

cả hai hình thức là bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu, nhưng vẫn có kết dư.

Vào năm 2004 lần đầu tiên và có thể coi là duy nhất cho đến nay, Long An lọt vào

danh sách 15 địa phương tự cân đối được thu chi cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh

Phúc, Đà Nẵng, Khánh Hòa, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Tây

Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ. Nhiều năm trở lại đây,

Long An không còn nằm trong danh sách này nữa. Trong giai đoạn 2011-2015,

2http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tinh-thanh-dang-ngon-nhieu-ngan-sach-trung-uong-nhat 20151031143233692.chn

3

ngân sách tỉnh Long An thường xuyên nhận bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu

từ ngân sách trung ương. Khoản bổ sung từ ngân sách trung ương đạt đỉnh điểm

2.486 tỷ đồng năm 2013 sau đó giảm còn 1.765 tỷ đồng vào năm 2015 (xem hình

1.2). Tuy nhiên có một dấu hiệu đáng mừng tại Long An, đó là số bổ sung trong cân

đối từ ngân sách trung ương ổn định ở mức 697,9 tỷ đồng mỗi năm trong thời kỳ ổn

định ngân sách 2012-2015, phần còn lại là bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung

ương.

Hình 1.2: Tổng thu ngân sách địa phƣơng tỉnh Long An giai đoạn 2011-

2015.

(Nguồn: Tổng hợp thu, chi ngân sách giai đoạn 2011-2015 và dự báo giai đoạn

2016-2020, Sở Tài chính Long An).

Xuất phát từ hiện trạng ngân sách tỉnh Long An vẫn còn phụ thuộc vào khoản

trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương, tôi chọn đề tài “Tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương - trường hợp tỉnh Long An” để làm luận văn tốt nghiệp

bậc cao học với hy vọng nhận diện và định lượng những nhân tố có thể tác động

đến tính bền vững tài chính của một chính quyền địa phương cụ thể Vùng Đồng

bằng sông Cửu Long. Từ đó đưa ra các hàm ý về mặt chính sách góp phần tạo ra và

duy trì tính bền vững tài chính của những địa phương tương tự.

1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

4

Luận văn hướng đến hai mục tiêu sau đây:

- Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến bền vững tài chính tỉnh Long An.

- Đề xuất được giải pháp xây dựng tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương.

Để đạt hai mục tiêu nêu trên, Luận văn xuất phát từ hai câu hỏi:

- Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương theo thông lệ quốc tế

được hiểu như thế nào?

- Giải pháp khả thi nhằm nâng cao tính bền vững tài chính của chính quyền

tỉnh Long An là gì?

1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương, lấy tỉnh Long An là một tình huống điển hình.

Tài chính của chính quyền địa phương trong khuôn khổ nghiên cứu này bao

gồm tổng thể những hoạt động liên quan đến thu, chi và vay nợ trong phạm vi một

vùng lãnh thổ cấp tỉnh của Việt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, song khái

niệm tài chính của chính quyền địa phương trong luận văn này có thể sử dụng

tương đương với khái niệm ngân sách địa phương.

1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nhân tố khám phá (EFA) để nhận diện những

nhân tố và định lượng mức tác động của chúng đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương.

1.5. Nguồn dữ liệu

Dữ liệu sử dụng trong Luận văn là thông tin sơ cấp thông qua điều tra tại tỉnh

Long An và các thông tin về tình hình phát triển kinh tế xã hội của các xã trên địa

bàn tỉnh Long An, số liệu thống kê về thu - chi ngân sách, … từ báo cáo quyết toán,

dự toán về ngân sách nhà nước hàng năm, các báo cáo tổng kết, sách báo, tạp chí,

các công trình nghiên cứu có liên quan về ngân sách nhà nước và ngân sách cấp địa

phương.

5

CHƢƠNG 2.

TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Chương này trình bày lý thuyết nền về tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương. Phần đầu chương mô tả vai trò kinh tế của chính quyền địa

phương. Tiếp theo là trình bày về tài chính của chính quyền địa phương và những

góc tiếp cận khác nhau về tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Sau

đó là phần lược khảo những công trình nghiên cứu liên quan để hình thành khung lý

thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến bền vững tài chính của chính quyền địa phương.

2.1. Tài chính chính quyền địa phƣơng

Tổ chức bộ máy quản lý hành chính ở các quốc gia có nhiều kiểu nhưng tựu

trung ở hai hình thức phổ biến là tổ chức theo kiểu liên bang và tổ chức phi liên

bang. Điển hình cho mô hình liên bang là Mỹ, Đức, India, Malaysia, Myanmar,

Thụy Sỹ,…. Điển hình cho tổ chức phi liên bang là Pháp, Anh, Việt Nam, Thái

Lan,…. Tuy nhiên, kiểu nào cũng có cấp chính quyền địa phương. Theo Hội đồng

Địa phương của New-Zeland, chính quyền địa phương là “hệ thống những thành

viên được bầu cử từ địa phương đại diện cho cộng đồng dân cư trong địa hạt và ra quyết định nhân danh họ”3 . Địa phương ở đây được hiểu là một vùng lãnh thổ có

giới hạn địa lý và cùng chung môi trường tự nhiên, điều kiện kinh tế và/hoặc truyền

thống, tập tục văn hóa. Cấp chính quyền địa phương là cấp gần cộng đồng cư dân

nhất. Trong khuôn khổ Luận văn này, địa phương được hiểu là cấp tỉnh trong mô

hình hành chính như Việt Nam.

2.1.1. Vai trò kinh tế của chính quyền địa phƣơng

Nhìn từ góc độ kinh tế học, cũng như khu vực tư nhân, chính quyền các cấp là

đơn vị sản xuất hàng hóa công và cung cấp dịch vụ công. Chính quyền trung ương

sản xuất hàng hóa, dịch vụ công phạm vi cả nước, còn chính quyền địa phương

cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cấp địa phương. Hàng hóa, dịch vụ công địa

3 “Local government is the system of locally elected members representing their communities and making decisions on their behalf“ (http://www.localcouncils.govt.nz/lgip.nsf/wpg_url/About-Local-Government- Local-Government-in-New-Zealand-Index)

6

phương chỉ phục vụ người dân trên một địa bàn nhất định nên mang tính đặc trưng

của vùng, miền.

Hàng hóa, dịch vụ công cấp địa phương có thể kể ra dưới đây:

- Công viên, cổng chào, công trình kiến trúc, quảng trường, vỉa hè, cây xanh,

đèn đường, bồn hoa,…;

- Trường mầm non, trường phổ thông, trường dạy nghề công lập;

- Thư viện, khu văn hóa, vui chơi cộng đồng;

- Đường giao thông địa phương;

- An ninh, trật tự, phòng cháy, chữa cháy địa phương;

- Khu thể thao địa phương;

- Viện dưỡng lão, viện trẻ em cơ nhỡ;

- Cấp nước, thoát nước;

- Y tế cộng đồng;

- Hệ thống kênh, rạch nội thị,…

Hàng hóa, dịch vụ công địa phương trước hết được cung cấp nhằm thỏa mãn

nhu cầu của người dân trên địa bàn, nhưng không thể vì tính địa phương mà bỏ qua

tính quốc gia. Mặt khác, mức thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ công cũng khác nhau

giữa những cư dân nên việc phân tích hiệu quả cung cấp hàng hóa, dịch vụ công

gặp nhiều khó khăn.

2.1.2. Tài chính của chính quyền địa phƣơng

Để sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ trong suốt thời gian tồn tại, chính

quyền địa phương phải thực hiện ba hoạt động liên quan đến đồng tiền: (1) thu thuế

và phí, (2) chi vận hành và đầu tư để tạo hàng hóa, dịch vụ công (3) vay nợ (khi thu

không bằng chi). Ba hoạt động này hợp thành tài chính của chính quyền địa

phương, thường gọi tắt là tài chính địa phương. Như vậy, tài chính của chính quyền

địa phương là tổng thể những hoạt động liên quan đến thu, chi và vay nợ trong

phạm vi một vùng lãnh thổ được xác định bởi địa giới hành chính. Tùy theo đặc

điểm ở mỗi quốc gia mà nguồn thu cụ thể và nhiệm vụ chi cụ thể của địa phương sẽ

khác nhau.

7

Ở Việt Nam, chính quyền địa phương có ba nguồn thu chính:

(1) Các khoản thu địa phương hưởng 100% gồm các khoản thuế, lệ phí, phí và

thu thuộc địa phương (thu từ giao quyền sử dụng đất, bán tài sản công,…). Tùy mỗi

quốc gia mà tên gọi cụ thể những khoản thu này sẽ khác nhau;

(2) Các khoản thu địa phương hưởng theo tỷ lệ phần trăm cùng với ngân sách

trung ương, thường được gọi tắt là thu phân chia;

(3) Trợ cấp từ ngân sách trung ương gồm trợ cấp cân đối (subsidy) và trợ cấp

theo mục tiêu (intergovernmental transfers).

Ở Việt Nam, chính quyền địa phương có các khoản chi chủ yếu như sau:

(1) Chi đầu tư phát triển cho các dự án do địa phương quản lý; đầu tư và hỗ

trợ vốn cho các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt

hàng, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của địa phương theo quy định của

pháp luật;

(2) Chi thường xuyên cho (i) hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ

chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội, (ii) hoạt động sự nghiệp các loại,

(iii) bảo đảm xã hội, bao gồm cả chi thực hiện các chính sách xã hội, và (iv) hỗ trợ

hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp;

(3) Chi trả nợ lãi các khoản do chính quyền địa phương vay;

(4) Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính địa phương.

Ở Việt Nam, theo Luật Ngân sách Nhà nước 2015, chính quyền địa phương

cấp tỉnh được bội chi để để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn

đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định. Bội chi ngân sách địa phương được

bù đắp bằng các nguồn vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa

phương, vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cho vay lại và các khoản vay khác trong

nước.

2.1.3. Quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng

Chính quyền địa phương thu thuế và phí nhằm tài trợ các khoản chi thường

xuyên và đầu tư, qua đó cung cấp hàng hóa, dịch vụ công trong suốt thời gian tồn

8

tại của chính quyền địa phương. Muốn vậy, một trong nhiều nhiệm vụ quan trọng

của chính quyền địa phương là quản lý tốt tài khóa.

Theo PWC (2011), quản lý tài chính (financial governance) là quá trình xây

dựng và thực thi các quyết định liên quan đến đồng tiền nhằm đạt mục đích tài

chính và phi tài chính của một đơn vị. Quản lý tài chính của chính quyền địa

phương thể hiện qua quá trình xây dựng và thực thi kế hoạch tài khóa trung hạn, kế hoạch ngân sách trung hạn4 và dự toán ngân sách hàng năm. Kế hoạch tài khóa

trung hạn bao gồm dự báo trung hạn về các đại lượng kinh tế vĩ mô cùng với dự báo

trung hạn về khả năng thu, phân tích tính bền vững của nợ, các gói chi ngân sách

cứng, kỷ luật tài khóa và rủi ro tài khóa … ở cấp địa phương. Kế hoạch ngân sách

trung hạn là những dự báo về các khoản chi trung hạn thuộc chính sách hiện hành

của cơ quan tham mưu cho chính quyền địa phương và chương trình mục tiêu trên

địa bàn. Dự toán ngân sách hàng năm chính là kế hoạch thu, chi để thực hiện nhiệm

vụ của chính quyền địa phương.

Quản lý tài chính dù ở khu vực tư hay khu vực công cũng phải chứa đựng

những thuộc tính như hiệu suất (efficiency), hiệu quả (effectiveness) và minh bạch

(transparency). Trong khu vực công, những thuộc tính này được hình thành từ hoặc

chịu chi phối của hệ thống luật pháp và giám sát của cộng đồng. Hiệu quả quản lý

tài chính của chính quyền địa phương được thể hiện ở số lượng và chất lượng dịch

vụ công do địa phương cung cấp trong mối tương quan với ngân sách cho trước.

Chất lượng của dịch vụ công thể hiện thông qua mức đáp ứng những đòi hỏi của

người dân trong khuôn khổ trách nhiệm pháp quy của chính quyền. Quản lý tài

khóa hiệu quả sẽ góp phần gia tăng niềm tin của cộng đồng dân cư trên địa bàn đối

với chính quyền và hoàn thiện những giá trị của bộ máy (value of organization).

Tuy nhiên quản lý hiệu quả tài chính của chính quyền địa phương bị ảnh

hưởng tiêu cực của một loạt tồn tại khách quan. Thứ nhất là địa phương không quan

tâm xây dựng kế hoạch ngân sách trung hạn, tức là khuôn khổ ngân sách cho

4 Luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam 2015 gọi là Kế hoạch Tài chính 5 năm và Kế hoạch Tài chính – Ngân sách 3 năm.

9

khoảng thời gian từ 03 đến 05 năm. Thứ hai, mục tiêu tài chính và phi tài chính tại

địa phương chưa toàn diện và dễ bị thay đổi bởi những sự kiện mang tính chính trị.

Thứ ba, tính minh bạch của các báo cáo giải trình, báo cáo quyết toán ngân sách

chưa dễ tiếp cận có nguy cơ làm giảm sút hiệu lực giám sát của cộng đồng.

Những tồn tại tiêu cực này được hình thành từ những nguyên nhân có thể kể

ra như sau. Thứ nhất, người lãnh đạo địa phương là một chính khách xuất thân từ

dân cử hoặc điều động của tổ chức chính trị chứ không phải chuyên gia về kinh tế

hay tài chính công. Thứ hai, đại biểu hội đồng nhân dân không phải 100% là cán bộ

chuyên trách. Thứ ba, cả người đứng đầu chính quyền địa phương lẫn đại biểu hội

đồng địa phương đều làm việc theo nhiệm kỳ. Thứ tư, ngân sách cho các hoạt động

giám sát thường rất eo hẹp nên không trang trải đủ chi phí.

Nếu các tồn tại này không kiểm soát được thì quản lý tài khóa không những

không thể có hiệu quả mà còn phải đương đầu với nhiều rủi ro. Đầu tiên là rủi ro là

các quyết định tài khóa được đưa ra không dựa trên nền tảng kỹ năng tài chính căn

bản. Thứ hai là nguy cơ không đảm bảo đủ kinh phí cho những cam kết trung và dài

hạn. Thứ ba là rủi ro về tính hữu dụng của những công trình mang tính nhiệm kỳ,

tức là chúng chỉ phát huy thậm chí chưa kịp phát huy tác dụng trong nhiệm kỳ. Thứ

tư, có thể để lại gánh nặng tài chính kéo dài cho thế hệ tương lai.

2.2. Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng

Ở lĩnh vực nhà nước và theo cách gọi tại Việt Nam, bền vững tài chính nhà

nước còn có thể được gọi là bền vững tài khóa hoặc bền vững ngân sách nhà nước.

Trong Luận văn này, những cách gọi đó là tương đương nhau.

Trước hết, tính từ “bền vững" trong cụm từ “phát triển bền vững” được Ủy

ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (World Commission on Environment and

Development, 1987) giải thích như sau: một sự phát triển được coi là bền vững nếu

nó thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng

nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đầu thập niên 90 của Thế kỷ XX, tính bền vững

trong các dự án thuộc chính sách công được đề cập. Các tổ chức lớn của thế giới

như Liên Hợp Quốc với UNDP, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á,

10

… gợi ý chính phủ ở các quốc gia đang phát triển lồng tính bền vững vào những dự

án phát triển.

Từ năm 1990, Ngân hàng Thế giới bắt đầu tài trợ nghiên cứu về tính bền vững

tài khóa quốc gia. Trong công trình hợp tác của Burnside (2003) với Ngân hàng Thế

giới, ông lưu ý rằng tính bền vững tài khóa quốc gia có nhiều khía cạnh song nó

thường liên quan đến chính sách tài khóa của chính phủ. Cụ thể, thuộc tính cơ bản

minh họa bền vững tài khóa cấp quốc gia là khả năng thanh toán (solvency). Nó

được thể hiện ở hai khía cạnh. Một là “khả năng của chính phủ để thực hiện nghĩa

vụ trả nợ của mình một cách vĩnh viễn mà không tuyên bố vỡ nợ”. Hai là, “khả

năng tài chính để chính phủ duy trì những chính sách hiện hành mà vẫn đảm bảo

thanh khoản” (Gorina, 2013).

Vấn đề bền vững tài khóa cấp quốc gia đã được nhiều chính phủ trên thế giới

quan tâm và chú trọng thời gian gần đây, nhất là trước yêu cầu đảm bảo tính ổn

định nguồn thu của ngân sách nhà nước, hạn chế thâm hụt ngân sách và kiểm soát

gia tăng nợ công. Ở cấp địa phương, một trong những thách thức lớn nhất chính

quyền địa phương phải đối mặt là bền vững tài khóa (financial sustainability). Vì

nếu không đạt được trạng thái này thì mọi cam kết phát triển và năng lực cạnh tranh

của địa phương cũng như việc xây dựng Chỉ số Kết quả Lõi (Key Performance

Indicators, KPIs) cấp địa phương đều vô nghĩa.

Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Công Quốc tế (IPSASB) xem bền vững tài khóa

như là “khả năng của một chủ thể trong việc đáp ứng nghĩa vụ và cam kết tài chính

ở hiện tại và tương lai”. IPSASB thừa nhận rằng việc đánh giá tính bền vững tài

khóa đòi hỏi nhiều loại dữ liệu. “Những dữ liệu này bao gồm các thông tin tài chính

và phi tài chính về các điều kiện kinh tế và nhân khẩu học hiện tại, giả định về xu

thế quốc gia và xu thế toàn cầu như năng suất, khả năng cạnh tranh tương đối của

nền kinh tế quốc gia hay nền kinh tế địa phương và thay đổi dự kiến trong các biến

nhân khẩu học như tuổi tác, tuổi thọ, giới tính, thu nhập, trình độ học vấn và bệnh

tật” (IPSASB, 2011: 6).

11

Đó là bền vững tài khóa cấp quốc gia. Bền vững tài khóa cấp địa phương cũng

có nhiều cách tiếp cận.

Gorina (2013) dẫn Chapman (2008) định nghĩa bền vững tài khóa ở địa

phương là “khả năng dài hạn của chính quyền trong việc luôn đáp ứng các trách

nhiệm tài chính của mình” và xác định ba loại áp lực mà chính quyền địa phương

tại các quốc gia phải đối mặt khi duy trì bền vững tài khóa cấp mình: (i) tính chu kỳ

của kinh tế địa phương, (ii) cơ cấu dân số, khuynh hướng tiêu dùng và cơ cấu nguồn

thu ngân sách trên địa bàn, và (iii) mức độ phân cấp giữa các cấp chính quyền.

IPSASB (2011) phân biệt ba phương diện mở rộng của tính bền vững tài khóa:

năng lực tài chính (fiscal capacity), năng lực dịch vụ (service capacity), và độ nhạy

cảm (sensitiveness or vulnerability). Năng lực tài chính là khả năng trả nợ của chính

quyền địa phương “…liên tục suốt thời gian dự kiến mà không gia tăng mức thuế”

(IPSASB, 2011: 8). Năng lực dịch vụ là mức độ mà: (a) chính quyền địa phương có

thể duy trì cung cấp dịch vụ theo khối lượng và chất lượng ít nhất không đổi đến cư

dân hiện tại hoặc tương lai và (b) đáp ứng các nghĩa vụ liên quan đến các chương

trình quyền lợi cho người thụ hưởng hiện tại và tương lai (IPSASB, 2011: 8). Độ

nhạy cảm hay khả năng dễ bị thương tổn là mức phụ thuộc tài chính vào các nguồn

tài trợ nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền địa phương (ví dụ trợ cấp từ chính

quyền trung ương) và năng lực của địa phương gia tăng mức thu và/hoặc tạo nguồn

thu mới (IPSASB, 2011: 8).

Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Chính phủ (GASB) đã xem bền vững tài khóa

như là “tầm nhìn tương lai của điều kiện kinh tế” (the forward-looking aspect of

economic condition) và định nghĩa là “trách nhiệm và sự sẵn lòng của chính quyền

trong việc tạo ra các dòng vào của nguồn lực cần thiết (inflows of resources

necessary) để vừa thực thi những cam kết cung cấp dịch vụ ở hiện tại vừa đáp ứng

được nghĩa vụ tài chính trong tương lai khi chúng đáo hạn mà không đẩy nghĩa vụ

tài chính sang thế hệ tương lai”. (GASB, 2011: x). Sự sẵn lòng của chính quyền tạo

ra các dòng vào của nguồn lực cần thiết là đặc điểm nổi bật trong định nghĩa của

GASB. GASB (2011) đề nghị Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp nên

12

thực hiện 4 dự báo trong phần báo cáo tài chính: dự báo dòng vào của nguồn lực, dự

báo dòng tiền ra, dự báo về cam kết tài chính và dự báo thực thi nghĩa vụ nợ (hoàn

gốc và trả lãi).

Dollery và Grant (2011) xem xét sáu nghiên cứu về tính bền vững tài khóa

trong ở các địa phương nước Úc và kết luận rằng hầu hết nghiên cứu này đều thiên

về “kế toán”, có nghĩa là họ đang tập trung một cách rất hạn hẹp vào kế toán và chỉ

tiêu tài chính. Dollery & Grant (2011) bàn luận phương pháp tiếp cận hiện tại để

phát triển bền vững tài khóa từ 2 phương diện.

Trước tiên, họ thừa nhận rằng các cuộc thảo luận về bền vững tài khóa không

nên đem lồng với các cuộc thảo luận về khả năng tài chính. Chính quyền địa

phương Australia luôn luôn có khả năng tài chính, bởi vì họ có quyền đánh thuế, và

vì Luật Chính quyền địa phương liên kết với người dân để đáp ứng các nghĩa vụ

chưa thanh toán. Chính phủ không thể “tách khỏi doanh nghiệp” như các thực thể

thương mại làm. Nhưng chính phủ có thể hoặc không thể đạt bền vững tài khóa

trong khi có khả năng tài chính.

Thứ hai, Dollery & Grant (2011) tin rằng các khuôn khổ hiện tại cần kết hợp

phân tích các mục tiêu xã hội và môi trường, và các chức năng của chính phủ. Các

nhà nghiên cứu tài chính cần nhìn nhận rằng tính bền vững tài khóa là phụ thuộc

vào các nguồn tài trợ cho các chương trình môi trường và xã hội. “Nếu không có

nhu cầu kinh tế theo quy định để đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững môi

trường và xã hội ở chính quyền địa phương, do đó hầu như không có ý nghĩa để sử

dụng bền vững tài khóa dài hạn độc lập”. (Dollery và Grant, 2011: 44)

Gorina (2013) cho rằng Hagist và Vatter (2009) tiếp nối Chapman (2008) khi

họ nêu bật tầm quan trọng của những thay đổi về nhân khẩu học và sự dịch chuyển

dân số. Theo quan điểm của họ, ngân sách thành phố là bền vững về tài chính nếu

nó cho phép chính phủ duy trì “bộ quy tắc hiện hành về các đầu ra và đầu vào của

các sản phẩm công cộng (hàng hoá, dịch vụ, thuế và các khoản thu khác)…và mức

cân bằng đô thị có liên quan đến tiềm năng sản xuất thành phố.” (Hagist và Vatter,

13

2009: 6) “Tiềm lực sản xuất thành phố” có liên quan trực tiếp đến chất lượng và số

lượng của lực lượng lao động ở địa phương.

Hagist và Vatter (2009) sử dụng thông tin kế toán chi tiết cho ba thành phố

của Đức và kiểm tra tính bền vững của tiềm lực tài chính của họ dưới nhiều kịch

bản về nhân khẩu học. Họ vận dụng những thay đổi về nhân khẩu học thông qua dự

báo của tỷ suất sinh, tỷ lệ tử vong, và sự di cư. Mô phỏng khả năng của chính phủ

để thu hẹp khoảng cách tài chính theo các kịch bản khác nhau trong vòng 50 năm

cho phép các tác giả kết luận rằng “thặng dư hay thâm hụt dường như không phải là

yếu tố quyết định đến việc làm thế nào để thành phố bền vững về tài chính” (Hagist

và Vatter, 2009: 24). Ngược lại, tỷ lệ sinh, tuổi thọ, tỷ lệ phần trăm của dân số từ

các nhóm từ 30-50 tuổi, và tỷ suất di cư xuất hiện để trở thành chỉ tiêu bền vững

quan trọng.

Những thay đổi trong cấu trúc dân cư là trung gian ảnh hưởng nghịch biến đến

khoản thâm hụt vận hành (lỗ hổng cơ sở của ngân sách, primary budget gap) và trả

nợ (lỗ hổng nợ vay). Các tác giả bàn luận cách tiếp cận dòng tiền để đánh giá tính

bền vững tài khóa và thừa nhận rằng “chỉ tập trung vào những lỗ hổng tài chính hay

nợ mà không có bất cứ so sánh gì với sức mạnh kinh tế trong tương lai của các con

nợ là không đủ”. (Hagist và Vatter, 2009:8).

Đáng chú ý là Hagist và Vatter (2009) là những người tiên phong trong việc

sử dụng mô phỏng để phân tích về bền vững tài khóa của địa phương, một trong

nhiều cách tiếp cận chủ đạo trong nghiên cứu bền vững tài khóa quốc gia. Tuy

nhiên phương pháp mô phỏng đã được áp dụng để nghiên cứu các chủ đề liên quan

đến tính bền vững tài khóa, chẳng hạn như việc quản lý số dư quỹ và sự lỏng lẻo tài

chính (Hendrick, 2004; Kriz, 2003). Bởi vì mô hình bền vững tài khóa vẫn chưa

được phát triển, nên việc nghiên cứu các khái niệm liên quan đến sự căng thẳng tài

chính và tình hình tài chính có liên quan đến việc xây dựng một khuôn khổ.

Báo cáo của Price Waterhouse Coopers (PWC) về bền vững tài khóa địa

phương ở Úc (năm 2006) là một ví dụ điển hình của những nghiên cứu này. PWC

(2006) định nghĩa tính bền vững tài khóa là “khả năng của chính quyền địa phương

14

trong việc quản lý các yêu cầu tài chính, các rủi ro tài chính được dự báo và những

cú sốc trong dài hạn mà không cần sử dụng các biện pháp tăng thu mạnh hay cắt giảm chi lớn”5. PWC phát triển 5 Chỉ số Kết quả Lõi (KPIs) đo bền vững tài khóa

cấp địa phương gồm: Thặng dư hay thâm hụt vận hành (Operating surplus or

deficit), Khả năng trả lãi (Interest coverage), Tỷ số bền vững (Sustainability ratio),

Tỷ số hiện thời (Current ratio), và Khả năng đảm bảo chi (Rates coverage).

Ủy ban Đánh giá Bền vững Tài khóa của Nam Úc (2005) định nghĩa bền vững

tài khóa từ cách tiếp cận kinh tế học như sau: “a council’s finances can be judged to

be sustainable in the long term only if they are strong enough-currently and in the

foreseeable future-to allow the council to manage financial risks and shocks over

the long-term financial planning period without having to introduce substantial or

disruptive revenue (or expenditure) adjustments during that period.” (Tạm dịch: tài

chính địa phương được đánh giá là bền vững dài hạn chỉ khi nó đủ mạnh ở hiện nay

và tương lai để cho phép địa phương kiểm soát được những cú shock và rủi ro tài

khóa trong giai đoạn kế hoạch tài khóa dài hạn mà không cần phải đưa thêm những

khoản thu mới hay cắt giảm chi).

Như vậy, tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương thể hiện ở:

• Khả năng chi trả ngắn hạn (currently healthy finance): ít điều chỉnh ngân

sách trong tức thời hoặc ngân sách đủ thanh toán cho những khoản chi ngắn hạn;

• Khả năng chi trả dài hạn (long-term healthy finance) dựa trên chính sách thu

và chi không thay đổi trong khoảng 3 đến 5 năm với giả định nền kinh tế và tình

hình xã hội không đổi;

• Đủ dự trữ, dự phòng (margin of comfort in the council’s finance) ở hiện tại

và tương lai để chính quyền địa phương chịu đựng được những cú shock hay rủi ro

tài khóa mà không cần phải gia tăng đáng kể (substantial increase) thuế hay cắt

giảm mạnh chi tiêu.

5 “Fiscal sustainability as a council’s ability to manage “expected financial requirements and financial risks and shocks over the long term without the use of disruptive revenue and expenditure measures”. PWC (…)

15

Tóm lại, có thể hiểu bền vững tài chính của chính quyền địa phương là khả

năng tài chính (financial capacity) của chính quyền địa phương trong việc đáp ứng

những yêu cầu về tài chính (financial requirements) và phòng vệ rủi ro tài khóa

trong dài hạn mà không cần đưa thêm đáng kể các khoản thu mới hay cắt giảm

mạnh khoản chi hiện hành. Nói ngắn gọn hơn, bền vững tài chính là duy trì dài hạn

sự cân đối giữa khả năng tài chính và yêu cầu tài chính. Khả năng tài chính là tổng

nguồn thu ngắn hạn và dài hạn mà địa phương có thể động viên (mobilise) thông

qua chính sách thu và huy động trái phiếu. Yêu cầu tài chính là tổng các khoản chi

(tiêu dùng và đầu tư) nhằm đáp ứng các cam kết chi theo luật định và phòng vệ

được những cú sốc tài khóa (financial shock).

2.3. Lƣợc khảo những nghiên cứu liên quan

Gorina (2013) sử dụng dữ liệu của U.S. Census Bureau Annual Survey of

Government Finances and Employment, U.S. Census Bureau Decennial Census,

Bureau of Labor Statistics, và Government Finance Officers Association đã nêu ra

ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự bền vững tài chính của chính quyền địa phương

tại Mỹ. Một là cơ cấu hoạt động của chính quyền địa phương (government

structure). Hai là tính đa dạng của nguồn thu và khả năng kiểm soát thu trên địa bàn

(financial structure and performance). Ba là, nền tảng kinh tế của địa phương (local

economic base).

Gorina (2013) dẫn Chapman (2008) cho rằng tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương chịu tác động của ba áp lực, đó là (i) tính chu kỳ của kinh

tế địa phương, (ii) cấu trúc dân số, xu hướng tiêu dùng và cơ cấu nguồn thu tại địa

bàn, và (iii) mức độ phân cấp giữa các cấp chính quyền. Tính chu kỳ của kinh tế địa

phương phản ảnh tác động của chu kỳ kinh doanh đến tình hình tài chính của chính

quyền và thường phổ biến cho tất cả ba cấp chính quyền. Cấu trúc dân số, khuynh

hướng tiêu dùng và cơ cấu nguồn thu ngân sách bao gồm những thay đổi về nhân

khẩu học, xu hướng đô thị hóa, sự di dời tổng thể của dân cư và doanh nghiệp,

chuyển dịch cơ cấu từ việc tiêu thụ hàng hóa đến tiêu thụ các dịch vụ, và sự gia tăng

các nguồn thu mới như thu từ thương mại điện tử, thu từ nguồn tài nguyên mới đưa

16

vào khai thác,…. Ảnh hưởng của các yếu tố này đến khả năng của địa phương để

luôn đáp ứng các nghĩa vụ tài chính trực tiếp và hữu hình.

Gorina (2013) dẫn Chapman kết luận, áp lực cấu trúc dân cư có lẽ ảnh hưởng

mạnh nhất đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương bởi vì một số

trong số khía cạnh đó nằm dưới sự kiểm soát của những người hoạch định chính

sách địa phương. Áp lực phân cấp xuất phát từ các mối quan hệ giữa chính quyền

địa phương với chính phủ trung ương khi mà chính phủ trung ương không trực tiếp

cung cấp các dịch vụ tại địa phương, chúng tác động đến các điều kiện tài chính của

địa phương thông qua “các chương trình liên chính phủ với nhiều ràng buộc”.

Vũ Đình Ánh (2012) cho rằng thu ngân sách địa phương hiện đang bộc lộ một

số bất cập, hạn chế mà nổi bật nhất là tính bền vững không cao trong các nguồn thu

của ngân sách địa phương, theo đó hạn chế khả năng tăng thu, nguồn thu không ổn

định và quy mô thu chưa gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế-xã hội của địa

phương. Đến lượt mình, do nguồn thu hạn hẹp và cơ cấu thu chưa hợp lý lại làm

giảm cơ hội và khả năng phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Do những khoản

thu ngân sách nhà nước quan trọng như thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập

khẩu, thu thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành,... đều

thuộc về ngân sách trung ương nên những khoản thu 100% của ngân sách địa

phương đều có quy mô nhỏ và hay biến động. Trong đó chủ yếu là thu từ đất đai

trong khi sự phát triển của thị trường bất động sản và quy định về giá đất còn nhiều

bất cập. Kết quả tất yếu là mặc dù tỷ trọng thu ngân sách địa phương chiếm khoảng

một nửa tổng thu ngân sách nhà nước hằng năm, song vẫn thấp xa so với nhu cầu

chi ngân sách địa phương nên có tới hơn 5/6 tỉnh, thành phố trên cả nước không có

số thu điều tiết về ngân sách trung ương và được giữ lại toàn bộ nguồn thu phân

chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương nhưng cũng không đủ để

thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước trên địa bàn mà phải thường xuyên

nhận bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương với quy mô

hàng trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm.

17

Thu ngân sách địa phương thiếu tính bền vững trở thành mảnh đất màu mỡ

cho cơ chế xin-cho, giảm sự chủ động tích cực của địa phương, đồng thời tăng sự

phụ thuộc và ỷ lại vào trung ương. Hơn nữa, do buộc phải dựa chủ yếu vào nguồn

thu từ đất nên không ít chính quyền địa phương thay vì thúc đẩy phát triển sản xuất,

kinh doanh lại tập trung khai thác nguồn thu từ đất tới mức tận thu, thậm chí chấp

nhận vi phạm quy định về quản lý đất đai trong khi nguồn lực này không phải là vô

hạn và ẩn chứa rất nhiều rủi ro.

Huỳnh Thế Du (2014) dẫn Shick (2005) về bốn yếu tố bền vững của ngân

sách địa phương. Một là, khả năng thanh toán (solvency): khả năng chính quyền địa

phương thanh toán được gốc và lãi mọi khoản nợ. Hai là, tăng trưởng (growth):

chính sách chi nhằm tạo tăng trưởng kinh tế trên địa bàn. Ba là, ổn định (stability):

năng lực của chính quyền địa phương trong việc trang trải nghĩa vụ tương lai bằng

khoản thuế sẵn có mà không gia tăng thuế một cách đáng kể. Bốn là, công bằng

(fairness): khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính từ hiện tại cho đến khi đáo hạn mà

không chuyển gánh nặng nợ sang thế hệ tương lai.

Abt Associates Inc. (1994) cho rằng bền vững tài chính được đo lường chính

xác (gauge) thông qua ba chỉ tiêu cơ bản: thặng dư hay bội thu ngân sách (the

surplus of revenues over expenditures); khả năng thanh toán ngắn hạn (liquidity); và

khả năng đảm bảo nợ (solvency: the relationship of assets and debt or liabilities).

León (2001) cho rằng bền vững tài chính phải dựa trên bốn cột trụ (pillard):

Chiến lược và kế hoạch tài chính (Financial and Strategic Planning); Tính đa dạng

hóa các nguồn thu (Diversification of Sources of Funding); Quản lý tài chính và

hành chính tốt (Sound Administration and Finance); Chủ động tạo được thu nhập

(Own Revenue Generation).

Đồng thời, León nêu 6 yêu cầu cơ bản để bền vững tài khóa cấp chính quyền

địa phương:

1. Phải có cam kết dài hạn từ phía lãnh đạo và đội ngũ công chức, viên chức.

2. Chỉ đạo sâu sát và quyết đoán.

18

3. Phải đầu tư thời gian và tiền để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã

hội trên địa bàn.

4. Xây dựng được kế hoạch vận hành chi tiết.

5. Xây dựng được nhóm quản lý hiệu quả.

6. Có tinh thần làm việc theo nhóm.

Cuối cùng, León xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá bền vững tài khóa xoay

quanh 4 cột trụ.

- Chiến lược và kế hoạch tài chính;

- Tính đa dạng hóa các nguồn thu;

- Quản lý tài chính và hành chính tốt;

- Chủ động tạo được thu nhập.

2.4. Khung phân tích

Xuất phát từ nội hàm của khái niệm bền vững tài chính của chính quyền địa

phương và trên cơ sở lược khảo những công trình đã nêu ở phần trên, Luận văn đề

xuất khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương qua các nhân tố sau.

Quy mô của chính quyền địa phương

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương

19

Cấu trúc dân cư

Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng

Nền tảng kinh tế địa phương

Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương

Phân cấp ngân sách

Hình 2.1: Khung phân tích các nhân tố ảnh hƣởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng

2.4.1. Quy mô của chính quyền địa phƣơng

Quy mô của chính quyền địa phương thể hiện thông qua số lượng người

hưởng lương nhân sách cùng với quy mô hoạt động của chính quyền. Số lượng

người hưởng lương nhân sách gồm: công chức, viên chức và nhân viên trong biên

chế, nhân viên làm việc theo hợp đồng và số lượng người hưởng lương hưu. Quy

mô hoạt động của chính quyền địa phương thể hiện qua các cơ quan hành chính,

đoàn thể và đơn vị công ích như: công ty cấp thoát nước, đơn vị phòng cháy chữa

cháy, nhà máy xử lý chất thải rắn, nước thải, nhà cung cấp điện, cung cấp khí ga,

đơn vị xe buýt, công ty vệ sinh môi trường đô thị, chăm sóc công viên, cây xanh,….

Các phát hiện cho thấy sự gia tăng số lượng nhân viên trong biên chế có sự

liên quan nghịch biến với mức kinh phí về nghĩa vụ lương hưu. Chính quyền có

nguồn nhân sự dồi dào ở phòng ban tài chính có vẻ như không quản lý nguồn kinh

phí lương hưu hiệu quả hơn chính quyền có lực lượng nhân sự “khiêm tốn” hơn. Sự

chuyên môn hóa và giám sát ở mức cao hơn việc sử dụng các nguồn lực cho các

chương trình khác nhau không làm tăng hiệu suất. Theo dự đoán, số lượng kế hoạch

lương hưu mà chính quyền có tham gia và tỷ lệ phần trăm các nhân viên toàn thời

gian gây ra sức ép tiêu cực lên mức kinh phí kế hoạch hưu trí.

20

Điều quan trọng phải nhìn nhận đó là quản lý tài chính của địa phương theo

hướng duy trì sự bền vững tài khóa có thể mâu thuẫn với quản lý ngân sách được

định hướng theo hướng cải thiện cung cấp dịch vụ hoặc/và đáp ứng các ý thích của

người dân. Nói cách khác, chính quyền ít “hào phóng” hơn, có sự thận trọng về tài

chính, có thể có khả năng bền vững tài khóa cao hơn. Trong khi thắt chặt ngân sách

có thể là một phương thuốc cho các vấn đề về tài khóa, nó có thể không phải là một

nền tảng hoàn toàn chuẩn mực trong cung cấp dịch vụ công.

Một câu hỏi gây tranh cãi cho các nhà quản trị công không phải là làm sao để

tối thiểu hóa chi tiêu mà là làm thế nào để cung cấp ở mức tối ưu các dịch vụ công

một cách hiệu quả. Có một tính huống như sau. Giả sử 1 đồng chi phí mang lại 1,2

đồng lợi ích. Nếu chính quyền địa phương chủ trương tiết kiệm thì cứ mỗi đồng cắt

giảm chi phí sẽ làm giảm lợi ích trị giá 1,2 đồng. Nếu chính quyền địa phương “hào

phóng” thì cứ mỗi đồng chi phí tăng thêm sẽ làm tăng lợi ích trị giá 1,2 đồng. Ngay

cả khi đạt hiệu suất chi tiêu như thế (1 đồng chi mang lại 1,2 đồng lợi ích) thì chính

quyền địa phương có nên vay thêm nợ trên thị trường tài chính để gia tăng chi

không? Câu trả lời không đơn giản và không thuần túy mang tính kinh tế mà sẽ phụ

thuộc vào nhiều vấn đề mang tính chính trị, xã hội.

2.4.2. Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng

Số lượng và trình độ nhân viên bộ phận quản lý tài chính nhiều hơn có thể bổ

sung nguồn lực cho chính quyền trong việc lên kế họach và quản lý kinh phí. Việc

lập kế hoạch có hiệu suất cao hơn có thể làm giảm áp lực mất cân đối ngân sách nhà

nước. Mặc khác, số lượng công việc thủ công và số lượng công việc được công

nghệ thông tin hóa hoặc tự động hóa cũng có thể ảnh hưởng đến cân bằng ngân sách

vì nếu tự động hóa hay tin học hóa càng nhiều thì phải chi mua sắm tài sản máy

móc thiết bị càng cao cộng với khoản chi duy tu, sửa chữa thường xuyên và khoản

chi huấn luyện nhân viên sử dụng thiết bị.

Năng lực tài chính của chính quyền địa phương thể hiện qua các khía cạnh:

chính quyền địa phương đã xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại

địa phương chưa; chính quyền địa phương đã xây dựng được kế hoạch tài chính 05

21

năm; chính quyền địa phương đã cụ thể hóa thành được kế hoạch tài chính-ngân

sách 03 năm. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của chính quyền địa phương còn thể

hiện qua sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thuộc ngành tài chính (Sở Tài chính,

Cục thuế, Cục Hải quan, Kho bạc nhà nước) với cơ quan ngoài ngành tài chính như

Ngân hàng, Công An,.. Sự phối hợp chặt chẽ này sẽ giúp chính quyền địa phương

quản lý tốt hơn hoạt động tài chính trên địa bàn từ khâu lập kế hoạch thu, chi, đến

khâu kiểm soát thực thi kế hoạch thu, chi và những hành động chống thất thu hoặc

chống lãng phí chi.

2.4.3. Cấu trúc dân cƣ

Cấu trúc dân cư trên địa bàn được xem là một nhân tố có thể tác động đến bền

vững tài chính của chính quyền địa phương. Cấu trúc dân cư được xem xét từ những

tiêu chí gồm: tiêu chí thu nhập, tiêu chí độ tuổi lao động, khuynh hướng tiêu dùng

hoặc khuynh hướng tiết kiệm.

Tiêu chí thu nhập: tỷ lệ cư dân có thu nhập cao, tỷ lệ cư dân có thu nhập trung

bình và tỷ lệ cư dân có thu nhập thấp so với mặt bằng cả nước.

Tiêu chí độ tuổi lao động: tỷ lệ cư dân trong độ tuổi lao động và tỷ lệ cư dân

ngoài độ tuổi lao động.

Tiêu dùng: khuynh hướng tiêu dùng và tỷ lệ tiêu dùng biên của cư dân.

Khuynh hướng tiêu dùng sẽ cho biết cư dân trên địa bàn thích tiêu dùng hàng hóa

công, dịch vụ công nào. Tỷ lệ tiêu dùng biên của cư dân sẽ cho biết cư dẫn sẵn lòng

nộp thêm bao nhiêu thuế để tiêu dùng hàng hóa công, dịch vụ công khi thu nhập của

họ tăng thêm một đơn vị.

Cấu trúc dân cư thể hiện qua những biến: số lượng người nộp thuế thu nhập cá

nhân và các khoản thu ngân sách trên địa bàn; số lượng người nghèo, cận nghèo; số

lượng người thuộc diện hưởng chính sách như học sinh, thanh niên xung phong,

thương binh, gia đình có công, gia đình liệt sỹ…; số lượng người về hưu; số lượng

người đang có việc làm hoặc đang xin việc;….

2.4.4. Nền tảng kinh tế của địa phƣơng

22

Nền tảng kinh tế địa phương có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình ngân

sách địa phương. Một nền tảng kinh tế vững sẽ tạo khả năng tài chính cho chính

quyền địa phương duy trì các dịch vụ công trong hiện tại và trong tương lai.

Nền tảng thu hay còn gọi là cơ sở thu ngân sách địa phương thể hiện ở thành

phần dân cư và mức độ phát triển kinh tế của địa phương. Thêm vào đó là nhu cầu

chi tiêu nói chung của người dân, sở thích của người dân đối với mọi loại hình dịch

vụ, trong đó nhu cầu, sở thích về dịch vụ do chính quyền địa phương cung cấp.

Năng lực thu của chính quyền địa phương là những khả năng của chính phủ để

tăng số thu từ nền tảng thu của địa phương sẽ bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng tiêu

dùng và sở thích phúc lợi của người dân trên địa bàn, vốn cũng chính là người nộp

thuế cho chính quyền địa phương.

Lý thuyết về người tiêu dùng cho thấy thu nhập ảnh hưởng đến sự lựa chọn

của người dân giữa hàng hóa, dịch vụ tư hoặc công và tác động đến sự sẵn lòng của

người dân để chấp nhận việc tăng thuế và phí nhằm hỗ trợ cho việc cung cấp hàng

hoá và dịch vụ công. Đặc điểm nhân khẩu học địa phương, chẳng hạn như độ tuổi

bình quân cư dân, dân tộc, cũng như tỷ lệ nghèo đói và tình trạng việc làm có thể là

những yếu tố có liên quan mà chính quyền địa phương phải xem xét trong việc cung

cấp dịch vụ xã hội như chăm sóc y tế, trợ giúp người lớn tuổi neo đơn, hỗ trợ thu

nhập, giao thông công cộng, và các dịch vụ khác.

đây cho mức sản lượng hàng hóa công cung cấp tối ưu là Q3 chứ không phải tại

mức sản lượng Q2 và càng không phải Q1.

Giả sử một địa phương có hai nhóm người. Nhóm người thu nhập thấp có

đường cầu D1, nhóm người thu nhập cao có đường cầu D2 về cùng một mặt hàng do

chính quyền địa phương cung cấp. Nếu thu thuế chỉ bằng đoạn DO để cung cấp Q1

sản phẩm thì cơ sở thu tại địa phương vẫn còn “phần dư” có thể khai thác. Nếu thu

23

thuế vào nhóm người thu nhập cao bằng đoạn BO để cung cấp Q2 sản phẩm thì cơ

sở thu tại địa phương vẫn còn “phần dư” và có thể xảy ra nguy cơ nhóm thu nhập

thấp trở thành “người thụ hưởng không trả tiền”. Tại mức sản lượng Q3, cơ sở thu

tại địa phương được khai thác triệt để: nhóm người thu nhập thấp trả thuế bằng đoạn

EO, nhóm người thu nhập cao trả thuế bằng đoạn CO. Như vậy đạt hiệu suất Pareto

ở ba khía cạnh: lượng hàng hóa công cung cấp cho địa phương nhiều nhất, khai thác

cơ sở thu (đánh thuế) triệt để nhất, và không để xảy ra hiện tượng “người thụ hưởng

không trả tiền” vốn là một hiện tượng tạo ra những người dân thấp nhất là ỷ lại,

Mức thuế; Chi phí

sống bám vào thuế của người dân khác và cao nhất là trốn thuế.

S

E

A B C D E

D3 D2 D1 Lượng hàng hóa công Q1 Q2

Q3 Hình 2.2: Mức cung cấp hàng hóa công đạt hiệu suất Pareto

Như nói trên, khả năng thu là khả năng của chính quyền địa phương có thể

khai thác cơ sở thu tăng theo thu nhập của người dân. Một phát hiện khá thú vị

(Cooper, 1996 trích dẫn Lu, 1994) tìm thấy rằng các địa phương có cơ sở thu phong

phú hơn có xu hướng giảm chi phí vốn đòi hỏi trên những dự án công, chương trình

chi tiêu công để gia tăng số lượng hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho cư dân.

Điều này không gây mất cân bằng tài khóa hiện hành (vì cơ sở thu phong phú)

nhưng có thể ảnh hưởng đến tính bền vững ngân sách địa phương trong dài hạn vì

phải thường xuyên cung cấp dịch vụ công khi mà cơ sở thu phong phú trước đây

biết đâu sẽ bị suy giảm qua thời gian.

24

Nền tảng kinh tế của địa phương được thể hiện qua những khía cạnh: kinh tế

địa phương da dạng, đa ngành; GDP của địa phương; địa phương có cửa khẩu hoặc

đường biên giới; chu kỳ kinh doanh ổn định hay có nhiều biến động; vị trí của địa

phương trong vùng hay khu vực.

2.4.5. Phân cấp ngân sách nhà nƣớc

Phân cấp ngân sách nhà nước hay phân cấp tài khóa là việc phân chia nguồn

thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Nhìn từ

cấp độ địa phương, ngân sách địa phương có ba nguồn thu chính: (1) nguồn thu

ngân sách địa phương hưởng 100%, (2) nguồn thu phân chia với ngân sách trung

ương theo một tỷ lệ xác định vào đầu thời kỳ ổn định ngân sách và (3) nguồn thu từ

trợ cấp của ngân sách trung ương cho địa phương gồm trợ cấp trong cân đối và trợ

cấp có mục tiêu.

Nguồn thu ngân sách địa phương hưởng 100% thường bao gồm các khoản thu

mang tính địa phương như thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, thuế tài nguyên

không kể thuế tài nguyên của ngân sách trung ương, xổ số kiến thiết,….

Nguồn thu phân chia với ngân sách trung ương theo một tỷ lệ xác định vào

đầu thời kỳ ổn định ngân sách bao gồm các khoản thu lớn như: thuế giá trị gia tăng,

không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng hoạt động xổ

số; thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp từ dầu, khí

và thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động xổ số; thuế thu nhập cá nhân; thuế tiêu

thụ đặc biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước không kể thuế tiêu thụ đặc biệt từ hoạt

động xổ số; thuế bảo vệ môi trường,…

Nguồn thu từ trợ cấp của ngân sách trung ương cho địa phương gồm trợ cấp

trong cân đối và trợ cấp có mục tiêu. Trong bối cảnh Việt Nam, có hơn 50 địa

phương thường xuyên nhận trợ cấp trong cân đối của ngân sách trung ương. Điều

đó cho thấy khả năng tự chủ tài chính của đại bộ phận địa phương ở Việt Nam là

chưa cao và gây áp lực lớn cho những địa phương còn lại.

2.4.6. Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phƣơng

25

Cơ cấu nguồn thu và các hoạt động tài chính của chính quyền địa phương

cũng có thể tác động đến tính bền vững tài khóa của địa phương. Nguồn thu của địa

phương gồm: thu từ thuế, từ phí, lệ phí, từ bán tài sản công, từ vay nợ ngoài nước,

trong nước, từ quyên góp, từ nhận viện trợ, từ trợ cấp của chính quyền trung

ương,… Hoạt động tài chính của chính quyền địa phương thể hiện qua: nỗ lực thu (tax effort)6, chi phí tài trợ các hoạt động chính phủ, tài sản đang dùng trong khu

vực chính quyền, tài sản đang dùng tại các doanh nghiệp nhà nước địa phương, sự

tham gia của chính quyền địa phương vào thị trường tài chính, những hình thức vay

nợ của chính quyền địa phương, chi phí vốn ngân sách nhà nước, thay đổi tài sản

thuần của chính quyền,…

Cơ cấu nguồn thu và các hoạt động tài chính của chính quyền địa phương có

thể ảnh hưởng đến mức thâm hụt tài chính địa phương. Cụ thể, những tác động của

sự đa dạng nguồn thu là rất quan trọng để xác định. Nếu đa dạng hóa dẫn đến thâm

hụt ngân sách ít hơn, kết quả này cần cho việc hướng dẫn khuyến nghị chính sách

cho chính phủ tìm cách tăng cường vị thế tài chính của họ. Nếu đa dạng hóa nguồn

thu dẫn đến thâm hụt ngân sách nhiều hơn, sau khi chính phủ cố gắng đa dạng hóa

cần phải nhận thức được hiệu ứng này và có thể cân nhắc lợi ích của đa dạng hóa

(thu bổ sung) đối với chi phí của nó (thâm hụt tiềm năng) một cách cẩn thận hơn.

Nợ của chính quyền địa phương đồng biến với quy mô thâm hụt ngân sách.

Bởi chính thâm hụt được bù đắp bằng nợ. Thâm hụt càng nhiều và càng trải qua

nhiều năm thì mức dư nợ càng cao. Vay nợ dai dẳng để bù đắp thâm hụt ngân sách

đến một thời gian nào đó sẽ trở thành một nhân tố gây thâm hụt, chứ không còn là

nguồn để bù đắp thạm hụt nữa.

Một câu hỏi đáng lưu ý là sự phát triển của thị trường tài chính có liên quan

đến mức thâm hụt ngân sách không. Vì thị trường tài chính phát triển sẽ khiến chính

quyền địa phương cảm thấy dễ phát hành trái phiếu đô thị và các chi phí liên quan

6

đến nợ cũng trở nên rẻ hơn.

26

Kết luận chương 2

Chính quyền địa phương có vai trò cung cấp hàng hóa, dịch vụ công địa

phương cho người dân trên địa bàn. Để đảm bảo sản xuất hàng hóa và cung cấp

dịch vụ trong suốt thời gian tồn tại, chính quyền địa phương phải thường xuyên tạo

nguồn và duy trì nguồn thu, chi vận hành và đầu tư để tạo hàng hóa, dịch vụ công

và vay nợ nhằm bù đắp thiếu hụt. Tất cả những hoạt động này tạo nên tài chính của

chính quyền địa phương. Tùy theo đặc điểm ở mỗi quốc gia mà nguồn thu cụ thể và

nhiệm vụ chi cụ thể của địa phương sẽ khác nhau.

Không chỉ ở cấp quốc gia, mà vấn đề bền vững tài khóa cấp địa phương đã

được nhiều chính phủ trên thế giới quan tâm và chú trọng thời gian gần đây, nhất là

trước yêu cầu đảm bảo tính ổn định nguồn thu của ngân sách nhà nước, hạn chế

thâm hụt ngân sách, kiểm soát gia tăng nợ công và phân cấp mạnh cho địa phương.

Nhìn chung, bền vững tài khóa được xem như là “khả năng dài hạn của chính quyền

trong việc luôn đáp ứng các trách nhiệm tài chính của mình” và phụ thuộc vào

nhiều nhân tố. Sơ bộ, luận văn đề xuất 6 nhân tố có thể tác động đến bền vững tài

khóa của chính quyền địa phương. Đó là: (1) Quy mô của chính quyền địa phương;

(2) Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương; (3) Cấu trúc dân cư trên

địa bàn; (4) Nền tảng kinh tế địa phương; (5) Phân cấp ngân sách nhà nước hay

phân cấp tài khóa; (6) Cơ cấu nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương. Từ

khung phân tích này, tác giả tiến hành thiết kế nghiên cứu và thực hiện những kiểm

định cần thiết.

27

CHƢƠNG 3.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chương 3 này, tác giả giới thiệu về quy trình nghiên cứu được thực hiện trong

quá trình nghiên cứu. Qua đó sẽ chỉ ra cách mà tác giả trả lời và giải thích các hiện

tượng và trình bày đã nêu trong chương 2, bao gồm: Thiết kế nghiên cứu, tổng thể

của nghiên cứu, nguồn dữ liệu, các công cụ nghiên cứu cơ bản, các biến xử lý được

sử dụng trong nghiên cứu.

3.1. Quy trình nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tuần tự theo hai bước. Bước 1 là nghiên cứu khám

phá sử dụng phương pháp định tính được tiến hành thông qua phỏng vấn các

chuyên gia nhằm phát hiện, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát dùng để đo

lường các khái niệm nghiên cứu. Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng

phương pháp định lượng bằng cách phỏng vấn trực tiếp với bảng câu hỏi chi tiết

nhằm đánh giá các thang đo và kiểm định mô hình lý thuyết. Quy trình thực hiện

nghiên cứu được tiến hành theo kỹ thuật Delphi, bao gồm các bước như sau:

Bước 1: Kiểm tra lại tuyên bố thật rõ ràng và đầy đủ với một vài chuyên gia

trước khi thông qua lần cuối cùng. Kế đến, chọn lựa và liên hệ với những người

tham gia vào cuộc phỏng vấn.

Bước 2: Phát bảng câu hỏi đến danh sách những người tham gia. Trang bìa

của thư thăm dò phải giải thích (1) quy trình của phỏng vấn; (2) thời gian hoàn

thành toàn bộ quá trình Delphi; (3) thời hạn hoàn thành câu hỏi vòng 1; (4) giấu tên

những người tham gia; (5) cơ chế phản hồi khi hoàn thành quá trình. Tên, số điện

thoại và địa chỉ của người liên hệ được ghi rõ ở phần tiêu đề.

Bước 3: Dựa vào các câu hỏi được trả về, tác giả sẽ đối chiếu (collate) với các

kết quả ban đầu, nhóm ra các phản hồi tương tự. Tác giả có thể hiệu chỉnh lại một

chút các phúc đáp nhưng không làm sai ý nghĩa của câu trả lời.

Bước 4: Bảng câu hỏi thứ 2 được tạo ra với mỗi kết quả được trình bày cùng

với các thang đo, như thang đo định danh, thang đo thứ bậc…

28

Điều chỉnh bảng câu hỏi và các thang đo cho phù hợp với thực tế nghiên cứu

thông qua việc đánh giá độ tin cậy của các thang đo.

Bước 5: Gửi bảng câu hỏi đến khách hàng. Xác nhận thời gian nhận thư phúc

đáp (nếu gửi bảng câu hỏi bằng bưu điện hoặc email).

Bước 6: Thu thập bảng trả lời và đối chiếu với số lượng bảng câu hỏi của vòng

2 đã phát ra, tính toán giá trị mean, mode của mỗi phúc đáp. Thống kê và tổ chức lại

tất cả những ý kiến của khách hàng.

Bước 7: tác giả sử dụng công cụ SPSS 20.0 để phân tích dữ liệu, đánh giá và

đưa ra kết luận về mô hình được kiểm định.

Bước 8: Đánh giá kết quả, kiến nghị và nêu các giải pháp.

Theo (Creswell, 2009), có bốn hình thức thu thập dữ liệu: các bảng câu hỏi tự

thực hiện (tự điền câu trả lời vào); các cuộc phỏng vấn; việc xem xét lại hồ sơ có

cấu trúc để thu thập thông tin về tài chính, y tế, hay học đường; và những sự quan

sát có cấu trúc. Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn hình thức thu thập dữ liệu là

phát và thu hồi các bảng câu hỏi tự thực hiện. Các hình thức thu thập dữ liệu này dễ

thực hiện, tiết kiệm chi phí, không tiết lộ danh tánh, giảm sai lệch do diễn giả bộ

câu hỏi khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp thu thập dữ liệu này không thực hiện

được với người không biết chữ, tỷ lệ phản hồi thấp, câu hỏi có thể bị hiểu nhầm.

Khái quát quy trình này được thể hiện trong sơ đồ sau:

29

Điều chỉnh các biến và thang đo Câu hỏi nghiên cứu và thiết lập bảng câu hỏi

Cronbach’s Alpha Phỏng vấn chuyên gia (nghiên cứu khám phá) Đánh giá độ tin cậy của các thang đo, loại bỏ các biến quan sát không phù hợp

Câu hỏi nghiên cứu và thiết lập bảng câu hỏi

Kiểm tra nhân tố trích được, kiểm tra phương sai trích được. Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Thiết lập thang đo nháp

Hoàn chỉnh thang đo

Định nghĩa các biến

Thu thập dữ liệu (N=200)

Thiết lập giả thiết và mô hình nghiên cứu

Phân tích dữ liệu

Cơ sở lý thuyết và xem xét tài liệu

Đánh giá và kết luận

Xác định vấn đề và tuyên bố vấn đề

Sơ đồ quy trình nghiên cứu

30

3.2. Phƣơng pháp chọn mẫu và quy mô mẫu

Trong nghiên cứu khoa học việc xác định kích thước mẫu là quan trọng, kích

cỡ mẫu phải đạt được tính đại diện. Có nhiều lý thuyết về xác định kích thước mẫu,

ở nghiên cứu này ta dựa vào hai lý thuyết, đó là theo Hoelter thì kích thước mẫu tối

thiểu phải là 200 (trích Nguyễn Thị Minh Tâm, 2008) và theo Bollen (trích Nguyễn

Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2007) thì kích thước mẫu tối thiểu phải là 5

mẫu cho một biến quan sát. Theo đó với 26 biến quan sát thì kích thước mẫu tối

thiểu là 26 x5 bằng 130 quan sát. Để mẫu nghiên cứu đạt mức tốt và đảm bảo độ tin

cậy thì tác giả chọn kích thước mẫu 200 quan sát cho đề tài nghiên cứu này. Song,

để đạt được cỡ mẫu 200 quan sát sau khi đã loại bỏ các mẫu không đạt yêu cầu về

thông tin hoặc chất lượng thấp, nghiên cứu quyết định sử dụng 220 bảng câu hỏi,

lên kế hoạch phân phối các bảng câu hỏi đến các đối tượng khảo sát và thu hồi trực

tiếp.

ấy mẫu thuận tiện sẽ giúp tác giả dễ chọn ra những người am hiểu về tính

bền vững của tài chính chính quyền địa phương.

3.3. Phƣơng pháp phân tích dữ liệu

Bảng câu hỏi sẽ được điều tra thử trên 20 đối tượng để rà soát lỗi, sau đó sẽ

tiến hành hoàn chỉnh để ra bảng câu hỏi nghiên cứu chính thức. Các dữ liệu khi

nghiên cứu chính thức sau khi thu hồi về sẽ tiến hành sàng lọc, mã hóa, nhập liệu và

tiến hành làm sạch dữ liệu trước khi phân tích. Quá trình phân tích sẽ được thực

hiện trên phần mềm SPSS phiên bản 20.0 với các nội dung sau:

3.3.1. Phân tích thống kê mô tả

Mục đích của phân tích là cung cấp thông tin tổng quan về mẫu nghiên cứu

dựa vào tần suất, tỉ lệ, trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, các biểu đồ thống

kê...

3.3.2. Kiểm định Cronbach’s Alpha

Kiểm định Cronbach’s Alpha cho phép đánh giá mức độ tương quan chặt chẽ

giữa các câu hỏi trong thang đo, do đó cho phép ta loại bỏ những biến có hệ số

31

tương quan thấp. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) thì một tập

hợp các mục hỏi dùng để đo lường được đánh giá là tốt phải có hệ số α lớn hơn

hoặc bằng 0,8.

Tuy nhiên, theo Nguyễn Đình Thọ (2011) hệ số α lớn thì tốt nhưng nếu nó quá

lớn (α> 0,95) thì cho thấy có nhiều biến trong thang đo không có khác biệt nhau.

Đây là hiện tượng trùng lắp trong đo lường. Do đó, trong một số trường hợp, hệ số

α từ 0,6 trở lên là có thể chấp nhận.

3.3.3. Phân tích nhân tố khám phá

Đây là phương pháp thống kê dùng để rút gọn một tập hợp gồm nhiều biến

quan sát phụ thuộc lẫn nhau thành một tập biến ít hơn để chúng có ý nghĩa hơn

nhưng vẫn chứa đựng đầy đủ thông tin của tập biến ban đầu (Hair và cộng sự,

1998). Việc phân tích nhân tố khám phá này chỉ phù hợp khi thỏa mãn các điều kiện

như:

(1) Hệ số KMO: là một chỉ tiêu dùng để xem xét sự thích hợp của EFA, EFA

thích hợp khi: 0,5 ≤ KMO ≤ 1; Kiểm định Bartlet xem xét giả thuyết về độ tương

quan giữa các biến quan sát, nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (sig ≤ 0,05) thì

các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Hoàng Trọng và Chu

Nguyễn Mộng Ngọc, 2005, p.262).

(2) Hệ số tải nhân tố (hay trọng số nhân tố) (Factor Loading) > 0,5 để tạo giá

trị hội tụ (Hair và Ctg 1998, 111). Hệ số tải nhân tố là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý

nghĩa thiết thực của EFA. Hệ số tải nhân tố > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu thì

cỡ mẫu ít nhất phải là 350; hệ số tải nhân tố > 0,4 được xem là quan trọng; và ≥ 0,5

được xem là có ý nghĩa thực tiễn. Nếu cỡ mẫu khoảng 100 thì nên thì nên chọn tiêu

chuẩn hệ số tải nhân tố > 0,55; nếu cỡ mẫu khoảng 50 thì hệ số tải nhân tố > 0,75.

Với mẫu khảo sát thu được trong nghiên cứu này là 200, tác giả chấp nhận hệ số tải

nhân tố từ 0,5 trở lên. Với các biến không đạt tiêu chí này thì bị loại vì không phải

là biến quan trọng trong mô hình.

(3) Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích ≥ 50%. (Hair và Ctg,

1998 và Gerbing & Anderson, 1988).

32

(4) Hệ số Eigenvalue >1 (Gerbing và Anderson, 1998). Số lượng nhân tố được

xác định dựa trên chỉ số eigenvalue - đại diện cho phần biến thiên được giải thích

bởi mỗi nhân tố.

(5) Hệ số tải nhân tố (Factor Loading) lớn nhất của từng biến quan sát ≥ 0,5

(được xem là có ý nghĩa thực tiễn, Hair & ctg, 1998).

(6) Khác biệt hệ số tải nhân tố của một biến quan sát giữa các nhân tố phải ≥

0,3 để tạo giá trị phân biệt giữa các nhân tố (Jabnoun và Al-Tamimi, 2003).

3.3.4. Phân tích hồi quy đa biến

Trước khi tiến hành phân tích hồi quy cần tiến hành kiểm định hệ số tương

quan giữa biến phụ thuộc (tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương) và

biến độc lập (các yếu tố ảnh hưởng).

Tiếp theo, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến bằng phương pháp bình

phương nhỏ nhất thông thường (Ordinal Least Squares – OLS). Hệ số xác định R2

hiệu chỉnh được dùng để xác định độ phù hợp của mô hình. Kiểm định F được sử

dụng để khẳng định khả năng mở rộng mô hình này áp dụng cho tổng thể cũng như

kiểm định t để bác bỏ giả thuyết các hệ số hồi quy của tổng thể bằng 0.

Nhằm đảm bảo độ tin cậy của phương trình hồi quy được xây dựng cuối cùng

là phù hợp, một loạt các dò tìm sự vi phạm của các giả định cần thiết trong mô hình

hồi quy tuyến tính cũng được thực hiện.

Các giả định được kiểm định trong phần này bao gồm: liên hệ tuyến tính

(dùng biểu đồ phân tán Scatterplot), phương sai của phần dư không đổi (dùng hệ số

hạng Speaeman), phân phối chuẩn của phần dư (dùng Histo-gram và P-P plot), tính

độc lập của phần dư (dùng đại lượng thống kê Dur-bin-Watson), hiện tượng đa cộng

tuyến (hệ số phóng đại VIP).

Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương là một khía cạnh trong nghiên cứu kinh tế vừa mang tính chuyên biệt lại

vừa mang tính tổng hợp. Để có thể giải quyết yêu cầu của nghiên cứu, đề tài sử

dụng cách tiếp cận theo nguyên tắc toàn diện và tiếp cận theo kinh tế vi mô. Sử

33

dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu tài liệu,

phương pháp điều tra phỏng vấn, nghiên cứu khám phá bằng phương pháp nghiên

cứu định tính và định lượng thông qua các mô hình phân tích nhân tố khám phá,

phân tích hồi quy đa biến để giải quyết các vấn đề nghiên cứu là xác định các nhân

tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương từ đó tìm ra

giải pháp tốt hơn.

34

CHƢƠNG 4.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Từ các giả thuyết và mô hình nghiên cứu trong chương 2 và chương 3, bài

nghiên cứu sẽ thực hiện các mô hình nghiên cứu và đưa ra kết quả đo lường các

nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương tại Long

An. Cấu trúc trong chương này sẽ bao gồm Thống kê mô tả đặc điểm mẫu nghiên

cứu, phân tích kết quả nghiên cứu thực nghiệm và thảo luận kết quả.

4.1. Tổng quan kết quả điều tra mẫu phân tích

Dựa trên các yêu cầu và thiết kế nghiên cứu đã đặt ra ở các chương trước, tác

giả đã thực hiện điều tra khảo sát với các đối tượng nghiên cứu là các cá nhân hiện

đang làm việc tại Cơ quan tài chính, Cơ quan kho bạc, Cơ quan thuế, Cơ quan kế

hoạch-đầu tư, Cơ quan hải quan, Ủy ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thể, Cơ

quan Đảng, Cơ quan khác trên địa bàn tỉnh Long An năm 2015. Sau khi tiến hành

phân loại, loại bỏ các quan sát không thích hợp. Kết quả thu được 200 phiếu điều tra

đạt yêu cầu trong tổng số phiếu thu về đủ để phân tích dữ liệu có ý nghĩa về mặt

khoa học trong đề tài nghiên cứu này.

4.1.1. Đặc điểm cá nhân đại diện đƣợc khảo sát

Thống kê chung về thông tin người được điều tra trong mẫu khảo sát 200

phiếu cho thấy các đối tượng được khảo sát trong mẫu phần lớn là nữ, chiếm tỷ lệ

Nguồn: Tác giả tính toán

66,5%.

Hình 4.1 Giới tính

35

Với mẫu nghiên cứu này, số người hoàn tất bậc đại học và cao đẳng chiếm đa

số (93,0%) và tỷ trọng nhỏ các cá nhân được khảo sát có trình độ trên đại học và

Nguồn: Tác giả tính toán

hoàn tất bậc phổ thông.

Hình 4.2 Trình độ học vấn

Và hiện tại, họ đang làm việc ở nhiều cơ quan khác nhau như Cơ quan tài chính,

Cơ quan kho bạc, Cơ quan thuế, Cơ quan kế hoạch-đầu tư, Cơ quan hải quan, Ủy

Nguồn: Tác giả tính toán

ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thể, Cơ quan Đảng, Cơ quan khác.

Hình 4.3 Cơ quan làm việc

36

Trong đó, đối tượng được khảo sát đang làm việc nhiều nhất tại các cơ quan

tài chính (chiếm 40%), cơ quan kho bạc (chiếm 20%), cơ quan thuế (10%). Điều

này giúp chúng ta thu thập thông tin nhiều hơn trong quá trình khảo sát khi nghiên

cứu các nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.

Tại nơi làm việc của mình họ là lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương, Đội

trưởng, tổ trưởng hoặc chuyên viên. Kết quả khảo sát cho thấy, các đối tượng được

Nguồn: Tác giả tính toán

khảo sát chọn trong mẫu với cấp độ chuyên viên là chủ yếu (80%).

Hình 4.4 Vị trí tại nơi làm việc

Kinh nghiệm cũng là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá của các đối

tượng được khảo sát. Kết quả cho thấy, các đối tượng được khảo sát có thâm niên

công tác trong ngành tài chính khá đa dạng: một năm, 1-3 năm, 3-7 năm, trên 7 năm

kinh nghiệm. Trong đó, những người được điều tra có thời gian làm việc trong

ngành tài chính phân bổ chủ yếu ở nhóm trên 7 năm (chiếm tỷ lệ 55%); 3-7 năm

(chiếm 33%) và tỷ trọng nhỏ đối tượng được khảo sát có kinh nghiệm dưới 3 năm.

Nguồn: Tác giả tính toán

37

Hình 4.5 Thời gian đã làm việc trong ngành tài chính

Thế nên, trình độ học vấn, cơ quan làm việc, vị trí nơi làm việc cũng như kinh

nghiệm (thời gian làm việc) đều có ảnh hưởng đến nhận thức và đánh giá về các

Nguồn: Tác giả tính toán

nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.

Hình 4.6 Thời gian đã làm việc trong khu vực Nhà nƣớc

Với thông tin thu thập về thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước phần lớn

họ đã làm việc trong khu vực này từ 5-20 năm (76,5%). Điều này phần nào thể hiện

thâm niên làm việc của họ và giúp chúng ta có nhiều thông tin chính xác hơn trong

quá trình thu thập, phân tích kết quả nghiên cứu.

38

Ngoài ra, với câu hỏi được khảo sát “Anh, chị đã từng chuyển vị trí làm việc

trong khu vực nhà nước mấy lần?”. Kết quả cho thấy phần lớn họ rất ít chuyển vị trí

làm việc khi làm việc trong khu vực nhà nước (chiếm 61%), 34,5 % có chuyển vị trí

Nguồn: Tác giả tính toán

từ 1-2 lần và rất ít người chuyển vị trí làm việc trên 3 lần trong mẫu khảo sát này.

Hình 4.7 Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nƣớc

Về kinh phí tài chính mà cơ quan nhận được hàng năm, phần lớn các đối

tượng được khảo sát trả lời tại cơ quan họ chỉ nhận dưới 50 tỷ đồng (chiếm 98%) và

rất ít cơ quan nhận trên 50 tỷ đồng theo nguồn thông tin các đối tượng được khảo

Nguồn: Tác giả tính toán

sát cung cấp.

Hình 4.8 Kinh phí nhận hàng năm

39

Tóm lại, với các biến về đặc điểm đối tượng được thu thập trong mẫu khảo sát

bao gồm: Giới tính, trình độ, cơ quan làm việc, vị trí nơi làm việc, kinh nghiệm, số

lần chuyển vị trí lam việc trong khu vực nhà nước, kinh phí nhận hàng năm. Tất cả

góp phần giúp kết quả phân tích của chúng ta có những đánh giá khách quan hơn.

Như vậy xét về thông tin từ đặc điểm đối tượng đại diện trả lời phiếu khảo sát, kết

quả cho thấy dữ liệu điều tra của đề tài là đủ độ tin cậy cho các phân tích tiếp theo.

4.1.2. Thống kê về các nhân tố trong mô hình nghiên cứu

Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ)

Mối quan hệ giữa Quy mô của chính quyền địa phương và tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương đã được khẳng định trong lý thuyết và các

nghiên cứu thực nghiệm. Kết quả khảo sát cho thấy trên 50% các đối tượng được

khảo sát khẳng định mối quan hệ này và chỉ có 10,50% phủ nhận.

Bảng 4.1. Quy mô của chính quyền địa phƣơng

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Không đồng ý

Bình thƣờng

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

QMCQ QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5

3,70 3,73 3,76 3,68 3,67 3,66

0,81 1,06 0,91 1,00 0,99 0,96

8,00 11,50 6,00 7,50 6,50 8,50

29,20 20,50 26,50 31,00 33,50 34,50

37,80 39,50 45,00 36,00 35,00 33,50

Hoàn toàn không đồng ý 2,50 3,00 2,00 3,00 3,00 1,50

22,50 25,50 20,50 22,50 22,00 22,00

Nguồn: Tác giả tính toán

Đi sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố Quy mô của chính quyền địa

phương cho thấy các đối tượng được khảo sát đánh giá yếu tố Nhiều nhân viên

trong biên chế nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất đến tính bền vững tài chính (trung bình

điểm đánh giá 3,76/5). Bên cạnh đó, yếu tố Việc ra đời nhiều cơ quan sự nghiệp

công lập ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương có

điểm bình quân cho mức độ đồng ý thấp nhất trong thang đo (trung bình điểm đánh

giá 3,66/5).

40

Nhìn chung, trung bình mức độ đồng ý của các đối tượng được khảo sát về

Quy mô của chính quyền địa phương ở mức trung bình (3,70/5) với mức độ thống

nhất khá cao (sai lệch chuẩn 0,81).

Cấu trúc dân cƣ (CTDC)

Kết quả từ các nghiên cứu lý thuyết và thực chứng đã chứng minh Cấu trúc

dân cư có tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Kết

quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khẳng định mối quan hệ này chiếm đến 64,13% trong

khi đó chỉ có khoảng 12,88% số đối tượng được khảo sát phủ nhận mối quan hệ

này.

Bảng 4.2. Cấu trúc dân cƣ

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Không đồng ý

Bình thƣờng

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

4,88 5,00 2,00 5,50 7,00

31,88 55,50 30,00 19,00 23,00

CTDC CTDC1 CTDC2 CTDC3 CTDC4

3,78 4,22 3,84 3,53 3,54

0,82 1,12 1,00 1,08 1,15

8,00 5,00 7,00 10,50 9,50

23,00 8,50 26,00 28,50 29,00

32,25 26,00 35,00 36,50 31,50

Nguồn: Tác giả tính toán

Như vậy, phần lớn các đối tượng được khảo sát đồng ý rằng Cấu trúc dân cư

có tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Tác giả phân

tích sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố Cấu trúc dân cư cho thấy yếu tố

Nhiều người nộp thuế trên địa bàn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của địa

phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất (trung bình điểm đánh giá 4,22/5). Trong khi

đó, yếu tố Nhiều người về hưu sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương phần lớn không được đồng tình nên mức độ đồng ý thấp nhất khi

xét trong thang đo này.

Nhìn chung, mức độ đồng ý của các đối tượng được khảo sát về nhân tố Cấu

trúc dân cư được xác nhận ở mức trung bình (trung bình 3,78/5) với sai lệch chuẩn

thấp (0,82).

Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT)

41

Nhân tố Nền tảng kinh tế địa phương cũng có ảnh hưởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương; kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 65,9% đối

tượng được khảo sát đồng ý khẳng định mối quan hệ này và rất ít các đối tượng

được khảo sát phủ nhận.

Bảng 4.3. Nền tảng kinh tế địa phƣơng

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Không đồng ý

Bình thƣờng

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

2,50 3,00 3,00 3,50 1,50 1,50

27,00 48,50 30,00 27,50 14,50 14,50

7,30 5,00 5,00 7,00 10,00 9,50

24,30 10,00 20,50 24,00 34,50 32,50

38,90 33,50 41,50 38,00 39,50 42,00

NTKT NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5

3,86 4,20 3,91 3,79 3,56 3,59

0,74 1,01 0,99 1,04 0,91 0,90

Nguồn: Tác giả tính toán

Tác giả phân tích sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố cho thấy yếu tố

Kinh tế địa phương da dạng, đa ngành sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất (trung bình điểm đánh giá:

4,20/5). Tuy nhiên, các sai lệch chuẩn trong đánh giá về các khía cạnh của nhân tố

này khá cao (độ lệch chuẩn 1,01). Trong khi đó, yếu tố Chu kỳ kinh doanh sẽ ảnh

hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương phần lớn không

được đồng tình nên mức độ đồng ý thấp nhất khi xét trong thang đo này.

Nhìn chung, mức độ đồng ý của các đối tượng được khảo sát về nhân tố Nền

tảng kinh tế địa phương được xác nhận ở mức trung bình (3,86/5). Và các sai lệch

chuẩn trong đánh giá về các khía cạnh của các nhân tố này khá thấp, cho thấy sự

thống nhất ý kiến của các đối tượng được khảo sát về nhân tố này.

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng (QLTC)

Kết quả từ các nghiên cứu lý thuyết và thực chứng đã chứng minh Năng lực

quản lý tài chính của chính quyền địa phương có ảnh hưởng đến tính bền vững của

tài chính chính quyền địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khẳng định mối

42

quan hệ này chiếm 72,88% số đối tượng được khảo sát, trong khi đó chỉ khoảng

9,76% số đối tượng được khảo sát phủ nhận mối quan hệ này.

Bảng 4.4. Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Không đồng ý

Bình thƣờng

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

3,88

0,86

4,13 3,50 3,00 3,50 6,50

28,88 35,00 30,50 28,50 21,50

5,63 7,50 5,00 3,50 6,50

17,38 10,50 15,50 18,50 25,00

44,00 43,50 46,00 46,00 40,50

QLTC QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4

3,99 3,96 3,93 3,64

1,04 0,97 0,96 1,09

Nguồn: Tác giả tính toán

Xét cụ thể hơn cho từng biến quan sát với thang đo Năng lực quản lý tài chính

của chính quyền địa phương, biến quan sát Chính quyền địa phương xây dựng được

chiến lược phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương có mức độ đồng ý cao nhất (trung bình điểm đánh giá 3,99/5).

Ngược lại, biến quan sát Sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thuộc ngành tài

chính sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương không

được đồng ý nhiều (trung bình điểm đánh giá 3,64/5).

Với thang đo Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, mức độ

đồng ý của các đối tượng được khảo sát về nhân tố này được xác nhận cũng ở mức

trung bình (khoảng 3,88/5) tuy nhiên với mức độ thống nhất khá cao giữa ý kiến các

đối tượng được khảo sát về nhân tố này (sai lệch chuẩn 0,86).

Phân cấp ngân sách (PCNS)

Phân cấp ngân sách là một nhân tố trung gian ảnh hưởng đến Năng lực quản lý

tài chính của chính quyền địa phương. Kết quả từ khảo sát cho thấy có 78,17% các

đối tượng được khảo sát đồng ý khẳng định mối quan hệ này và chỉ có khoảng

5,34% phủ định mối quan hệ này.

43

Bảng 4.5. Phân cấp ngân sách

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Không đồng ý

Bình thƣờng

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

1,17 1,00 2,50

45,67 51,00 43,50 42,50

PCNS PCNS1 PCNS2 PCNS3

4,17 4,28 4,13 4,12

0,83 0,86 0,95 0,98

4,17 3,00 5,50 4,00

16,50 17,50 16,50 15,50

32,50 28,50 33,50 35,50

Nguồn: Tác giả tính toán

Đi sâu vào cụ thể từng khía cạnh trong nhân tố Phân cấp ngân sách cho thấy

các đối tượng được khảo sát đánh giá yếu tố Tỷ lệ phân chia nguồn thu với ngân

sách trung ương cao sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa

phương có ảnh hưởng chặt chẽ nhất đến Năng lực quản lý tài chính của chính quyền

địa phương (trung bình điểm đánh giá 4,28/5).

Nhìn chung, trung bình mức độ đồng ý các đối tượng được khảo sát về Phân

cấp ngân sách ở mức khá cao (trung bình 4,17/5) với mức độ thống nhất rất cao (sai

lệch chuẩn 0,83).

Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS)

Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khẳng định mối quan hệ này chiếm 69,63% số

đối tượng được khảo sát trong khi đó chỉ có khoảng 10,25% số đối tượng khảo sát

phủ nhận mối quan hệ này.

Bảng 4.6. Cấu trúc nguồn thu ngân sách

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Không đồng ý

Bình thƣờng

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

2,75 1,00 1,00 2,00 7,00

CTNS CTNS1 CTNS2 CTNS3 CTNS4

3,90 4,19 4,13 3,74 3,54

0,74 0,94 0,87 0,99 1,17

7,50 4,50 3,50 10,00 12,00

20,13 16,50 15,50 24,00 24,50

36,63 31,00 41,50 40,50 33,50

33,00 47,00 38,50 23,50 23,00

Nguồn: Tác giả tính toán

Xét cụ thể hơn cho từng biến quan sát với Thang đo Cấu trúc nguồn thu ngân

sách, biến quan sát Số thu cao từ ngành dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài

44

chính của tài chính địa phương có mức độ đồng ý cao nhất (trung bình điểm đánh

giá 4,19). Ngược lại, biến quan sát Số thu cao từ chuyển nguồn hoặc kết dư ngân

sách sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của tài chính địa phương không

được các đối tượng được khảo sát đồng ý nhiều (trung bình điểm đánh giá 3,54/5).

Với thang đo Cấu trúc nguồn thu ngân sách, mức độ đồng ý của các đối tượng

được khảo sát về nhân tố này được xác nhận ở mức trung bình (trung bình 3,90/5)

tuy nhiên với mức độ thống nhất khá cao giữa ý kiến các đối tượng được khảo sát

về nhân tố này (sai lệch chuẩn 0,74).

Đánh giá chung về sự tác động của các nhân tố đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phƣơng (BVNS)

Thống kê đánh giá chung về tác động của các nhân tố đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương cho thấy các đối tượng được khảo sát đồng ý (tỷ

lệ đồng ý là 83,5%), 14,50% với mức độ đánh giá là bình thường, số người trả lời

Nguồn: Tác giả tính toán

không đồng ý chỉ chiếm khoảng 2%.

Hình 4.9 Cơ cấu đánh giá chung về các nhân tố tác động đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phƣơng

Đánh giá chung về các nhân tố ảnh hƣởng đến tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phƣơng

45

Thống kê chung về các biến tác động đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương. Theo đó, các đối tượng được khảo sát đều có mức độ đồng ý khá

cao về tính biến động của các nhân tố mà đề tài đặt ra ảnh hưởng đến đánh giá của

họ. Trong đó, mức độ đồng ý cao nhất là sự ảnh hưởng của Phân cấp ngân sách với

mức điểm trung bình đạt 4,17/5, mức độ đồng ý thấp nhấp ở nhân tố Quy mô của

chính quyền địa phương đạt 3,70/5.

Bảng 4.7. Thống kê mô tả chung cho các nhân tố ảnh hƣởng

Các quan sát Quy mô của chính quyền địa phương Cấu trúc dân cư Nền tảng kinh tế địa phương Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương Phân cấp ngân sách Cấu trúc nguồn thu ngân sách

Trung bình Độ lệch chuẩn 0,81 0,82 0,74 0,86 0,83 0,74

3,70 3,78 3,86 3,88 4,17 3,90

Nguồn: Tác giả tính toán

Từ các kết quả trên giúp ta định hình được sơ bộ kết quả ảnh hưởng của các

nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương tại tỉnh Long An

trong mẫu được khảo sát.

4.2. Kiểm định giả thuyết về sự khác biệt của các đặc tính cá nhân đƣợc

khảo sát

Để khẳng định có hay không những sự khác biệt giữa các đặc tính của đối

tượng khảo sát có ảnh hưởng đến việc đánh giá nhân tố tác động đến tính bền vững

tài chính của chính quyền địa phương tại tỉnh Long An, tác giả tiến hành thực hiện

các kiểm định để nhận diện sự khác biệt này.

4.2.1. Kiểm định giả thuyết về trị trung bình cho các thang đo

Tiến hành kiểm định trị trung bình của tổng thể lần lượt cho các thang đo Quy

mô chính quyền địa phương (QMCQ), Cấu trúc dân cư (CTDC), Nền tảng kinh tế

địa phương (NTKT), Năng lực quản lý tài chính (QLTC), Phân cấp ngân sách

(PCNS), Đánh giá tác động các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương (BVNS) với giả thuyết Ho: Trung bình thang đo bằng 3 (Mức độ bình

thường).

46

Bảng 4.8. Kiểm định trị trung bình cho các thang đo

Trung bình

Giá trị P

Độ lệch chuẩn

Chỉ số

Ho: Trung bình thang đo = 3 Khác biệt trung bình

4,085 3,698 3,637 3,861 3,879 4,173

0,721 0,808 0,902 0,741 0,856 0,830

1,085 0,698 0,637 0,963 0,879 1,173

BVNS QMCQ CTDC NTKT QLTC PCNS

0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu

Kết quả cho thấy các giá trị p = 0,000 < 0,05 nên bác bỏ giả thuyết Ho với

mức ý nghĩa 5%. Căn cứ trung bình mẫu, khác biệt trung bình và kết quả kiểm định

vừa rồi, ta có thể nói rằng Trung bình của các thang đo là trên mức 3 (bình thường);

hay các đối tượng được khảo sát có mức độ trả lời trung bình là từ đồng ý trở lên ở

hầu hết các nhân tố.

4.2.2. Kiểm định khác biệt về đặc tính cá nhân đến việc đánh giá tác

động các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng

(BVNS)

Để so sánh về sự khác biệt về các đặc tính cá nhân đến việc đánh giá tác động

các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương, tác giả tiến

hành phân tích trên các đặc điểm của các đối tượng được khảo sát bao gồm: Giới

tính, Vị trí nơi làm việc, Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nước, Thời

gian làm việc trong ngành tài chính. Cụ thể như sau:

Giới tính

Bảng 4.9. Kiểm định khác biệt về Giới tính

Chỉ số

Giới tính

Số quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị P

Khác biệt trung bình

Nữ

67

3,910

0,753

-0,262

0,015

Nam

133

4,173

0,691

Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính

47

Chỉ số

Giới tính

Số quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị P

Khác biệt trung bình

Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu

quyền địa phương (BVNS)

Với mức ý nghĩa 5%, kết quả kiểm định cho thấy có sự khác biệt trong việc

đánh giá các nhân tố tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền giữa cá

nhân nam và nữ (vì p = 0,015<0,05). Và cá nhân nam có mức độ đồng ý cao hơn so

với cá nhân nữ khi được hỏi về thang đo này.

Vị trí nơi làm việc

Bảng 4.10. Kiểm định khác biệt về vị trí nơi làm việc

Vị trí nơi làm việc

Khác biệt trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị P

Đội trưởng, tổ trưởng

0,600

0,341

0,186

Chuyên viên

0,763

0,324

0,051

Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương

-0,600

0,341

0,186

Đội trưởng, tổ trưởng

Tukey HSD

0,163

0,133

0,442

-0,763

0,324

0,051

Chuyên viên

Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Chuyên viên Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Đội trưởng, tổ trưởng

-0,163

0,133

0,442

Đội trưởng, tổ trưởng

0,600

0,341

0,240

Chuyên viên

0,763

0,324

0,059

Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương

-0,600

0,341

0,240

Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS)

Đội trưởng, tổ trưởng

Bonferroni

0,163

0,133

0,670

-0,763

0,324

0,059

Chuyên viên

Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Chuyên viên Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương Đội trưởng, tổ trưởng

-0,163

0,133

0,670 Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự đánh giá về các nhân tố đến tính bền vững tài

chính của chính quyền có sự khác biệt ở các các nhân ở tứng vị trí làm việc như

Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương; Đội trưởng, tổ trưởng và Chuyên viên.

48

Cấp độ chuyên viên có mức độ đồng ý cao hơn so với Lãnh đạo cơ quan cấp sở và

tương đương (p = 0,051). Và không có sự khác biệt trong mức độ đánh giá giữa Đội

trưởng, tổ trưởng, Chuyên viên với Lãnh đạo cơ quan cấp sở và tương đương (p lần

lượt là 0,186 và 0,442).

Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nƣớc

Bảng 4.11. Kiểm định khác biệt về số lần chuyển vị trí làm việc trong khu

vực nhà nƣớc

Chỉ số

Nhóm

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị P

0,216

Trên 5 lần Từ 03 đến 05 lần Từ 01 đến 02 lần

Số quan sát 1 8 69

3,000 3,750 4,145

0,491 0,083

Chưa từng

122

4,082

0,061

Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu

Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS)

Khi xem xét Số lần chuyển vị trí làm việc trong khu vực nhà nước đến việc

đánh giá của cá nhân, kết quả cho thấy số lần chuyển việc khác nhau (Trên 5 lần; Từ

03 đến 05 lần; Từ 01 đến 02 lần; Chưa từng) không có tác động đến việc đánh giá

của các cá nhân. (p=0,216)

Thời gian làm việc trong ngành tài chính

Bảng 4.12. Kiểm định khác biệt về Thời gian làm việc trong ngành tài chính

Chỉ số

Nhóm

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị P

Trên 7 năm Trên 3 đến 7 năm Trên 1 đến 3 năm

Số quan sát 110 66 17

4,264 3,818 4,059

0,059 0,096 0,181

0,001

Một năm

7

3,857

0,340

Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu

Đánh giá tác động của các nhân tố đến tính bền vững của tài chính chính quyền địa phương (BVNS)

Bảng trên trình bày kết quả phân tích ANOVA. Với mức ý nghĩa 5%, quan sát

với p = 0,001 ta có thể nói sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trong việc đánh giá

các nhân tố đến tính bền vững tài chính của chính quyền giữa 4 nhóm có thời gian

làm việc trong ngành tài chính khác nhau (Trên 7 năm, Trên 3 đến 7 năm, Trên 1

49

đến 3 năm, Một năm). Tuy nhiên khi kiểm định sự khác biệt từng cặp, tác giả vẫn

chưa rút ra quy luật cụ thể trong thang đo này về sự biến thiên mức độ đồng ý khi

thời gian làm việc tăng dần.

Bảng 4.13. Kiểm định khác biệt từng cặp về thời gian làm việc trong ngành

tài chính

Nhóm

Độ lệch chuẩn

Giá trị P

Khác biệt trung bình

Trên 3 đến 7 năm

0,108

0,000

.445

Trên 7 năm

Trên 1 đến 3 năm

0,181

0,672

0,205

Một năm

0,271

0,441

0,406

Trên 7 năm

0,108

0,000

-.445

Trên 1 đến 3 năm

0,189

0,582

-0,241

Trên 3 đến 7 năm

Một năm

0,277

0,999

-0,039

Tukey HSD

Trên 7 năm

0,181

0,672

-0,205

Trên 3 đến 7 năm

0,189

0,582

0,241

Trên 1 đến 3 năm

Một năm

0,313

0,917

0,202

Đánh giá tác động

Trên 7 năm

0,271

0,441

-0,406

của các nhân tố

Một năm

Trên 3 đến 7 năm

0,277

0,999

0,039

đến tính bền vững

Trên 1 đến 3 năm

0,313

0,917

-0,202

tài chính của chính

Trên 3 đến 7 năm

0,108

0,000

0,445

quyền địa phương

Trên 7 năm

Trên 1 đến 3 năm

0,181

1,000

0,205

Một năm

0,271

0,814

0,406

(BVNS)

Trên 7 năm

0,108

0,000

-0,445

Trên 1 đến 3 năm

0,189

1,000

-0,241

Trên 3 đến 7 năm

Một năm

0,277

1,000

-0,039

Bonferroni

Trên 7 năm

0,181

1,000

-0,205

Trên 3 đến 7 năm

0,189

1,000

0,241

Trên 1 đến 3 năm

Một năm

0,313

1,000

0,202

Trên 7 năm

0,271

0,814

-0,406

Một năm

Trên 3 đến 7 năm

0,277

1,000

0,039

Trên 1 đến 3 năm

-0,202

0,313

1,000 Nguồn: Tác giả thống kê từ dữ liệu

Với các kết quả phân tích được trình bày ở bên trên nhằm giúp chúng ta có

những định hướng cụ thể trong việc đưa ra các hàm ý chính sách quan trọng trong

phần chương 5 về các đặc tính của đối tượng được khảo sát ảnh hưởng đến việc

đánh giá các nhân tố tác động tính bền vững tài chính của chính quyền tại Long An.

4.3.

50

Kiểm định thang đo để đánh giá các giả thuyết ban đầu thông qua hai bước là

kiểm tra độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha và hệ số tương quan

biến tổng (Item-total correlation); và kiểm định giá trị của thang đo thông qua phân

tích nhân tố khám phá (EFA).

Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại

(internal consistency) thông qua hệ số Cronbach’s Alpha (α) và hệ số tương quan

biến tổng (Item total correlation). Tiêu chuẩn đánh giá thang đo theo Nunnally &

Burnstein (1994) và Hoàng Trọng (2005); Nguyễn Đình Thọ (2011) như sau:

(1) Mức ý nghĩa của hệ số Cronbach’s Alpha: 0,6 ≤ α ≤ 0,95: chấp nhận được

và α từ 0,7 đến 0,9 là tốt. Nếu α > 0,95: có hiện tượng trùng lắp trong các mục hỏi

nên không chấp nhận được.

(2) Hệ số tương quan biến - tổng phải lớn hơn 0,3. Đây là hệ số tương quan

của 1 biến với điểm trung bình của các biến khác trong cùng một thang đo, do đó hệ

số này càng cao, sự tương quan của biến với các biến khác trong nhóm càng cao.

Các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3 được coi là biến rác và bị loại

khỏi thang đo. Tuy nhiên, khi loại biến sẽ bị mất thông tin nên cần chú ý đến nội

dung của thang đo trước khi loại biến.

tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương

Quy mô của chính quyền địa phương (QMCQ), Cấu trúc dân cư (CTDC), Nền tảng

kinh tế địa phương (NTKT), N

hơn 0,6).

Bảng 4.14. a các nhân tố tác động

Tƣơng quan biến - tổng

Trung bình thang đo nếu loại biến

Phƣơng sai thang đo nếu loại biến

Giá trị cronbach’s alpha nếu loại biến

1. Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ): Cronbach’s alpha: 0,877

QMCQ1

14,760

11,480

0,521

0,898

51

Tƣơng quan biến - tổng

Trung bình thang đo nếu loại biến

Phƣơng sai thang đo nếu loại biến

Giá trị cronbach’s alpha nếu loại biến

14,730 14,815 14,825 14,830

0,776 0,759 0,712 0,804

0,837 0,839 0,850 0,829

10,831 QMCQ2 10,423 QMCQ3 10,748 QMCQ4 QMCQ5 10,413 2. Cấu trúc dân cƣ (CTDC): Cronbach’s alpha: 0,744

10,910 11,290 11,600 11,590

7,318 7,393 6,141 5,389

0,361 0,433 0,639 0,755

0,783 0,740 0,627 0,547

CTDC1 CTDC2 CTDC3 CTDC4 3. Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT): Cronbach’s alpha: 0,791

9,063 8,371 8,123 8,844 8,781

0,450 0,611 0,615 0,581 0,602

0,790 0,737 0,736 0,748 0,742

14,835 NTKT1 15,125 NTKT2 15,240 NTKT3 15,475 NTKT4 15,445 NTKT5 4. Năng lực quản lý tài chính (QLTC): Cronbach’s alpha: 0,865

11,525 11,555 11,590 11,875

6,924 6,630 6,927 7,075

0,682 0,835 0,764 0,597

0,841 0,779 0,808 0,878

QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 5. Phân cấp ngân sách (PCNS): Cronbach’s alpha: 0,874

8,245 8,390 8,405

3,392 2,722 2,674

0,907 0,758 0,781

0,658 PCNS1 0,826 PCNS2 PCNS3 0,803 6. Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS): Cronbach’s alpha: 0,733

CTNS1 CTNS2 CTNS3 CTNS4

11,400 11,455 11,850 12,050

5,930 5,626 5,244 4,952

0,455 0,604 0,580 0,488

0,710 0,636 0,640 0,706

Nguồn: Tác giả tổng hợp

-

52

nên các biến này phù hợp để giải thích trong thang đo. Vì vậy, các biến đo lường

thành phần Quy mô của chính quyền địa phương đều được sử dụng trong phân tích

EFA tiếp theo.

-

phù hợp để giải thích trong thang đo. Vì vậy, các biến đo lường thành phần Cấu trúc

dân cư đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.

tương quan bi -

Các biến này đủ điều kiện để giải thích cho thang đo và được sử dụng trong phân

tích EFA tiếp theo.

Thang đo (QLTC): Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương có

hệ số Cr

biến QLTC4 có hệ số tương quan biến-tổng nhỏ nhất 0,597

0,835. Các biến này đủ điều kiện để giải thích cho thang đo và

được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.

Thang đo (PCNS): Phân cấp ngân sách có hệ số Cronbach’s alpha là 0,874 lớn

hơn 0,6. Các hệ số tương quan biến tổng của các biến đo lường thành phần n

-

điều kiện để giải thích cho thang đo và được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.

53

giải thích cho thang đo và được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.

Như vậy, kết quả đánh giá thang đo bằng phương pháp Cronbach’s alpha cho

các thang đo trước khi phân tích nhân tố khám phá (EFA) cho các thành phần nhân

tố cho thấy tất cả 6 nhân tố đều đủ điều kiện để thực hiện phân tích EFA.

4.4.

Phân tích EFA phải thỏa mãn 6 điều kiện như sau:

(1) Hệ số KMO: là một chỉ tiêu dùng để xem xét sự thích hợp của EFA, EFA

thích hợp khi: 0,5 ≤ KMO ≤ 1; Kiểm định Bartlet xem xét giả thuyết về độ tương

quan giữa các biến quan sát, nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (sig ≤ 0,05) thì

các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Hoàng Trọng và Chu

Nguyễn Mộng Ngọc, 2005, p.262).

(2) Hệ số tải nhân tố (hay trọng số nhân tố) (Factor Loading) > 0,5 để tạo giá

trị hội tụ (Hair và Ctg 1998, 111). Hệ số tải nhân tố là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý

nghĩa thiết thực của EFA. Hệ số tải nhân tố > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu thì

cỡ mẫu ít nhất phải là 350; hệ số tải nhân tố > 0,4 được xem là quan trọng; và ≥ 0,5

được xem là có ý nghĩa thực tiễn. Nếu cỡ mẫu khoảng 100 thì nên thì nên chọn tiêu

chuẩn hệ số tải nhân tố > 0,55; nếu cỡ mẫu khoảng 50 thì hệ số tải nhân tố > 0,75.

Với mẫu khảo sát thu được trong nghiên cứu này là 200, tác giả chấp nhận hệ số tải

nhân tố từ 0,5 trở lên. Với các biến không đạt tiêu chí này thì bị loại vì không phải

là biến quan trọng trong mô hình.

(3) Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích ≥ 50%. (Hair và Ctg,

1998 và Gerbing & Anderson, 1988)

(4) Hệ số Eigenvalue >1 (Gerbing và Anderson, 1998). Số lượng nhân tố được

xác định dựa trên chỉ số eigenvalue - đại diện cho phần biến thiên được giải thích

bởi mỗi nhân tố.

54

(5) Hệ số tải nhân tố (Factor Loading) lớn nhất của từng biến quan sát ≥ 0,5

(được xem là có ý nghĩa thực tiễn, Hair & ctg, 1998).

(6) Khác biệt hệ số tải nhân tố của một biến quan sát giữa các nhân tố phải ≥

0,3 để tạo giá trị phân biệt giữa các nhân tố (Jabnoun và Al-Tamimi, 2003).

Sau khi kiểm tra điều kiện (1) của phân tích nhân tố khám phá là xác định số

lượng nhân tố thông qua điều kiện (3) là phương sai trích ≥ 50% và (4) là

eigenvalue >1. Tiếp đến, kiểm tra giá trị hội tụ theo điều kiện (2) và giá trị phân biệt

theo điều kiện (5) (6) của các thang đo nhằm điều chỉnh để phục vụ cho việc chạy

hồi quy mô hình tiếp theo. Chạy mô hình theo phương pháp “Principle component”

và chọn phép xoay Varimax (là phương pháp xoay vuông góc và cố định gốc). Kết

quả phân tích EFA phải đáp ứng giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Cuối cùng, tiến

hành đặt tên lại các nhân tố và xây dựng lại mô hình và giả thiết nghiên cứu. Các

thành phần của các nhân tố dùng để tính toán chỉ được hình thành sau khi kiểm tra

EFA và Cronbach’s alpha.

Chạy EFA lần 1, các biến giải thích được chia thành 7 nhân tố. Dựa vào các

tiêu chí khi phân tích EFA với 7 nhân tố này:

+ Điều kiện (1): 0,5 ≤ KMO = 0,762 ≤ 1.

+ Điều kiện (2): Kiểm định Bartlet xem xét giả thuyết về độ tương quan giữa

các biến quan sát, vì kiểm định này có sig = 0,000 ≤ 0,05 nên các biến quan sát có

tương quan với nhau trong tổng thể (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc,

2005, p.262).

+ Điều kiện (3): tổng phương sai trích (giá trị commulative) = 72,761 > 50%

tại eigenvalue = 1,266 > 1 (Điều kiện 4).

+ Điều kiện (5): Hệ số tải nhân tố lớn nhất của từng biến quan sát ≥ 0,5 (được

xem là có ý nghĩa thực tiễn, Hair & ctg, 1998).

+ Kết quả cho thấy có 8 biến: cùng đo lường 1 lúc từ 2 nhân tố trở lên và khác

biệt hệ số tải nhân tố của biến quan sát giữa các nhân tố không đảm bảo được điều

kiện > 0,3 (theo điều kiện 5): CTDC1 đo lường cho 3 nhân tố (2,4,6); CTDC2 đo

lường cho 2 nhân tố (3,6); CTDC4 đo lường cho 2 nhân tố (2,6); NTKT1 đo lường

55

cho 2 nhân tố (3,4); NTKT3 đo lường cho 2 nhân tố (4,5); QLTC1 đo lường cho 2

nhân tố (2,3); CTNS1 đo lường cho 2 nhân tố (3,4); CTNS4 đo lường cho 2 nhân tố

(2,7). Do đó, các biến sẽ lần lượt bị loại trong lần phần tích EFA tiếp theo.

Nhân tố 4

5

6

7

2

3

1 0,646 0,851 0,856 0,822 0,883

0,371

0,459

0,312

0,318

0,321 0,741 0,804 0,799

0,376

0,711 0,784 0,632

0,444 0,883 0,887

0,343

0,769 0,885 0,843 0,736

0,807 0,851 0,834 0,469

0,329

0,313

0,426 0,772 0,743 0,711

0,762 0,000 72,761 1,266

Bảng 4.15. Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập lần 1

QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5 CTDC1 CTDC2 CTDC3 CTDC4 NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5 QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 PCNS1 PCNS2 PCNS3 CTNS1 CTNS2 CTNS3 CTNS4 Các kiểm định Giá trị KMO Giá trị Sig (Bartlett's Test of Sphericity) Tổng phương sai trích Giá trị Eigenvalues

Ghi chú: Phương pháp trích: Phân tích nhân tố xác định.

Phương pháp xoay: Xoay Varimax vuông góc với chuẩn hóa của Kaiser

56

Chạy EFA cuối cùng, sau khi loại 2 biến bao gồm CTDC1, CTNS1. Các biến

đo lường cho mô hình đã thỏa điều kiện (xem bảng dưới). Như vậy, kết quả sau khi

các biến bị loại, EFA trích được 7 nhân tố tại eigenvalue là 1,176 và tổng phương

sai trích đạt được là 75,103%.

Tóm tại, sau khi thực hiện EFA, loại bỏ các biến không đạt yêu cầu, còn lại 3

biến (của 7 thang đo) được chấp nhận. Đồng thời, xem xét giá trị KMO = 0,743 >

0,5 và giá trị Sig = 0,000 cho thấy phân tích nhân tố phù hợp với dữ liệu.

Bảng 4.16. Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho nhân tố độc lập sau

3

2

Nhân tố 4

5

6

7

1 0,883 0,858 0,855 0,824 0,646

0,892 0,847 0,780 0,732

0,866 0,838 0,817

0,825 0,784 0,758

0,808 0,735 0,689

0,891 0,888

0,759 0,753 0,734

0,743 0,000 75,103

cùng

QMCQ5 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ1 QLTC2 QLTC3 QLTC1 QLTC4 PCNS2 PCNS3 PCNS1 CTDC3 CTDC4 CTDC2 NTKT2 NTKT1 NTKT3 NTKT5 NTKT4 CTNS2 CTNS4 CTNS3 Các kiểm định Giá trị KMO Giá trị Sig (Bartlett's Test of Sphericity) Tổng phương sai trích

1,176

Giá trị Eigenvalues

57

Ghi chú: Phương pháp trích: Phân tích nhân tố xác định.

Phương pháp xoay: Varimax vuông góc với chuẩn hóa của Kaiser

, bao gồm 05 biến quan sát: Nhiều cơ quan nhà nước sẽ ảnh

hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ1), Nhiều

nhân viên trong biên chế nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương (QMCQ2), Tỷ lệ cao của nhân viên trong khu vực nhà

nước so với dân số địa phương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương (QMCQ3), Nhiều đoàn thể nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền

vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ4), Việc ra đời nhiều cơ quan sự

nghiệp công lập ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

Nhân tố thứ hai, bao gồm 04 biến quan sát: Chính quyền địa phương xây

dựng được chiến lược phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của tài

chính địa phương (QLTC1), Chính quyền địa phương xây dựng được kế hoạch tài

chính 05 năm sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính địa phương (QLTC2),

Chính quyền địa phương xây dựng được kế hoạch tài chính-ngân sách 03 năm sẽ

ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính địa phương (QLTC3), Sự phối hợp chặt

chẽ của các cơ quan thuộc ngành tài chính sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính

của chính quyền

quản lý tài chính của chính quyền địa phương.

Nhân tố thứ ba, bao gồm 03 biến quan sát: Tỷ lệ phân chia nguồn thu với

ngân sách trung ương cao sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương (PCNS1), Thường xuyên nhận bổ sung trong cân đối từ ngân

sách trung ương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa

phương (PCNS2), Thường xuyên nhận bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương

sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

58

Nhân tố thứ tƣ, bao gồm 03 biến quan sát: Nhiều người nghèo trên địa bàn sẽ

ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTDC2),

Nhiều người về hưu sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa

phương (CTDC3), Nhiều người có việc làm sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền

Cấu trúc dân cư.

Nhân tố thứ năm, bao gồm 03 biến quan sát: Kinh tế địa phương da dạng, đa

ngành sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương

(NTKT1), GDP của địa phương lớn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương (NTKT2), Địa phương có cửa khẩu lớn sẽ ảnh hưởng đến

tính bền vững tài chính của chính quyền ân tố này

được đặt tên là Nền tảng kinh tế địa phương.

Nhân tố thứ sáu, bao gồm 02 biến quan sát: Chu kỳ kinh doanh sẽ ảnh hưởng

đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (NTKT4), Vị trí trung tâm

kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

- Vị trí.

Nhân tố thứ bảy, bao gồm 03 biến quan sát: Số thu cao từ nội địa sẽ ảnh

hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTNS2), Số thu

cao từ hoạt động xổ số sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương (CTNS3), Số thu cao từ chuyển nguồn hoặc kết dư ngân sách sẽ ảnh

hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

nhân tố này được đặt tên là Cấu trúc nguồn thu ngân sách.

4.5. Đánh giá chi tiết cho từng nhân tố sau EFA

Kết quả thống kê các chỉ số trong phân tích độ tin cậy và phân tích nhân tố

khám phá riêng cho từng nhân tố để đánh giá lại và chi tiết thang đo sau phân tích

EFA được trình trong bảng sau:

Bảng 4.17. Phân tích độ tin cậy các thang đo sau EFA

59

Giá trị Eigen

Hệ số KMO

Bartlett's Test

Nhân tố cấu thành

Các mục

Tải nhân tố

Hệ số Cronbach ‘s Alpha

Tổng phƣơng sai trích (%)

3,414

68,287

0,877 0,821

0,000

Quy mô của chính quyền địa phƣơng

2,095

69,841

0,783 0,659

0,000

Cấu trúc dân cƣ

2,012

67,075

0,752 0,668

0,000

Nền tảng kinh tế địa phƣơng

1,818

90,881

0,900 0,500

0,000

Chu kỳ - Vị trí

2,885

72,119

0,865 0,760

0,000

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng

2,397

79,915

0,874 0,697

0,000

Phân cấp ngân sách

1,921

64,026

0,710 0,677

0,000

Cấu trúc nguồn thu ngân sách

QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5 CTDC2 CTDC3 CTDC4 NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5 QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 PCNS1 PCNS2 PCNS3 CTNS2 CTNS3 CTNS4

0,656 0,864 0,860 0,836 0,894 0,768 0,889 0,846 0,800 0,865 0,790 0,953 0,953 0,824 0,926 0,885 0,752 0,832 0,928 0,918 0,792 0,820 0,788

Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát

Kết quả phân tích cho thấy, tất cả các thang đo đều đạt yều cầu nghiên cứu. Cụ

thể: Hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều lớn hơn 0,6 (chuẩn là 0,5), độ tin

cậy của các thang đo trong mô hình đều đạt giá trị về độ tin cậy chung của từng

nhân tố lớn hớn 0,6 và độ phù hợp của thang đo với hệ số KMO ≥ 0,5 với kiểm định

Bartlett cho giá trị sig nhỏ hơn 1%. Tổng phương sai trích đều lớn hơn 50%.

Vì vậy, qua kết quả phân tích độ tin cậy thang đo trước EFA, phân tích EFA

và đánh giá lại thang đo sau khi loại các biến không phù hợp, tạo lập nhân tố trong

phân tích EFA chung, thông qua phân tích EFA cho từng nhân tố và đánh giá độ tin

cậy thang đo Cronbach’ Alpha cho thấy dữ liệu nghiên cứu đạt độ tin cậy, giá trị

60

phân biệt và hội tụ. 6 nhân tố độc lập ban đầu được tách thành 7 nhân tố độc lập với

điều chỉnh các biến đo lường các nhân tố.

4.6. Điều chỉnh mô hình và giả thiết nghiên cứu

Như vậy, sau khi đánh giá sơ bộ thang đo về các nhân tố ảnh hưởng đến tính

bền vững tài chính của chính quyền địa phương có 23 biến quan sát đo lường cho 7

nhân tố được sẽ sử dụng trong mô hình nghiên cứu. Số biến và nhân tố được điều

chỉnh cụ thể trong bảng phía dưới.

Bảng 4.18. Các khái niệm nghiên cứu

STT

Phân cấp ngân sách (PCNS)

Cấu trúc dân cƣ (CTDC)

Chu kỳ - Vị trí (CKVT)

Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT)

Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS)

Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ)

QMCQ1 QMCQ 2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phƣơng (QLTC) QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4

1 2 3 4 5

PCNS 1 PCNS 2 PCNS 3

CTDC 2 CTDC 3 CTDC 4

NTKT1 NTKT2 NTKT3

NTKT4 NTKT5

CTNS2 CTNS3 CTNS4

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Giả thuyết nghiên cứu điều chỉnh sau EFA:

H1: Quy mô của chính quyền địa phương có ảnh hưởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương.

H2: Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương có ảnh hưởng đến

tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.

H3: Phân cấp ngân sách có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương.

H4: Cấu trúc dân cư có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương.

H5: Nền tảng kinh tế địa phương có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương.

H6: Chu kỳ - Vị trí có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương.

Quy mô của chính quyền địa phương

61

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương

H1

H2

Phân cấp ngân sách

H3

Cấu trúc dân cư

H4

Tính bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng

Nền tảng kinh tế địa phương

H5

H6

Chu kỳ - Vị trí

Cấu trúc nguồn thu ngân sách

H7

H7: Cấu trúc nguồn thu ngân sách có ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương.

Từ các khái niệm nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu được điều chỉnh, mô hình

nghiên cứu của đề tài có dạng:

Hình 4.10 Mô hình nghiên cứu

Như vậy, so với mô hình nghiên cứu đề nghị ban đầu mô hình nghiên cứu sau

khi điều chỉnh bao gồm 7 nhân tố độc lập; 7 nhân tố độc lập này được đo lường lại

bằng việc điều chỉnh thang đo sau khi đã loại đi một số biến không có ý nghĩa và đo

lường cùng một lúc nhiều thành phần.

Mô hình nghiên cứu của đề tài bao gồm 7 nhân tố với 23 biến quan sát (đã

BVNS = β0 + β1

*QMCQ + β2

*QLTC + β3

*PCNS + β4

*CTDC + β5

*NTKT

*CTNS + e

được đề cập ở trên):

*CKVT + β7

+ β6

4.7. Phân tích mô tả và tƣơng quan giữa các nhân tố sau EFA

Kết quả phân tích tương quan cho thấy các nhân tố Quy mô của chính quyền địa

phương, Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân

sách, Cấu trúc dân cư, Nền tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu trúc nguồn

62

thu ngân sách đều có tương quan dương với tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương và có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (p-value < 0,05). Do

đó, có thể kết luận mô hình đo lường phù hợp với lý thuyết.

BVNS QMCQ CTDC NTKT

CKVT QLTC

PCNS CTNS

Bảng 4.19. Phân tích mô tả và tƣơng quan giữa các nhân tố sau EFA

Các mục

Trung bình

Độ lệch chuẩn

4,085

0,721

1,000

0,277**

0,153*

0,345**

0,212** 0,294** 0,468** 0,527**

Nhân tố cấu thành BVNS

QMCQ

3,698

0,808 0,277**

1,000 0,202**

0,205**

0,178*

0,084

0,171*

0,135

3,637

0,902

0,153*

0,202**

1,000

0,355**

0,165* 0,377** 0,273** 0,272**

CTDC

3,963

0,827 0,345**

0,205** 0,355**

1,000

0,429** 0,282** 0,358** 0,323**

NTKT

3,570

0,865 0,212**

0,178*

0,165*

0,429**

1,000

0,107 0,201** 0,299**

CKVT

3,879

0,856 0,294**

0,084 0,377**

0,282**

0,107

1,000 0,320** 0,359**

QLTC

4,173

0,830 0,468**

0,171* 0,273**

0,358**

0,201** 0,320**

1,000 0,387**

PCNS

3,800

0,812 0,527**

0,135 0,272**

0,323**

0,299** 0,359** 0,387**

1,000

CTNS

BVNS QMCQ1 QMCQ2 QMCQ3 QMCQ4 QMCQ5 CTDC2 CTDC3 CTDC4 NTKT1 NTKT2 NTKT3 NTKT4 NTKT5 QLTC1 QLTC2 QLTC3 QLTC4 PCNS1 PCNS2 PCNS3 CTNS2 CTNS3 CTNS4

Nguồn: Tác giả tính toán

Như vậy, các nhân tố đặt ra ban đầu đều đạt độ tin cậy (hệ số tin cậy > 0,6) cho

phân tích nhân tố khám phá từ dữ liệu điều tra, 25 biến quan sát ban đầu qua phân

tích độ tin cậy và nhân tố khám phá đã loại bỏ một số biến không đạt tiêu chuẩn còn

23 biến phù hợp. Thống kê chung về các nhân tố cho thấy nhân tố Phân cấp ngân

sách được đánh giá cao nhất (4,173/5) có tác động đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương và đây cũng là nhân tố được sự thống nhất của người trả lời

với độ lệch chuẩn 0,830. Riêng nhân tố Chu kỳ - Vị trí có mức độ đồng ý thấp nhất

trong mẫu nghiên cứu này (3,570/5).

4.8.

4.8.1 Kết quả mô hình

63

của chính quyền

bền vững tài chính của chính quyền

của chính quyền địa phương.

d

của chính quyền địa phương làm biến phụ thuộc.

Như đã trình bày, phân tích hồi quy được sử dụng để kiểm định mô hình

nghiên cứu với kỹ thuật ước lượng bình phương bé nhất (OLS) được sử dụng để

ước lượng các tham số của mô hình. Ngoài ra, các tiêu chuẩn kiểm định trong OLS

cũng được sử dụng để đánh giá độ phù hợp của mô hình.

Bảng dưới trình bày kết quả kiểm định mô hình lý thuyết về mối quan hệ

tuyến tính giữa các nhân tố Quy mô của chính quyền địa phương, Năng lực quản lý

tài chính của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân sách, Cấu trúc dân cư, Nền

tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu trúc nguồn thu ngân sách với tính bền

vững tài chính của chính quyền địa phương.

Bảng 4.20. Kiểm định kết quả các nhân tố ảnh hƣởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phƣơng

VIF

Kỳ vọng

Hệ số chuẩn hóa

Kết quả kiểm định Ho

Dấu kết quả hồi quy

Giá trị P

Dương

Dương

0,179*** 0,002

Dương

Dương

0,074 0,248

Chấp nhận 1,085

Dương

Dương

0,261*** 0,000

Bác bỏ 1,321

Dương

Âm

-0,126**

0,048

Chấp nhận 1,321

Dương

Dương

0,129*

0,058

Chấp nhận 1,306

Chấp nhận 1,488

Giả thuyết nghiên cứu QMCQ  BVNS QLTC  BVNS PCNS  BVNS CTDC  BVNS NTKT  BVNS

Dương

Âm

-0,028

0,661

64

Dương

Dương

0,376*** 0,000

1,288 Bác bỏ

CKVT  BVNS CTNS  BVNS

1,365 Chấp nhận

Các kiểm định R2 R2 hiệu chỉnh Thống kê F (sig)

0,411 0,390 19,140 (0,000)

Ghi chú: Ký hiệu: * biểu thị P < 10%, ** biểu thị P < 5%, *** biểu thị P < 1%.

Dữ liệu thực nghiệm chỉ ra rằng, Kết quả ước lượng các hệ số ước lượng

chuẩn hóa của các tham số β1 = 0,179, β3 = 0,261, β7 = 0,376 có ý nghĩa thống kê ở

mức 1%; β4 = -0,126 có ý nghĩa thống kê ở mức 5%; β5 = 0,129 có ý nghĩa thống kê

ở mức 10%. Kết quả này cho thấy các biến độc lập: Quy mô của chính quyền địa

phương (QMCQ), Phân cấp ngân sách (PCNS), Nền tảng kinh tế địa phương

(NTKT), Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS) đều có tương quan dương với tính

bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Cấu trúc dân cư (CTDC) có tương

quan âm với tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, kết

quả thực nghiệm này chưa đủ bằng chứng để chứng mình cho giả thuyết về ảnh

hưởng của Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương (QLTC) và Chu

kỳ - Vị trí (CKVT) đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương

(BVTC).

2

2

4.8.2.

h của

quyền địa phương, Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, Phân

cấp ngân sách, Cấu trúc dân cư, Nền tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu

trúc nguồn thu ngân sách.

65

4.8.3.

4.8.4.

Spearman's rho Hệ số tương quan hạng Sig. (2-tailed) Số quan sát

ABSRE

Bảng 4.21. p

4.8.5. n dƣ

-P Plot.

66

Hình 4.11

- -

Hình 4.12 y P-P Plot

Kết luận chương 4

Chương này mô tả quy trình nghiên cứu định lượng các nhân tố ảnh hưởng

đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Từ lý thuyết và lược khảo

công trình nghiên cứu liên quan, tác giả đã thiết kế nghiên cứu, xây dựng thang đo,

67

kiểm định thang đo, kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Với

Cronbach’s Alpha đủ lớn và thông qua EFA, các thang đo đã được kiểm định độ tin

cậy và sự phù hợp: Bảy nhân tố độc lập gồm Quy mô của chính quyền địa phương,

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân sách, Cấu

trúc dân cư, Nền tảng kinh tế địa phương, Chu kỳ - Vị trí, Cấu trúc nguồn thu ngân

sách với 23 biến quan sát đã được kiểm định đủ điều kiện đo lường.

Kết quả kiểm định mô hình bằng phân tích hồi quy bằng phương pháp bình

phương bé nhất (OLS) đã ủng hộ 5 giả thuyết (H1, H3, H4, H5, H7) và có 4 nhân tố

có ảnh hưởng dương (Quy

sách có tác động mạnh nhất đến tính

bền vững tài chính của chính quyền địa phương trong mẫu khảo sát này. Nhân tố

Cấu trúc dân cư có tác động thấp nhất đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương.

Chương 5 sẽ nhận định kết quả nghiên cứu, nêu những thành công, hạn chế

của nghiên cứu, đồng thời khuyến nghị những giải pháp cơ bản và đề xuất hướng

nghiên cứu tiếp theo.

68

NHẬN ĐỊNH VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

CHƢƠNG 5.

Sau khi đã trình bày kết quả nghiên cứu, phần này sẽ đưa ra những nhận định

về kết quả nghiên cứu và gợi ý về mặt chính sách.

5.1. Nhận định từ kết quả nghiên cứu

định của mô hình bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS), có

thể rút ra nhận định sau đây từ kết quả nghiên cứu.

Cấu trúc nguồn thu ngân sách (CTNS)

Cấu trúc nguồn thu ngân sách có ảnh hưởng mạnh nhất đến tính bền vững của

tài chính chính quyền địa phương. Hệ số hồi quy chuẩn hóa của nhân tố này là

0,376. Nhân tố này gồm 03 biến quan sát: Số thu cao từ nội địa sẽ ảnh hưởng đến

tính bền vững của tài chính địa phương (CTNS2), Số thu cao từ hoạt động xổ số sẽ

ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính địa phương (CTNS3), Số thu cao từ

chuyển nguồn hoặc kết dư ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của tài chính

địa phương (CTNS4). Như vậy kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của

Gorina (2013), Huỳnh Thế Du (2014), Abt Associates Inc. (1994, León (2001).

Hầu hết 13 tỉnh thuộc Vùng Tây-Nam bộ trong đó có tỉnh Long An đều có xổ

số và toàn bộ số thu từ xổ số để lại 100% cho ngân sách địa phương gồm: thuế tiêu

thụ đặc biệt từ xổ số, thuế giá trị gia tăng từ xổ số và thuế thu nhập doanh nghiệp từ

xổ số. Bên cạnh đó Long An có số thu từ các khoản thuế liên quan đến nhập khẩu

và xuất khẩu tăng tương đối cao trong những năm gần đầy. Tất cả điều đó góp phần

không nhỏ vào việc tạo ra và củng cố bền vững tính bền vững cho ngân sách nhà

nước cấp địa phương hiện tại và tương lai.

Cấu trúc và hoạt động tài chính là một biến số quan trọng có thể ảnh hưởng

đến cán cân thu, chi thuộc tài chính địa phương. Cơ cấu nguồn thu da dạng sẽ giúp

địa phương dễ xoay trở hơn. Nếu đa dạng hóa dẫn đến thâm hụt ngân sách ít hơn,

kết quả này cần cho việc hướng dẫn khuyến nghị chính sách cho chính quyền trung

ương tìm cách tăng cường vị thế tài chính cho địa phương. Nếu đa dạng hóa nguồn

69

thu dẫn đến thâm hụt ngân sách nhiều hơn, sau khi chính quyền địa phương cố gắng

đa dạng hóa cần phải nhận thức được hiệu ứng này và có thể cân nhắc lợi ích của đa

dạng hóa (thu bổ sung) đối với chi phí của nó (thâm hụt tiềm năng) một cách cẩn

thận hơn.

Tất cả những điều trên đã gợi ý rất nhiều về chính sách nhằm đảm bảo tính

bền vững của tài chính địa phương. Chúng tôi sẽ thảo luận gợi ý này ở phần tiếp

sau.

Phân cấp ngân sách (PCNS)

Phân cấp ngân sách (PCNS) có tác động đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương đứng ở vị trí thứ hai với hệ số hồi quy chuẩn hóa 0,261.

Phân cấp ngân sách (PCNS) có ảnh hưởng quan trọng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương. Nhân tố này được đo lường thông qua 03 biến

quan sát: Tỷ lệ phân chia nguồn thu với ngân sách trung ương cao sẽ ảnh hưởng đến

tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (PCNS1), Thường xuyên nhận

bổ sung trong cân đối từ ngân sách trung ương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương (PCNS2), Thường xuyên nhận bổ sung có mục

tiêu từ ngân sách trung ương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương (PCNS3). Như vậy, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của

León (2001).

Tại Việt Nam, trong thời kỳ 2011-2015 có 50 địa phương không tự cân đối

được ngân sách và phải nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương. Tỉnh Thanh

Hóa đứng đầu các địa phương nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương với 6.503 tỷ

đồng, bằng 40% tổng cân đối chi trong năm; tỉnh Nghệ An nhận trợ cấp 5.138 tỷ

đồng, bằng 37,5% tổng chi; tỉnh Nam Định nhận trợ cấp 3.249,5 tỷ đồng, tức xấp xỉ

50% tổng chi; tỉnh Thái Bình nhận trợ cấp 2.753,9 tỷ, bằng 41% tổng chi; Trà Vinh

nhận trợ cấp 2.078 tỷ, bằng 50% tổng chi; tỉnh Lào Cai nhận trợ cấp 2.160 tỷ

đồng.… Thậm chí, dù là những địa phương dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa hàng

năm với từ 3 đến 4 triệu tấn mỗi tỉnh và đóng góp chủ yếu vào lượng gạo xuất khẩu

cả nước như tỉnh An Giang vẫn phải nhận trợ cấp 2.019 tỷ đồng bằng 32,5% tổng

70

chi, tỉnh Kiên Giang nhận trợ cấp 1.992 tỷ đồng bằng 33% tổng chi, tỉnh Đồng Tháp

nhận trợ cấp 1.174 tỷ đồng bằng 21,7% tổng chi, và tỉnh Hậu Giang nhận trợ cấp

1.254 tỷ đồng bằng 47% tổng chi. Ngân sách tỉnh Long An thuộc danh sách này với

mức nhận trợ cấp 1.765 tỷ đồng xấp xỉ 20% tổng chi.

Ngược với danh sách trên là 13 địa phương có số thu trên địa bàn lớn và điều

tiết về trung ương là thành phố Hồ Chí Minh với tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung

ương là 77%, theo sau và cách xa là Bình Dương với tỷ lệ 60%, thành phố Hà Nội

58%, Bà Rịa-Vũng Tàu 56%, Đồng Nai 49%, Vĩnh Phúc 40%, Quảng Ngãi 39%,

Quảng Ninh 30%, Khánh Hòa 23%, Đà Nẵng 15%, Hải Phòng 12%, Cần Thơ 09%,

và Bắc Ninh 07% (xem hình 5.1).

Hình 5.1: 13 địa phƣơng điều tiết về ngân sách trung ƣơng

(Nguồn: Số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2013, Bộ Tài chính)

5.2.

Quy mô của chính quyền địa phƣơng (QMCQ)

Quy mô của chính quyền địa phương (QMCQ) giữ vị trí thứ ba trong tác động

đến tính bền vững của tài chính địa phương với hệ số hồi quy là 0,179. Nhân tố này

được đo lường qua 05 biến quan sát: Nhiều cơ quan nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính

bền vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ1), Nhiều nhân viên trong

biên chế nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa

71

phương (QMCQ2), Tỷ lệ cao của nhân viên trong khu vực nhà nước so với dân số

địa phương sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương

(QMCQ3), Nhiều đoàn thể nhà nước sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của

chính quyền địa phương (QMCQ4), Việc ra đời nhiều cơ quan sự nghiệp công lập

ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (QMCQ5). Kết

quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của León (2001). Tổ chức và hoạt động của

chính phủ gồm: Nhân viên; nhân viên toàn thời gian; nhân viên quản lý tài chính;

Số lượng người hưởng lương hưu; công ty cấp nước; cứu hỏa, công ty xử lý chất

thải rắn, nước thải; nhà cung cấp điện, cung cấp khí ga, vận chuyển.

Các phát hiện cho thấy sự gia tăng số lượng nhân viên toàn thời gian có sự liên

quan nghịch biến với mức kinh phí về nghĩa vụ lương hưu. Chính quyền có nguồn

nhân sự dồi dào ở phòng ban tài chính có vẻ như không quản lý nguồn kinh phí

lương hưu hiệu quả hơn chính quyền có lực lượng nhân sự “khiêm tốn” hơn. Sự

chuyên môn hóa và giám sát ở mức cao hơn việc sử dụng các nguồn lực cho các

chương trình khác nhau không làm tăng hiệu suất. Theo dự đoán, số lượng kế hoạch

lương hưu mà chính quyền có tham gia và tỷ lệ phần trăm các nhân viên toàn thời

gian gây ra sức ép tiêu cực lên mức kinh phí hưu trí.

Điều quan trọng phải nhìn nhận đó là quản lý tài chính của địa phương với ưu

tiên duy trì sự bền vững tài khóa có thể mâu thuẫn với quản lý ngân sách được định

hướng theo hướng cải thiện cung cấp dịch vụ hoặc/và đáp ứng các ý thích của người

dân. Nói cách khác, chính quyền ít “hào phóng” hơn, có sự thận trọng về tài

chính,có thể có khả năng bền vững tài khóa cao hơn. Trong khi thắt chặt ngân sách

có thể là một phương thuốc cho các vấn đề về tài khóa, nó có thể không phải là một

nền tảng hoàn toàn chuẩn mực trong cung cấp dịch vụ công. Một câu hỏi gây tranh

cãi cho các nhà quản trị công không phải là làm sao để tối thiểu hóa chi tiêu mà là

làm thế nào để cung cấp ở mức tối ưu các dịch vụ công một cách hiệu quả.

Nền tảng kinh tế địa phƣơng (NTKT)

Nền tảng kinh tế địa phương (NTKT) giữ vị trí thứ tư trong tác động đến tính

bền vững tài chính của chính quyền địa phương với hệ số hồi quy là 0,129. Nhân tố

72

này được đo lường qua 03 biến quan sát: Kinh tế địa phương da dạng, đa ngành sẽ

ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (NTKT1), GDP

của địa phương lớn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa

phương (NTKT2), Địa phương có cửa khẩu lớn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài

chính của chính quyền địa phương (NTKT3). Nghiên cứu của Huỳnh Thế Du

(2014), Abt Associates Inc. (1994) cũng cho thấy nền tảng kinh tế địa phương có

ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương.

Năm 2015, 10 địa phương dẫn đầu cả nước về dự toán tổng thu ngân sách đều

là những địa phương có nền tảng kinh tế mạnh: thành phố Hồ Chí Minh (dự toán thu

266.776 tỷ đồng), Hà Nội (141.690 tỷ đồng), Bà Rịa - Vùng Tàu (118.650 tỷ đồng),

Hải Phòng (48.275 tỷ đồng), Đồng Nai (37.215 tỷ đồng), Quảng Ninh (35.815 tỷ

đồng), Quảng Ngãi (33.190 tỷ đồng), Bình Dương (32.624 tỷ đồng), Vĩnh Phúc

(21.990 tỷ đồng), Khánh Hòa (14.850 tỷ đồng). 3 địa phương khác chưa phải là tỉnh

công nghiệp, dịch vụ nhưng có số thu lớn và điều tiết về ngân sách trung ương, đó

là Quảng Ngãi (có Nhà máy Lọc hóa dầu Bình Sơn và khu công nghiệp Dung Quất),

Bắc Ninh (tổng thu 13.306 tỷ đồng, có khu công nghiệp Samsung), Hà Tĩnh (9.760

tỷ đồng, có khu kinh tế Vũng Áng)...

Long An là một địa phương có nền tảng kinh tế chưa mạnh và cơ cấu kinh tế

chưa thể coi là một tỉnh công nghiệp, dịch vụ. Tổng sản phẩm năm 2014 của Long

An đạt 19.524,6 tỷ đồng, tăng trưởng 11% so với năm trước. Khu vực nông, lâm,

thủy sản chiếm tỷ trọng 27,3%, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 41,5%, khu

vực thương mại, dịch vụ chiếm 31,2%. GDP bình quân đầu người năm 2014 khoảng

44,5 triệu đồng/người/năm.

Cấu trúc dân cƣ (CTDC)

Cấu trúc dân cư (CTDC) cũng tác động nhưng nghịch biến đến tính bền vững

của tài chính địa phương với hệ số hồi quy là -0,126. Nhân tố này bao gồm 03 biến

quan sát: Nhiều người nghèo trên địa bàn sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương (CTDC2), Nhiều người về hưu sẽ ảnh hưởng đến tính

73

bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTDC3), Nhiều người có việc làm

sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (CTDC4).

Nhân tố cấu trúc dân cư có tác động âm đến tính bền vững tài chính của chính

quyền địa phương là hoàn toàn hợp lý vì nhiều người nghèo trên địa bàn và nhiều

người về hưu sẽ khiến ngân sách địa phương phải chi trợ cấp, trợ giá trong khi nhiều

người có việc làm chưa chắc đã nộp nhiều thuế thu nhập cá nhân vì mức khấu trừ

gia cảnh tương đối cao (9 triệu đồng/tháng cho bản thân người nộp thuế cộng với

4,5 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc).

Ngoài ra, từ kết quả ước lượng cho thấy, chưa có bằng chứng để chứng minh

Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương (QLTC) và Chu kỳ - Vị trí

(CKVT) tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương (BVTC).

Nhân tố Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương tác động không có

ý nghĩa thống kê đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương là một

phát hiện thực chứng gây nhiều suy nghĩ. Thứ nhất, có thể vì mọi khoản thu, chi đều

theo chế độ, chính sách nên không cần có năng lực quản lý để “thu vén tấm chiếu

ngân sách” vốn nhỏ bé so với nhu cầu chi đa dạng và tăng nhanh. Thứ hai, nhân sự

tại cơ quan tài chính các cấp cũng không cần thiết cạnh tranh bằng năng lực mà vẫn

được lưu lại làm việc miễn tuân thủ chính sách vốn cồng kềnh, xơ cứng và chậm đổi

mới theo những biến động của cuộc sống.

5.3. Gợi ý chính sách

Trước khi đề xuất khuyến nghị về mặt chính sách, cần phải thảo luận những

quan điểm bền vững tài chính cấp chính quyền địa phương nhằm xác định bộ khung

và phương hướng cho bền vững.

5.2.1 Quan điểm bền vững tài chính của chính quyền địa phƣơng

Quan điểm toàn diện

Chính quyền địa phương là một đơn vị hành chính thực thi nhiều nhiệm vụ

theo quy định của pháp luật, quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng

74

và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh7. Nên

không thể xem xét vấn đề bền vững tài khóa của chính quyền địa phương chỉ từ góc

độ kinh tế mà phải xuất phát từ quan điểm tổng hợp: quốc phòng - an ninh, an toàn -

an sinh xã hội – phúc lợi cộng đồng - kinh tế.

Bền vững tài chính của chính quyền địa phương không thể tồn tại nếu chủ

quyền đất nước bị đe dọa và an ninh nội địa không chu đáo trong khuôn khổ nguồn

lực giới hạn. Qua từng giai đoạn cụ thể sẽ có những khoản chi mang tính ưu tiên

chiến lược khác nhau. Long An có đường biên giới hơn 130 km với Cam-pu-chia

nên duy trì một khoản chi cho quốc phòng là cần thiết và hợp lý.

Phải đảm bảo công bằng giữa các địa phƣơng về định mức, tiêu chuẩn,

chế độ thu, chi ngân sách

Mỗi chính quyền địa phương là một bộ máy với nhiều cơ quan tham mưu chức

năng. Mọi định mức về tiền lương, phụ cấp, công tác phí, chính sách xã hội, lương

hưu … và định mức chi khác về phúc lợi cộng đồng, bảo vệ môi trường,… phải

theo tiêu chuẩn chung của cả nước. Không thể vì thu ít mà cắt giảm những định

mức này nhằm cân đối ngân sách địa phương. Những địa phương trung tâm kinh tế

và/hoặc cửa ngõ giao thương với nước ngoài, phát sinh nhiều giao dịch chịu thuế

trên địa bàn mặc dù những giao dịch đó thuộc doanh nghiệp địa phương khác, nên

thu được nhiều thì phải điều chuyển một phần về trung ương. Đó là đạo lý. Địa

phương còn lại, số thu ngân sách ít song vẫn phải đảm bảo chính sách xã hội, giữ

gìn quốc phòng và an ninh, trật tự xã hội, thì nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương

là hợp lý.

Không đƣợc lạm thu dẫn đến can kiệt nguồn thu của mọi thế hệ tƣơng lai

Bản chất của bền vững tài khóa là phải duy trì được nguồn lực cho mọi thế hệ

công dân cùng sử dụng và phải cung cấp đầy đủ những dịch vụ công đã cam kết cho

mọi thế hệ công dân. Mặc dù không có thế hệ hiện tại thì không tồn tại thế hệ tương

lai, song thế hệ đương thời không được lạm quyền để vắt kiệt các nguồn thu. Chính

quyền địa phương cũng không nên vì nhiệm kỳ mà tranh thủ thu và chi hoặc mở

7 Điều 17 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2015.

75

rộng nhân sự khu vực nhà nước gây hại đến không gian tài khóa (fiscal space8) cho

nhiều nhiệm kỳ sau.

Không nên sử dụng ngân sách nhà nƣớc cấp vốn bổ sung cho doanh

nghiệp nhà nƣớc

Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh bất kể doanh nghiệp nhà nước hay

ngoài nhà nước nên phải tự cân đối vốn từ nguồn tự có và/hoặc vay ngân hàng. Nếu

doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn thì chọn các giải pháp: vay dài hạn ngân hàng, cổ

phần hóa, sáp nhập vào công ty khác, cho thuê, …, thậm chí giải thể. Ngân sách nhà

nước hình thành từ tiền nộp thuế của người dân nên chỉ có thể sử dụng sản xuất ra

những hàng hóa công, dịch vụ công đại chúng. Việc dùng ngân sách bổ sung vốn

cho các doanh nghiệp nhà nước mà không kèm theo đòi hỏi quyết liệt về chi phí sử

dụng vốn ngân sách sẽ gây tâm lý ỷ lại và tạo mảnh đất “ươm mầm” tham nhũng.

Xác định các khoản chi mang tính ƣu tiên chiến lƣợc qua từng giai đoạn

Tùy từng địa phương và tùy từng giai đoạn phát triển, mỗi chính quyền địa

phương nên xác định các khoản chi mang tính ưu tiên chiến lược. Có thể giai đoạn

05 năm này ưu tiên chi cho giảm nghèo, giai đoạn 05 năm sau ưu tiên chi cho chăm

sóc sức khỏe ban đầu của bà mẹ và trẻ em,…Hoặc là giai đoạn 05 năm này ưu tiên

chi cho giáo dục, giai đoạn 05 năm sau ưu tiên chi bảo vệ nhóm người dễ bị thương

tổn hay phát triển giao thông liên thông, xã,…. Nhiệm kỳ này làm chưa xong thì

nhiệm kỳ sau làm tiếp. Thế hệ này làm chưa xong thì thế hệ sau làm tiếp. Không

nên rải đều nguồn lực cho tất cả lĩnh vực: chính sách xã hội, giáo dục, y tế cộng

đồng, hạ tầng giao thông, xử lý rác thải, bảo vệ môi trường, thủy lợi, văn hóa, thể

thao,…cùng một lúc.

Đổi mới quy trình lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán ngân sách

Nên áp dụng quy trình soạn lập ngân sách nhà nước cấp trung ương và cấp địa

phương theo kết quả (out-put based budgeting) thay vì đang lập theo khoản mục

(line-item budgeting) như hiện nay. Phương pháp lập ngân sách theo kết quả đáp

8 Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa không gian tài khóa là room in a government´s budget that allows it to provide resources for a desired purpose without jeopardizing the sustainability of its financial position or the stability of the economy. (http://www.imf.org/external/pubs/ft/fandd/2005/06/basics.htm)

76

ứng được những phúc lợi xã hội mà chính quyền mong muốn, xây dựng được bộ

khung chi tiêu và cả việc minh bạch trong chi tiêu.

Quy trình ngân sách theo kiểu truyền thống dựa trên cơ sở tổng nguồn lực hiện

có và hệ thống các chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành để xây dựng dự toán và

phân bổ ngân sách, không gắn giữa kinh phí đầu vào với kết quả đầu ra, chỉ quan

tâm đến lợi ích trước mắt, thiếu tầm nhìn trung hạn, ngân sách bị phân bổ dàn trải.

Phương pháp soạn lập như vậy tất yếu dẫn đến tình trạng khó kiểm soát và khó đạt

hiệu quả khi cung cấp dịch vụ công. Cần đổi mới một cách cơ bản quy trình này

theo tư duy và phương pháp hiện đại, dựa vào kết quả đầu ra và gắn với tầm nhìn

trung hạn.

Việc lập một kế hoạch ngân sách trung hạn, trong đó hướng đến sự cân bằng

giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư và cơ cấu lại nguồn thu, trong đó

đặc biệt chú trọng đối với kế hoạch chi tiêu trung hạn là việc cần làm để bảo đảm sự

bền vững của nền tài chính quốc gia nói chung và tài chính địa phương nói riêng.

Việc xây dựng ngân sách trên cơ sở trung hạn sẽ đảm bảo việc phân bổ ngân sách

gắn với các chiến lược và định hướng phát triển trong từng thời kỳ, phản ánh được

thứ tự ưu tiên trong phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước đối với từng ngành, từng

lĩnh vực, cũng như hạn chế được phân bổ nguồn lực dàn trải, phân tán.

5.2.2 Hàm ý chính sách

Xuất phát từ kết quả nghiên cứu và từ quan điểm bền vững tài chính của chính

quyền địa phương nêu trên, Luận văn gợi ý về chính sách như sau.

5.2.2.1 Hình thành một cấu trúc nguồn thu địa phương đa dạng và linh hoạt

trên cơ sở khơi thông mọi nguồn lực tài chính.

Một cách chi tiết, ngân sách địa phương bao gồm những khoản thu sau:

- Thu từ thuế;

- Thu từ lệ phí và phí (user fee);

- Thu từ quyền sử dụng đất và công sản

- Vay nợ địa phương;

- Thu kết dư;

77

- Thu viện trợ không hoàn lại và các khoản biếu tặng;

- Thu từ ngân sách trung ương.

Trong các khoản thu trên, thuế giữ vị trí trung tâm và chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Cấu trúc nguồn thu của bất kỳ địa phương nào kể cả Long An phải dựa trên nền

tảng thuế. Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà

nước mà thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh tế, về sự công

bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Thuế nên hình thành từ giá trị gia tăng

do nền kinh tế cả nước và địa phương tạo ra. Vì vậy, tái cơ cấu kinh tế vùng và địa

phương nhằm khơi thông mọi nguồn lực đồng thời tạo ra nhiều cơ sở thuế (tax base)9, được xem là giải pháp bắt buộc. Song điều đó sẽ chỉ có hiệu quả nếu được cụ

thể hóa bằng hệ thống cơ chế, chính sách và giải pháp thực thi phù hợp từng ngành,

vùng, địa phương kể cả khu vực kinh doanh.

Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy chính phủ Nhật Bản đã tìm cách để thúc đẩy

phát triển bền vững tài chính của chính quyền địa phương thông qua cải cách hệ

thống phân chia nguồn thu và hệ thống thuế địa phương (tác giả Luận văn nhấn

mạnh). Thảo luận về cải cách Hệ thống phân chia nguồn thu địa phương của Nhật

Bản là tập trung vào việc giảm sự phụ thuộc vào trái phiếu địa phương ngắn hạn,

điều chỉnh trợ cấp địa phương thông qua việc xác định nhu cầu tài chính địa

phương, theo đuổi phân quyền địa phương thông qua việc áp dụng các hệ thống

chuyển giao tài chính ngang, và tăng cường trách nhiệm quản lý tài chính địa

phương. Mặt khác, các nhiệm vụ liên quan đến hệ thống thuế ở địa phương là điều

chỉnh sự phân bổ của quốc gia và địa phương nguồn thu. Năm 2006, Chính phủ

Nhật Bản đã tiến hành chuyển giao các nguồn thu 3 nghìn tỷ JPY cho các chính

quyền địa phương, và biện pháp để cải thiện tỷ lệ thuế địa phương về thu nhập thuế và thuế cá nhân cư trú thông qua việc cải cách “trinity” năm 200610.

9 Cơ sở thuế là những giá trị nhân với thuế suất để ra nghĩa vụ thuế, chứ không phải là những tổ chức hay cá nhân nộp thuế. Nghĩa vụ thuế = Cơ sở thuế × Thuế suất 10 Kim, Lee and Suh (2014)

78

Trong dài hạn là phải thực hiện loại bỏ tâm lý “free lunch” hay “free rider”,

tức là thụ hưởng hàng hóa công, dịch vụ công mà không trả tiền. Phí và lệ phí phải

được sử dụng một cách phổ biến và có sự kết nối rõ ràng với lợi ích, mục tiêu của

một chương trình. Trước mắt sử dụng phí cầu đường và người sử dụng trả phí khi

tham gia giao thông.

Cho phép các địa phương được tự chủ hơn trong việc huy động vốn đầu tư,

trong đó có quyền phát hành trái phiếu địa phương đầu tư cho những dự án mà đầu

ra có thu phí. Ngoài ra, các khoản viện trợ quốc tế được xem là nguồn vốn quan

trọng bổ sung cho nguồn vốn đang thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy kinh tế

phát triển; vấn đề quan trọng là địa phương nhận đựơc nguồn viện trợ này cần có

phương án sử dụng có hiệu quả, tránh việc sử dụng sai mục đích dẫn đến lãng phí

nguồn thu này.

Đi đôi với điều chỉnh cơ cấu kinh tế địa phương, khơi thông nguồn lực và phát

triển nguồn thu mới để tăng thu cho ngân sách, cần coi trọng công tác chống thất

thu thuế, thực hiện thu đúng, thu đủ nghĩa vụ thuế theo luật định vào ngân sách.

Kiểm soát việc miễn giảm thuế để thu hút đầu tư tại địa phương, cũng như tự ý đặt

các khoản thu ngoài quy định của Chính phủ. Kiểm soát nợ thuế tồn đọng kéo dài;

tăng cường hiệu lực kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp

vi phạm như trốn lậu thuế, gian lận thương mại …

5.2.2.2 Cải tiến phân cấp ngân sách nhà nước

Nếu không xác định lại cơ cấu phân chia nguồn thu thì sẽ không có động lực

thúc đẩy các tỉnh thành cải cách cơ cấu và cải cách hành chính. Ngân sách trung

ương không trợ cấp cho ngân sách địa phương một cách chung chung mà chỉ nên bổ

sung cân đối có khuôn khổ tùy theo ưu tiên chiến lược của địa phương như giảm

nghèo, giáo dục và y tế. Những lĩnh vực khác như xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở

văn hoá-thể thao-du lịch thì nên xem xét xã hội hóa theo hướng hợp tác công -tư

(PPP). Cơ chế phân bổ ngân sách cần được làm rõ và thông tin cho người dân biết

để tạo đồng thuận trong xã hội.

79

Mặc dù số thu trên địa bàn cao, nhưng phải điều tiết nhiều về ngân sách trung ương nên thành phố Hồ Chí Minh11 vẫn phải tìm mọi cách cân đối ngân sách nhà

nước cho tình trạng quá tải về đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục...

mặc dù hàng năm tỷ lệ điều tiết ngân sách về trung ương lớn nhất cả nước. Ngược

lại, nhiều địa phương vẫn thường xuyên nhận trợ cấp ngân sách từ trung ương, tính

năng động sáng tạo bị triệt tiêu, tâm lý ỷ lại trông chờ ngày càng nảy nở. Điều gì sẽ

xảy ra với toàn hệ thống ngân sách nhà nước nếu Chính phủ tăng tỷ lệ giữ lại các

khoản thu phân chia cho 13 tỉnh, thành khi bước vào thời kỳ ổn định ngân sách

mới?

Nên cân đối ngân sách địa phương cần theo nguyên tắc lấy thu thường xuyên

từ trong nội bộ kinh tế địa phương để chi thường xuyên và đảm bảo chi thường

xuyên phải nhỏ hơn khoản thu thường xuyên. Để đảm bảo được nguyên tắc này,

ngân sách nhà nước cấp địa phương phải được phân cấp một số khoản thu và chi

phù hợp với yêu cầu phát triển chung của cả nước, đồng thời phù hợp với nhu cầu

mỗi địa phương. Việc phân cấp đó phải thực hiện theo hướng ngân sách nhà nước là

thống nhất, sự phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi phải ổn định lâu dài, phát huy tính

chủ động, sáng tạo của địa phương, nhưng đồng thời tránh tình trạng phân chia

quyền lực giữa trung ương và địa phương, tránh việc địa phương tự ý đề ra các chế

độ, chính sách để chi cho riêng mình.

Báo cáo Toàn cầu về Phi tập trung hóa và Dân chủ Địa phương năm 2010 của

tổ chức Chính quyền Địa phương và Liên Minh Đô thị (United Cities and Local

Governments, UCLG) cho thấy ở các quốc gia khác nhau, phạm vi nguồn thu phân

chia và tỷ lệ phân chia cũng được xác định khác nhau. Các loại thuế được phân chia

giữa trung ương và địa phương thường bao gồm các loại thuế như thuế giá trị gia

tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp. Một số quốc gia phân chia

nguồn thu từ một số loại thuế đặc thù. Ví dụ ở Úc, ngoài thuế thu nhập doanh

nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng còn bao gồm t

11 Thời kỳ ổn định ngân sách 2011-2015, đối với nguồn thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ giữ lại thấp nhất, tiếp sau là Bình Dương, Hà Nội....

80

doanh chứng khoán, thuế tài nguyên.

Bảng 5.1: Các loại thuế phân chia giữa trung ƣơng và địa phƣơng ở một

số quốc gia

Loại thuế phân chia Quốc gia

Thuế thu nhập cá nhân Bồ Đào Nha, Cộng hòa Xlô-va-ki-a, Ét-xtô-ni-a,

Đức, Trung Quốc, Hung-ga-ri, Lát-vi-a, Li-thua-ni-

a, Úc, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni, In-đô-nê-xia, Ba Lan

Thuế thu nhập doanh Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Trung Quốc, Na Uy,

nghiệp Úc, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Phi-líp-pin

Thuế giá trị gia tăng Trung Quốc, Úc, Cộng hòa Séc, Ru-ma-ni, Phi-líp-

pin

Thuế tài nguyên Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin

Thuế xăng dầu Pháp, Úc

Thuế trên đầu tư Đức

Thuế khoán trên hoạt Trung quốc

động kinh doanh chứng

khoán

Thuế phương tiện mô-tô Hung-ga-ri

Thuế ô nhiễm Li-thua-ni-a

(Nguồn: UCLG, 2010)

Phân chia nguồn thu được tiếp cận theo nguyên tắc cơ sở nguồn gốc hay nơi

phát sinh, điều này có nghĩa là các loại thuế được phân chia cho địa phương nơi

phát sinh nguồn thu loại thuế đó. Nguyên tắc này có ưu điểm làm gia tăng quyền tự

chủ cho chính quyền địa phương và giải quyết vấn đề mất cân đối theo chiều dọc,

tuy nhiên nó dẫn đến mất cân bằng nguồn thu giữa các địa phương có nguồn thu lớn

và các địa phương có nguồn thu nhỏ hơn.

Sử dụng “cơ sở nguồn gốc” hoặc “nơi phát sinh” như một yếu tố để quy định

nguồn thu phân chia Một số quốc gia sử dụng nguyên tắc cơ sở nguồn gốc để phân

81

chia nguồn lực với chính quyền địa phương và cơ cấu phân chia dựa trên cơ sở

nguồn thu (nơi phát sinh nguồn thu).

Tại Ni-giê-ri-a, thuế giá trị gia tăng được phân phối cho chính quyền địa

phương dựa trên tiêu chí: 50% số thuế giá trị gia tăng được phân chia giữa các chính

quyền địa phương (30% dựa trên dân số và 20% dựa trên cơ sở nguồn gốc thu).

Ngoài ra, trong số 13% các nguồn thu tài nguyên (không phải dầu mỏ) chuyển giao

cho trung ương thì 30% sẽ được hoàn lại cho chính quyền địa phương dựa trên cơ

sở nguồn gốc khoản thu.

Tại Cộng hòa dân chủ Công-gô, Hiến pháp quy định một nguyên tắc để phân

bổ 40% số thuế quốc gia (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập

doanh nghiệp…) dựa trên cơ sở nguồn gốc theo lãnh thổ và cho các tỉnh. Ở Ga-

bông, chính quyền trung ương chuyển giao tỷ lệ phần tăng thuế thu nhập cá nhân

dựa trên số thu chính quyền địa phương thu được. Phân bổ như sau: 25% cho các

thành phố, 7% cho các quỹ cân bằng của các thành phố, 68% đối với các bang, đối

với các cấp trung gian, tỷ lệ phân phối là 65% cho chính quyền địa phương, 7% cho

các quỹ cân bằng và 28% cho chính quyền trung ương.

Ở Sê-nê-gan, nguyên tắc nguồn gốc bản chất được sử dụng để trả lại nguồn

thu thuế quốc gia như sau: 59% thuế đánh vào phương tiện giao thông, 50% giá trị

tăng lên của bất động sản, 60% phí phạt của tòa án trên lãnh thổ của chính quyền

thành phố và chính quyền nông thôn quản lý.

Tại Mê-hi-cô, các bang được yêu cầu phân phối cho các đô thị của họ ít nhất

20% thu nhập mà họ nhận được từ nguồn thu được phân chia từ các quỹ liên bang.

Mê-hi-cô cũng có một khoản trợ cấp liên bang chiếm tỷ lệ 1% trong nguồn thu của

liên bang được phân phối trên cơ sở khoản thu cho các thành phố trực thuộc trung

ương. Ở Bra-xin cũng có một hệ thống phân chia 25% các khoản thu thuế giá trị gia

tăng tại các bang, trong đó phân phối 75% trên cơ sở nguồn gốc theo giá trị gia tăng

trong các thành phố và 25% còn lại dựa trên công thức được xác định trên các biến

dân số, diện tích đất và các biến số khác…

5.2.2.3 Kiểm soát quy mô của chính quyền địa phương

82

Nên định biên khu vực nhà nước, tinh giản biên chế

Định biên nhân sự hay hoạch định nhân sự (human resource planning - HR

planning) là hành động phổ biến trong mọi tổ chức công hay tư. Đó là quá trình lập

kế hoạch về nhu cầu nhân sự trong một khoảng thời gian nhất định (về mô tả công

việc, vị trí công việc, chức danh...) để xác định được số lượng nhân sự cấn thiết

trong trương lai. Mặc dù định biên nhân sự ko phải là công việc đơn giản, bởi vì nó

còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: sự ổn định của tổ chức, sự biến động của môi

trường bên ngoài tổ chức, áp lực phi chính thức,.... song bắt buộc phải làm nhằm

kiểm soát nhân sự hiện tại và tương lai.

Có thể vì định biên nhân sự cấp địa phương chưa tốt nên nhân tố Năng lực

quản lý tài chính của chính quyền địa phương tác động đến tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương không mang ý nghĩa thống kê. Nếu định biên nhân sự

tốt thì sao?

Thực thi kỷ luật tài khóa cấp địa phương

Phân loại mọi nguồn thu để nắm chắc và sử dụng đúng mục đích. Số thu từ

thuế, phí, lệ phí và các thu liên quan đến nhà và đất được bố trí chi cho con người,

thực hiện cách chính sách an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, đảm bảo

cân đối bền vững và an toàn hệ thống tài chính địa phương. Chỉ vay nợ để đầu tư

phát triển hạ tầng có thu phí. Tuyệt đối không vay để chi cho bộ máy quản lý.

Mọi khoản chi phải nằm trong khuôn khổ ghi trong dự toán ngân sách và thực

hiện chi tiêu theo dự toán.

Xác định trước nguồn tài trợ trước khi đưa ra cam kết

Bền vững tài khóa như Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Chính phủ (GASB) định

nghĩa là “trách nhiệm và sự sẵn lòng của chính quyền trong việc tạo ra các dòng vào

của nguồn lực cần thiết để vừa thực thi những cam kết cung cấp dịch vụ ở hiện tại

vừa đáp ứng được nghĩa vụ tài chính trong tương lai khi chúng đáo hạn mà không

đẩy nghĩa vụ tài chính sang thế hệ tương lai” tức là không tăng thuế trong tương lai

hoặc không vay thêm nợ hiện tại. Vì vậy, trước khi xây dựng một công trình địa

phương hay một chính sách cấp địa phương thì chính quyền địa phương phải cam

83

kết những công trình hay chính sách này được cung cấp nguồn tài chính vĩnh viễn

mà không xâm phạm nguồn tài trợ cho những chương trình, dự án hoặc chính sách

khác của địa phương

Một điển hình về tình hình vội vàng chi tiêu khi chưa có nguồn tài trợ chắc

chắn là dự án nhà hát ở huyện Đan Phượng (Hà Nội) trị giá 117 tỷ đồng. Thanh tra

thành phố Hà Nội công bố kết luận Ủy ban nhân dân huyện đã phê duyệt dự án khi

chưa có nguồn vốn bố trí, không thực hiện quy trình thẩm định vốn, dự án không

thuộc nhóm dự án cấp bách nhưng Ủy ban nhân dân huyện vẫn cho phép nhà thầu

ứng vốn thi công. Đến cuối năm 2015 Ủy ban nhân dân huyện vẫn chưa có nguồn

vốn thanh toán cho gói thầu thiết bị có giá trị 5,9 tỷ đồng và các khối lượng công

trình đã hoàn thành năm 2014, dẫn đến chưa thể bàn giao công trình, đưa vào sử dụng, gây lãng phí ngân sách nhà nước12.

5.2.2.4 Tham vấn cộng đồng về xây dựng ngân sách

Chính quyền địa phương cần phải đảm bảo rằng việc tham vấn cộng đồng

được thực hiện không phải là một vấn đề của việc tuân thủ pháp luật, mà là cộng

đồng đang tích cực tham gia vào sự phát triển ngân sách. Qua đó người dân thực sự

thấy được chính họ là người góp tiếng nói vào việc cung cấp hàng hóa công, dịch vụ

công theo sở thích của họ. Và, họ sẽ giám sát quá trình đó. Đồng thời, khi người dân

được tham gia thì họ có thể hiểu được những vấn đề mà ngân sách có thể gặp phải,

do đó họ sẽ dễ dàng chia sẻ bớt gánh nặng về tài chính đối với ngân sách địa

phương. Thành phố thông minh (Ubiquitous City) của Hàn Quốc là một ví dụ nổi

trội trong vấn đề này: nhiều thành phố của Hàn Quốc khuyến khích người dân cung cấp những ý tưởng sáng tạo để cải thiện hiệu suất của thành phố13.

Tham vấn của cộng đồng đòi hỏi tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm

giải trình về tài chính ở cấp địa phương. Tăng cường tính minh bạch, công khai

trong quản lý ngân sách ở các cấp chính quyền, đồng thời tăng cường hoạt động

kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo đảm tính hiệu quả của

12 http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/250971/nha-hat-5-trieu-usd-bo-do-giua-ha-noi.html. 13 http://tuoitre.vn/tin/can-biet/20150829/ngo-nghieng-cac-thanh-pho-thong-minh-han-quoc/960597.html

84

quản lý ngân sách. Tăng cường trách nhiệm giải trình của mỗi cấp chính quyền

trong quản lý ngân sách không chỉ với cấp trên mà trước hết là với trước hội đồng

nhân dân và người dân ở địa phương đó.

5.2.2.5 Kiểm soát rủi ro tài khóa

Luật Ngân sách yêu cầu chính quyền địa phương phải cân đối được ngân sách

cấp mình. Để duy trì sự bền vững về tài chính, họ phải đáp ứng các nghĩa vụ dịch vụ

với ngân sách sẵn có. Luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam đòi hỏi ngân sách cấp

tỉnh phải xác lập quỹ dự trữ tài chính và khoản dự phòng ngân sách. Chính quyền

địa phương phải duy trì đầy đủ quỹ dự trữ tài chính và khoản dự phòng ngân sách

để phòng vệ rủi ro tài khóa. Chính quyền địa phương có thể tài trợ cho bội chi bằng

việc sử dụng các khoản dự trữ này. Tuy nhiên, đó không phải là một phương pháp

bền vững để cân bằng ngân sách trong dài hạn.

Giai đoạn 2011-2015, ngân sách tỉnh Long An ổn định được mức nhận trợ cấp

cân đối từ ngân sách trung ương ở mức 697,921 tỷ đồng/năm, còn mức trợ cấp có

mục tiêu giảm từ 1.448,348 tỷ đồng năm 2013 còn 834,495 tỷ đồng. Đây là một tín

hiệu cho thấy tài chính tỉnh đã kiểm soát được mất cân đối ngân sách từ những

khoản thu trên địa bàn. Tuy nhiên rủi ro tài khóa luôn cần phải đề phòng. Cơ quan

tài chính tỉnh nên thường xuyên kiểm soát biến động các nguồn thu, nhiệm vụ chi

hiện tại và tương lai cũng như xây dựng hệ thống cảnh báo tài khóa cấp địa phương

để báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh kèm theo những phương án phòng ngừa.

Mặc dù Năng lực quản lý tài chính của chính quyền địa phương tác động

không có ý nghĩa thống kê đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương,

song Luận văn vẫn khuyến nghị nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tài chính địa

phương vì họ là đầu tàu trong việc quản lý thu, chi ngân sách về xây dựng giải pháp

phòng vệ rủi ro tài khóa. Có thể bây giờ đội ngũ công chức, viên chức quản lý tài

chính địa phương chưa có cơ hội để bộc lộ khả năng của họ song khi triển khai quy

trình soạn lập ngân sách dựa vào đầu ra, kế hoạch tài chính 05 năm, khuôn khổ chi

tiêu trung hạn, … họ sẽ là phát huy được năng lực của mình. Từ đó mới có thể

khuyến khích các biện pháp sáng tạo để nâng cao hiệu suất sử dụng ngân sách.

85

Tương lai ngắn, chính quyền địa phương sẽ cần những nhân viên có tri thức chứ

không chỉ cần những nhân viên mẫn cán mà thiếu tư duy sáng tạo.

5.4. Hạn chế của đề tài và hƣớng nghiên cứu tiếp theo

Trong giới hạn về thời gian, Luận văn chỉ tiến hành khảo sát tại một tỉnh nên

tính đại diện chưa cao. Khi nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Long An, thì nghiên cứu phát

hiện 05 nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương

và nhân tố Cấu trúc nguồn thu ngân sách tác động mạnh nhất, còn nhân tố Cấu trúc

dân cư đứng hàng thứ năm với tác động nghịch. Nhưng khi nghiên cứu ở địa bàn

khác thì có thể kết quả nghiên cứu sẽ khác. Hạn chế này khiến cho những khuyến

nghị về chính sách không mang tính đại diện cao.

Nếu có điều kiện, tác giả sẽ mở rộng mẫu nghiên cứu theo hướng gia tăng kích

thước mẫu và vượt ra khỏi địa bàn một địa phương. Cụ thể sẽ mở rộng mẫu sang địa

bàn phương khác như: Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Hậu Giang,

Kiên Giang,…. Với việc mở rộng mẫu, hy vọng kết quả sẽ mang tính đại diện cao

hơn và những khuyến nghị chính sách khả thi hơn.

Ngoài ra, trong tương lai tác giả cũng mong muốn nghiên cứu về mối quan hệ

giữa thâm hụt ngân sách nhà nước với phần kết dư của ngân sách địa phương và tỷ

lệ phân chia các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa

phương. Một chủ đề nữa có liên quan cũng thu hút sự quan tâm của tác giả, đó là

mối tương quan giữa nợ của chính quyền địa phương với tính bền vững tài chính

của chính quyền địa phương.

Một thôi thúc nữa là tác giả sẽ đi tìm tại sao nhân tố Năng lực quản lý tài

chính của chính quyền địa phương lại tác động không có ý nghĩa thống kê đến tính

bền vững tài chính của chính quyền địa phương. Phải chăng vì cơ chế quản lý tài

chính cấp địa phương hiện nay quá đơn giản nên không cần đến năng lực tư duy của

đội ngũ cán bộ quản lý tài chính công mà chỉ cần nhân viên thừa hành tuân thủ như

những “cỗ máy”? Nếu quả đúng như vậy, thì phát hiện từ kết quả nghiên cứu đã

phản ánh trung thực một hiện trạng không đáng mong muốn về chất lượng đội ngũ

công chức, viên chức thuộc bộ máy nhà nước ở Việt Nam nói chung và Long An

86

nói riêng. Thời gian tới, khi cả nước triển khai xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm,

kế hoạch tài chính - ngân sách 03 năm, khuôn khổ chi tiêu trung hạn, hình thành

quy trình soạn lập ngân sách dựa vào đầu ra, … thì cán bộ ngành tài chính địa

phương cần phải có năng lực để tiếp thu và triển khai thành công.

Một gợi ý nghiên cứu nữa từ vấn đề định biên nhân sự cấp địa phương. Phải

chăng vì định biên chưa tốt nên nhân tố Năng lực quản lý tài chính của chính quyền

địa phương tác động đến tính bền vững tài chính của chính quyền địa phương không

mang ý nghĩa thống kê. Nếu định biên nhân sự tốt thì sao?

Kết luận chương 5

Chương 5 đã đưa ra những nhận định từ kết quả nghiên cứu, thảo luận quan

điểm về bền vững tài chính và nêu gợi ý chính sách nhằm tạo ra và duy trì dự bền

vững tài khóa cấp địa phương. Thêm vào đó, chương 5 cũng nêu ra các giới hạn

nghiên cứu cùng với phương hướng nghiên cứu tương lai.

87

KẾT LUẬN

Luận văn xuất phát từ hiện tượng 50 tỉnh, thành phố của Việt Nam chưa tự cân

đối được ngân sách cấp địa phương phải thường xuyên nhận trợ cấp cân đối từ ngân

sách sách trung ương, khiến khó thể có được tính bền vững chứ đừng nói đến duy trì

tính bền vững tài khóa địa phương. Vậy, tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương ở Việt Nam nói chung và tỉnh Long An nói riêng phụ thuộc vào những

nhân tố nào, mức độ bao nhiêu? Luận văn đã thiết kế nghiên cứu và tìm ra 04 nhân

tố tác động dương có ý nghĩa thống kê đến tính bền vững tài chính của chính quyền

địa phương đó là Quy mô của chính quyền địa phương, Phân cấp ngân sách, Nền

tảng kinh tế địa phương, Cấu trúc nguồn thu ngân sách và 01 nhân tố ảnh hưởng

âm là Cấu trúc dân cư Cấu trúc nguồn thu ngân sách có tác động

mạnh nhất, còn nhân tố Cấu trúc dân cư có tác động thấp nhất.

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Đỗ Thiên Anh Tuấn. Nợ nần và năng lực tài khóa của địa phương. Chương

trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

2. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên

cứu với SPSS, Nhà xuất bản Thống kê.

3. Huỳnh Thế Du (2008). Tài chính công địa phương. Chương trình Giảng dạy

Kinh tế Fulbright.

4. Luật Ngân sách nhà nước Việt Nam 2015.

5. Nguyễn Thị Nguyệt Anh (2012). Bội chi và giải pháp cân đối ngân sách cấp

tỉnh. Tạp chí Kiểm toán số 1/2012.

6. Vũ Đình Ánh (2012). Tăng tính bền vững cho ngân sách địa phương. Tại

http://www.nhandan.com.vn/kinhte/item/22824702-tang-tinh-ben-vung-cho-

thu-ngan-sach-dia-phuong.html/

Tài liệu tiếng Anh

7. Burnside, Craig (2004). Assessing New Approaches to Fiscal Sustainability

Analysis. World Bank Latin America and Caribbean Department’s report on

Debt Sustainability Analysis. Retrieved from

http://wwwwds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/

IB/2008/06/19/000333037_20080619011109/Rendered/PDF/442760WP0B

OX321tainability01PUBLIC1.pdf.

8. Chapman, J.I. (2008). State and Local Fiscal Sustainability: The Challenges,

Public Administration Review, 68 (S): 115-131.

9. Chapman, J.I. (1999). Local government, Fiscal Autonomy and Fiscal

Stress: The Case Study of California, Lincoln Institute of Land Policy,

Working Paper # WP99JC1.

89

10. Dollery, B. & Grant, B. (2011). Financial Sustainability and Financial

Viability in Australian Local Government, Public Finance and

Management, 11 (1), 28-47.

11. Gorina, E. (2013). Fiscal Sustainability of Local Governments: Effects of

Government Structure, Revenue Diversity, and Local Economic Base. A

Dissertation Presented in Partial Fulfillment of the Requirements for the

Degree Doctor of Philosophy.

12. Government Accounting Standards Board. (2011). Preliminary Views of the

Government Accounting Standards Board on Major Issues related to

Economic Condition Reporting: Financial Projections.

13. Gyu Pan Kim, Hyong Kun Lee, Eun Ji Kim and Young Kyoung Suh (2014).

A Study on Japanese Fiscal Sustainability and Fiscal Discipline. Korea

Institute for International Economic Policy (KIEP) Research Paper Serie.

Jan 2014.

14. Hagist, C. and Vatter, J. (2009). Measuring Fiscal Sustainability on the

Municipal Level: A German Case Study. Research Center for Generational

Contracts Paper Series No. 35. Retrieved from:

http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.1357310.

15. IPSASB. (2011). Exposure Draft 46. Recommended Practice Guideline,

Reporting on the Long-Term Sustainability of a Public Sector Entity’s

Finances. International Federation of Accountants. Retrieved from

http://www.ifac.org/sites/default/files/publications/files/IPSASB_At_A_Gla

nce__RepLong-Term_Sustainability_of_Public_Finances.pdf.

16. Local Government Association (LGA) of South Australia (2015). Financial

Governance.

17. National Audit Office (2013). Financial sustainability of local authorities.

18. National Audit Office (2014). Financial sustainability of local authorities.

19. Patricia León (2001). Four Pillars of Financial Sustainability. Resources

for Success Series, Volume 2.

90

20. PWC (2006). National Financial Sustainability Study of Local Government.

21. UCLG (2010).“Second global report on decentralization and local

democracy, Africa, Latin-America”.