intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

35
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt về giáo dục trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. Để hiểu rõ hơn, mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung luận văn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ===================== TRẦN THỊ HẢI YẾN TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA NGUYỄN ĐỨC ĐẠT TRONG TÁC PHẦM “NAM SƠN TÙNG THOẠI” LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ===================== TRẦN THỊ HẢI YẾN TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA NGUYỄN ĐỨC ĐẠT TRONG TÁC PHẦM “NAM SƠN TÙNG THOẠI” Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS Nguyễn Thanh Bình HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, tháng 10 năm 2016 Tác giả Luận văn Trần Thị Hải Yến
  4. LỜI CẢM ƠN Luận văn với đề tài “Tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm nam Sơn tùng thoại” được hoàn thành tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Để hoàn thành được Luận văn, bên cạnh những cố gắng của bản thân, tác giả luận văn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể. Trước tiên, với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thanh Bình, Thầy đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học cho tác giả để Luận văn được hoàn thành. Tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Triết học, các cán bộ, công chức của các phòng, ban, thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã hết sức giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu tại khoa, trường. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn thạc sỹ của mình. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Luận văn Trần Thị Hải Yến
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN ĐỨC ĐẠT VÀ .............................. 10 ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA ÔNG TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI ....................................................... 10 1.1 .Bối cảnh lịch sử và tiền đề tƣ tƣởng hình thành tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt .......................................................................................... 10 1.1.1. Bối cảnh kinh tế- xã hội Việt Nam thế kỷ XIX ................................ 10 1.1.2.Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội .................................................. 15 1.1.3. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt ..................................................................................................... 19 1.2. Cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt và khái lƣợc về tác phẩm Nam Sơn tùng thoại...................................................................................... 26 1.2.1 Cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt ...................................... 26 1.2.2 Khái lược về tác phẩm Nam Sơn tùng thoại .................................... 29 Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 34 Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA NGUYỄN ĐỨC ĐẠT TRONG TÁC PHẨM “NAM SƠN TÙNG THOẠI”: .................................................. 35 NỘI DUNG CƠ BẢN, GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ ........................................... 35 2.1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt về mục đích của giáo dục ................... 35 2.2. Tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt về nội dung giáo dục .......................... 45 2.3. Tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt về phƣơng pháp giáo dục ................... 54 2.4. Đánh giá về tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt qua nghiên cứu tác phẩm “Nam sơn tùng thoại”......................................................................... 60 2.4.1 Một vài đánh giá về những giá trị và hạn chế chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt .................................................................. 60 1
  6. 2.4.2. Ý nghĩa tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 67 Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 74 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77 2
  7. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay phát triển ngày càng mạnh mẽ đã tạo nên những chuyển biến lớn đến diện mạo các quốc gia trên thế giới, nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, nguồn lực con ngƣời giữ vai trò trung tâm của quá trình phát triển. Đặc biệt, trí tuệ trở thành yếu tố tạo nên sức mạnh và quyền lực của quốc gia đã cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục, đào tạo. Giáo dục, đào tạo ngày càng thực sự là đòn bẩy quan trọng bậc nhất để phát triển kinh tế - xã hội. Các quốc gia muốn phát triển nhanh và bền vững phải dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục, đào tạo, vì đầu tƣ cho giáo dục, đào tạo chính là đầu tƣ cho phát triển. Ở nƣớc ta, trong lịch sử cũng nhƣ hiện nay, vấn đề giáo dục, đào tạo luôn đƣợc Nhà nƣớc và nhân dân quan tâm.Trên tấm văn bia ghi danh Tiến sĩ năm 1484 tại Văn Miếu đã ghi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà ngày càng xuống thấp” là minh chứng về vai trò và chính sách đối với ngƣời hiền tài của dân tộc. Sự thịnh suy của đất nƣớc gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài. Nói nhƣ vậy để thấy rằng, giáo dục chính là nền tảng phát triển của mỗi quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài” cho đất nƣớc. Đặc biệt, đối với một quốc gia đang phát triển nhƣ Việt Nam, muốn đƣa đất nƣớc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu thì không còn cách nào khác là phải đầu tƣ mạnh mẽ và có hiệu quả cho giáo dục, đào tạo nguồn lực con ngƣời. Nói khác đi, giáo dục là chìa khóa để khẳng định vị thế của đất nƣớc trên trƣờng quốc tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã tiếp tục khẳng định, “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo là đầu tƣ cho phát triển”, giáo dục là 3
  8. động lực phát triển, là nhân tố quan trọng bậc nhất để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Để phát triển và đổi mới thành công giáo dục, chúng ta cần phải nghiên cứu trở lại những tƣ tƣởng giáo dục trƣớc đó. Xuất phát từ thực tiễn đổi mới, hiện đại hóa giáo dục ở nƣớc ta hiện nay, đổi mới giáo dục tuy đã liên tục tiến hành song còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng nền tảng lý luận giáo dục đúng đắn. Do đó, việc tìm hiểu những tƣ tƣởng giáo dục trong lịch sử dân tộc, qua đó thấy đƣợc những giá trị sâu sắc để tham khảo và vận dụng trong việc xây dựng nền giáo dục nƣớc ta hiện nay là cần thiết và hữu ích. Một trong những nhà tƣ tƣởng để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lịch sử tƣ tƣởng giáo dục Việt Nam thế kỷ XIX chính là Nguyễn Đức Đạt – một nhà Nho, nhà giáo ƣu tú của Việt Nam với hệ thống các tác phẩm của ông tập trung nhiều tƣ tƣởng đề cập đến các lĩnh vực của đời sống xã hội và con ngƣời nhƣ: tƣ tƣởng triết học, tƣ tƣởng đạo đức, chính trị v.v đặc biệt là tƣ tƣởng giáo dục. Tƣ tƣởng giáo dục của ông đƣợc thể hiện thông qua rất nhiều các tác phẩm phục vụ trực tiếp cho quá trình dạy học nhƣ: Nam Sơn song khóa, Nam Sơn song khóa phú tuyển, Nam Sơn song khóa chế nghĩa, trong đó tập trung và hệ thống nhất quan điểm về mục đích, nội dung, phƣơng pháp giáo dục của ông là tác phẩm Nam sơn tùng thoại. Nghiên cứu Nam Sơn tùng thoại giúp chúng ta phần nào tiếp cận đƣợc với tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt nói riêng và giáo dục Việt Nam trong thời kỳ phong kiến nói chung. Ngoài ra, thực tiễn giáo dục hiện nay đặt ra yêu cầu đổi mới, cải cách để đạt đƣợc hiệu quả hơn thì việc nhìn lại lịch sử tƣ tƣởng giáo dục trong lịch sử dân tộc là cần thiết để rút ra đƣợc những bài học cho ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền giáo dục nƣớc nhà. Với những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn vấn đề “Tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm“Nam Sơn tùng thoại” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ triết học của mình. 4
  9. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nhắc đến Nguyễn Đức Đạt, các nhà nghiên cứu dƣờng nhƣ chỉ chủ yếu bàn luận đến tƣ tƣởng triết học về “đạo đức” mà ít quan tâm tới tƣ tƣởng giáo dục của ông. Liên quan đến đề tài luận văn, có thể khái quát một số công trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ sau: Công trình Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám” tập I (1973) của tác giả Trần Văn Giàu. Trong khi trình bày sự thất bại của ý thức hệ phong kiến trƣớc những vận động của lịch sử, tác giả của cuốn sách này đã trích dẫn nhiều ý kiến của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. Trong luận án tốt nghiệp ngành Hán Nôm của Ngô Đức Thọ: “Nguyễn Đức Đạt nhà nho và học giả nửa cuối thế kỷ XIX” (1975) , tác giả đã tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt, những quan điểm về chính trị - xã hội trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. Hơn nữa, tác giả còn đánh giá những điểm tích cực và hạn chế của Nguyễn Đức Đạt. Theo đó, Nguyễn Đức Đạt đã chỉ ra đƣợc những giá trị về mặt giáo dục đạo đức của Nho giáo trong việc rèn luyện con ngƣời, trau dồi kiến thức và tình yêu thƣơng của con ngƣời. Tuy nhiên; Nguyễn Đức Đạt lại cố gắng biện hộ cho hệ tƣ tƣởng đạo đức đang dần trở nên lỗi thời so với yêu cầu của thời đại mới. Ở mức độ nhất định, công trình nghiên cứu này đã đƣa đến những nét khái quát nhất về cuộc đời và sự nghiệp của nhà Nho tiêu biểu cuối thế kỷ XIX Nguyễn Đức Đạt. Trong số những công trình bàn về tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt thể hiện trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, có thể thấy ở một số công trình tiêu biểu sau: Trƣớc hết phải kể đến công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập II) của tác giả Lê Sỹ Thắng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 1997. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành một chƣơng “Nguyễn Đức Đạt và tác 5
  10. phẩm Nam Sơn tùng thoại” để nghiên cứu về Nguyễn Đức Đạt và tác phẩm này. Ở chƣơng này này, tác giả đã làm sáng tỏ những sự kiện tiêu biểu nhất về cuộc đời, sự nghiệp, nội dung cơ bản của tác phẩm nhƣ: tƣ tƣởng về giáo dục, về nhân sinh quan và tƣ tƣởng về chính trị. Trên cơ sở đó, tác giả còn khẳng định giá trị các tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. Luận văn tốt nghiệp của Mai Vũ Dũng Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại (2007) tại Viện Triết học. Trong luận văn này, tác giả đã tìm hiểu về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt, những phạm trù đạo đức mà Nguyễn Đức Đạt đề cập đến trong tác phẩm. Đặc biệt, luận văn đã chỉ ra đƣợc những giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng đạo đức của ông. Về mặt tích cực, luận văn chỉ rõ tƣ tƣởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt đã thể hiện nhiều giá trị tích cực với nội dung xuyên suốt tƣ tƣởng này là: Vua sáng, tôi hiền, con hiếu, nhân dân đƣợc no đủ. Muốn vậy, theo Nguyễn Đức Đạt, phải lấy dân làm gốc và lấy an dân là mục đích cao nhất, lấy Đức trị để cảm hóa nhân dân. Bên cạnh đó còn những nội dung về các phạm trù: Trung, Hiếu, Phúc, Họa v.v. Bên cạnh những giá trị đó, tƣ tƣởng của ông cũng có những hạn chế nhất định: Những phạm trù Trung, Hiếu vẫn là sự trung thành với quan niệm đã lỗi thời. Điển hình nhƣ trong quan niệm về Hiếu: nếu cha mẹ chết thì phải thôi việc về chịu tang. Về tƣ tƣởng giáo dục đạo đức, mặc dù có những tƣ tƣởng tiến bộ nhƣng về cơ bản, những nội dung giáo dục đạo đức của ông vẫn nằm trong khuôn khổ của hệ thống giáo dục Nho giáo, chƣa gắn giáo dục với thực tiễn, đặc biệt với những biến động mang tính tính thời đại ở cuối thế kỷ XIX. Bài viết Quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại của Mai Vũ Dũng đăng trên tạp chí Triết học số 6, tr. 58 – 64, năm 2008. Tác giả đã tập trung phân tích về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong tác phẩm Nam sơn tùng thoại, về 6
  11. tầm quan trọng của đạo đức và pháp luật trong việc trị nƣớc. Với Nguyễn Đức Đạt, “đức” và “nhân” phải bao hàm trong “pháp”, “pháp” là cái không thể bỏ nhƣng cũng không phải là cái duy nhất để trị nƣớc, đạo đức và pháp luật phải lấy “lợi dân làm gốc”, từ sự trọng dân và kính dân. Đó thực sự là những giá trị trong tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt. Tuy nhiên, theo Mai Vũ Dũng, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan nên tƣ tƣởng của ông về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật còn những điểm hạn chế nhƣ: Ông không bàn về hạn chế của pháp luật phong kiến với việc đất nƣớc bị đô hộ vì lúc đó nƣớc ta bị Pháp đô hộ; ông muốn đề cao Đức trị, Nhân chính nhƣng tƣ tƣởng này ở cuối thế kỷ XIX không còn phù hợp nữa. Luận văn tốt nghiệp của Dƣơng Tuấn Anh Tư tưởng giáo dục truyền thống qua tác phẩm Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt (2002) tại Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Trong luận văn này tác giả đã trình bày và phân tích đƣợc những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt qua tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, chỉ ra đƣợc những giá trị và hạn chế qua nghiên cứu tác phẩm. Song, luận văn chƣa chỉ ra và phân tích đầy đủ những tiền đề dẫn đến sự hình thành tƣ tƣởng giáo dục của ông, đồng thời chƣa chỉ ra những ý nghĩa của tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong việc xây dựng và đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay. Nhƣ vậy, qua các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên, Nguyễn Đức Đạt và tƣ tƣởng giáo dục trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại đã đƣợc các nhà nghiên cứu ít nhiều quan tâm. Tuy nhiên, hầu hết các công trình mới chỉ dừng lại ở những đánh giá chung về tƣ tƣởng giáo dục của ông hoặc giới thiệu khái quát về tác phẩm. Có thể khẳng định rằng, tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại hiện nay chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ và hệ thống. Bởi vậy, theo chúng tôi, việc làm rõ tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt sẽ là cơ sở lý luận để có thể xây dựng những giải pháp đúng 7
  12. đắn để đổi mới nền giáo dục toàn diện của nƣớc nhà. Đây cũng là lý do nữa để tác giả chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn thạc sĩ triết học của mình. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt về giáo dục trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích bối cảnh và tiền đề cho sự ra đời tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt. - Phân tích, làm rõ những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. - Đánh giá giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt. - Chỉ ra ý nghĩa tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại trong việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt thể hiện trong tác phẩm Nam sơn tùng thoại. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt về giáo dục, cụ thể: tƣ tƣởng về vai trò, mục đích, nội dung và phƣơng pháp giáo dục trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục - đào tạo. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng 8
  13. hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nhƣ: phƣơng pháp logic - lịch sử, phƣơng pháp văn bản học, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp v.v. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm rõ thêm những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng về giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại nói riêng và trong nghiên cứu tƣ tƣởng giáo dục Việt Nam nói chung. Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu tƣ tƣởng Nguyễn Đức Đạt về giáo dục và giáo dục Việt Nam thời phong kiến. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chƣơng, 6 tiết. 9
  14. Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN ĐỨC ĐẠT VÀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA ÔNG TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI 1.1 .Bối cảnh lịch sử và tiền đề tƣ tƣởng hình thành tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt 1.1.1. Bối cảnh kinh tế- xã hội Việt Nam thế kỷ XIX Nguyễn Huệ sau khi đánh tan 20 vạn quân Thanh đã lên ngôi Hoàng đế năm 1789 và lập nên triều Tây Sơn. Sau khi Nguyễn Huệ đột ngột qua đời, nội bộ triều Tây Sơn lục đục, Nguyễn Ánh nhân cơ hội đó tập trung sức mạnh của giai cấp địa chủ trong nƣớc đồng thời cầu viện sự ủng hộ của cả nƣớc ngoài đã đánh bại triều Tây Sơn vào năm 1802 và thiết lập triều đại nhà Nguyễn. Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, đến năm 1804, vua Gia Long đặt quốc hiệu nƣớc ta là Việt Nam. Sau đó vào năm 1820, Minh Mệnh đƣợc chọn làm ngƣời kế vị Gia Long và đổi quốc hiệu nƣớc ta từ Việt Nam thành Đại Nam và đóng đô ở Huế. Triều Nguyễn đƣợc lập nên sau một cuộc nội chiến kéo dài. Khác với các triều đại phong kiến Việt Nam trƣớc đây, về cơ bản và chủ yếu là gắn liền với quyền lợi của triều đại đó quyền lợi của nhân dân, thì nhà Nguyễn đƣợc dựng lên bằng một cuộc nội chiến kéo dài mà kẻ thắng đã dựa vào sức mạnh của thế lực ngoại bang. Cũng nhƣ tất cả các triều đại phong kiến trƣớc đó, triều Nguyễn tiếp tục củng cố chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền chuyên chế trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ, do vậy, triều Nguyễn không đƣợc lòng đại đa số nhân dân. Đến trƣớc khi Pháp xâm lƣợc Việt Nam vào năm 1858, bức tranh toàn cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam thời Nguyễn là đa dạng, phức tạp và có thời điểm nhƣ sự tự mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, cái bảo thủ với cái lạc hậu. Nhƣng “Nhà Nguyễn cũng đã mở ra một bƣớc ngoặt lịch sử với một tổ chức chính quyền quy mô hơn thay thế cho những chính quyền cũ đã quá nát ruỗng, một sự ổn 10
  15. định mới thay thế cho tình cảnh bấp bênh, loạn lạc v.v mà ai cũng đã chán ghét đến cực điểm và một nền văn hóa chính thống thay thế cho sự vô trật tự, đƣa lại cho xã hội sự kỷ cƣơng, nền nếp, một sự phục hồi bản sắc. Đó quả là mong mỏi chung của nhiều tầng lớp nhân dân, là khát vọng của cả một giai đoạn, là điều kiện hình thành và củng cố địa vị của triều đại Nguyễn trong lịch sử trung đại Việt Nam” [23,tr.198]. Ngay sau khi lên ngôi, nhà Nguyễn tìm mọi cách để ổn định xã hội, củng cố địa vị của mình, trong đó phục hồi Nho giáo là một trong những biện pháp then chốt các vua quan nhà Nguyễn sử dụng nhằm tăng cƣờng bảo vệ và duy trì địa vị thống trị và quyền lực của mình. Nhiệm vụ trung tâm của nhà Nguyễn lúc này là xây dựng lại đất nƣớc sau các cuộc nội chiến tàn phá trong các triều đại phong kiến trƣớc đó và lấy Nho giáo làm hệ tƣ tƣởng, là công cụ để duy trì địa vị thống trị của mình. Vua Gia Long và các vua kế vị đã thiết lập ở nƣớc ta chế độ quân chủ chuyên chế, tăng cƣờng bộ máy đàn áp, thi hành hàng loạt các biện pháp nhằm củng cố, bảo vệ địa vị thống trị vàquyền lợi của vƣơng triều. Với chủ trƣơng “dĩ nông vi bản” của nhà Nguyễn cho nên đến thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một nƣớc nông nghiệp. Nhà Nguyễn hết sức coi trọng vấn đề ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Ruộng đất là tƣ liệu sản xuất chủ yếu, là nền tảng kinh tế của xã hội phong kiến Việt Nam.Tuy nhiên, tình hình ruộng đất và nền sản xuất nông nghiệp thời kỳ này phải đối mặt với hàng loạt khó khăn nhƣ: ruộng đất bỏ hoang, nông dân phiêu tán, nội chiến làm cho nền nông nghiệp càng thêm xơ xác, tiêu điều. Vấn đề cấp thiết đặt ra lúc này cho các vua quan triều Nguyễn là phải khôi phục lại nền nông nghiệp, đƣa nông dân về với ruộng đất, ổn định làng xã. Đây là một trong những nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định với việc trị quốc, an dân. Để khắc phục tình trạng đó, trong thời kỳ này các vua quan triều Nguyễn đã thực hiện một số biện pháp khuyến khích nhằm phát triển nông nghiệp, ngăn chặn nạn cƣớp đoạt 11
  16. ruộng đất của địa chủ, cƣờng hào. Năm 1804, Vua Gia Long ban hành phép quân điền. Theo đó, tất cả mọi ngƣời đều đƣợc chia ruộng công, trừ các quý tộc vƣơng tôn đƣợc cấp 18 phần, quan lại nhất phẩm đƣợc cấp 15 phần, cứ tuần tự hạ mức cho đến dân nghèo đƣợc 3 phần. Đến triều Minh Mệnh vẫn theo chế độ quân điền. Nhƣng trên thực tế, chính sách quân điền không có tác dụng đáng kể, dân nghèo vẫn không có ruộng đất. Chính sách quân điền của các vua Nguyễn thực chất là nhằm đảm bảo quyền lợi kinh tế của các quan lại, số ruộng cấp cho nông dân ngày càng ít và chỉ là những ruộng xấu. Nhƣ vậy, chính sách nông nghiệp của triều Nguyễn giai đoạn này, mặc dù cũng có những điểm tiến bộ, song những mặt hạn chế của nó là cơ bản. Nền kinh tế nông nghiệp dƣới triều Nguyễn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển kinh tế của quốc gia. Khẩn hoang và lập ấp làm tăng diện tích cày cấy nhƣng kết quả khẩn hoang phần lớn rơi vào tay địa chủ, cƣờng hào. Quá trình chiếm đoạt và tập trung ruộng đất vào tay địa chủ gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của nông dân diễn ra mạnh mẽ. Các chính sách bảo vệ và phát triển nông nghiệp chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng mức. Chế độ công điền đƣợc duy trì lâu dài cùng với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp càng làm cho làng xã trở thành đơn vị khép kín, hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Tóm lại, kinh tế nông nghiệp của nƣớc ta thời kì này vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhƣ cầu phát triển của đất nƣớc. Mặc dù, các chính sách tiến bộ đƣợc áp dụng trong sản xuất nông nghiệp nhƣ: khai hoang, lập ấp, bảo vệ đê điều đã giúp nhà Nguyễn phần nào khôi phục đƣợc nền kinh tế tiêu điều để lại từ thế kỷ trƣớc, giúp phần nào ổn định đƣợc đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, những chính sách này chƣa đủ sức mạnh để mở đƣờng cho sự phát triển của một nền nông nghiệp ở trình độ cao hơn và cho đến khi Pháp xâm lƣợc, bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế nông nghiệp nƣớc ta vẫn ở tình trạng lạc hậu. 12
  17. Trái ngƣợc lại với những chính sách tiến bộ trong nông nghiệp, triều đình nhà Nguyễn lại sai lầm khi áp dụng các biện pháp ức thƣơng nhằm hạn chế sự phát triển các nhân tố thƣơng mại trong nền kinh tế. Việc hạn chế phát triển công thƣơng nghiệp không tạo nên điều kiện cần thiết cho xã hội thực hiện đƣợc những chuyển biến, dù rằng,Việt Nam dƣới triều đại nhà Nguyễn, đất nƣớc đƣợc thống nhất, yên bình là điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán, trao đổi. Đƣờng cái quan nối liền Nam Bắc và các tỉnh đƣợc sửa đắp, nhiều kênh sông đƣợc khai đào v.v càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lƣu, buôn bán. Trong khi đó, triều đình thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, thuế khóa phức tạp, thể lệ kiểm soát nghiêm ngặt đã hạn chế sự phát triển của kinh tế thƣơng nghiệp. Về nội thƣơng, triều đình coi muối, gạo là mặt hàng chiến lƣợc do nhà nƣớc quản soát nên đã cấm buôn bán từ vùng này sang vùng khác và nếu mang lúa gạo đi các tỉnh thì bị đánh thuế rất nhiều chặng. Chính sách này đã gây ra sự ách tắc, ứ đọng hàng hóa, gây ra sự mất cân đối giữa cung và cầu ở các vùng khác nhau trong cả nƣớc. Chính sự giới hạn các mặt hàng đƣợc phép buôn bán cùng với sự kiểm soát, thu thuế và nhiều thủ tục phiền hà đã gây cản trở rất lớn đến hoạt động trao đổi, lƣu thông hàng hóa và kích thích sản xuất trong thời kì này. Về ngoại thƣơng, triều đình giữ độc quyền buôn bán với các nƣớc phƣơng Tây, thi hành chính sách “bế quan, tỏa cảng”. Ngƣời Trung Quốc ra vào buôn bán ở Việt Nam thì đƣợc ƣu đãi, còn Tây phƣơng thì phải xin phép buôn bán từng chuyến một. Những chính sách hạn chế thƣơng mại đó đã làm ảnh hƣởng đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa và chƣa tạo nên những điều kiện cần thiết cho sự chuyển biến xã hội. Điều đó khiến nền kinh tế nƣớc ta suy yếu, không đủ sức đƣơng đầu với những khó khăn, thách thức mới của thời đại. Yêu cầu phát triển kinh tế Việt Nam là một tất yếu nhƣng các vua quan triều Nguyễn tiến hành khôi phục và phát triển đất nƣớc cũng chỉ nhằm mục đích chủ yếu là củng cố sự vững mạnh của vƣơng 13
  18. triều họ Nguyễn, là xây dựng quốc gia hùng mạnh theo mô hình phong kiến - mô hình xã hội đã lỗi thời, không còn thích hợp với thời đại mới nữa. Tuy nhiên vẫn phải thừa nhận rằng, xã hội Việt Nam dƣới triều Nguyễn ít nhiều có sự chuyển biến về thƣơng mại. Trong nền kinh tế Việt Nam thế kỷ XIX, tỉ lệ của nền sản xuất công nghiệp còn rất nhỏ. Hình thức phổ biến của công nghiệp là thủ công và tiểu thủ công, chủ yếu là công nghiệp tại gia tức là sự chế biến nguyên liệu ngay ở nơi làm ra nguyên liệu. Nhƣ vậy, tình hình công nghiệp ở giai đoạn này không có sự phát triển mạnh, biểu hiện rõ nhất là nhà Nguyễn vẫn nắm giữ những công xƣởng lớn nhƣ: đúc súng, đúc tiền, đóng tàu. Thợ làm việc trong các công xƣởng chủ yếu trƣng tập thợ giỏi các tỉnh, đƣợc tổ chức theo chế độ công tƣợng, tập trung theo ban, hƣởng lƣơng theo công việc nặng, nhẹ gồm gạo và tiền. Chế độ làm việc nặng nề và chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của các đốc công. Tuy nhiên, do tính chất tập trung trong lao động và trình độ tay nghề của thợ, sản phẩm làm ra đều có chất lƣợng cao. Nhận xét về việc đóng tàu của họ, một sĩ quan Mỹ là Jonh White đến nƣớc ta năm 1820 đã viết “Ngƣời Việt Nam quả là những ngƣời đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kĩ thuật hết sức chính xác”[Dẫn theo: 46,tr.451]. Ngoài thuyền gỗ, họ còn đóng các thuyền lớn bằng đồng. Bên cạnh đó, các nghề thủ công ở nông thôn và thành thị tiếp tục phát triển, số lƣợng ngƣời làm nghề thủ công tăng lên. Các nghề đồ gốm, sành sứ, dệt vải, làm giấy phát triển khắp nơi. Trên cơ sở phát triển của nghề in bản gỗ, xuất hiện nghề làm tranh dân gian nổi tiếng với làng Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội) v.v. Mặc dù thủ công nghiệp nói chung phát triển nhƣng phƣơng thức sản xuất hầu nhƣ không thay đổi. Các làng thủ công vẫn gắn chặt với nông nghiệp nhƣ xƣa, không hình thành các phƣờng hội với quy chế riêng nhƣ ở các nƣớc Tây Âu cận đại. Bên cạnh đó, chính sách của nhà nƣớc cũng thiếu tính chất 14
  19. khuyến khích, khích kệ thủ công nghiệp phát triển. Nhà nƣớc giữ độc quyền một số sản phẩm nhƣ: sa, lƣợt, lụa là, ngƣời thợ thủ công vừa phải đóng thuế thân vừa phải nộp thuế sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm thủ công quý. Do đó, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vẫn chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong nền kinh tế. Các sản phẩm làm ra không đƣợc tham gia vào quá trình tái sản xuất, không đƣợc hội nhập vào thị trƣờng hàng hóa nên không thể kích thích thị trƣờng, mở rộng sản xuất, tạo điều kiện cho những yếu tố thị trƣờng len lỏi vào nền kinh tế. Nhƣ vậy, cho đến khi bị Pháp xâm lƣợc, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Nhằm duy trì, củng cố địa vị thống trị của mình, triều đình nhà Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách cản trở sự phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, trên một số lĩnh vực nhỏ vẫn có sự chuyển biến, góp phần tạo nên những thay đổi trong xã hội. Trong bối cảnh đó, tất yếu làm nảy sinh những tƣ tƣởng tiến bộ, những giải pháp để khắc phục tình trạng kém phát triển, đƣa đất nƣớc thoái ra khỏi cảnh lầm than. Đó là điều kiện hết sức quan trọng đƣa đến sự ra đời tƣ tƣởng cải cách, duy tân của các nho sĩ, trí thức thức thời. 1.1.2.Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Thành lập và thống trị trong thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đƣợc thừa hƣởng đƣợc thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nƣớc. Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh đặc biệt của đất nƣớc mà còn trong tình hình thế giới có nhiều biến chuyển lớn. Thắng lợi của của nghĩa tƣ bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực dân và của sự giao lƣu buôn bán quốc tế. Hàng loạt các nƣớc châu Á lần lƣợt rơi vào ách đô hộ thực dân và Việt Nam cũng không tránh khỏi mối đe dọa đó. Trƣớc tình hình đó, nhà Nguyễn đã tìm cách tái độc tôn Nho giáo nhằm củng cố và làm bệ đỡ về mặt tƣ tƣởng cho chính quyền phong kiến vốn đã bị suy đồi ở những thế kỷ trƣớc. Nho giáo đƣợc tập trung 15
  20. phát triển với tham vọng trở thành tƣ tƣởng thống nhất, chống lại sự bành trƣớc của tƣ tƣởng Thiên Chúa giáo, hạn chế Phật giáo và tƣ tƣởng duy tân theo hƣớng dân chủ tƣ sản của một số nhà Nho yêu nƣớc nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch v.v. Nho giáo với tƣ cách là học thuyết chính trị - đạo đức có vai trò, vị trí và có ảnh hƣởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội phong kiến Việt Nam dƣới triều Nguyễn. Với mong muốn tái lập đƣợc xã hội có kỷ cƣơng sau hàng loạt các cuộc nội chiến, nhà Nguyễn đã tìm mọi cách thực thi đƣờng lối đức trị, vận dụng các nguyên tắc đạo đức tam cƣơng, ngũ thƣờng, các nguyên lý đạo đức Nho giáo v.v làm công cụ chủ yếu để chi phối, thống trị tƣ tƣởng, tinh thần của nhân dân. Các quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng với các giá trị về trung, hiếu đƣợc nhà Nguyễn đề cao tuyệt đối. Nho giáo với tƣ cách là một học thuyết chính trị- xã hội đã đƣợc các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIX sử dụng làm hệ tƣ tƣởng chính trị trong việc khôi phục, xây dựng và trị vì đất nƣớc. Vì vậy, Nho giáo có ảnh hƣởng sâu sắc đến việc định ra đƣờng lối đức trị, xây dựng và sử dụng pháp luật cũng nhƣ việc hình thành và phát triển nền giáo dục của nƣớc ta thời phong kiến. Nhà Nguyễn cố gắng xây dựng một hệ tƣ tƣởng riêng nhƣng vẫn lấy Nho giáo làm nòng cốt. Bộ Minh mệnh chính yếu đƣợc coi là cơ sở tƣ tƣởng và thể chế xây dựng triều Nguyễn, thể hiện sự phục hồi đạo Nho, xuất phát từ những yếu tố tích cực của Nho giáo để trị nƣớc, bình dân. Nhà Nguyễn thiết lập nền chính trị phong kiến trung ƣơng tập quyền cao độ. Về đối nội, vua Gia Long thi hành các chính sách xây dựng kinh tế, khôi phục văn hóa nhằm đem lại sự ổn định cho xã hội đồng thời trấn áp các cuộc nổi dậy nhằm củng cố địa vị thống trị của nhà Nguyễn trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Để tập trung quyền lực vào trong tay nhà vua, sau khi lên ngôi, 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2