intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết Orhan Pamuk

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:143

73
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết Orhan Pamuk bao gồm những nội dung về tiểu thuyết Orhan Pamuk và những tiền đề sáng tạo, những câu chuyện thế sự, một số phương diện sáng tạo; Orhan Pamuk với những đóng góp cho tiểu thuyết và những trải nghiệm nhân sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết Orhan Pamuk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Quỳnh Loan NGHỆ THUẬT DỰNG TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Quỳnh Loan NGHỆ THUẬT DỰNG TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THUẬN Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
  3. LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Thị Thuận, người thầy kính mến đã hết lòng hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô trong Khoa Văn học nước ngoài – Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh cùng các bạn trong lớp Cao học VHNN K.19 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt khóa học vừa qua. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô trong Hội đồng chấm luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này. Những lời cảm ơn sau cùng, tôi trân trọng gửi đến gia đình – những người luôn hết lòng yêu thương, quan tâm và nâng đỡ tôi trong cuộc sống. TP.Hồ Chí Minh – năm 2011 Trần Thị Quỳnh Loan
  4. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................. 3 5T T 5 MỤC LỤC ...................................................................................................................................... 4 5T T 5 MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 1 5T T 5 CHƯƠNG 1 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ SÁNG TẠO ........ 10 5T T 5 1.1 5T T 5 Các tiền đề sáng tạo : .................................................................................................................. 10 T 5 5T 1.1.1 T 5 T 5 Tiền đề văn hóa .................................................................................................................... 10 T 5 5T 1.1.2 T 5 T 5 Tiền đề tôn giáo .................................................................................................................... 12 T 5 5T 1.1.3 T 5 T 5 Tiền đề sắc tộc và nhân quyền .............................................................................................. 14 T 5 5T 1.1.4 T 5 T 5 Tiền đề văn học..................................................................................................................... 18 T 5 5T 1.2 5T T 5 Orhan Pamuk và tiểu thuyết Orhan Pamuk :............................................................................ 23 T 5 T 5 1.2.1 T 5 T 5 Orhan Pamuk ....................................................................................................................... 23 T 5 5T 1.2.2 T 5 T 5 Tiểu thuyết Orhan Pamuk .................................................................................................... 25 T 5 5T CHƯƠNG 2 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK : NHỮNG CÂU CHUYỆN THẾ SỰ ........ 29 5T T 5 2.1 5T T 5 Câu chuyện về thân phận con người .......................................................................................... 29 T 5 T 5 2.2 5T T 5 Câu chuyện về đời sống tinh thần của một dân tộc ................................................................... 38 T 5 T 5 2.2.1 T 5 Những xung đột văn hóa Đông - Tây.................................................................................... 38 T 5 2.2.2 T 5 Những xung đột tôn giáo – chính trị..................................................................................... 44 T 5 CHƯƠNG 3 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK : MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN SÁNG TẠO 5T T 5 ....................................................................................................................................................... 48 3.1 5T T 5 Kết cấu......................................................................................................................................... 48 T 5 T 5 3.1.1 Kết cấu theo trình tự thời gian ............................................................................................... 48 T 5 5T 3.1.2 Kết cấu lồng ghép................................................................................................................... 55 T 5 5T 3.2 5T T 5 Nhân vật ...................................................................................................................................... 61 T 5 T 5 3.2.1 Kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk ............................................................... 61 T 5 T 5 3.2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................................................... 70 T 5 5T 3.3 5T T 5 Không gian và thời gian .............................................................................................................. 79 T 5 5T 3.3.1 T 5 T 5 Không gian ........................................................................................................................... 80 T 5 5T 3.3.2 T 5 T 5 Thời gian .............................................................................................................................. 87 T 5 5T 3.4 5T T 5 Giọng điệu trần thuật :................................................................................................................ 93 T 5 5T 3.4.1 T 5 T 5 Chất triết luận....................................................................................................................... 93 T 5 5T 3.4.2 T 5 T 5 Tính đa thanh ....................................................................................................................... 96 T 5 5T CHƯƠNG 4 : ORHAN PAMUK VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO TIỂU THUYẾT VÀ 5T NHỮNG TRẢI NGHIỆM NHÂN SINH ................................................................................... 103 T 5 4.1 5T T 5 Những đóng góp cho tiểu thuyết ............................................................................................... 103 T 5 5T 4.1.1 T 5 Mô hình tiểu thuyết pha trộn .............................................................................................. 103 5T 4.1.2 T 5 T 5 Nghệ thuật của sự đan dệt [50]........................................................................................... 107 T 5 5T 4.2 5T T 5 Những trải nghiệm nhân sinh ................................................................................................... 112 T 5 5T
  5. 4.2.1 Hành trình sáng tạo nghệ thuật ........................................................................................... 112 T 5 5T 4.2.2 Huzun - hành trình của một nỗi niềm ................................................................................. 117 T 5 T 5 KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 122 5T T 5 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 125 5T 5T PHỤ LỤC.................................................................................................................................... 131 5T T 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm 2008, khi Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam quyết định mua bản quyền ba cuốn tiểu thuyết của Orhan Pamuk, gồm: Pháo đài trắng ( The white castle, 1985 ), Tên tôi là Đỏ T 0 ( My name is red, 1998 ), Tuyết ( Snow, 2002 ), đông đảo độc giả Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận 0T với một “hiện tượng” của văn học thế giới đương đại. Có thể nói, những vấn đề rất “thời sự” về bản T 0 sắc, cá nhân và dân tộc, sự xung đột, giao thoa giữa các nền văn hóa Đông và Tây...đã được đặt ra trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk - nhìn một cách toàn thể - cũng chính là những gì mà mỗi cá nhân, mỗi dân tộc trên toàn thế giới... phải đối mặt trong cuộc sống hiện tại. Những vấn đề đậm chất nhân bản, nhân loại ấy đã được chuyển tải đến người đọc bằng nghệ thuật độc đáo của “người kể chuyện tài hoa như Seherazad” (nhận định của The New York times về Pháo đài trắng ), với “những câu chuyện lồng trong chuyện, tư biện triết học và những nhân vật phức tạp, là một minh chứng tuyệt vời về những gì tiểu thuyết có thể làm được.” (nhận định của S.B.Kelly – Scotland on Sunday về Tên tôi là Đỏ ). Để rồi, năm 2006, cái tên Orhan Pamuk đã vinh dự được xướng lên, như một sự công nhận tài năng vượt trội của ông – một tài năng mà nhà phê bình Tom Payne thuộc tạp T 0 chí The Daily Telegraph đã hết lời ca ngợi : “Vì những nhà văn như Pamuk mà giải Nobel được sinh ra”. Các tác phẩm của Orhan Pamuk đã được dịch ra trên 40 thứ tiếng, làm say mê hàng triệu độc T 0 giả trên khắp hành tinh, đồng thời đưa nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ bước lên vị trí hàng đầu trong nền văn học đương đại. Trong quá trình tìm hiểu về việc tiếp nhận tác phẩm của Orhan Pamuk ở Việt Nam, chúng tôi T 0 nhận thấy chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông. Vì vậy, thực hiện một công trình nghiên cứu về nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk, chúng tôi thiết tha mong muốn được góp phần nhỏ bé trong việc giới thiệu một phong cách sáng tác độc đáo, mới mẻ đến với độc giả yêu văn chương ở Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề : 2.1 Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Orhan Pamuk tại Việt Nam Nguồn tham khảo chính của chúng tôi khi tìm hiểu về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Orhan Pamuk tại Việt Nam hiện nay chỉ giới hạn ở một số bài viết, bài giới thiệu, bài cảm nhận…đăng rải rác trên các tạp chí (chủ yếu qua internet). Trong đó, có một số bài viết có giá trị, thể hiện sự am hiểu sâu sắc cũng như những cảm nhận tinh tế về những tác phẩm tiêu biểu của
  7. Orhan Pamuk (đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam). Trước hết, có thể kể đến bài viết Orhan Pamuk, nhà văn của những nhịp cầu của Đỗ Tuyết Khanh.: “Người dân Thổ hâm mộ sách của Pamuk không phải chỉ vì cốt truyện hấp dẫn, đầy tình tiết và tình huống quyến rũ, lời văn sống động và cấu trúc độc đáo, mà còn vì họ tìm thấy ở đấy nhịp tim của chính họ, những ray rứt họ chia sẻ trước những mâu thuẫn và giằng xé của đất nước.” ; tác phẩm của Pamuk “nêu lên vấn đề bản sắc, cá nhân và dân tộc, là trực diện với những mâu thuẫn giữa các giá trị Đông và Tây, giữa những gò bó và truyền thống phong kiến của văn hóa hồi giáo và những thách đố đặt ra cho một xã hội muốn vươn lên thành một nước phát triển và hội nhập Liên hiệp châu Âu.” ; “Sách của Pamuk có chiều kích triết lý, nhiều ẩn dụ sâu sắc, vang vọng âm hưởng của văn học thế giới, đem nhiều thích thú cho người trí thức, nhưng cũng dễ đọc, hấp dẫn đối với độc giả "bình dân", gần gũi với tâm tư của họ. Pamuk là gạch nối giữa người dân các thành phố Âu hoá của thời đại Internet và những nông dân ở các vùng quê xa xôi của đất Thổ Nhĩ Kỳ” [64] Nhà nghiên cứu Phan Nhật Chiêu : Orhan Pamuk – nghệ thuật không có trung tâm viết : “Orhan, dù được so sánh với hầu hết những khổng lồ văn chương hiện đại từ William Faulkner, Thomas Mann, Virginia Woolf, James Joyce, Franz Kafka, đến Borges, Calvino và Eco… vẫn là Orhan, một thanh điệu độc đáo trong thế giới đa thanh này. […] Giọng điệu của Orhan là giọng điệu của đa thanh. Ông đem vào tiểu thuyết cái đa thanh như ta vẫn thấy trong cuộc sống, vốn là bản chất của cuộc sống.” Nhà nghiên cứu khẳng định rằng sức hấp dẫn tiểu thuyết của Orhan Pamuk chính là do nhà văn đã “không chọn Đông hay Tây làm trung tâm cho cái nhìn của mình.” ; và rằng : “Ông không nói với ta về một chân lý tuyệt đối.” mà “trong thế giới của Orhan, mỗi cá thể sẽ tìm ra chân lý của mình.” [50] Trong bài viết “Tên tôi là Đỏ” – bản đại luận về nghệ thuật, Mai Sơn đã thể hiện những cảm nhận sâu sắc : “một cuộc đại nghị luận “chí tử” và mang tính triết lý về nghệ thuật, ở đây là nền hội họa của Thổ Nhĩ Kỳ cuối thế kỷ 16” mà qua đó, nhà văn đã tập trung khắc họa chân dung những người nghệ sĩ – “mỗi người là một thế giới bí ẩn mênh mông, nhưng thế giới đó cũng thật nhỏ bé trước sự thao túng khích động của các loại quyền lực: thần quyền, tôn giáo, chính trị, triết học, đạo đức” để rồi dù có trong tay tặng phẩm trời cho là tài năng, thì “mỗi người một kiểu đều đi đến những kết cục bi thảm, chỉ vì trong bối cảnh xã hội đó một người không có quyền đặt mình vào trung tâm thế giới, dù đó chỉ là qua các bức chân dung.” [87] Tác giả bài viết Nỗi ám ảnh màu đỏ : Thiên Bình, đã nhận xét : “với “Tên tôi là Đỏ”, Orhan T 0 1 T 0 1 Pamuk còn chứng tỏ ông là người viết tiểu thuyết lịch sử bậc thầy, mà trong khuôn khổ câu chuyện này, có thể khoanh vùng cụ thể hơn: Đó là lịch sử của nghệ thuật hội họa Thổ Nhĩ Kỳ, hay nói chính
  8. xác hơn là nghệ thuật minh họa Hồi giáo.” ; và rằng “thông qua lịch sử của hội họa, lịch sử các triều đại trị vì đất nước này cũng được soi sáng.” Tác giả Thiên Bình cũng nhấn mạnh : “Orhan đã chứng tỏ được sự dày công nghiên cứu văn hóa truyền thống của ông khi mô tả những công trình kiến trúc nổi tiếng của đế quốc Ottoman như cung điện Tokapi với những đường lối như mê cung, quốc khố với sự giàu có, xa hoa khó hình dung...Bên cạnh đó, Orhan cũng thành công trong việc tái hiện không gian xưa cũ của Istanbul thế kỷ 16 với những sinh hoạt văn hóa hết sức đặc trưng. Dưới ngòi bút của nhà văn này, tôi dường như bị cuốn vào một không gian cổ xưa, được tận mắt nhìn thấy những thiếu nữ Hồi giáo hé lộ cặp mắt đen sau mạng che mặt, bị giam kín trong hậu cung bởi lễ giáo nhưng vẫn khôn ngoan tìm cách trao đổi thư từ với tình lang; tôi cũng cảm giác như đang trò chuyện với những người bán hàng rong, những bà mối tinh quái hay bác thợ cạo thật thà...Tất cả những âm thanh xưa cũ ấy cứ reo vang trong từng trang sách khiến tôi thấy như thể bị lạc bước vào thế giới quen thuộc của “Nghìn lẻ một đêm”. [48] 2T T 2 Nhận xét về tác phẩm Tuyết, trong bài viết nhan đề : Orhan Pamuk, văn chương từ miền Trung Đông mù ám , Đặng Phùng Quân đã đề cập đến giá trị thời sự của tác phẩm : “Tuyết” là tác phẩm thể hiện rõ nét âm hưởng thời đại: khí hậu chung của văn chương hiện đại /văn chương lưu đày và mạt thế luận của một thế giới tha hóa, sự cáo chung của tôn giáo và ý thức hệ. Thông điệp của Pamuk là tiếng chuông cảnh báo giữa những biến động toàn cầu, từ chiến tranh Bosnia, Chechnya, Iraq, Afghanistan, Do thái / Palestin, đến hiện tượng khủng bố như một dấu ấn thời đại (đã gây trăn trở cho những nhà tư tưởng như Habermas, Derrida..).” Và cũng theo Đặng Phùng Quân, chính điểm này đã khiến cho tiểu thuyết Tuyết của Pamuk mang tính chính trị rất rõ nét, đồng thời thể hiện “trong con người nhà văn của Orhan Pamuk có sự can đảm của một nhà nhân đạo chủ nghĩa” khi ông dám đề cập đến “những chuyện khó chịu” (Lời tựa trên trang đầu cuốn Tuyết của Orhan Pamuk – người viết chú thích) trên trang sách của mình. [86] Nguyễn Thị Hải Hà trong bài phê bình mang tựa đề Đọc tác phẩm Snow (Tuyết) của Orhan Pamuk : “sự xung đột Đông Tây trong cá nhân, trong quốc gia, và trên thế giới. Đứng về hàng ngũ Tây phương là châu Âu, Frankfurt, Istanbul phần nằm trên địa phận châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ, và Ka (nhân vật Ka - nhà thơ lưu vong – người viết chú thích). Đứng về hàng ngũ Đông phương là phần lớn còn lại của Thổ Nhĩ Kỳ thuộc về châu Á, Kars, và tất cả những người dân, đa số là Hồi giáo và người thiểu số Kurd ở trong Kars”.Theo bài phê bình trên, nhà văn Pamuk “có tham vọng thay đổi quan điểm của châu Âu về những người Hồi Giáo và Thổ Nhĩ Kỳ, qua cách ông thể hiện những nhân vật sống ở Kars, ở một thành phố hẻo lánh nghèo nàn thuộc về châu Á. Pamuk cho rằng các quốc gia Hồi giáo, trong đó có Thổ Nhĩ Kỳ, đã bị hiểu lầm nghiêm trọng. Một thiểu số
  9. người Hồi giáo, trẻ và nông nổi, chủ trương dùng bạo động để bảo vệ danh dự Hồi giáo, thật ra chỉ là một nhóm người trẻ tuổi, dễ bị lừa dối và lung lạc. Họ gây rối loạn bởi vì nhàm chán do dư thì giờ nhưng thiếu phương tiện để tự xây dựng đời sống và hạnh phúc của riêng họ.”Nguyễn Thị Hải Hà, qua bài viết trên, tin tưởng rằng tác phẩm Tuyết sẽ “giữ một vai trò quan trọng trong việc khuyến khích Đông Tây tìm hiểu lẫn nhau để giữ hòa bình trên thế giới khi mà cuộc chiến giữa Tây phương và các quốc gia Hồi giáo như Afghanistan và Iraq vẫn còn đang tiếp diễn.” [55] Nói chung, tiến hành nghiên cứu về một hiện tượng văn học đương thời như Orhan Pamuk có nhiều thuận lợi, song khó khăn cũng không ít. Các tài liệu, bài viết về tác phẩm của nhà văn đương đại Thổ Nhĩ Kỳ mà chúng tôi vừa điểm qua đa phần chỉ mới dừng lại ở một số nhận định mang tính khái quát. Chúng tôi hiện vẫn chưa tìm được nguồn tài liệu, công trình khoa học chuyên sâu nào về tác giả - tác phẩm để làm nền tảng. 2.2 Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Orhan Pamuk trên thế giới Tuy Orhan Pamuk là một hiện tượng nổi bật trong nền văn học đương đại, nhưng hiện nay, các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của ông đa phần được giới hạn ở một số bài cảm nhận, phê bình, hoặc một số bài giới thiệu ở mục “điểm sách”… xuất hiện trên các tạp chí tại Mỹ, Anh, Pháp…như The New York times, The Daily Telegraph, The San Francisco Chronide, The Boston Globe…Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm thấy một vài bài cảm nhận của bạn đọc về các tác phẩm tiêu biểu của ông, được đăng rải rác trên các blog cá nhân khác… Trang web : http://www.orhanpamuk.net/book là một trong những nguồn đăng tải khá nhiều 5T T 5 bài cảm nhận về các tác phẩm của Orhan Pamuk. Trước hết, có thể kể đến bài viết Cướp biển, tổng trấn và nhà chiêm tinh hoàng gia (Pirates, pashas and the imperial astrologer) của Jay Parini (1991) về Pháo đài trắng. Ông nhận định : “A new star has risen in the east - Orhan Pamuk, a Turkish writer. And if “The White Castle” is representative of his fiction, he has earned the right to comparisons with Jorge Luis Borges and Italo Calvino (…) “The White Castle” is a fable of identity, a post-modern tale that explores the murky and recessive byways of Cartesian self-consciousness. At this point, many readers of this review will yawn: not another second-rate philosopher pretending to be a novelist. You can relax. Mr.Pamuk is a storyteller with as much gumption and narrative zip as Scheherazade.” [75] (Tạm dịch : “Một ngôi sao mới đã xuất hiện ở phương Đông : Orhan Pamuk, một nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ. Và nếu xem Pháo đài trắng là tiểu thuyết tiêu biểu của Pamuk, ông đã giành được quyền so sánh với Jorge Luis Borges and Italo Calvino (…) Pháo đài trắng là một truyện ngụ ngôn về nhân dạng, một câu chuyện kể hậu hiện đại khám phá những khía cạnh u ám khuất lấp của học thuyết tự ý
  10. thức Descaries. Ở điểm này, có lẽ độc giả bài viết này sẽ ngáp dài : đừng thêm một triết gia tầm thường giả dạng nhà văn nữa. Bạn yên tâm đi. Ngài Pamuk là một người kể chuyện tài hoa cũng như nàng Scheherazade vậy.”) Cũng với nhận định tương tự, tạp chí New York Times viết : “Một cuốn sách kỳ lạ và tài tình về sự đau đớn trong quá trình tự khám phá bản thân. Và trong suốt thiên tiểu thuyết, người ta có thể chứng kiến sự pha trộn siêu việt của những gì Orhan Pamuk thực sự thấy bằng con mắt của một kẻ quá hướng về Tây phương trong khi bề ngoài lại quá thiên về Trung Đông. Trong khoảnh khắc, Đông-Tây đã gặp gỡ.” [38] Tạp chí Guardian nhận xét : T 2 “Pháo đài trắng” tuyệt vời không phải bởi nó đã tái hiện một thời đại, mà vì nó đã khám phá bí 2T T 2 mật cá nhân con người và trên hết vì Pamuk đã gói gọn những suy tư đó trong một câu chuyện đơn giản đến nhường ấy.” [38] Với tạp chí Independent : 2T “Cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Orhan Pamuk về những ảnh hưởng ngoại lai… đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh và thành kiến một cách tao nhã vào kết quả của phát tán văn hoá. Tác phẩm phảng phất âm hưởng của Calvino, nhưng cách viết và thế giới quan của tác giả lại gần hơn với Kazuo Ishiguro.” [38] Nhận xét về cuốn tiểu thuyết thứ sáu của Orhan Pamuk : Tên tôi là Đỏ, S.B.Kelly - tạp chí Scotland on Sunday khen ngợi : “một hỗn hợp sắc bén giữa truyện vụ án, ngụ ngôn hậu hiện đại và tiểu thuyết lãng mạn lịch sử... “Tên tôi là Đỏ”, với những câu chuyện lồng trong chuyện, tư biện triết học và những nhân vật phức tạp, là một minh chứng tuyệt vời về những gì tiểu thuyết có thể làm được...”. [39] John Updike - tạp chí The New Yorker nhận định : “Pamuk đã chứng tỏ sự kiên nhẫn và khả năng xây dựng của những người kể chuyện thế kỷ 19 và các truyền nhân của họ, Proust và Mann… và năng lực tưởng tượng của ông được gắn kèm với một cảm quan sâu xa về bí ẩn và song nghĩa.” [39] Philip Hensher - tạp chí Spectator, viết : “Huyền hoặc, điên đầu, kích thích…Khác hoàn toàn so với thể loại thriller lịch sử truyền thống phương Tây…Đây là một cuốn tiểu thuyết tuyệt diệu, mơ màng, nồng nàn và tráng lệ, mang chất phương xa một cách độc đáo và lôi cuốn nhất.” [39]
  11. Cũng tại trang web http://www.orhanpamuk.net/book, ở bài viết Snow (Tuyết), Mary 5T T 5 Whipple đã dành cho Tên tôi là Đỏ những lời khen ngợi nồng nhiệt : “Many-leveled, beautifully wrought, and complex in its themes, this is a novel which thoughtful western readers will want to explore, a haunting novel rich with insights which should not be ignored.” [69] (Tạm dịch : “Nhiều tầng bậc, ngôn từ đẹp đẽ, và phức tạp trong các chủ đề của nó, đây là một cuốn tiểu thuyết mà độc giả phương Tây thâm trầm sẽ muốn khám phá, một cuốn tiểu thuyết ám ảnh chứa đầy những cái nhìn sâu sắc mà bạn không nên bỏ qua.” ) Thủ pháp này cũng góp phần tạo nên sức hấp dẫn không thể cưỡng lại của tác phẩm, mà như lời nhận xét của Laurel Maury từ tạp chí The San Francisco Chronide là : “Ma lực tinh ròng”. [40] Cùng nhận định về tiểu thuyết Tuyết, trong bài viết với nhan đề Nhìn qua tuyết (Seeing through the snow), Azade Seyhan đã viết : “The resonance of Pamuk's books with the burning political and cultural issues of the day should not detract from the literary achievement of his work. Pamuk understands how political forces and oppression control human lives but also believes that individuals have the capacity to understand their fate and to imagine in the midst of an abject present the possibility of a different future.” [47] (Tạm dịch : “Sự kết hợp những vấn đề chính trị nóng bỏng và những vấn đề văn hóa thời đại không làm giảm sút giá trị văn chương trong tác phẩm của Orhan Pamuk. Pamuk thấu hiểu các lực lượng chính trị và sự áp chế kiểm soát đời sống của con người như thế nào nhưng cũng tin rằng các cá nhân có khả năng hiểu rõ số phận của họ và quan niệm rằng giữa thực tại khốn cùng vẫn có khả năng xuất hiện một tương lai khác.” ) Nữ văn sĩ Margaret Atwood, trong bài viết Chết vì khăn trùm đầu (Headscarves to die for), đã viết : “In “Snow”(…) the twists of fate, the plots that double back on themselves, the trickiness, the mysteries that recede as they're approached, the bleak cities, the night prowling, the sense of identity loss, the protagonist in exile - these are vintage Pamuk, but they're also part of the modern literary landscape. A case could be made for a genre called the Male Labyrinth Novel, which would trace its ancestry through De Quincey and Dostoyevsky and Conrad, and would include Kafka, Borges, García Márquez, DeLillo and Auster, with the Hammett-and-Chandler noir thriller thrown in for good measure.” [70] (Tạm dịch : “Trong “Tuyết” (…) vòng xoáy của số phận, những mưu đồ bị phản lại, những sự lừa phỉnh, những bí ẩn khi mờ khi tỏ, các thành phố ảm đạm, sự rình rập trong bóng đêm, cảm giác vong bản, nhân vật chính lưu vong, đó cũng là một phần của cảnh quan văn học hiện đại. Đây cũng
  12. là trường hợp có thể xếp vào một thể loại được gọi là tiểu thuyết Male Labyrinth, theo dấu những nhà văn đi trước như De Quincey và Dostoyevsky và Conrad, bao gồm cả Kafka, Borges, García Márquez, DeLillo và Auster, với yếu tố trinh thám đan xen một cách chừng mực theo kiểu Hammett và Chandler.”) Trong bài viết sắc sảo có nhan đề Giết chóc và niềm vui (Murder and joy), khi nhận định về văn phong cũng như sự am hiểu của Orhan Pamuk về lịch sử truyền thống hội họa mang dấu ấn thời Ottoman, Dick Davis đã không dấu sự khâm phục khi ông viết: “Pamuk has written a book that is over 400 pages long, and which has all the exuberance and richly descriptive density of a nineteenth-century European novel. He can sound like Stendhal (on love), or Dostoevsky (on guilt and sin), or Dickens (in his sudden homing in on the memorable detail that brings a moment alive before the reader's eyes), or Balzac (in the marvellous plethora of evocative particulars with which he can describe a scene). His use of the Eastern tradition is equally virtuosic (…) His knowledge of the details of life in sixteenth-century Istanbul is clearly extensive and used to often ravishing effect.” [52] (Tạm dịch : “Pamuk đã viết một cuốn sách hơn 400 trang, với lối viết hoa mỹ và cầu kỳ của một cuốn tiểu thuyết châu Âu thế kỷ XIX. Tác phẩm của ông có âm hưởng của Stendhal (về tình yêu), hoặc Dostoevsky (về lỗi lầm và tội ác), hoặc Dickens (về những hồi ức đột ngột tái hiện sống động trước mắt người đọc), hay Balzac (ở những liên tưởng phong phú kỳ diệu khi miêu tả cảnh quan). Việc vận dụng những truyền thuyết phương Đông của ông cũng rất lão luyện (…) Những hiểu biết của ông về các chi tiết của cuộc sống ở Istanbul thế kỷ XVI rõ ràng là phong phú và được sử dụng rất hiệu quả.” ). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : 3.1 Đối tượng nghiên cứu : Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu khảo sát 3 tiểu thuyết đã được dịch ở Việt Nam : 1. Pháo đài trắng (2008), (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch), NXB Trẻ, TP.HCM 2. Tên tôi là Đỏ (2008), (Phạm Viêm Phương và Huỳnh Kim Anh dịch), NXB Văn học, Hà Nội 3. Tuyết (2008), (Lê Quang dịch), NXB Văn học, Hà Nội Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo thêm Istanbul, hồi ức và thành phố (2010), (Nguyễn Quốc Trụ dịch), NXB Văn học, Hà Nội cùng một số bài viết của Pamuk trên các tạp chí nước ngoài. 3.2 Phạm vi nghiên cứu :
  13. Với đề tài : “Nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk”, chúng tôi sẽ trực tiếp tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật dựng truyện của Orhan Pamuk thông qua một số yếu tố như : nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật. Qua đó, chúng tôi cố gắng đưa ra những đánh giá khái quát những nét sáng tạo, độc đáo trong nghệ thuật sáng tác của Orhan Pamuk. 4. Phương pháp nghiên cứu : Vận dụng quan điểm duy vật, quan điểm lịch sử và phương pháp biện chứng làm nền tảng cho nhận thức và nghiên cứu, chúng tôi đồng thời vận dụng những thành tựu của khoa nghiên cứu văn học như : Phương pháp luận nghiên cứu văn học, phong cách học, thi pháp học, lý luận văn học, văn học so sánh… để làm nổi bật vấn đề. Chúng tôi sẽ đi từ phương pháp khảo sát phân tích từng tác phẩm, các yếu tố nổi bật thể hiện đặc điểm và phương thức sáng tác của tác giả, để từ đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát. Đồng thời, để triển khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi đặt đối tượng nghiên cứu trong mối liên hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk. Bằng phương pháp hệ thống, phát hiện tính lặp lại của các phương diện liên quan đến đề tài, khẳng định những đặc điểm mang tính ổn định về nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk. Phương pháp tiếp cận lịch sử văn hóa cũng sẽ được vận dụng để phát hiện những dấu ấn đặc thù của văn hóa – lịch sử dân tộc trong nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn, từ đó thấy được những thành công to lớn của Orhan Pamuk trong “công cuộc trường kỳ của nhà văn : hình thành tổ quốc ông thông qua sự kể.”( trích nhận định của nhà văn Margaret Atwood về tiểu thuyết Tuyết– Orhan Pamuk) 5. Đóng góp của luận văn : Qua công trình nghiên cứu này, chúng tôi muốn đưa ra những cái nhìn sáng rõ, có căn cứ khoa học về nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk, qua đó miêu tả khái quát chân dung sáng tạo của tác giả, nhằm góp thêm một nguồn tư liệu khiêm tốn cho việc nghiên cứu – phê bình văn học ở Việt Nam. 6. Bố cục của luận văn : Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn sẽ gồm có 4 chương, được phân bố như sau :
  14. Chương 1 : Tiểu thuyết Orhan Pamuk và những tiền đề sáng tạo U U Ở chương này, chúng tôi sẽ triển khai một số vấn đề khái quát về nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ và những nét đặc trưng về đời sống văn hóa – tinh thần của dân tộc Thổ. Qua đó, chúng tôi sẽ làm rõ chân dung văn học của Orhan Pamuk, cùng những dấu ấn của nền văn học truyền thống, của đời sống văn hóa – tinh thần dân tộc... đã được phản ảnh trong những sáng tác của ông. Chương 2 : Tiểu thuyết Orhan Pamuk: những câu chuyện thế sự U U Qua việc khảo sát 3 tiểu thuyết tiêu biểu : Pháo đài trắng, Tên tôi là Đỏ, Tuyết, chúng tôi sẽ đi sâu khám phá các chủ đề quen thuộc thường xuyên tái xuất hiện trong các sáng tác của Orhan Pamuk, nhằm làm sáng tỏ thế giới quan của nhà văn - điều đã làm nên phong cách sáng tác riêng biệt của ông. Chương 3 : Tiểu thuyết Orhan Pamuk : một số phương diện sáng tạo U U Ở chương này, thông qua việc nghiên cứu kết cấu, nhân vật, không gian - thời gian, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk, chúng tôi sẽ làm rõ những sáng tạo của ông. Chương 4 : Orhan Pamuk với những đóng góp cho tiểu thuyết và những trải nghiệm U U nhân sinh Ở chương này, chúng tôi sẽ tập trung chỉ ra những đóng góp quan trọng của Orhan Pamuk – với tư cách là một tiểu thuyết gia đương đại - trên con đường đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết. Đồng thời, chúng tôi sẽ khái quát những đóng góp của Orhan Pamuk – với tư cách là một con người thời đại – trên con đường tìm kiếm những giải pháp cho sự hòa hợp – cảm thông – chia sẻ giữa các nền văn hóa, các tôn giáo, các dân tộc.
  15. CHƯƠNG 1 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ SÁNG TẠO U U 1.1 Các tiền đề sáng tạo : Chặng đường đi đến giải Nobel năm 2006 của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Orhan Pamuk kéo dài 32 năm, bắt đầu từ năm 1974, khi ông bắt tay viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên mang tên : Cevdet bey ve ogulları (Cevdet và các con trai, xuất bản năm 1982). Đó là khoảng thời gian không dài so với phần đông những nhà văn đoạt giải Nobel khác (chẳng hạn so với nhà văn Nga Mikhail Solokhov, đoạt giải Nobel 1965 khi đã 60 tuổi, với 43 năm miệt mài sáng tác ; hoặc nhà văn Nam Phi John Maxwell Coetzee, đoạt giải Nobel khi đã 63 tuổi, sau 34 năm cầm bút...) Hành trình 32 năm ấy đã được ghi dấu với sự ra đời lần lượt của 8 tiểu thuyết, 1 tập tiểu luận, 1 tập hồi ký, cùng với hàng loạt giải thưởng danh giá trong và ngoài nước. Thành tựu đáng kể trên của nhà văn 59 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ không chỉ được tạo nên bởi những năm tháng lao động miệt mài trong căn phòng nhỏ hướng ra vịnh Bosphorus, bởi những đêm lang thang mơ mộng và suy tư dọc các con phố Istanbul, mà còn được tạo tiền đề bởi những yếu tố văn hóa – tôn giáo – sắc tộc… làm nên diện mạo riêng không thể nhầm lẫn của vùng đất có lịch sử lâu đời và đầy biến động này giữa toàn cảnh thế giới ngày nay. 1.1.1 Tiền đề văn hóa Là một đất nước rộng lớn với tổng diện tích 780.580 km² (xếp hạng 36 trên thế giới) với vị T 5 T 5 T 5 T 5 trí nối liền lục địa Âu - Á ( phần lãnh thổ chính tại bán đảo Anatolia phía Tây Nam châu Á, một T 5 T 5 T 5 T 5 phần nhỏ diện tích ở vùng Balkan phía Đông Nam châu Âu ) , trong suốt hàng nghìn năm, Thổ Nhĩ 5T 5T 5T T 5 T 5 T 5 Kỳ đã trở thành mục tiêu chiếm đoạt của bao cuộc chinh chiến, in dấu chân của các đoàn quân viễn chinh từ Đông sang Tây và ngược lại. Thành phố Istanbul – thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay – trong quá khứ vàng son của mình, đã từng là kinh đô của 3 đế quốc hùng mạnh : đế quốc La Mã (330 - 395), đế quốc Byzantine hậu thân của đế quốc La Mã – trung tâm của Ki-tô giáo (395 - 1453) và sau cùng là đế quốc Ottoman (1453 - 1922) – đế chế Hồi giáo quyền lực nhất trên thế giới từ đầu thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 20. Và đến năm 1923, cuộc chiến giành độc lập thắng lợi đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ thống trị của đế chế Ottoman, mở ra một thời kỳ đổi mới hoàn toàn cho đất nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Ataturk – vị tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Trải qua những năm tháng lịch sử đầy biến động đó, Thổ Nhĩ Kỳ đã lần lượt đón nhận những luồng gió mới từ cả hai nền văn hóa phương Tây và phương Đông, để rồi theo thời gian, một quốc gia đa văn hóa - nơi tụ họp của những nền văn minh lớn thế giới, nơi có sự kết hợp kỳ lạ giữa truyền thống và hiện đại… được hình thành.
  16. Nền văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ với những nét giao thoa độc đáo ấy biểu hiện ở mọi khía cạnh : từ khía cạnh tinh thần như ngôn ngữ, tư tưởng… đến khía cạnh vật chất như kiến trúc, trang phục… Nếu có một lần đến với Thổ Nhĩ Kỳ, chắc hẳn chúng ta sẽ có được những cảm nhận sâu sắc về nền văn hóa độc đáo, được hiện thân ở vẻ đẹp cổ kính của những công trình kiến trúc có lịch sử hình thành dưới thời đế chế La Mã, đế chế Ottoman : những cung điện mái vòm tráng lệ, những đền thờ Hồi giáo hùng vĩ vẫn đứng vững với mưa nắng, với thời gian. Tiêu biểu là thánh đường Hagia Sophia (tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “trí tuệ thần thánh”, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là Ayasofya ) - ngôi thánh đường lớn thứ 4 thế giới, lúc đầu do Hoàng đế Justinian thuộc triều đại Byzantine xây dựng năm 537 sau công nguyên, sau đó trở thành nhà thờ hồi giáo Ottoman, và nay trở thành bảo tàng lớn của TP. Istanbul. Qua nhiều biến đổi, kiến trúc của Hagia Sophia hiện nay là sự kết hợp tuyệt mỹ của những hình ảnh và hoa văn được trang trí bằng nghệ thuật Mosaic độc đáo (nghệ thuật ghép mảnh) trên tường và trần, cùng với những hàng tháp nhọn xung quanh. Một sự kết hợp hài hòa đến kỳ lạ giữa kiến trúc đặc trưng của nhà thờ Chính thống giáo La Mã và kiến trúc đặc trưng của đền thờ Hồi giáo. Có thể nói, đây chính là một bằng chứng thật sống động cho sự giao thoa văn hóa – tôn giáo đã diễn ra trong nhiều thế kỷ lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Một công trình kiến trúc vĩ đại khác nữa là đền thờ Hồi giáo Sultan Ahmed (The Blue Mosque) được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII, là đền thờ Hồi giáo đẹp và lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, và được xem là biểu tượng của thành phố Istanbul. Các tín đồ hành hương gọi Sultan Ahmed là “Đền thờ Xanh” (The Blue Mosque) vì các bức tường bên trong đền thờ được phủ gạch trang trí màu xanh mô phỏng các dòng suối và các khu vườn thực vật rực rỡ. Có hơn 20 ngàn viên gạch men được làm theo cách thủ công dùng để trang hoàng bên trong thánh đường, trên các viên gạch là hình ảnh của hàng vạn bông hoa đang khoe sắc. Thiết kế của nhà thờ Sultan Ahmed được xem là đỉnh cao của sự phát triển đền thờ Hồi giáo Ottoman. Nét đặc trưng của nền văn hóa độc đáo Thổ Nhĩ Kỳ còn tập trung ở vẻ đẹp thâm trầm, bí ẩn của thành phố Istanbul. Không chỉ là thành phố duy nhất trên thế giới trải dài giữa hai lục địa (Á và Âu), Istanbul còn là thành phố duy nhất đã từng là thủ đô của 3 đế chế hùng mạnh : La Mã, Byzantine và Ottoman. Với diện tích 153.877 km² và hơn 12.8 triệu dân, Istanbul hiện là thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời cũng là thành phố có nhiều đền thờ nhất trên thế giới với 450 công trình lớn nhỏ. Istanbul còn được nhớ đến với chiếc cầu treo Bosphorus (1973) dài 1074m nối liền 2 châu lục : châu Âu và châu Á. Vịnh Bosphorus với những dinh thự dọc bên bờ biển cũng là hình ảnh đã in dấu sâu sắc trong tâm hồn của nhà văn Orhan Pamuk từ những ngày ấu thơ, là nguồn cảm hứng lớn để rồi sau này, trong cuốn Istanbul – hồi ức và thành phố, ở chương 6, ông viết, trong niềm hoài cổ vấn vương một thời đại vàng son đã suy tàn : “Các yali - những dinh thự tuyệt vời bên
  17. bờ nước của những dòng họ lớn Ottoman trong thế kỷ mười tám và mười chín – chào mừng thế kỷ hai mươi cùng với niềm hân hoan tự hào của nền Cộng hòa và chủ nghĩa quốc gia Thổ như là những khuôn mẫu nói lên căn cước và kiến trúc Thổ - Ottoman. Nhưng các yali mà chúng ta nhìn thấy qua những bức hình trong “Những hồi ức Bosphorus”, được tái tạo trong những bức tranh của Melling, và phát ra tiếng vọng trong những yali của Sedad Hakki Eldem – những căn nhà lớn lao với các cửa sổ cao và hẹp, những rìa mái nhà rộng rãi, những cửa sổ nhìn ra vịnh, những ống khói hẹp, chúng đúng là cái bóng còn lại của một nền văn hóa đã bị hủy diệt.” [37, tr.80] Và, vượt lên tất cả, vẫn là một tình cảm gắn bó thiết thân giữa nhà văn và mảnh đất quê nhà : “với riêng tôi, có một chuyện chẳng hề thay đổi : chỗ mà Bosphorus chiếm ngự ở trong trái tim cộng đồng của chúng tôi. Như khi còn nhỏ, chúng tôi vẫn coi nó như là một sự đảm bảo cho sức khỏe tốt lành, một thứ linh dược khi lâm bệnh, một suối nguồn vô tận của điều tốt điều thiện, những gì gìn giữ thành phố và các cư dân của nó.” [37, tr.96], bởi với nhà văn : “Cho dù chuyện gì xảy ra, tôi luôn luôn có thể làm một cuộc đi dạo dọc theo Bosphorus.” [37, tr.96]. Thật vậy, những hiểu biết sâu sắc cùng tình yêu thâm trầm bền chặt dành cho Istanbul chính là lý do khiến Orhan Pamuk chọn nơi này là bối cảnh cho hầu hết các tiểu thuyết của mình. Bên cạnh đó, nét độc đáo thể hiện rõ sự giao thoa văn hóa, sự kết hợp truyền thống và hiện đại ở nơi này còn thể hiện ở khu đô thị với những tòa nhà chọc trời, những khu thương mại đồ sộ, sân bay quốc tế, tàu điện ngầm tối tân … cùng chia sẻ không gian với những con phố ngoằn ngoèo quanh co, những con đường mấp mô, những dãy nhà với kiến trúc bằng đá xưa cũ nhuộm một màu xám xịt u buồn ngay trước Quảng trường Taksim cổ kính; ở tấm khăn trùm đầu kín đáo của những phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi và trang phục quần jean – váy ngắn trên những hè phố tấp nập … Sự kết hợp lạ lùng nhưng thú vị ấy cũng là một trong những lý do khiến cho danh hiệu “Thủ đô văn hóa của Âu Châu” đã được trân trọng trao về cho Istanbul - năm 2010. 1.1.2 Tiền đề tôn giáo Hồi giáo (còn gọi là đạo Islam, nghĩa là “vâng mệnh, quy phục Thượng Đế”), là một tôn T 5 giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 7 tại bán đảo Ả Rập. 5T 5T T 5 5T T 5 Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, T 5 T 5 với số tín đồ hiện nay là 1,3 tỷ. [59] T 5 T 5 Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia Hồi giáo. Điều này phần nào được phản ánh qua biểu tượng trên lá quốc kỳ của Thổ. Biểu tượng này trùng hợp hoàn toàn với biểu tượng của Hồi giáo : vành trăng lưỡi liềm tượng trưng cho Âm lịch Hồi giáo (bắt đầu tính từ năm 622 sau Công Nguyên - năm Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo từ Mecca di cư về ốc đảo Medina), ngôi sao là biểu tượng cho
  18. sự tuân phục thánh ý Chúa, bởi kinh Koran có viết : “Thiên Chúa đã dựng nên các vì sao để hướng dẫn con người tới cùng đích” Hồi giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ đã sớm có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt trong đời sống con người Thổ. Tư tưởng thần bí, triết lý của đạo Hồi đã để lại dấu ấn đậm nét trong thơ ca dân gian Thổ (bắt đầu phát triển mạnh vào thế kỷ 13, với các nhà thơ nổi tiếng như Yunus Emre, Sultan Veled, và Seyyad Hamza), và trong những áng thơ ca Divan trác tuyệt thời đế chế Ottoman. Tiêu biểu là một câu thơ của Hayati Efendi - nhà thơ Divan thế kỷ 18 : “Bir gul mu var bu gulsen-i alemde harsız” T 4 (Có hoa hồng nào trong thế giới vườn hồng mà chẳng có gai?) Câu thơ sử dụng hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng : “thế giới” với nghĩa đen chỉ thế giới vật chất và nghĩa bóng chỉ thế giới tinh thần ; “vườn hồng” ám chỉ cùng lúc khu vườn văn chương và thiên đường ; “hoa hồng” ám chỉ người yêu, được xem như đang ở trong “vườn hồng”. T 5 5T Ở đây, hình ảnh hoa hồng - người yêu, có khả năng gây ra đau đớn với những chiếc gai của nó. Điều này cũng ngầm lý giải rằng thế giới có cả hai mặt : tích cực (là vườn hồng và do đó, thế giới cũng chứa đựng hạnh phúc giống như thiên đường) và tiêu cực (một vườn hồng đầy gai, và vì thế, thế giới cũng ẩn giấu nhiều đau khổ). Giáo luật của đạo Hồi (được ghi lại trong cuốn kinh Koran – thiên kinh duy nhất của Hồi giáo, gồm 6219 câu ) [59] còn tác động mạnh mẽ trong lối nghĩ, cách hành xử, nếp sống… của chính người dân Thổ. Đây cũng là nguồn cảm hứng để Orhan Pamuk viết cuốn tiểu thuyết nổi danh mang tựa đề Tên tôi là Đỏ. Lần theo những trang sách, cả một xã hội Hồi giáo thế kỷ 16 thu nhỏ hiện ra trước mắt người đọc, với triều đại của những vị quốc vương Hồi giáo, với khăn trùm đầu và mạng che mặt, với những giờ kinh cầu nguyện buổi trưa trong không khí trầm mặc và linh thiêng, với niềm tin tuyệt đối của con người vào Thượng Đế, vào thiên đàng lạc thú mai sau… Đi khắp đất nước Thổ, đâu đâu chúng ta cũng có thể trông thấy những dấu vết sống động của một nền văn hóa đậm chất tôn giáo hiển hiện rõ nét nơi những công trình kiến trúc huy hoàng của một thời kỳ lịch sử, nơi những cung điện, đền thờ… tráng lệ, làm nên sức thu hút mạnh mẽ của văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại. Cũng chính bởi ảnh hưởng của Hồi giáo đã trở thành một điều hiển nhiên khó có thể phân tách nơi con người và cuộc sống xã hội – chính trị Thổ trong một thời gian dài hàng ngàn năm như thế, mà từ năm 1923, khi Mustafa Kemal thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ với chủ trương tách rời tôn giáo và những tổ chức thần quyền ra khỏi hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa… , thì cũng là lúc bắt đầy nảy sinh những xung đột triền miên giữa nhà nước thế tục Thổ Nhĩ Kỳ và các tổ chức Hồi giáo.
  19. Không thể phủ nhận những cải cách mang tính tích cực mà Kemal đã tiến hành trên đất nước mình những năm đầu thế kỷ 20. Bắt đầu bằng việc La tinh hóa chữ viết Thổ, cho đến những thay đổi triệt để về giáo dục, văn hóa, xã hội…Ông là vị lãnh đạo đầu tiên thiết lập quyền bình đẳng nam nữ, trao cho người phụ nữ quyền bầu cử, nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ thế tục - dưới bàn tay lãnh đạo của Mustafa Kemal – đã trở nên hoàn toàn khác biệt với những quốc gia Hồi giáo khác ở khu vực Trung Đông như Ả rập Kuwait, Qatar, T 5 T 5 T 5 T 5 Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Oman, Yemen, Bahrain, Iraq …[96]. Từ một đế quốc suy T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 tàn, bị xâu xé bởi quân đồng minh trong chiến tranh thế giới thứ nhất, trở thành một quốc gia tân tiến ngày nay. Tuy nhiên, những mâu thuẫn, xung đột giữa nhà nước thế tục Thổ và các tổ chức Hồi giáo, như đã nói trên, ngày càng thêm trầm trọng bởi nhiều lý do. Năm 1980, lệnh cấm đội khăn trùm đầu ở trường Đại học được ban hành tại Thổ Nhĩ Kỳ đã gây nên làn sóng phẫn nộ nơi cộng đồng Hồi giáo, bởi lệnh cấm này đã tước mất cơ hội được học Đại học của nhiều nữ sinh Hồi giáo. Điều này đã khơi dậy những mâu thuẫn vốn có giữa những tổ chức Hồi giáo và nhà nước thế tục. Đây cũng là sự kiện đã được nhà văn Orhan Pamuk phản ánh trong cuốn tiểu thuyết thứ bảy của ông – cuốn Tuyết – sự kiện này được nhà văn mô tả như một nguyên nhân dẫn đến những vụ tự tử hàng loạt của các nữ sinh nhằm bảo vệ quyền được đội khăn trùm đầu, và trở nên hành động “châm ngòi” cho hành vi khủng bố của những tổ chức Hồi giáo cực đoan nhắm vào các tổ chức lãnh đạo thế tục. Trở lại vấn đề trên, năm 2008, trước khi Tổng thống Abdullah Guel phê chuẩn dự luật bãi bỏ lệnh cấm đội khăn trùm đầu đối với nữ sinh tại các trường Đại học vào ngày 9/2, ông đã “vấp” phải sự phản đối dữ dội của một bộ phận không nhỏ người dân Thổ thuộc đảng phái đối lập theo đường lối thế tục triệt để. Hơn 100.000 người đã đổ về quảng trường của thủ đô Ankara ngày 3/2/2008 để biểu tình phản đối dự luật này. [90] Bên cạnh đó, Đảng Nhân dân Cộng hòa Thổ ( đảng đối lập theo đường lối thế tục triệt để ) cũng đã có lời đe dọa rằng họ sẽ kiện lên Tòa án Hiến pháp vì cho rằng việc bỏ lệnh cấm đội khăn trùm đầu tại các trường đại học vi phạm nguyên tắc thế tục. Như vậy, có thể thấy rằng, tôn giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ là một vấn đề có ảnh hưởng nhiều mặt trong đời sống xã hội của đất nước này. Điều này chính là một thử thách lớn đối với những người cầm quyền, làm sao để đưa Thổ Nhĩ Kỳ khi bước vào thế kỷ 21 sẽ có thể đạt được sự hòa hợp, bình đẳng trong quyền lợi của những người thế tục và những tín đồ Hồi giáo. 1.1.3 Tiền đề sắc tộc và nhân quyền Không chỉ là một quốc gia đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển nhiều biến động, sở hữu một nền văn hóa đậm nét truyền thống lẫn hiện đại, kết tinh của nhiều nền văn
  20. minh lớn trên thế giới, Thổ Nhĩ Kỳ còn là một đất nước đang phải đối mặt với những “bài toán” nan giải có liên quan đến vấn đề sắc tộc và nhân quyền, từ những năm đầu của chế độ Cộng hòa thế tục do Mustafa Kemal thiết lập. Tại Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, ngoài sắc tộc chính là người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, các nhóm dân T 5 tộc thiểu số được đề cập tới trong văn bản Hiệp ước Lausanne (hiệp ước hình thành giữa Mustafa 5T T 5 T 5 Kemal và quân đồng minh sau đại chiến thế giới lần thứ nhất) bao gồm Armenia, Hamshenis, Levant, Ossetians, Pomaks và Roma (Roma là tên gọi người Gypsy). 5T T 5 T 5 5T 5T 5T 5T T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 Ngoài ra, còn một bộ phận dân cư thuộc những sắc tộc khác như Abkhazia, Albania, Ả T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 Rập, Bosna, Chechen, Circassia, Grizia, Kabard, Kurd, Laz và Zaza... 5T 5T T 5 T 5 5T 5T 5T 5T 5T 5T T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 T 5 Trong suốt tiến trình phát triển từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay, tại Thổ Nhĩ Kỳ đã luôn xảy ra những vấn đề phức tạp, có liên quan chủ yếu đến nhóm dân tộc thiểu số Armenia và tộc người Kurd. Vào thế kỷ 16, vùng đất người Kurd sinh sống đã sớm bị chia cắt bởi sự tranh giành kéo dài nhiều năm giữa đế quốc Ba Tư và đế quốc Ottoman. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết người Kurd sống ở tỉnh Kurdistan, thuộc lãnh thổ của đế quốc Ottoman. Sau khi đế quốc Ottoman sụp đổ, quân đồng minh đã thỏa thuận và lên kế hoạch chia lãnh thổ của đế quốc này thành vài nước. Theo Hiệp ước Sèvres được thiết lập khi đó : Kurdistan, cùng với Armenia, sẽ trở thành những nước độc lập. Song Hiệp ước này đã không thực hiện được. Một thời gian sau đó, Kurdistan bị quân đội do Mustafa Kemal lãnh đạo chiếm đóng, sự kiện này cùng những sức ép khác đã khiến quân đồng minh chấp nhận đàm phán lại. Hiệp ước Lausanne được thành lập, và biên giới của Thổ Nhĩ Kỳ được hình thành như hiện nay với vùng đất của người Kurd sinh sống nằm trong biên giới Thổ. Các vùng có người Kurd khác được giao cho Anh và Pháp kiểm soát để rồi trở thành các địa phương của Iraq và Syria theo một số hiệp ước. Từ đó, tộc người Kurd mặc nhiên trở thành một bộ phận dân cư thuộc quyền kiểm soát của Thổ Nhĩ Kỳ. Không thể phủ nhận rằng Mustafa Kemal – vị tổng thống đầu tiên của Thổi Nhĩ Kỳ đã có công lớn trong việc cải tổ chính trị, xã hội và văn hóa triệt để, đặt nền móng cho một đất nước tiến bộ theo mô hình Tây phương. Song chính công cuộc cải tổ này, với mục tiêu hàng đầu là xây dựng một đất nước Thổ Nhĩ Kỳ đồng nhất về chủng tộc, ngôn ngữ cũng như tôn giáo, với những biện pháp quyết liệt, thậm chí hung bạo, cưỡng bức, đã gặp phải sự kháng cự của các tổ chức Hồi giáo và dân tộc thiểu số, đặc biệt là Kurd và Armenia. Trong khi, theo CIA – The world factbook (một tổ chức cung cấp thông tin về lịch sử, con người, chính phủ, nền kinh tế, địa lý... và các vấn đề xuyên quốc gia) thì số người Kurd hiện sống ở Thổ Nhĩ Kỳ là 13 triệu (trong tổng số 26 triệu người Kurd định cư rải rác trên toàn thế giới), chiếm khoảng 20% dân số Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1924, lệnh cấm dùng tiếng Kurd của chính quyền Kemal ban hành đã khơi dậy làn sóng phẫn nộ, rồi biến thành
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1