intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trong kịch phi lý

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

148
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn tham khảo luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trong kịch phi lý sau đây để nắm bắt được những nội dung về kịch phi lý và bối cảnh Văn học phương Tây thế kỷ XX; nhân vật và hành động kịch phi lý; nhân vật trong kịch phi lý và ngôn ngữ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trong kịch phi lý

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- TRẦN THY NGỌC CHI NHÂN VẬT TRONG KỊCH PHI LÝ Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 602230 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đào Ngọc Chương Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kịch phi lý là một trong những trào lưu văn học nổi bật giữa thế kỷ XX, là hiện tượng văn học độc đáo của nhân loại. Dù chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn nhưng Kịch phi lý ảnh hưởng lớn đến đời sống sân khấu và cả tâm lí xã hội con người phương Tây những năm 50 của thế kỷ XX. Bằng những nỗ lực, cống hiến đầy sáng tạo, các tác giả Kịch phi lý đã thực sự đem lại niềm thích thú cho khán giả khi đối diện với sân khấu phi lý - sân khấu cuộc đời. Trong văn học, Kịch phi lý luôn hướng đến sự tìm tòi mới lạ, phản ánh những vấn đề về đời sống con người. Kịch phi lý ra đời trên tinh thần phá vỡ những quy tắc kịch truyền thống và dần xác lập hệ tiêu chí mới cho thể loại, đặc biệt là vấn đề nhân vật. Những đóng góp về nghệ thuật của Kịch phi lý đã vượt khỏi phạm vi quốc gia Pháp thế kỷ XX. Những vấn đề về con người và thời đại được phản ánh trong Kịch phi lý mang đậm tính nhân loại và đã trở thành triết lý nhân sinh vĩnh cửu. Giải thưởng Nobel văn chương dành cho là Samuel Beckett và các giải thưởng khác mà E. Ionesco được trao tặng là một xác tín. Kịch phi lý với những biến đổi nhất định về một số phương diện lý luận (trong đó có nhân vật) đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình. Từ trước đến nay, giới nghiên cứu đã khai thác nhiều khía cạnh của Kịch phi lý. Bằng những biểu hiện và đánh giá khác nhau, thế giới đã khẳng định sự đóng góp của Kịch phi lý đối với lịch sử phát triển kịch nghệ nói chung và sân khấu Pháp nói riêng. Nhân vật là một trong những vấn đề trọng tâm có tính cốt lõi của hoạt động sáng tạo và cảm thụ văn học. Vì thế, nghiên cứu Kịch phi lý, chúng tôi thiết nghĩ tiếp cận vấn đề từ phương diện nhân vật cũng là điều nên làm. Hơn nữa, ở Việt Nam, đối với học sinh phổ thông khi tiếp nhận tác phẩm văn học thì kỹ năng phân tích nhân vật luôn được xem là yêu cầu bắt buộc, nhưng trong thực tế, chương trình giáo dục nước ta vẫn chưa quan tâm đúng mức đến thể loại kịch, thời lượng dành cho việc học và dạy kịch ở trường phổ thông, cao đẳng và cả đại học chuyên ngành vẫn còn hạn chế.
  3. Ngoài ra, nghiên cứu kịch, nhất là phân tích nhân vật kịch còn giúp cho chúng ta cảm nhận được giá trị của vở diễn, giá trị của con người trong đời sống sân khấu và đời sống thực tại. Một cách nào đó, đó là kiểu con người thời đại. Chính vì vậy, việc chúng tôi nghiên cứu đề tài “Nhân vật trong Kịch phi lý” mang một ý nghĩ thiết thực, cho phép chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về sân khấu, đời sống sân khấu nói chung và cả cuộc đời. Những gì luận văn của chúng tôi đạt được sẽ góp thêm một tiếng nói, một cách nhìn về việc nghiên cứu và giảng dạy Kịch phi lý, chí ít là ở Việt Nam hiện nay. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi không đi sâu vào mọi vấn đề của Kịch phi lý mà chỉ dừng lại khảo sát nhân vật trong Kịch phi lý ở hai phương diện hành động và ngôn ngữ. Và chúng tôi đặt chúng trong mối quan hệ so sánh, đối chiếu với kịch truyền thống. Vì thế, chúng tôi chỉ tập trung vào những tác phẩm thuộc giai đoạn đỉnh cao của Kịch phi lý là: Nữ ca sĩ hói đầu (La Cantatrice chauve), Những chiếc ghế (Les chaises), Trong khi chờ Godot (En attendant Godot) của hai tác gia tiêu biểu Samuel Beckett và Eugène Ionesco. Nghĩa là, chúng tôi giới hạn đề tài, không xem xét hai phương diện trên của nhân vật Kịch phi lý trong tiến trình nảy sinh, vận động, đỉnh cao và suy tàn. 3. Lịch sử vấn đề Từ sau khi đạo diễn Nicolas Bataille quyết định dựng vở Tiếng Anh không hài hước của E. Ionesco, sau đó vở Nữ ca sĩ hói đầu được đem ra diễn lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1950 tại rạp Noctambules ở Paris, rồi lần lượt đến các vở Bài học (La Lecon) (1951), Những chiếc ghế (1952), Các nạn nhân của nghĩa vụ (Victimes du devoir) (1953)…, kịch của E.Ionesco bắt đầu gây nên dư luận, giới nghiên cứu để ý đến của những sáng tác của E.Ionesco. Và nhất là khi vở Trong khi chờ Godot của S.Beckett được công diễn thì các nhà nghiên cứu phê bình về sân khấu Pháp trên thế giới đã thực sự quan tâm nhiều đến trào lưu Kịch phi lý. Cho đến nay, rất khó thống kê chính xác được số lượng công trình nghiên cứu Kịch phi lý trên thế giới, nhất là ở Châu Âu.
  4. Ngay tại Việt Nam, từ thập niên 60 của thế kỷ trước, giới dịch thuật đã hưởng ứng mạnh mẽ phong trào dịch Kịch phi lý. Nhiều vở kịch của E.Ionesco, S.Beckett, Arthur Adamov được dịch ra tiếng Việt, phổ biến trên các tạp chí như tạp chí Văn Khoa, tạp chí Đại Học, tạp chí Bách Khoa… Ngoài ra, còn có một số công trình khác (bao gồm các giáo trình, luận án, luận văn chuyên ngành) trong các trường đại học và cao đẳng; các công trình nghiên cứu in riêng; các tiểu luận, các bài viết, khảo luận và các bài giới thiệu đăng trên các tạp chí, báo và sách in dịch tác phẩm của Kịch phi lý, quan tâm đến trào lưu kịch mới lạ này xuất hiện hơn nửa thế kỷ qua. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi công nghệ thông tin phát triển, các trang báo điện tử và một số Website có đăng tải nhiều thông tin lí thú về các tác giả Kịch phi lý bên cạnh những phân tích, đánh giá của giới phê bình chuyên môn về nghệ thuật xây dựng nhân vật Kịch phi lý. Tất nhiên, ở một vài phương diện nhất định, ý kiến của các nhà nghiên cứu có đôi chỗ gặp gỡ nhưng ở đây, chúng tôi không đặt ra cho mình nhiệm vụ lí giải hiện tượng trên mà chỉ tổng thuật các ý kiến thật sự có liên quan. Tiếp cận Kịch phi lý từ phương diện nhân vật, chúng tôi chọn lọc tổng thuật một số ý kiến của các công trình nghiên cứu có giá trị trong và ngoài nước. Vì thế, trong mục này, chúng tôi trình bày ý kiến của người đi trước theo hai hướng cơ bản là dịch tác phẩm Kịch phi lý và những đánh giá khác theo trình tự thời gian . Trong những thập niên 60 – 80 của thế kỷ XX, giới dịch thuật đã quan tâm đến Kịch phi lý và dịch những phát biểu cũng như tác phẩm của các tác giả sang tiếng Việt, để làm nguồn tư liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên Văn Khoa. Chính vì thế, ở những công trình này, rất ít dịch giả kèm theo lời giới thiệu hay nhận xét về nội dung, nghệ thuật của Kịch phi lý. Một trong những dịch giả Việt Nam đầu tiên tiếp xúc với Kịch phi lý là Trần Thiện Đạo. Năm 1960, ông đã dịch bài phát biểu “Số phận của một tác phẩm” của Eugène Ionesco trên tạp chí Văn số 30. Cũng trong tạp chí này, Trần Thiện Đạo dịch vở kịch ngắn Chỗ khuyết của E. Ionesco. “Số phận của một tác phẩm” là những suy nghĩ của chính E. Ionesco về vở Nữ ca sĩ hói đầu. E. Ionesco kể lại hành trình vở kịch đến với sân khấu và khán giả, nhất là khi nhà
  5. phê bình Jean Pouillon cho đăng bài phê bình trên tạp chí Thời Mới (Les Temp Modernes), phát hiện được triết lý của tác giả vở kịch: Tính chất dị thường, kỳ quặc, sự bỡ ngỡ của con người trước hiện sinh của mình, cuộc sống hàng ngày trở thành không hiểu được nữa, cuộc sống hằng ngày bị các sáo ngữ và các việc làm tự động chi phối hư hỏng tinh thần [29, tr.86]. Năm 1963, Elivira Trương Bửu Lâm có bài viết “Kịch gia Ionesco – vài lời giới thiệu” đăng trên tạp chí Đại Học số 32, nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật sân khấu của Ionesco: Những nhân vật mà Ionesco đặt lên sân khấu không phải là những người mà khán giả phải lấy làm gương để theo hay để chừa. Những nhân vật ấy, tuy vẫn đội lốt người như mỗi người trong chúng ta, tuy vẫn đi đứng trong khung cảnh chật hẹp của đời người, đều vượt một cách hết sức tự nhiên khỏi tất cả những tiêu chuẩn luân lý mà ta luôn áp dụng hằng ngày [40, tr.67]. Theo Elivira Trương Bửu Lâm, Ionesco đã xây dựng những nhân vật “đội lốt người” chứ không phải là con người thực trong cuộc sống, vì thế, nó hoàn toàn không có biểu hiện của đạo đức, không thể xác định là người tốt hay kẻ xấu nên khán giả không có cơ sở để lấy nhân vật làm gương để theo hay để chừa. Đến năm 1966, Nguyễn Kim Phượng tiếp tục công việc của Trần Thiện Đạo, đem đến cho độc giả Việt Nam bản dịch vở Lên cao của E. Ionesco đăng trên tạp chí Bách Khoa số 219. Nhìn chung, trong thập niên 60 của thế kỷ trước, giới nghiên cứu trong nước đã đưa ra cái nhìn chung về Kịch phi lý. Và ở một vài công trình có uy tín, tác giả có nhận định về ngôn ngữ và hành động của nhân vật nhưng chỉ là những ý kiến đơn lẻ chưa có sự nhất quán. Các ý kiến bổ sung cho nhau trong việc phác họa những nét cơ bản của nhân vật Kịch phi lý: những sinh thể xa lạ, những nhân vật bị san bằng cá tính trở nên hời hợt như những con rối. Đó là những hình ảnh hơn là hình tượng vì nhân vật trong Kịch phi lý chỉ có cử động mà không hành động theo đúng ý nghĩa hành động của nhân vật kịch. Sau đó, I.X. Cu-li-co-va trong bài báo “Tính chất phản nhân đạo của nghệ thuật phi lý” đăng trên website http://chimviet.free.fr (trích dịch từ quyển Mỹ học tư bản ngày nay, do
  6. M. X-ốp-Xi-an-nhi-cốp và I.X. Cu-li-co-va chủ biên, nhà xuất bản Khoa học, Matxcơva, 1970) đã chú ý đến tính chất mơ hồ của nhân vật bị san bằng cá tính trong Kịch phi lý: Tính chất mơ hồ, tính chất không định hình của các hình tượng dẫn tới sự hời hợt và sự san bằng của cá tính các nhân vật trong các vở kịch của sân khấu phi lý, đem lại cho chúng ta tính chất con rối [13]. I.X. Cu-li-co-va cho rằng, nhân vật của nghệ thuật phi lý bị ám ảnh bởi cái chết. Tác giả viết: Nhân vật nào của nghệ thuật phi lý không sống dưới nỗi sợ hãi trực tiếp về cái chết liền ngay đó – sự giết người hoặc tự tử thì không cảm giác được sự đầy đủ và đánh giá của cuộc sống, các nhân vật ấy đang chết khi đang sống trong sâu khấu [13]. I.X. Cu-li-co-va đã chỉ ra môi trường hoạt động của nhân vật luôn bị cô lập với hoàn cảnh xung quanh nên chúng bị khiếm khuyết về thân thể và hoàn toàn là con người không có khả năng tư duy: y bị mù, bị bán thân bất bại và bị gắn chặt vào chiếc ghế dành cho người tàn phế. Chính vì thế, theo IX.Cu-li-co-va nhận xét thì, các nhân vật của nghệ thuật phi lý hiện ra như những sinh thể xa lạ mọi cái xung quanh và gần gũi với mình như những sinh thể đã mất đi bất kỳ sự gắn bó nào, mất hết mục đích tồn tại, như những sinh thể đã mất hết những viễn tưởng [13]. Bước sang thập kỷ 90, giới dịch giả và phê bình nghiên cứu văn học trên thế giới và trong nước quay trở lại với Kịch phi lý bằng nhiều bài báo, ấn phẩm có giá trị, trình bày những ý kiến khác nhau: Trong công trình tập thể Văn học phương Tây, nhà xuất bản Giáo Dục 1997, khi tiếp xúc vở Trong khi chờ Godot, Đặng Anh Đào đã chỉ ra những biểu hiện “cá tính bị san bằng” cụ thể của nhân vật Kịch phi lý (Estragon – Vladimir): Mỗi nhân vật có cử động, nhưng không hành động thực sự theo ý nghĩa của kịch. Bởi lẽ đối thoại rời rạc, giống như “đối thoại của những người điếc”, còn nhân vật vừa nhúc nhắt chân tay xong lại đứng đợi, đúng như cái tên của vở kịch Trong khi chờ Godot [67, tr.782]. Người viết cho rằng, dẫu nhân vật của Beckett có sắc thái phi cá thể, thoạt tiên có vẻ khó phân biệt nhưng “ta vẫn thấy họ mang những nét khác nhau” [67,tr.786]. Tiếc rằng, nhà
  7. nghiên cứu chỉ gợi vấn đề mà chưa chứng minh sự khác nhau giữa hai nhân vật Estragon – Vladimir. Cũng trong công trình trên, nhận xét của Phùng Văn Tửu về nhân vật trong Nữ ca sĩ hói đầu có sự gặp gỡ với Đặng Anh Đào và các nhà nghiên cứu đi trước ở chỗ: nhìn thấy nhân vật trong Kịch phi lý không có cá tính. Phùng Văn Tửu cho rằng: Con người phi lý trong Nữ ca sĩ hói đầu còn được khắc họa ở khía cạnh tha hóa hiểu theo nghĩa đánh mất bản thân, không còn là cá nhân mình mà thành cái gì khác, xa lạ. Con người trở nên xa lạ với nhau; mỗi cá nhân là một thực thể khép kín, tách biệt với người khác [67, tr.823]. Rõ ràng, Đặng Anh Đào và Phùng Văn Tửu đều nhận xét về nhân vật Kịch phi lý không mới so với những nhà nghiên cứu đi trước. Hai nhà nghiên cứu này đã bắt đầu từ ý kiến của người đi trước để xem xét từng tác phẩm cụ thể, chỉ ra những biểu hiện của nhân vật “bị san bằng cá tính”. Bằng cách này hay cách khác, họ đã lý giải được sự “tách biệt” của nhân vật Kịch phi lý là do nhân vật cô lập với hoàn cảnh xung quanh và quá trình giao tiếp của chúng bị gián đoạn mà có lẽ nguyên nhân chính là do chúng có cách “đối thoại của những người điếc”. Trong chuyên luận Văn học phi lý đăng trong tạp chí Văn học nước ngoài năm 1997, Vũ Đình Phòng đã phân tích nhân vật Kịch phi lý: Các nhân vật của Kịch phi lý hoàn toàn sống theo hoàn cảnh trước mắt và những giấc mơ tại chỗ. Họ liên tiếp biến hóa theo từng hoàn cảnh, do đó, họ luôn bị điếc, câm, hoặc ngược lại, họ bật lên một thanh âm hay vung lên một cử chỉ, động tác nào đó. Nếu được đẩy thêm chút ít, họ sẽ trở thành những kẻ bị ma ám, hoặc sống trong mộng. Họ giống như người mộng du … Nhân vật ở đây làm trung tâm cho cả một hệ thống những đối lập, chúng nhấn chìm họ…[51, tr.8]. Bất cứ sự so sánh nào cũng khập khiễng nhưng xét ở phương diện nào đó, chúng ta thấy cách đánh giá của Vũ Đình Phòng tương tự như Đặng Anh Đào và Phùng Văn Tửu. TheoVũ Đình Phòng, nhân vật Kịch phi lý sống với hoàn cảnh trước mắt, họ sống như đang mơ. Họ là những con người bị câm, bị điếc, không có tính cách, hành động của nhân vật kịch thực thụ.
  8. Như vậy, càng về sau, giới nghiên cứu phê bình không còn đưa ra những nhận xét sơ lược về trào lưu Kịch phi lý nữa mà họ đã chủ động đi sâu vào từng tác giả, tác phẩm cụ thể. Năm 1998, Nguyễn Văn Dân đặc biệt chú ý đến yếu tố phi lý của Kịch phi lý ở bài viết “Kafka với cuộc chiến chống phi lý” in trong công trình Nghiên cứu văn học lí luận và ứng dụng. Người viết đánh giá Kịch phi lý trên cơ sở liên hệ với tiểu thuyết của Milan Kafka. Theo ông, Kịch phi lý đã phát triển nghệ thuật biểu đạt cái phi lý của Kafka thành thủ pháp phi lý, là công cụ nghệ thuật mô tả đối tượng nhận thức nghệ thuật. Và Nguyễn Văn Dân cũng chỉ rõ, Kịch phi lý đã kế thừa nghệ thuật biểu đạt cái phi lý của Kafka một cách sáng tạo vì so với Kafka, nhân vật của Kịch phi lý gợi cho khán giả sự bi hài hơn là bi kịch đau đớn mà các nhân vật của Kafka phải gánh chịu (bác nông dân trước cửa pháp luật trong tác phẩm Trước cửa pháp luật): Chỉ có khác với Kafka là trong cái phi lý của ông mang tính bi kịch đau đớn thì cái phi lý của Kịch phi lý được biểu đạt dưới góc độ bi hài. Ý nghĩa cách tân của Kịch phi lý chính là ở góc độ biểu đạt này, nó chọn đúng thủ pháp biểu đạt sao cho phù hợp với thể loại sáng tác, với bối cảnh thời đại với đối tượng sáng tác và vì thế, nó đạt được những hiệu ứng nghệ thuật rất cao. Ngoài ra, Kịch phi lý chỉ lấy cái phi lý của Kafka làm điểm xuất phát chứ không lặp lại nguyên xi, nó đã đóng góp cho nghệ thuật viết kịch những yếu tố đặc trưng cho kịch, và một trong những yếu tố làm cho nó khác với Kafka là nó đưa cái nghịch dị (tiếng Pháp: Le grotesque) vào kịch và phát triển nó thành nhân vật chính [15, tr.226]. Như vậy, Nguyễn Văn Dân đã khẳng định sự cách tân của nghệ thuật Kịch phi lý là tuy nó xuất phát từ cái phi lý của Kafka nhưng Kịch phi lý đi xa hơn Kafka khi đẩy cái phi lý trở thành thủ pháp nghệ thuật và đã tạo nên nét riêng. Vẫn đi theo hướng đó, năm 1999, trong bài viết “Con người bé bỏng, con người phi lý không nhận ra thân phận của mình: Kịch phi lý ở Ogien Ionesco” Hoàng Trinh đã nhận định về hình ảnh con người trong Kịch phi lý luôn đói và khát. Đói và khát là một trong số những biểu hiện của nhân vật khiếm khuyết. Con người rất đói, rất khát (như trong Kinh Thánh đã nói) con người hay thèm đủ thứ … Nhưng cuối cùng nó vẫn bị cầm tù trong ảo tưởng và bất lực, nó là nạn nhân của chính bản thân nó.
  9. Bởi vì nó có nhiều tham vọng quá cao so với sức lực và thực tại; nó sinh ra là phải chết nhưng nó vẫn cứ ham sống [63, tr.86]. Năm 2002, Nguyễn Văn Dân trở lại với vấn đề Kịch phi lý bằng ấn phẩm Văn học phi lý dày 354 trang, nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây. Trong công trình này, phần đầu Nguyễn Văn Dân viết khảo luận về Kịch phi lý với hơn 100 trang khổ 14,5 x 20,5 (từ trang 13 đến trang 120) gồm 4 chương: Chương 1: Tư tưởng về cái phi lý qua các thời đại (13 - 28); Chương 2: Những bước tiến hóa của văn học phi lý (29 - 66); Chương 3: Những đóng góp của văn học phi lý cho lịch sử văn học nhân loại (67 - 99); Chương 4: Văn học phi lý – Một sự khủng hoảng mang tính sáng tạo(100-120). Đáng chú ý trong công trình này là chương 2 và chương 3. Trong phần khảo luận về văn học phi lý, ở mục 3 chương 2 “Kịch phi lý – cơn kịch phát của văn học phi lý”, Nguyễn Văn Dân đưa ra nhận xét có tính chất kết luận về một số vở kịch tiêu biểu của trào lưu Kịch phi lý như sau: Đây là vở kịch điển hình cho việc diễn đạt sự phá hủy ngôn ngữ. Tác giả này cho rằng sự không ăn nhập của đầu đề với nội dung vở kịch là biểu hiện đầu tiên của thủ pháp phi lý. Vở kịch được xây dựng trên sự gợi ý của cuốn sách dạy tiếng nước ngoài, lấy mục đích phá hủy ngôn ngữ để diễn đạt cái phi lý của trạng thái mất khả năng giao tiếp giữa con người với nhau, của trạng thái cô đơn, tha hóa của con người [16,tr.57-58] (Nói về vở Nữ ca sĩ hói đầu – E. Ionesco). Trong vở Trong khi chờ Godot (S.Beckett), Nguyễn Văn Dân xem “sự chờ đợi giống như một nhân vật vô hình” [16, tr.60]. Còn Những chiếc ghế điển hình cho sự diễn đạt hiện tượng vật thể hóa, cho tâm trạng trống rỗng và bất lực của con người. Mỗi cái ghế là đại diện cho một nhân vật …Vở Những con tê giác điển hình cho sự mô tả một thế giới thú vật hóa, cũng là một dị bản cho hiện tượng vật thể hóa [16, tr.57-58]. Cũng trong phần khảo luận này, tác giả đã đánh giá về Kịch phi lý : Theo chúng tôi, bằng cách tiếp thu di sản văn học phi lý của Kafka và Camus, Kịch phi lý gần như không còn gì phải bổ sung thêm cho tư tưởng về cái phi lý nữa mà nó chỉ đi tìm các thủ pháp nghệ thuật mới để tiếp cận cái phi lý [16, tr.63].
  10. Từ những nhận xét, đánh giá như trên, Nguyễn Văn Dân đã nêu ra một vài điểm đổi mới của sân khấu phi lý trong việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật mới: Nhưng Kịch phi lý hay “phản kịch”, trong khi chống lại những quy ước của sân khấu truyền thống, thì đến lượt nó, nó lại đặt ra cho mình những quy ước mới. Với những quy ước đó, Kịch phi lý muốn trở thành sân khấu thuần túy. Trong cái sân khấu thuần túy này không có các khung cảnh lịch sử xã hội cụ thể, không có bất cứ một đặc điểm nào của hành động, không có các đặc trưng của nhân vật, không có những sự biện minh cho hành động. Thay vào đó, chúng ta thấy xuất hiện những tình huống khuôn mẫu, những nhân vật mang tính giản lược, những mô hình hành động đơn giản [16, tr.65]. Điều thú vị là ở mục 2 chương 3, Nguyễn Văn Dân đi ngược lại ý kiến của I. X. Cu-li- cô-va (Nga) khi cho rằng: Văn học phi lý (có Kịch phi lý) đóng góp về tư tưởng đạo lý – nhân văn. Kịch phi lý phá hủy logic biểu đạt ngôn ngữ thông thường và việc cái phi lý được diễn đạt bằng chính thủ pháp phi lý đã làm cho Kịch phi lý có một vị trí độc đáo trong lịch sử sân khấu [16, tr.97-98]. Như vậy, chúng ta thấy những nhận xét về nhân vật Kịch phi lý của các nhà nghiên cứu phê bình trong nước có sự liên quan nhất định với nhau. Mỗi tác giả phân tích một tác phẩm nhưng tất cả đều hướng đến việc chỉ ra những nét khiếm khuyết cụ thể của nhân vật. Vì khiếm khuyết nên nhân vật bị phá hủy, không còn mang những đặc điểm của nhân vật kịch truyền thống, nhân vật Kịch phi lý không có cá tính, không có đời sống tâm lý rõ ràng. Ngoài ra, trong những thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, giới nghiên cứu trên thế giới cũng quan tâm đến Kịch phi lý, nhất là Patrick Brunel, Michel Corvin, C. đờ Ly - nhi & M.Ru-xơ-lô. Năm 1997, trong công trình Văn học Pháp thế kỷ XX, nhà xuất bản Thế Giới, Patrick Brunel nhận định về nhân vật trong kịch Ionesco: Như mọi tác phẩm quan trọng hàng đầu, tác phẩm của Ionesco khuấy động những chất vấn cơ bản của con người mà hình ảnh bi thảm của thân phận y được tác phẩm ấy hồi âm cho y. Các nhân vật chính của ông sững sờ khám phá một thế giới mà các dữ liệu và nguyên tắc họ không hiểu được [7, tr.344].
  11. Patrick Brunel phát hiện nhân vật trong kịch Ionesco đã chạm đến các vấn đề cơ bản của cuộc sống. Họ chạm đến thế giới phi lý với những dữ liệu và nguyên tắc mà con người tại thời điểm ấy không có khả năng nhận thức. Con người xa lạ và sợ hãi trước thế giới ấy, chúng chỉ là những hình ảnh bi thảm, những con người yếm thế. C.đờ Ly-nhi & M.Ru-xơ-lô chú ý đến yếu tố bất lực, không có trí nhớ của các nhân vật trong Kịch phi lý. Trong công trình Văn học Pháp, nhà xuất bản Giáo dục, năm 1999, tác giả viết: Trong kịch của Beckett, các nhân vật không có vai để đóng. Họ buộc phải chờ đợi một cách vô vọng rằng một cái gì đó sẽ đến làm gián đoạn cuộc đời khốn khổ của họ và lấp đầy thời gian diễn bằng sự khơi gợi cụ thể tạm thời, phi lý những việc làm và cử chỉ hằng ngày [45,tr.136]. Viết về Kịch phi lý, đáng chú ý nhất là công trình Sân khấu mới ở Pháp của Michel Corvin, nhà xuất bản Thế Giới, năm 2004, do Đình Quang và Nguyễn Trọng Bình dịch. Theo lời giới thiệu của tác giả, cuốn Sân khấu mới ở Pháp này trình bày một trào lưu sáng tác và trình diễn kịch ở Pháp những năm 60 của thế kỷ XX, với các tên tuổi tiền phong Beckett, Genett, Adamov, Ionesco… Trào lưu này có những cách tân diễn, nghệ thuật biên kịch, hình thức, ngôn ngữ thể hiện, sáng tạo của đạo diễn, diễn viên, cách trang trí trên sân khấu và ngay cả công chúng nữa [12]. Ở từng chương mục cụ thể, M. Corvin đã minh họa bằng những ví dụ cụ thể (trong đó đề cập đến Kịch phi lý của S.Beckett, E.Ionesco, A.Adamov): Tất cả các nhân vật của Bóng bàn đều được sinh ra và tha hóa bởi cái máy này, ngay khi họ có vẻ cách xa nó, khi họ yêu hoặc đau khổ, họ làm điều đó là do bị nó điều khiển, họ không thể thoát ra khỏi ngôn ngữ và chuyện thần thoại của nó; họ bị nó quy định. Con người càng tiêu biến đi khi đồ vật càng lấn lướt từ nội tâm anh ta [12, tr.24]. Thái độ của nhân vật không phải là sự cam chịu trước cái chết, mà cũng không phải là mối lo sợ, mà là thái độ của sự chinh phục khó khăn một quy chế của cái chết. Càng chết (do sự mất dần các tri giác, chẳng hạn) thì người ta càng sống,
  12. nghĩa là người ta tới gần hơn định nghĩa thực của cuộc sống vì chỉ cái hư vô mới là cái duy nhất có ý nghĩa [12, tr.80]. Qua những phân trích ở trên, chúng ta thấy sự gặp gỡ của giới phê bình nghệ thuật trong việc nhận xét nhân vật Kịch phi lí là điều khá phổ biến. Cả ba nhà nghiên cứu nước ngoài đều quan tâm đến đặc điểm của nhân vật Kịch phi lý: những con người bi thảm, xa lạ và có nguy cơ bị đồ vật hóa. Về phương diện ngôn ngữ, mỗi tác giả có một cách gọi tên ngôn ngữ của nhân vật Kịch phi lý riêng nhưng nhìn chung, đều cố gắng chỉ rõ đặc điểm “phá hủy ngôn ngữ” của nhân vật. Trong tạp chí Văn học nước ngoài số 3, năm 1997, Vũ Đình Phòng đã trình bày một số đặc điểm của Kịch phi lý như bối cảnh, phá hủy ngôn ngữ, quang cảnh một thế giới sắp đến ngày tận thế, phá hủy nhân vật, phá hủy cốt truyện, trả kịch về cho sân khấu, cũng lại là một ảo tưởng, ý nghĩa to lớn của Kịch phi lý. Qua đó, tác giả đã nhận xét về những điểm nổi bật của Kịch phi lý. Khi cho rằng Kịch phi lý phá hủy ngôn ngữ, Vũ Đình Phòng chỉ ra những biểu hiện khác nhau của ngôn ngữ ở kịch của Ionesco, Adamov và Beckett: Trước hết, các tác gia Kịch phi lý phá hủy ngôn ngữ. E. Ionesco đem ngôn ngữ ra làm trò cười đồng thời lên án nó. Một mặt ông khai thác mọi khả năng của từ, đồng thời vạch ra sự khủng hoảng của tư duy khiến ngôn ngữ mất chức năng giao tiếp, chỉ còn là những ký hiệu âm thanh. Adamov nói các nhân vật của ông không ai nghe hiểu câu nói của ai… Các tác giả Kịch phi lý rất hay sử dụng những tiếng ọ ẹ , những câu nói líu lưỡi, những âm thanh phát ra từ cổ họng, những tiết tấu âm thanh, những từ không rõ nghĩa, những phút “im lặng”. Beckett nói kịch của tôi là sự nối tiếp những âm thanh cơ bản được lấp đầy thời gian càng nhiều càng tốt. Tất cả nhân vật của họ không còn là những “tính cách” theo nghĩa xưa nay mà là “dụng cụ” chuyển động như những cổ máy, lúc nhanh, lúc chậm, nhiều lúc nhân vật là đồ vật [51, tr.8].
  13. Theo Vũ Đình Phòng, hiện tượng phá hủy ngôn ngữ của Kịch phi lý được thể hiện bằng việc lấy ngôn ngữ ra làm trò cười, sử dụng ngôn ngữ không gắn với chức năng. Ngôn ngữ chỉ thuần túy là những thanh âm cơ bản. Trong công trình tập thể Văn học phương Tây, Phùng Văn Tửu nhận xét : Để cho nhân vật nói năng ngớ ngẩn hình như chưa đủ đối với Ionesco. Ông thấy cần phải phá huỷ ngôn ngữ, làm sụp đổ hoàn toàn cái phương tiện giao tiếp ấy giữa người với người… Tấn hề kịch về ngôn ngữ cũng là tấn bi kịch về ngôn ngữ. Cái ngược đời là dù sao tác giả vẫn phải sử dụng đến ngôn ngữ và “yêu” ngôn ngữ đến mức nào đấy mới có thể vận dụng một cách tài hoa để viết nên các vở kịch của ông! [67, tr.823]. Theo Phùng Văn Tửu, Ionesco đã phá hủy ngôn ngữ nhân vật bằng cách để cho nhân vật nói năng ngớ ngẩn, không thể lý giải được ý nghĩa lời nói của nhân vật. Trong công trình Sân khấu mới ở Pháp, Michel Corvin đã chỉ ra những nét nổi bật của “sân khấu tiền phong” và các hình thức khác nhau của sân khấu mới, tác giả đi sâu vào nghệ thuật biên kịch mới ở “sân khấu của sự cười nhạo” cũng như “sân khấu hiện thực và chính trị” ở phần thứ nhất của công trình. Trong phần thứ hai, ông phân tích mối quan hệ giữa sân khấu và tác giả: Nếu có một tác phẩm mang nhãn “sân khấu của điều phi lý” đã đưa ra hình ảnh méo mó và đơn giản hóa quá mức nhất, thì đó chính là tác phẩm của Beckett. Các nhân vật của ông hao tâm tổn sức để chuộc cái “tội đã sinh ra đời” và kiên trì tiến hành cuộc truy cứu luôn luôn bị những ảo ảnh của cuộc đời ngăn trở tính thực tại của hư vô. Tất cả cái gì chứng tỏ cuộc sống và hạnh phúc (một con bọ chét, một đứa trẻ) đều mang dấu hiệu của sự thất bại và cái chết, đều kêu gọi cái chết [12, tr.79]. Ở mục IV, chương I “Sân khấu và thể văn đùa nhại”, M. Corvin nhận ra: Cứ mỗi khi nhân vật sắp hòa vào ngôn ngữ của mình thì sự cười nhạo và bước chuyển mạnh đột ngột từ một cấp độ ngôn ngữ này sang một cấp độ ngôn ngữ khác cắt đứt ngay sự muốn ra vẻ nghiêm trang [12,tr.23- 24]. Trong chương III, phần Một, M. Corvin nhận xét về ngôn ngữ sân khấu của Ionesco:
  14. Ngôn ngữ là sáo ngữ của mọi quan hệ giữa người với người, và là nạn nhân đã được ấn định của cuộc tấn công chống lại những chủ nghĩa công hữu. Nó là dấu hiệu của mọi sự tước quyền trở thành một đối tượng của sân khấu – gần như một nhân vật đưa nó ra biểu diễn [12,tr.70]. Ngôn ngữ của Ionesco là ngôn ngữ của một thi sĩ, ít phá hủy từ ngữ thông dụng hơn là sáng tạo ra mạng lưới hình ảnh ám ảnh của chính ông rất nhiều, cái hài của Ionesco là bộ mặt nhăn nhó của một tình cảm bi thảm của sự tồn tại; triết lí của Ionesco là triết lí của người đầu tiên, khi thức dậy với cuộc sống, phát hiện, với sự kinh ngạc, thán phục, vẻ đẹp của thế giới và tình yêu và nhất là với một nỗi hãi hùng, với sự khiếp sợ cái chết [12, tr.77]. Khác với các nhà nghiên cứu trước, M.Corvin cho rằng ngôn ngữ của Ionesco ít bị phá hủy những từ ngữ thông dụng mà quan trọng hơn, Ionesco sáng tạo một mạng lưới những hình ảnh ám ảnh chính ông. Do đó, Ionesco đã tạo cho thế giới của nhân vật trong kịch là một thế giới mới lạ. Thế giới ấy khiến nhân vật phải kinh ngạc và thán phục nhưng bên cạnh đó, chính cái thế giới ấy cũng khiến nó khiếp sợ và bị ám ảnh bởi cái chết, con người tồn tại trong cái thế giới ấy hoàn toàn xa lạ với môi trường xung quanh và rất khó tìm được sự liên hệ với các cá nhân khác. Trong tác phẩm Văn học Pháp thế kỷ XX, Patrick Brunel gọi sân khấu Kịch phi lý là “kịch chế giễu”. Ông cho rằng: Ngôn ngữ (này) không còn là cái chuyển tải thích hợp cho một giao lưu dựa trên sự thuần khiết của những con tim và ý thức – sự chuyển tải thích hợp ấy vốn từng là phẩm chất không cao thì thấp của ngôn ngữ kịch truyền thống, được hỗ trợ bởi một tu từ rộng lớn, song một hiện tượng khác lạ là đậm tính cầu nguyện bằng những câu kịch ngắn và nồng nàn, tạo nên bởi những sự vật hiển nhiên, những tiếng kêu la, những lời rên rỉ, những trò chơi chữ, hiện tượng của con người muốn thét to bất hạnh của phận mình [7, tr.339 - 340]. Theo Patrick Brunel, ngôn ngữ Kịch phi lý rất khác với ngôn ngữ kịch truyền thống. Ngôn ngữ Kịch phi lý được sử dụng như một trò chơi, thông qua trò chơi chữ ấy nhân vật thể hiện thân phận của con người với những bất hạnh và đớn đau. Con người hiện diện trong thế giới Kịch phi lý không có sức sống, lời nói phát ra chỉ là những tiếng rên rỉ, kêu la, gào thét…
  15. Trong công trình Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ XX do Lộc Phương Thủy chủ biên, nhà xuất bản Văn học năm 2005 đã trích dịch một số bài phỏng vấn của các tác giả tiêu biểu trong văn học Pháp thế kỷ XX. Tác giả công trình đã chọn đăng những bài phát biểu, phỏng vấn chủ yếu trình bày quan niệm văn chương của các nhà văn, nhà thơ… Từ những ý kiến đó, tập thể tác giả của công trình này muốn đem đến cho độc giả một cái nhìn mang tính hệ thống về văn chương Pháp thế kỷ XX. Đây là lý do tại sao các vấn đề trong công trình này được trình bày theo trật tự thời gian. Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ XX là công trình văn học dày 381 trang khổ 13 x 19 trình bày về quan niệm văn chương của 21 tác giả, bắt đầu là Romain Rolland (1806 - 1944) và cuối cùng là Jean-Marie Gustave le Clézio (1940). Eugène Ionesco là một trong hai mươi mốt tác giả tiêu biểu được quan tâm ở công trình này. Thông qua cuộc phỏng vấn giữa Claude Bonnefoy và Eugène Ionesco, công trình đã nhắc đến các vở kịch Nữ ca sĩ hói đầu, Trong khi chờ Godot, … với những kiến giải của chính E. Ionesco. Trên đây là những ý kiến của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về các phương diện của vấn đề nhân vật trong Kịch phi lý. Về cơ bản, giới nghiên cứu đã nhận định nhân vật Kịch phi lý là người khiếm khuyết, có những hành động không giống với nhân vật kịch truyền thống. Ngôn ngữ nhân vật sử dụng đã mất chức năng giao tiếp nên con người trong Kịch phi lý không có sự liên hệ với nhau, mỗi nhân vật là một thực thể tách biệt. Trong tình hình hạn chế về tư liệu, việc tổng thuật không thể nào đầy đủ như mong đợi nhưng chắc là chúng tôi đã phác họa được những nét chính của vấn đề. Rõ ràng, vấn đề nhân vật trong Kịch phi lý đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhưng việc khảo sát như một hệ thống vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng tôi tiếp cận Kịch phi lý, nhân vật Kịch phi lý theo hướng hệ thống đó. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của đề tài Trong mục này, từ việc xác định nhiệm vụ của đề tài chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: Trước hết, chúng tôi sẽ khảo sát nhân vật trong Kịch phi lý trên chính bản thân cấu trúc tác phẩm. Theo chúng tôi, tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần - vật chất mà người nghệ sĩ đã quy tụ mọi tinh hoa trí tuệ bản thân có được để sáng tạo nên. Do đó, việc tìm hiểu một tác phẩm văn học hay cụ thể là một vở kịch nhất thiết chúng ta phải đi khảo sát chính bản thân cấu trúc tác phẩm. Trong trường hợp này, phương pháp thống kê sẽ được chúng tôi sử
  16. dụng như một biện pháp. Việc thống kê tần số xuất hiện của những lời nói vô nghĩa, những đoạn đối thoại mang tính lặp lại của nhân vật trong mỗi vở kịch sẽ được chúng tôi quan tâm khi cần thiết. Nghĩa là, chúng tôi tập trung khai thác triệt để những biểu hiện của vấn đề phi lý ở những vở kịch tiêu biểu. Đề tài hướng đến việc chỉ ra những đặc điểm đặc thù của nhân vật Kịch phi lý trong mối quan hệ so sánh với kịch truyền thống. Về phương diện lý luận, Kịch phi lý có rất nhiều điểm khác với kịch truyền thống (nhân vật, cốt truyện, bày trí sân khấu, …) và chính những điểm khác đó đã giúp cho Kịch phi lý tạo được dấu ấn riêng trong dòng chảy văn học nhân loại. Tiếp cận Kịch phi lý, chúng tôi vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để làm sáng rõ sự kế thừa và phá vỡ của Kịch phi lý so với kịch truyền thống trong việc xây dựng nhân vật kịch với loại ngôn ngữ và hành động đặc thù. Trên cơ sở tiếp cận này, chúng tôi sẽ hướng đến lý giải thích hiện tượng “mới lạ” của Kịch phi lý, đồng thời chỉ ra những lý do khiến trào lưu Kịch phi lý dù chỉ tồn tại chủ yếu trong vòng 10 năm (1950-1960) nhưng thực sự đã gây được tiếng vang lớn. Nhiệm vụ cuối cùng đề tài quan tâm là việc đánh giá những đóng góp của Kịch phi lý trong tiến trình vận động chung của kịch phương Tây hiện đại. Phương pháp xã hội học lịch sử sẽ được chúng tôi sử dụng nhằm khẳng định những đóng góp ấy ở phương diện lịch sử xã hội. Trên đây là những phương pháp nghiên cứu chính mà chúng tôi sẽ vận dụng trong quá trình khảo sát nhân vật trong Kịch phi lý. Tất nhiên, trong trường hợp cần thiết, chúng tôi sẽ vận dụng thêm những phương pháp, biện pháp hỗ trợ khác. 5. Mục đích nghiên cứu Thông thường, cái mới lạ bao giờ cũng khiến người ta chú ý quan tâm vì tò mò là chính, còn vấn đề tồn tại được hay không là phụ thuộc vào thời gian thẩm thấu. Kịch phi lý cũng vậy, nó thực sự là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Khảo sát Kịch phi lý, trước hết chúng tôi sẽ lý giải những nét mới của các nghệ thuật xây dựng nhân vật Kịch phi lý. Và coi đây như là kết quả của việc các nhà viết Kịch phi lý trăn trở, thâm nhập và trải nghiệm thế giới họ đang sống và thể hiện rõ một kiểu tư duy nghệ thuật đầy sáng tạo của các tác giả viết kịch tên tuổi giữa thế kỷ XX. Những gì mà nhân vật Kịch phi lý diễn trên sân khấu cũng chính là những gì mà nhân loại đang trải qua khi đối diện với sân khấu cuộc đời, đối diện với bản thể nhân sinh của chính mình.
  17. Đồng thời, lý giải vấn đề nhân vật trong phạm vi thi pháp kịch, chúng tôi khẳng định những đóng góp của các tác gia Kịch phi lý cho nghệ thuật viết và diễn kịch thế giới, cũng là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về các tác giả, tác phẩm trong việc nghiên cứu Kịch phi lý hiện nay. 6. Bố cục của luận văn Luận văn gồm có ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung có ba chương và phần kết luận. 6.1. Phần mở đầu Trong phần này, chúng tôi khẳng định tính cấp thiết của đề tài thông qua việc nêu lý do chọn đề tài, trình bày đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu và bố cục của luận văn. Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh đến hai mục: lịch sử vấn đề và phương pháp nghiên cứu. Trong mục Lịch sử vấn đề, chúng tôi tổng thuật kiến giải của các nhà nghiên cứu, dịch giả trong và ngoài nước, có liên quan đến hai phương diện của nhân vật trong Kịch phi lý. Vì ở Việt Nam, Kịch phi lý thực sự chưa được chú ý như ở các nước phương Tây nên khi tổng thuật, chúng tôi nêu tên một số tác phẩm được dịch bên cạnh việc tổng thuật những ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu. Điều chúng tôi quan tâm trong mục Phương pháp nghiên cứu không phải là liệt kê các phương pháp nghiên cứu mà là phân tích mối quan hệ của các đối tượng khảo sát để xác định phương pháp nghiên cứu cho đề tài. Trên cơ sở này, luận văn sẽ được triển khai theo hướng vận dụng các phương pháp liên quan. 6.2. Chương 1: Kịch phi lý và bối cảnh văn học Phương Tây thế kỷ XX Trước hết, chúng tôi trình bày bối cảnh lịch sử - xã hội phương Tây thế kỷ XX với đặc điểm nổi bật về điều kiện khoa học - kỹ thuật, chính trị - xã hội, văn hóa - tư tưởng như là những tiền đề lịch sử xã hội cơ bản để Kịch phi lý ra đời. Sau đó, chúng tôi phác họa những nét cơ bản nhất về lịch sử xuất hiện của khái niệm phi lý trong triết học và văn học, nhằm tạo ra sự thống nhất trong quan niệm về cách gọi tên và lý giải Kịch phi lý.
  18. Cuối cùng, chúng tôi nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của kịch và Kịch phi lý như là cơ sở nền tảng để tiếp cận sâu hơn vấn đề nhân vật trong Kịch phi lý ở hai chương sau. Đối với Kịch phi lý, ở đây chúng tôi nhấn mạnh đến bốn nội dung sau: Vấn đề tên gọi, các nhà tiền phong, sự xuất hiện của Kịch phi lý và một vài phương diện nổi bật của Kịch phi lý. Chúng tôi hi vọng khi nắm được những nội dung trên thì việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu về nhân vật trong Kịch phi lý sẽ thuận tiện hơn. 6.3. Chương 2: Nhân vật và hành động Kịch phi lý Trong chương này, chúng tôi tập trung vào việc phân tích một phương diện quan trọng của nhân vật kịch. Đó là hành động của nhân vật Kịch phi lý. Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, hành động đã được xem là yếu tố quan trọng nhất của kịch. Ở đây, chúng tôi đi sâu xem xét nét đặc thù của bản thân hành động nhân vật Kịch phi lý và đặt trong mối quan hệ đối sánh với kịch truyền thống. Đồng thời, chúng tôi khảo sát cả giá trị nghệ thuật và tư tưởng mà nhân vật thể hiện được qua hành động cụ thể của nó. 6.4. Chương 3: Nhân vật trong Kịch phi lý và ngôn ngữ Ở chương cuối, chúng tôi cũng tiếp cận vấn đề như chương hai, nhưng khai thác ở phương diện ngôn ngữ của nhân vật trong Kịch phi lý. Ở đây, ngôn ngữ như vượt ra khỏi mọi qui phạm của ngôn ngữ hiện thực đời sống. Logic ngữ nghĩa như không trùng khớp với ngữ nghĩa; tất cả cứ trở nên đứt quảng, ngắt ngứ, vô nghĩa và chắp nối rời rạc như tâm trạng của con người thời đại bấy giờ. 6.5. Phần kết luận Trong phần này, chúng tôi tổng kết những đóng góp của luận văn so với những nghiên cứu khác về Kịch phi lý ở trong và ngoài nước.
  19. Chương 1 KỊCH PHI LÝ VÀ BỐI CẢNH VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY THẾ KỶ XX 1.1. Bối cảnh lịch sử và xã hội phương Tây thế kỷ XX Thế kỷ XX là thế kỷ có nhiều biến động trên phạm vi toàn thế giới. Hàng loạt sự kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội nổ ra, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người. Văn học là tiếng nói của nhân loại, đã phản ánh chân thật và đầy đủ về một giai đoạn lịch sử của loài người. 1.1.1. Điều kiện khoa học - kỹ thuật Thành công của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đem lại cho con người hiện đại rất nhiều thứ. Loài người đã sản xuất ra một khối lượng hàng hóa đồ sộ, cung ứng mọi nhu cầu của đời sống. Những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực bưu chính viễn thông, điện tử tin học, công nghệ sinh học, công nghệ môi trường, … đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại: kỷ nguyên hiện đại, văn minh và tiến bộ. Con người không chỉ chinh phục được cuộc sống ở mặt đất mà đã vươn cao hơn, xa hơn khi đặt chân thám hiểm mặt trăng và các hành tinh ngoài trái đất. Của cải vật chất tạo ra ngày càng nhiều, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng lớn của con người. Các nước tư bản phương Tây đã ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa nền kinh tế thế giới phát triển lên tầm cao mới. Nhờ đó, các hoạt động khác như chính trị - xã hội, văn hóa - tư tưởng, … cũng được khuyến khích phát triển cho tương xứng với cục diện chung của thế giới. Con người tiến lên xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Khoa học kỹ thuật can thiệp vào đời sống một mặt đảm bảo cho con người mức sống cao hơn nhưng mặt khác nó cũng tác động đến quan niệm, tâm tư, tình cảm …. Do đó, con người hiện đại ngày càng trở nên thông minh, tinh vi và táo bạo hơn trước. Kinh tế phát triển, các nhà đại tư bản phương Tây lao mình vào vòng xoáy lợi nhuận. Họ đầu tư máy móc thiết bị hiện đại cho sản xuất, tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ mà xã hội
  20. không tiêu thụ hết. Điều này đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929), gây nên nhiều xáo trộn trong đời sống con người. Nhà tư bản không thể từ bỏ tham vọng làm giàu, đã bất chấp mọi thủ đoạn mở rộng thị trường tiêu thụ thông qua chiến tranh. Chính vì lẽ đó, thế kỷ XX vừa là thế kỷ của sự giàu có tột độ, vừa là thế kỷ của chiến tranh và tội ác. Khoa học kỹ thuật phát triển cho phép con người có thể sản xuất ra những vũ khí tối tân, đa năng, gây nên thảm họa chết chóc và tiêu vong cho nhân loại. Điều này lý giải tại sao xã hội càng phát triển, càng hiện đại bao nhiêu thì con người càng trở nên yếu đuối, cô đơn bấy nhiêu. Cái chết, sự tiêu vong và nỗi mất mát có thể đến với bất kỳ ai trong mọi lúc. Chiến tranh còn tiếp diễn thì loài người còn nguy cơ rơi vào hố sâu tội lỗi. 1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội Trong suốt thế kỷ XX, chính trường Châu Âu luôn nóng lên vì chiến tranh nếu không trực tiếp xảy ra ở Châu Âu thì cũng xuất phát từ Châu Âu mà ra. Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 - 1918) là một đòn chí mạng mà chủ nghĩa thực dân đã giáng xuống bầu trời Châu Âu, khiến cho nhân loại sống trong tang tóc và sợ hãi. Những sự kiện chính trị xã hội trong giai đoạn này đã ảnh hưởng có tính quyết định đến sự vận mạng của từng con người. Hàng loạt cuộc chiến cứ nối nhau tiếp diễn: Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), mặt trận Bình Dân ra đời năm 1936, chiến tranh Tây Ban Nha (1936), chiến tranh thế giới lần thứ hai (1941 - 1945), chiến tranh Đông Dương (1946 - 1954), chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Agiêri (1955 - 1956), khủng hoảng dầu lửa (1973), chiến tranh Vùng Vịnh (1991), sự li khai của các nước Cộng hòa Nam Tư cũ (1992), sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu… khiến cho nhân loại đau đớn và hoài nghi cuộc sống. Đặc biệt, sự ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã gây ra cơn khủng hoảng tâm lý nặng nề lên toàn nhân loại, nhất là tầng lớp trí thức phương Tây thời bấy giờ. Hậu quả của chiến tranh và cục diện của thế giới sau chiến tranh đã đặt người trí thức vào “tình huống có vấn đề” 1 phải lựa chọn những ứng xử phù hợp. Trí thức phương Tây lao vào cơn xoáy của tri thức khoa học để tìm ra liệu pháp giải quyết tình thế nhưng thất bại, loài người thêm một lần nữa rơi vào “đêm trường Trung Cổ” bởi những hậu quả do chính con người gây ra chứ không phải Chúa: chiến tranh với vũ khí giết người hàng loạt, con người rơi vào nguy cơ diệt vong. 1 Tình huống có vấn đề: Tình huống buộc con người phải có sự lựa chọn mang tính quyết định (hiểu theo quan điểm của Xã hội học)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2