intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:170

248
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez nêu lên yếu tố kỳ ảo – những vấn đề khái quát; yếu tố kỳ ảo và hệ thống hình tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez; yếu tố kỳ ảo và cấu trúc trong truyện ngắn G. G. Marquez và một số nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thành Trung YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN GABRIEL GARCIA MARQUEZ Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn: Thầy hướng dẫn, Tiến sĩ Đào Ngọc Chương Các thầy cô tổ Văn học Nước ngoài, các thầy cô khoa Ngữ Văn Phòng Sau Đại học và Công nghệ trường Đại học Sư Phạm TP.HCM Gia đình và bạn bè đã tận tình góp ý, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này. TPHCM, ngày 09 tháng 09 năm 2010 Người viết luận văn Nguyễn Thành Trung Lớp Cao học Văn học Nước ngoài khóa 18
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng công bố ở các công trình khác. Người viết luận văn Nguyễn Thành Trung Lớp Cao học Văn học Nước ngoài khoá 18.
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Mỹ Latin là nền văn học của các quốc gia, vùng lãnh thổ Trung, Nam châu Mỹ và Caribbe chủ yếu viết bằng tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và ngôn ngữ bản địa, gồm ba giai đoạn: cổ đại, cận đại và hiện đại. Nền văn học cổ đại bản địa hình thành từ hàng ngàn năm trước, đây chủ yếu là những sáng tác dân gian truyền miệng. Nền văn học này bị vùi lấp bởi cuộc xâm lược phương Tây; một thể chế chính trị cũng như văn chương ban đầu thuần túy châu Âu ra đời. Về sau nền văn chương ấy giao thoa với khuynh hướng dân tộc bản địa làm nên đặc trưng của nền văn học cận đại. Văn học hiện đại bắt đầu phát triển mạnh vào thế kỷ XX và đạt được sự bùng nổ mang tầm vóc thế giới bằng 05 giải Nobel cho các tác giả Gabriela Mistral (1945), Miguel Angel Asturias (1967), Gabriel Garcia Marquez (1982), Pablo Neruda (1971) và Octavio Paz (1990). Giai đoạn này, văn học Mỹ Latin nổi tiếng với Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism)- một trào lưu có nhiều đóng góp cho văn học thế giới. Văn học hiện đại Mỹ Latin chứng kiến những thành tựu to lớn, trong đó có sự phát triển vượt bậc của thể loại truyện ngắn, đặc biệt là mảng truyện ngắn kỳ ảo. Dòng truyện ngắn này kết hợp với truyện ngắn tâm lý tạo nên trào lưu biểu hiện trong văn học Mỹ Latin hiện đại. Các tác giả dường như lý giải lịch sử và thế giới bằng những yếu tố phi thực. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ra đời như một phản ứng, một khám phá là vì thế. Truyện ngắn hiện thực huyền ảo được khơi nguồn từ Borges và phát triển với tên tuổi của Gabriel Garcia Marquez. Bản thân Marquez rất coi trọng truyện ngắn. Ông từng phát biểu [50,354]: Tôi nghĩ rằng truyện ngắn và tiểu thuyết không chỉ là hai thể loại văn học khác nhau mà còn là hai tổ chức có bản chất khác nhau nếu hiểu lẫn lộn sẽ đưa đến hậu quả tai hại. Ngày nay, tôi vẫn tiếp tục tin như vậy và lại càng tin chắc hơn bao giờ hết rằng truyện ngắn có vị thế hơn hẳn tiểu thuyết. Vì lẽ đó, tìm hiểu mảng truyện ngắn của ông cũng quan trọng không kém gì, nếu không nói là hơn, tiểu thuyết. Đồng thời trong mảng truyện ngắn của ông, chúng tôi đặc biệt lưu ý mảng truyện ngắn kỳ ảo vì ba lẽ sau: Thứ nhất, mảng truyện ngắn kỳ ảo chiếm đa số trong tổng thể truyện ngắn của Marquez. Theo khảo sát của chúng tôi ở bảng 03, nhóm này có số lượng 23/41 chiếm 56%. Thứ hai, trong các hợp tuyển, truyện ngắn kỳ ảo của Marquez cũng chiếm đa số so với truyện ngắn nghiêm ngặt (Bảng 3) 15 truyện ngắn kỳ ảo /19 hợp tuyển chiếm 79%. Thứ ba, do sở thích của bản thân người viết. Truyện ngắn kỳ ảo của Marquez đặc biệt thu hút chúng tôi vào những thế giới nghệ thuật kỳ ảo như cổ tích nhưng lại hiện đại một cách rõ ràng và đầy ý nghĩa.
  5. Thứ đến, đề tài này còn gắn với thực tế văn học Việt Nam đương đại. Có thể nhận thấy từ sau năm 1986, yếu tố kỳ ảo bằng một con đường khác đã bắt đầu quay trở lại một cách đáng chú ý trong nền văn học Việt Nam với một sức sống tươi mới, ham mê cái lạ và cả dũng khí lật lại các vấn đề những tưởng đã ổn thỏa. Từ những Đêm bướm ma, Truyện không nên đọc lúc giao thừa… còn trích lại nhiều tác phẩm thời trung đại, người đọc trong nước dần tiếp xúc với các tập truyện kỳ ảo đương đại như Hồn hoa trở lại, Hồn hoa đêm tháp cổ, Truyện kỳ ảo thế giới (NXB Văn hóa, HN, 1999), Truyện ngắn kinh dị (NXB Văn hóa, Hà Nội, 1997), Truyện dị thường (NXB VHTT, 2002),… Vì thế, nghiên cứu mảng văn học kỳ ảo trở thành một nhu cầu tất yếu; đề cập đến yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của Marquez, chúng tôi hy vọng phần nào đáp ứng được mối quan tâm này. Hơn nữa, hiện nay việc đưa Văn học Mỹ Latin và tác giả Marquez vào chương trình giáo dục Đại học chỉ mới ở khâu chuẩn bị, đồng thời nền văn học nổi bật này vẫn chưa có được chỗ đứng xứng đáng ở chương trình trung học phổ thông. Vì thế, tiến hành đề tài trong mối quan hệ với hoạt động giáo dục, chúng tôi hướng đến việc nhấn mạnh khu vực văn học này cũng như bộ phận sáng tác được chính Marquez ưu ái- truyện ngắn- trong việc xây dựng chương trình và giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông cũng như đại học ngành Văn học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1 Về ấn phẩm Đối tượng chúng tôi xác định là truyện ngắn của Marquez. Theo phát biểu của Marquez trước đây [50,604] thì ông có 38 truyện ngắn, tuy nhiên theo khảo sát của chúng tôi (bảng 1 và 2) thì ông có không dưới 40 truyện ngắn. Sử dụng tiêu chí yếu tố kỳ ảo, chúng tôi lọc ra được 23 truyện ngắn phù hợp. Như vậy, về đối tượng chúng tôi khảo sát 23 truyện ngắn kỳ ảo của Marquez. Về văn bản, trong 23 truyện ngắn này thì 20 truyện ngắn đã có bản tiếng Việt, chủ yếu là do Nguyễn Trung Đức dịch. Chúng tôi sử dụng bản Gabriel Garcia Marquez- Mười hai truyện ngắn phiêu dạt [52] và Gabriel Garcia Marquez- truyện ngắn tuyển chọn [53] của Nguyễn Trung Đức tuy nhiên khi cần có những tham khảo và đối chiếu với nguyên bản, chúng tôi sử dụng ba văn bản: Ojos de perro azul [78], Todos los cuentos 1947-1972 [79] và Doce cuentos Peregrinos [80] đồng thời dựa vào các văn bản này để dịch hai tác phẩm Nỗi cay đắng của ba người mộng du và Bên kia cái chết. Truyện ngắn Chết ở Samarra là một ví dụ trích trong quyển tiểu luận Làm sao để viết truyện ngắn của Marquez xuất bản năm 1955 ở Bogota. 2.2 Về phương diện nghiên cứu Trước hết chúng tôi tập trung vào khái niệm yếu tố kỳ ảo và mối liên hệ của nó với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, đặt vào bối cảnh sáng tác và mô hình quan niệm của Marquez.
  6. Thứ đến, chúng tôi tiến hành tìm hiểu hệ thống các phương diện thể hiện yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của G.G.Marquez bao gồm loại hình nhân vật, không gian thời gian nghệ thuật, biểu tượng và cấu trúc truyện ngắn. Vì thế, chúng tôi thống nhất tên đề tài là “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez.” 3. Lịch sử vấn đề Trong phần này, chúng tôi khảo sát một số công trình có liên quan đến đề tài theo hai mảng chính: cái kỳ ảo và truyện ngắn Marquez. 3.1 Về cái kỳ ảo Đây là thuật ngữ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi sẽ làm rõ khái niệm này ở chương 1, trong phần này chúng tôi chỉ đề cập một số ý kiến và quan điểm chính của các nhà nghiên cứu. Khái niệm cái kỳ ảo đã được thảo luận nhiều nhưng tập trung nhất là thông qua ý kiến của Todorov từ những năm 1970 trong công trình Dẫn luận về văn chương kỳ ảo [70]. Theo ông, cái kỳ ảo là “sự kiện không thể giải thích được bằng những quy luật của chính cái thế giới quen thuộc này” [70,34]… Người cảm nhận sự kiện phải lựa chọn một trong hai giải pháp: hoặc đây chỉ là ảo ảnh của giác quan, một sản phẩm của tưởng tượng và những quy luật của thế giới này vẫn vậy; hoặc quả thật sự kiện đã diễn ra, nó là bộ phận của toàn bộ thực tế, nhưng bây giờ thực tế ấy lại được điều hành bởi những quy luật mà chúng ta không biết… Cái kỳ ảo chiếm lĩnh thời gian của sự mơ hồ ấy: tới khi chọn lấy một trong hai giải đáp, ta đã rời bỏ cái kỳ ảo để đi vào một thể loại cận kề, cái lạ hoặc cái thần tiên. Cái kỳ ảo đó là sự lưỡng lự cảm nhận bởi một con người chỉ biết có các quy luật tự nhiên, đối diện với một hiện tượng bên ngoài mang tính siêu nhiên. Có thể khái quát ý kiến về cái kỳ ảo của Todorov như sau: Thực- ảo Thực Ảo Lưỡng lự Lạ Kỳ ảo Thần tiên Todorov xác định sự lưỡng lự của độc giả là điều kiện thứ nhất của cái kỳ ảo, sau đó thứ hai là độc giả hóa thân và đồng nhất với nhân vật lưỡng lự, cuối cùng là phải tồn tại một lối đọc không theo lối thơ hoặc ngụ ngôn. Như vậy, văn học kỳ ảo hay cái kỳ ảo muốn đạt chân giá trị của nó thì phải được duy trì để không thoái hóa thành chuyện đời thường hay thần thoại, ngụ ngôn. Điều này có nghĩa là cái kỳ ảo nằm trong một độ căng nhất định mà vị thế của nó không phải là không bấp bênh, nhưng Todorov chấp nhận điều đó. Vì giải thích sẽ dẫn đến tiêu vong cái kỳ ảo, thế nên Todorov chủ yếu đưa ra các đề tài về tôi, về mình… Về tôi, hệ đề tài này có nguyên lý ở thế khả năng biến đổi từ tinh thần sang vật chất (đó là biến
  7. hóa, quyết định luận), xóa nhòa chủ thể và đối tượng, tạo nên cái nhìn thống hợp. Về mình, hệ thống này hiện lên với đề tài tính dục và vì thế nó chủ yếu mang tính chất kỳ lạ xã hội chứ không còn siêu nhiên nữa: loạn luân, tình yêu hơn một đôi, đồng giới, ân ái với xác chết,… Có thể thấy ý kiến của Todorov đã hạn định yếu tố kỳ ảo khá hẹp, chủ yếu là trong văn học cận đại, chính xác hơn là khi ý thức về cái kỳ ảo đã được định hình và người ta buộc phải chấp nhận yêu cầu khá kiêu kỳ của cái kỳ ảo đặt ra cho sự tồn tại của mình. Bởi lẽ, cái kỳ ảo sẽ mất đi nếu được giải thích, có nghĩa là trong khi bản thân đòi hỏi một quyết định luận tự thân thì nó lại từ chối một quyết định dù là khiêm tốn nhất từ phía người đọc. Vì vậy, tuy có đề cập đến phương diện ngữ nghĩa của tác phẩm nhưng Todorov phải đẩy việc giải thích ý nghĩa theo hướng khác đó là hướng chỉ ra hệ đề tài dù rằng việc này không thể nào che giấu chúng ta rằng đó cũng là một dạng giải thích, tuy có khác biệt là thay vì xác quyết một ý nghĩa cho từng trường hợp cụ thể ông quy tất cả thành một cái khung ta- mình để bao quát hết các ý nghĩa nhân sinh liên quan đến cá nhân và cộng đồng. Thật ra, điều này cũng không phải là trở ngại lớn trong việc phân tích truyện ngắn Marquez khi ít nhiều vẫn phải chỉ ra những lớp ý nghĩa văn hóa xã hội, bởi lẽ, thứ nhất, người đọc đã không tách khỏi tính chất kỳ ảo mà vẫn ở trong đó, nói chung vẫn duy trì nó. Thứ hai, có thể hiểu ý nghĩa đó như một bộ phận trong tổng thể- đó là tổng thể đa nghĩa nhưng không phải theo kiểu nhiều nghĩa mà nghĩa nào cũng đúng nhưng phải hiểu là một nghĩa duy nhất đúng nhưng không thể giải thích rốt ráo vì rào cản hạn chế ngôn ngữ cũng như tư duy, tuy nhiên soi vào lăng kính thì sẽ tạo nên những nét nghĩa gần đúng. Nhờ đó, điều này có thể duy trì cái kỳ ảo. Trên tinh thần lý giải cái kỳ ảo theo hướng Todorov, John Gerlach trong bài viết The logic of Wings: Garcia Marquez, Todorov, and the Endless resources of Fantasy [87, 81-90] thông quan phân tích tác phẩm Cụ già với đôi cánh khổng lồ của Marquez đã chứng minh rằng: “Cái kỳ ảo không nhất thiết phải gắn chặt với đề tài mà có thể được tạo ra ở bất kỳ thời kỳ nào, độc lập đối với đề tài.” Ông cho rằng vì cái kỳ ảo được tạo ra từ sự lưỡng lự của người đọc và nhiệm vụ của người đọc là phản tư không phải bản thân cái kỳ ảo mà là chu trình của nó, nhờ đó cái kỳ ảo không bao giờ kết thúc, nó đã, đang và sẽ là một tiến trình nên sẽ không bị quy áp vào bất kỳ một khuôn mẫu nào. Cùng một đề tài và đối tượng, Vera M. Kutzinsky trong bài viết The logic of the Wings: Gabriel Garcia Marquez and Afro-American literature [87, 169-182] thông qua việc chứng minh mối liên hệ của sáng tác Marquez với những yếu tố thuộc nền văn hóa châu Phi đã lý giải thái độ giải thiêng đối với cái kỳ ảo hiện đại. Đó là quá trình thoái hóa của yếu tố thiêng mà người hiện đại thể hiện trong việc tri nhận thế giới và tiếp nhận văn chương. Ngoài ra các công trình khác như: Luận văn thạc sĩ Borderlands of Magical Realism: Defining Magical Realism found in popular and children’s literature của Ashley Carol Wills tại đại học bang Texas -San Marcos vào tháng 12 năm 2006; bài viết của Christopher Warnes: Naturalizing the
  8. Supernatural: Faith, Irreverence and Magical Realism [108] hướng đến phân biệt vấn đề niềm tin và sự bất kính trong quá trình hành chức của văn bản đã phần nào lý giải cái kỳ ảo như bộ phận trọng tâm của khuynh hướng trộn lẫn những yếu tố kỳ ảo với đời thường trong sáng tác văn học; bài viết El realismo mágico. Conceptos, rasgos, principios y métodos [77] của María Achitenei trình bày phương pháp, nguyên tắc, đặc điểm và khái niệm chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, bài viết From Realism to Magic Realism: the Meticulous modernist fictions of Garcia Marquez [87,227-242] của Morton P. Levitt trình bày tính sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng tác của Marquez; Prisms of Consciousness: The “New Worlds” of Colombus and Garcia Marquez [87,243-256] của Micheal Palencia- Roth bàn về lăng kính tri nhận về tân thế giới của Colombus và Marquez; chuyên luận Image and symbols: Studies in Religious symbolism,… cũng đã bước đầu góp phần cung cấp một bức tranh khái quát về cái kỳ ảo trong văn chương. Về phía các công trình trong nước, Lê Nguyên Cẩn với Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balzac [13] đã vạch ra những điểm khái quát nhất về cái kỳ ảo. Về bản chất, ông dùng thuật ngữ Le fantastique từ tiếng Pháp để minh định thuật ngữ cái kỳ ảo: “Như vậy, cái kỳ ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực- ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng” (tr.16). Ông xem cái kỳ ảo như một yếu tố nghệ thuật xuất phát từ trí tưởng tượng. Nó như một vết đứt gãy, đảo lộn trong trần thuật đưa người đọc sang một thế giới khác. Lê Nguyên Cẩn đã đưa ra 11 đề tài kỳ ảo của Roger Caillois, sau đó là 23 đề tài kỳ ảo của M.Schneider, chủ yếu tập trung vào các motif và nhân vật; đồng thời ba nhóm đề tài kỳ ảo của Dan Pavel Sergiu cũng được ông trình bày khá kỹ lưỡng. Có thể nhận thấy, tác giả Lê Nguyên Cẩn chấp nhận cái kỳ ảo tồn tại từ xa xưa trong bất cứ nền văn học dân tộc nào dưới những hình thức được phân theo cấp độ: thần linh, quái dị, ma quỷ, khác lạ, phi thường, siêu nhiên. Những cấp độ này tùy thuộc vào ý đồ sáng tạo ra sự đa dạng về mặt hình thức đề tài [Sđd,29]. Yếu tố niềm tin cũng được ông nhắc đến khi thẩm định cái kỳ ảo (điều này đã được Todorov giải quyết khá rõ). Như vậy, căn cứ trên ý đồ tác giả, Lê Nguyên Cẩn đã không giải thích rõ sự khác biệt về tính chất của cái kỳ ảo trong diễn trình của nó. Ví dụ như độ lệch của vết đứt gãy này thuần túy là trí tưởng tượng hay có thể ghi nhận sự tham gia của yếu tố niềm tin, đặc biệt trong các nền văn học cổ xưa; hay vết đứt gãy này là vi phạm với tư duy sáng tác hiện đại vì nó phá vỡ các quy luật còn chặt chẽ và bất biến. Vậy vai trò của nó với tư duy cổ đại là phá vỡ hay chính là tác thành quy luật?... Vì thế, tác giả có khuynh hướng khái quát hóa và đặt trọng tâm ở các đề tài. Rõ ràng, về lý thuyết, Lê Nguyên Cẩn tạo một độ rộng cho khái niệm cái kỳ ảo và khẳng định nó như sự tưởng tượng có ý thức sáng tạo nghệ thuật là khá táo bạo, đặc biệt khi chúng ta đem áp dụng cho các tác phẩm thần thoại cổ xưa, hay Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Tuy nhiên, khi ứng dụng, tác giả chủ yếu vận
  9. dụng khái niệm cái kỳ ảo như một thành tố nghệ thuật xuất hiện khi được ý thức đầy đủ, điều này hiển nhiên do quy định của đề tài, đối tượng hướng đến là cái kỳ ảo của Balzac. Cái kỳ ảo này chủ yếu ở phương diện hình thức, mục tiêu của nó không gì khác hơn là khái quát hiện thực, mà nhiều khi bản thân cái kỳ ảo nếu bị tách rời thì cốt truyện vẫn không có gì thay đổi (những chuyện lạ xảy ra trong Tấm da lừa đều có cơ sở thực tế của nó), bởi nó là hình ảnh tập trung thể hiện một đối tượng xuyên suốt trong Tấn trò đời- đó là dục vọng, cái kỳ ảo là một lớp áo khác khái quát mọi dạng thức dục vọng nhân sinh, cái kỳ ảo này có lẽ đi trên con đường của biểu tượng. Lê Huy Bắc trong công trình Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia Marquez [8] đã tổng kết và trình bày các vấn đề về cái kỳ ảo- đúng hơn là cái huyễn ảo. Lê Huy Bắc xác định văn học kỳ ảo chỉ mới xuất hiện cùng thời hoặc phát triển xa hơn văn học lãng mạn và về bản chất thì những truyện thần thoại mang tính chất kỳ ảo khác với cái được gọi là văn học kỳ ảo sau này. Theo đó, ông dùng thuật ngữ văn học huyễn ảo để bao quát các dạng thức văn học thần ma, gô tích, kinh dị, ma quỷ, phi thường, siêu nhiên, kỳ ảo và huyền thoại. Văn học huyễn ảo xuất hiện từ khi con người biết sáng tác văn chương tuy nhiên nó là một trào lưu chứ không thể là một thể loại theo đúng cấu trúc sau [8,15]: Văn học Văn học Văn học hư cấu không hư cấu Loại hình Tự sự Kịch Trữ tình (kind) Thể loại Tiểu thuyết Truyện ngắn (genre) Sau đó, Lê Huy Bắc trình bày các giai đoạn của văn học huyễn ảo như sau: Thái độ TT Quan niệm về Thời gian Đặc điểm Tên gọi Tác giả về cái cái huyễn ảo huyễn ảo Cái Cổ đại- huyễn Thần Ma quỷ, siêu 1 thế kỷ tưởng thoại, Khuyết danh nhiên, thần Không sợ XIII (the cổ tích bí,… là ta mythical) Thế kỷ Cái kỳ ảo Văn Shakespeare, Ma quỷ, siêu 2 Sợ hãi XIV- (the học kỳ Hoffmann, nhiên, thần
  10. XIX fantastic) ảo Poe, Balzac bí,… không phải là ta Ma quỷ, siêu Cái Văn Kafka, nhiên, thần Vừa sợ Thế kỷ huyền ảo học 3 Borges, bí,… vừa là ta vừa XX- nay (the huyền Marquez vừa không không sợ magical) ảo phải là ta Có thể thấy hệ thống của nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc khá rõ ràng và mạch lạc, khái niệm huyễn ảo đã bao quát được các dạng thức mà những nhà nghiên cứu trước đây ít nhiều đề cập đến ở nhiều chừng mực, mức độ. Việc xác định khung thời gian, đặc điểm và quan niệm là một hướng đi hợp lý nhằm minh định khái niệm trong lĩnh vực khá mơ hồ là nghiên cứu văn chương huyền ảo (hay huyễn ảo). Vì những điều này, chúng tôi cơ bản thống nhất với ý kiến của nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc và khái niệm chúng tôi triển khai về sau cũng dựa trên khung quy định đã được ông thể hiện. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ lại thuật ngữ cái “kỳ ảo” thay vì cái “huyễn ảo” dù nội hàm và ngoại diên của chúng, trong luận văn này, là tương đương. Như vậy, thông qua các công trình này, chúng tôi nhận được những hệ thống luận điểm và hướng dẫn quý giá về cái kỳ ảo; từ đó chúng tôi cố gắng vận dụng vào luận văn với ý thức hạn định lại cách hiểu của mình trong những chiều hướng tương đồng cũng như có phần dị biệt với những khái niệm đã được đề cập ở trên, cần thiết phải bàn luận kỹ hơn về khái niệm này và chúng tôi sẽ dành công việc đó cho chương 1. 3.2 Về truyện ngắn của Gabriel Garcia Marquez So sánh với tiểu thuyết, có thể thấy truyện ngắn của Marquez ít được chú ý hơn từ phía các nhà nghiên cứu. Thông qua khảo sát, chúng tôi chia mối quan tâm đến truyện ngắn của Marquez từ các công trình, bài viết thành hai mảng là nội dung và nghệ thuật với ý thức là sự phân chia này chỉ mang tính phương tiện. Thứ nhất, về mảng nội dung, chúng tôi lưu ý đến công trình của Frances M. Reece Nickeson. Trong luận văn El budismo y el cuento hispanoamericano tại đại học trung tâm bang Connecticut New Britain tháng Giêng năm 2007 [83], tác giả đã phân tích các tác phẩm nổi bật nhất của Marquez theo Phật học, chỉ ra kỹ thuật mảnh vỡ, phát triển tuyến tính được ví với trạng thái Thiền, buông bỏ mọi vướng mắc để hướng đến tự do. Ông khẳng định: “Có lý do chính đáng để dùng yếu tố kỳ ảo khi thể hiện cuộc đời và kinh nghiệm về cuộc đời đó, nơi mà con người cảm nhận hai thái cực, cô đơn trong tiến trình của Châu Âu, cô độc trong cuộc sống thuần túy, những vị thần cô đơn của điều thiện, của khả thể và bất khả”. Sau khi trình bày Trăm năm cô đơn từ khía cạnh từ bi, san sẻ để vượt qua nỗi cô đơn bởi lẽ con người chú trọng đến bản thân mình thì nỗi cô đơn và chịu đựng càng nặng nề nên phải
  11. vượt qua cái tôi, cái ngã- hướng đến vô ngã, tác giả trình bày 05 truyện ngắn riêng lẻ và tập Mười hai truyện ngắn phiêu dạt của Marquez với những luận điểm chính như sau: Buổi chiều kỳ diệu của Balthazar ca ngợi thái độ buông xả, phi vật chất của con người; Bà quả phụ Montiel đề cập đến cái chết của ông Montiel, người đã làm giàu trong thời kỳ biến loạn, người ta sợ ông nhưng khi chết thì chẳng đem theo được gì và rút ra con người là cát bụi; Ông lão có đôi cánh khổng lồ đề cập đến cái nhìn mang tính vật chất trần gian của con người. Hai vợ chồng này tích lũy cho đầy nhà tiền bạc và nhẹ người khi ông lão bay đi- họ không nhận ra giá trị của ông lão- đó là người hướng dẫn tâm linh, ông như hành giả, đến và ra đi trong cuộc đời; Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma nói về người thanh niên trong cuộc chinh phục con tàu ma. Đó là lòng nhân ái hướng đến tất cả chúng sinh. Hành động dẫn con tàu về làng của anh như một nhà triết học, người khai sáng, như một Bồ Tát thắp lên ánh sáng xóa tan Vô minh cho cả làng; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba đề cập lòng từ bi đối với tha nhân; và Mười hai truyện ngắn phiêu dạt thể hiện mối quan hệ cái thực và ảo trong thế bất nhị, đó là “Những câu chuyện lướt đi giữa cuộc sống đời thường và kỳ ảo, những điều lạ lùng và những điều huyền ảo, nó như trục đường đi giữa thực và ảo nhưng không ngã về bên này hay bên kia, đó chính là trạng thái thiền”. Có thể nói công trình này tiếp cận truyện ngắn Marquez theo một hướng nhìn mới khá lý thú. Trong khi thực tế cũng như lý luận đều quan tâm đến ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đối với Mỹ Latin thì tác giả lại dùng Phật học. Thông qua đó, chúng tôi nhận thấy một thông lộ mới và mạnh dạn mở rộng những so sánh liên tưởng đến yếu tố kỳ ảo cũng như truyện ngắn của Marquez trong hoàn cảnh tiếp xúc đa phương, đa diện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Bên cạnh đó, nhiều bài viết trong tập Modern critical views- Gabriel Garcia Marquez của Harold Blom đã chạm đến những vấn đề sâu sắc của truyện ngắn Marquez. Các tác giả Lois Parkinson Zamora, John Gerlach, Vera M.Kutzinsky, Isabel Alvarez-Borland, Carlos J.Alonso… đã thông qua phân tích các truyện ngắn cụ thể như Cụ già với đôi cánh khổng lồ, Không ai viết thư cho ngài đại tá, Đám tang của bà mẹ vĩ đại,… chỉ ra nhiều vấn đề về nhân sinh quan, về thực tế chính trị, về những dấu ấn của William Faukner trong sáng tác của Marquez. Ruben Pelayo trong Critical Companion to popular contemporary writers- Gabriel García Marquéz [105] đã dành phần 5 nói về truyện ngắn Marquez. Ông khảo sát 05 truyện ngắn gồm: Ông lão có đôi cánh khổng lồ, Đám tang của bà mẹ vĩ đại, Buổi chiều kỳ diệu của Balthazar, Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Độc thoại của Isabel ngắm mưa ở Macondo. Tác giả đã chỉ ra Ông lão có đôi cánh khổng lồ sáng tác năm 1968, sau Trăm năm cô đơn, đã có sự chuyển tiếp khác biệt, hướng vào vấn đề mới hơn so với hai tập truyện in trước đó là Đôi mắt chó xanh và Đám tang của bà mẹ vĩ đại, tiếp cận với tập truyện Chuyện buồn không thể tin được của Erendira và người bà bất lương. Đó là khuynh hướng về khai thác và bóc lột cá nhân, đồng thời hình tượng biển bất tận bắt đầu xuất hiện.
  12. Elodie Morin trong Alteridad y muerte en Ojos de perro azul đã bàn đến sự thay thế tiếp nối- tức các giấc mơ và cái chết trong tập Đôi mắt chó xanh của Marquez. Tác giả nhấn mạnh sự cô đơn về thể chất lẫn tinh thần của con người trong nỗ lực xác định bản thể và nỗi sợ hãi khi quá trình phản tư lại tách bản thân làm hai nửa không thể nào thống hợp, đến được với nhau… Về nghệ thuật truyện ngắn Marquez, chúng tôi lưu ý đến tác phẩm của Maythawee Holasut. Trong bài viết The Suspension of Time in Short Stories of Gabriel Garcia Marquez [103] tác giả đã trình bày kỹ thuật ngưng đọng thời gian, mối quan hệ của nó đối với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và phong cách Marquez. Nhờ thủ pháp này mà truyện ngắn Marquez đã cung cấp được một cái nhìn sâu vào những thay đổi chính trị, lịch sử của khu vực Mỹ Latin thông qua sự kết hợp giữa biến cố hiện thực và bối cảnh kỳ ảo, tạo ra một cảm quan kỳ ảo kết nối tâm hồn khu vực này với những niềm tin vào các thế lực siêu nhiên. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thông qua truyện ngắn Marquez đã thể hiện sức mạnh của mình trong quá trình phản ánh các sự kiện hiện thực như thuộc địa hóa, độc tài quân sự cũng như ảnh hưởng của chúng đến lịch sử các đất nước và khu vực. Nghệ thuật đình chỉ thời gian có thể tạo ra một kiểu thời gian quy hồi,… Có thể nhận thấy những vấn đề nghệ thuật truyện ngắn Marquez thường ít khi được tách riêng mà được trình bày gắn kết vào các vấn đề nội dung trong các công trình nêu trên. Ví dụ như John Gerlach đã đề cập đến thủ pháp so sánh, cách đặt tựa đề và cơ cấu đoạn kết trong truyện ngắn Cụ già với đôi cánh khổng lồ nhằm làm rõ tính chất kỳ ảo của đôi cánh; hay Vera M.Kutzinski đã phân tích hình tượng ông lão biết bay để chỉ ra sự nối kết về văn hóa trong truyện ngắn vừa nêu của Marquez,… Tại Việt Nam, số lượng các công trình, bài viết về Marquez nói chung và truyện ngắn Marquez nói riêng, trong giới hạn tập trung của chúng tôi, chưa thực sự phong phú. Điều này có lẽ là kết quả của thực tế Marquez vẫn chưa phải là tác giả được giảng dạy trong chương trình đại học, cao đẳng lẫn phổ thông. Trong tình hình đó, chúng tôi chú ý đến những bài viết của dịch giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung Đức về các vấn đề liên quan đến nội dung truyện ngắn Marquez. Nguyễn Trung Đức là người có nhiều đóng góp cho quá trình đưa Marquez đến với người đọc Việt Nam. Ngoài hệ thống tác phẩm của Marquez, ông còn viết những bài phê bình và giới thiệu về tiểu sử tác giả, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và về truyện ngắn Marquez. Về truyện ngắn, bài giới thiệu viết trong tập Ngài đại tá chờ thư do NXB Văn học in năm 1983 có thể xem là viên đá góc tường dẫn dắt và định hướng cho nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có luận văn này. Ông đã nêu lên cảm quan về “ngày khải huyền của xã hội tư bản phụ thuộc Mỹ Latin, một xã hội chậm phát triển và trì trệ, một xã hội đang sụp đổ và chính trong quá trình sụp đổ này, xã hội mới và kiểu người thích hợp với nó đang ra đời” [49,5]. Đồng thời ông cũng chia truyện ngắn Marquez làm hai nhóm: nhóm truyện ngắn hiện thực nghiêm ngặt và nhóm truyện ngắn hiện thực huyền ảo với các đặc điểm như chứa các hiện tượng thuộc đời sống ý thức ở
  13. trình độ trực quan, tiền logic; kết hợp cảm quan của người nghệ sĩ và sức tưởng tượng của người đọc, kết hợp các loại không gian thời gian thực và tâm lý… Bài viết Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của G.Máckét qua Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương [22] của ông đã vạch ra những nét khái quát nhất của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và vận dụng vào phân tích truyện ngắn Chuyện buồn không thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương, qua đó làm rõ sự áp bức của dạng người thú đối với những con người công cụ như Erendira đáng thương,… Với các công trình trong nước bàn về nghệ thuật truyện ngắn Marquez, bài viết của Lê Huy Bắc Tự sự nhiều điểm nhìn trong “Cụ già với đôi cánh khổng lồ” [8, 135-153] đã nêu lên được một điểm quan trọng về xây dựng cấu trúc truyện ngắn- điểm nhìn. Thông qua đó tác giả đã chỉ ra hai lớp điểm nhìn: điểm nhìn trực tiếp bao gồm các loại: tôn giáo, nhà buôn, nghệ sĩ, võ biền, bè bạn, khoa học và điểm nhìn gián tiếp gồm dạng độc tài, quan liêu và bạo lực; từ đó khái quát ý nghĩa những góc nhìn đến quá trình tri nhận tác phẩm và cuộc đời. Bên cạnh đó, bài viết Quan niệm về nghệ thuật kể chuyện của Gabriel Garcia Marquez qua các truyện ngắn của Võ Thành Thắng [67] cũng đã nêu lên được nhiều vấn đề thú vị trong truyện ngắn của Marquez như cách kể chuyện bằng các tính từ và thủ pháp lạ hóa, cách nhìn trong sáng của một đứa trẻ thể hiện qua những so sánh nhất, khẳng định phủ định tuyệt đối, phép so sánh nhân hóa,… Tóm lại, vấn đề yếu tố kỳ ảo và truyện ngắn Marquez bước đầu đã được chú ý. Các công trình và bài viết đã trình bày nhiều mảng khác nhau của vấn đề, có ở đó những khơi gợi nhưng cũng không ít những mâu thuẫn, tồn tại song song những cơ hội và thách thức. Ý thức được điều đó, chúng tôi tiếp thu những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước với tất cả sự cầu thị để thực hiện đề tài này. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng ba phương pháp văn hóa- lịch sử, phân tích cấu trúc và so sánh- đối chiếu. Ý thức được những tác nhân văn hóa và lịch sử đối với sáng tác của một nhà văn, đồng thời quá trình tìm hiểu tác phẩm nếu khơi ngược lại đúng nguồn mạch này sẽ thu được một kết quả khả quan. Vì thế, chúng tôi vận dụng phương pháp văn hóa- lịch sử và đây là phương pháp chính chúng tôi đặc biệt quan tâm. Trường hợp Marquez, chúng tôi lưu ý đến lịch sử châu lục và Colombia từ đó vận dụng chủ nghĩa lịch sử mới vào luận văn. Chủ nghĩa lịch sử mới giúp chúng tôi đẩy vấn đề theo hai hướng: xem xét cái tôi chủ thể đồng thời gắn được những yếu tố văn hóa năng động vào nghiên cứu văn học. Trong giới hạn luận văn, chúng tôi vận dụng lịch sử chính trị của Mỹ Latin vào việc xác lập không gian nghệ thuật trong truyện ngắn kỳ ảo của Marquez, vận dụng triết học Mỹ Latin vào lý giải những hình tượng nhân vật của tác giả và các mảng văn hóa là để lý giải hệ thống biểu tượng của nhà văn. Tất
  14. nhiên những vận dụng này hòa quyện vào nhau nhằm khái quát những nét cơ bản nhất cũng như xuyên suốt những vấn đề trọng tâm mà chúng tôi hướng đến. Đồng thời, chúng tôi còn vận dụng phương pháp phân tích cấu trúc. Phương pháp này giúp tìm ra hướng liên kết các thành phần của truyện ngắn trong mối quan hệ với yếu tố kỳ ảo. Đằng sau những hình tượng, biểu tượng và cấu trúc, dường như có một mô hình chung từ phía tác giả chi phối, tạo nên một đường dây ngầm trong truyện ngắn nói riêng và các sáng tác nói chung. Mô hình này chi phối mặt hình thức văn bản nhưng bản thân nó phải mang tính tư tưởng. Điểm này sẽ được chúng tôi làm rõ ở chương 2. Vấn đề ở đây là phương pháp cấu trúc có thể giúp chúng tôi khảo sát và thao tác, lý giải bằng mô hình quan niệm về con người và thế giới. Cũng bằng phương pháp cấu trúc, chúng tôi tiến hành tìm hiểu cấu trúc truyện ngắn của Marquez trong mối quan hệ với yếu tố kỳ ảo ở chương 4. Trong phần này, chúng tôi phân rã truyện ngắn ra thành một mệnh đề, một tình thế rồi từ đó phát triển lên thành các truyện ngắn có cấu trúc phức đa mệnh đề hoặc xếp chồng, mở rộng nhiều tình thế. Song song đó, truyện ngắn Marquez được khảo sát ở khâu đầu tiên và cuối cùng trong tương quan với cái kỳ ảo. Sau hết, phương pháp so sánh - đối chiếu cũng được vận dụng trong luận văn. Theo đó, cái kỳ ảo được chúng tôi so sánh qua ba giai đoạn nhằm làm rõ điểm tương đồng và khác biệt của dạng thứ ba- cái kỳ ảo hiện đại- đối với các dạng khác. Theo chúng tôi, cái kỳ ảo hiện đại là khái niệm trong tâm sẽ được dùng để triển khai toàn luận văn. Chúng tôi còn vận dụng phương pháp này để so sánh các loại hình nhân vật, ba loại không gian để vừa chỉ ra đặc trưng khu biệt đồng thời cố gắng tìm ra hướng vận động của các đối tượng này. Phương pháp so sánh sẽ được vận dụng cả trong việc đối chiếu các dạng của biểu tượng trong chương 3 cũng như so sánh các nhóm tác phẩm để chỉ ra các dạng cấu trúc như cấu trúc đơn và phức, cấu trúc tam đoạn luận,… 5. Mục đích nghiên cứu và đóng góp của luận văn Triển khai luận văn này với đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez”, chúng tôi hướng đến các mục đích như sau: Thứ nhất, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng lịch sử văn học Mỹ Latin bắt nguồn từ những sáng tác truyền miệng, dân gian của người bản địa mà nổi bật nhất là của người Inca, Maya, Aztec. Bởi lẽ nhiều công trình nghiên cứu đều khẳng định rằng lịch sử và văn học Mỹ Latin bắt đầu từ khi người châu Âu xuất hiện vào thế kỷ XV: “The history of Latin America begins with its accidental discovery by Columbus in 1492, and continues with the subsequent colonies, revolutions, and forming of nations of the Twentieth Century. This history forms the foundation of the Latin American literary tradition, as well as Garc’a Márquez’ works” [87]. Tại Việt Nam, công trình có tính nền tảng về văn học Mỹ Latin của Viện thông tin Khoa học Xã hội tuy có ý thức: nó cũng bao gồm cả sự thể hiện văn học của các nền văn minh người da đỏ đã phát triển cao bị chinh phục bởi người Tây Ban Nha [40,40] nhưng lại
  15. bắt đầu lịch sử văn học Mỹ Latin bằng thời kỳ thuộc địa với những sáng tác của các nhà thám hiểm phương Tây. Vì thế, trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi muốn nhắc đến những sáng tác của người Inca, Maya khi liên hệ vào yếu tố kỳ ảo ở chương 1 cũng như dấu ấn anh hùng lưỡng tính ở rải rác các chương 2 và 3 với hy vọng khôi phục một bộ phận bị lãng quên của văn học Mỹ Latin. Thứ hai, hướng đến một cách hiểu về yếu tố kỳ ảo và vận dụng vào chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng là mục tiêu của chúng tôi. Hiện nay thuật ngữ cái kỳ ảo được hiểu trên nhiều cấp độ rộng hẹp khác nhau như chúng tôi đã trình bày trong phần lịch sử vấn đề. Đồng thời yêu cầu lý giải chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng được đặt ra cấp thiết. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vốn là một thuật ngữ hội họa được chuyển sang dùng cho văn học châu Âu, sau đó lại trở thành đặc trưng của văn học Mỹ Latin, vậy bản chất của vấn đề này ra sao? Liệu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo có thể vận dụng cho văn học các nước châu Âu hay chỉ là của riêng Mỹ Latin. Thông qua lý giải yếu tố kỳ ảo, chúng tôi hy vọng cũng có thể tìm ra một hướng nhìn thông suốt để lý giải vấn đề này ở chương 1 nhằm làm cơ sở lý luận để tiến hành tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Marquez. Thứ ba, trên cơ sở khảo sát những thành phần như hình tượng nhân vật, không gian, thời gian và biểu tượng gắn với yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của Marquez, chúng tôi hy vọng có thể tìm ra đường dây liên kết các bộ phận này đặt trong tổng thể một cấu trúc truyện ngắn tương quan với yếu tố kỳ ảo. Bởi tương ứng với mô hình quan niệm về con người và thế giới thì tất yếu sẽ có một cấu trúc hình thức tương ứng. Tuy nhiên, vấn đề này còn ở phía trước và sẽ được tiến hành ở chương 4. Ba mục đích trên, nếu viên thành, có thể xem như đóng góp của luận văn. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn này được chia làm ba phần: mở đầu, bốn chương nội dung chính và kết luận. Trong phần Mở đầu, chúng tôi giới thiệu những vấn đề mang tính dẫn nhập như lý do chọn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, lịch sử vấn đề, phương pháp nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của luận văn, và cuối cùng là cấu trúc của luận văn. Đối với chúng tôi, lịch sử vấn đề và phương pháp nghiên cứu có tầm quan trọng đặc biệt. Vì thế, trong mục lịch sử vấn đề, chúng tôi đã cố gắng bao quát, trong một chừng mực có thể, các tư liệu liên quan ở trong và ngoài nước; đồng thời, tổng thuật có phân tích một số điểm quan trọng nhằm bước đầu khơi gợi và chuẩn bị cho việc triển khai ý kiến của chúng tôi trong các chương nội dung chính. Đối với phương pháp nghiên cứu, chúng tôi đã lý giải lý do vận dụng ba phương pháp nghiên cứu chính trong luận văn: phương pháp lịch sử-văn hóa, phương pháp phân tích cấu trúc và phương pháp so sánh đối chiếu. Phần nội dung chính gồm bốn chương: Yếu tố kỳ ảo – những vấn đề khái quát (chương một), Yếu tố kỳ ảo và hệ thống hình tương trong truyện ngắn G. G. Marquez (chương hai), Yếu tố kỳ ảo và biểu tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez (chương ba), và Yếu tố kỳ ảo và vấn đề cấu trúc truyện ngắn G. G. Marquez (chương bốn). Như vậy, trên cở sở những vấn đề chung của chương một, luận văn đã
  16. triển khai những phương diện khác nhau của truyện ngắn của G. G. Marquez liên quan đến yếu tố kỳ ảo. Đối với những vấn đề khái quát, luận văn, thông qua việc xác định nội hàm và đặt yếu tố kỳ ảo vào diễn trình văn học, đã luận giải hai khái niệm cốt yếu: yếu tố kỳ ảo và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Đồng thời, chúng tôi xác định yếu tố kỳ ảo như một phạm trù trung tâm trong chủ nghĩa hiện thực huyền ảo; từ đó, xác định khái niệm, tính chất của trào lưu văn học này và lưu ý đến tác giả nổi bật là Gabriel Garcia Marquez với yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của ông. Trong Chương 2, luận văn khảo sát hệ thống hình tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez theo hướng xác định các dạng nhân vật, không gian và thời gian. Đây là những thành phần nổi bật nhất, có vai trò định hướng và luận giải hệ thống truyện ngắn của Marquez . Về biểu tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez (Chương 3), luận văn chú ý đến khái niệm, tính chất của biểu tượng và con đường vận hành của yếu tố kỳ ảo trở thành một biểu tượng. Từ đó, chúng tôi tiến hành khảo sát ba nhóm biểu tượng có mối liên hệ với yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Marquez nhằm lý giải đặc điểm của bản thân hệ thống biểu tượng cũng như truyện ngắn hàm chứa các biểu tượng này, nghĩa là, chúng tôi nhìn yếu tố kỳ ảo và truyện ngắn theo hướng liên tưởng của các biểu tượng. Chương 4 tập trung vào vấn đề cấu trúc truyện ngắn G.G.Marquez là chương cuối cùng. Luận văn cố gắng xác định đặc điểm cấu trúc truyện ngắn kỳ ảo của Marquez trên diện cơ cấu với các khâu mở đầu, kết thúc của nó cũng như sự liên kết theo hướng cấu trúc trên các cấp độ khác nhau. Như vậy, chương này khảo sát truyện ngắn Marquez và yếu tố kỳ ảo trong tổng thể nhằm xác định những thành phần ổn định tạo nghĩa trong văn bản cũng như thể hiện mô hình quan niệm của nhà văn trong sáng tạo văn chương. Phần Kết luận đề cập đến những kết quả của luận văn, kiến nghị cũng như đề xuất hướng nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn những mục khác như: Tài liệu tham khảo và Phụ lục. Trong mục Phụ lục, chúng tôi cung cấp thêm những dữ liệu liên quan đến đề tài, gồm bốn phần. Phần đầu giới thiệu những tác phẩm của Marquez - những sáng tác của ông được chọn trong hợp tuyển cũng như những tác phẩm đã dịch sang tiếng Việt; phần hai tóm tắt 23 truyện ngắn được khảo sát trong khuôn khổ luận văn, phần ba là bản dịch ba truyện ngắn kỳ ảo của Marquez do chúng tôi dịch từ tiếng Tây Ban Nha được dùng làm tài liệu khảo sát và phần bốn là một số bảng thống kê phục vụ quá trình tra cứu, luận chứng.
  17. Chương 1- YẾU TỐ KỲ ẢO- NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT 1.1 Văn học và yếu tố kỳ ảo Yếu tố kỳ ảo là một bộ phận của nền văn học nhân loại. Từ ngàn xưa, khi con người gắn bó, hòa mình vào tự nhiên và nhận thức bản thể, những mầm mống của yếu tố kỳ ảo đã ở đó và đón chờ họ trong mối tương tác đầy trực giác. Chính trong cuộc hội ngộ này, văn học được thúc đẩy bởi những sức mạnh vừa xa vừa gần, vừa rõ ràng vừa mơ hồ như thần khải, đã mải miết chảy và trở thành một trong những dòng chủ lưu đánh dấu chặng đường phát triển của con người. Từ những sáng tác ban đầu thể hiện niềm tin ngây thơ về bản chất thiêng liêng của vũ trụ, cái sợ hãi của con người trước các vị thần,… qua những sùng tín trên con đường hành hương về miền đất thánh mà thượng đế hứa ban, những ngại ngần của người dương gian trước yêu ma, hồ ly,... dần dần con người bắt đầu ý thức một cách đầy đủ hơn về cái kỳ ảo trong văn học. Đến khi các Thượng đế chết đi trong những chiếc ghế bành của ngài (chữ của Nietszche) thì con người phải đứng ra chịu trách nhiệm về bản thân mình và cái kỳ ảo đã trở thành công cụ quyền năng mà con người thể hiện trong văn học. Cuộc sống và văn học đồng hành, cùng chia sẻ những vấn đề và đặt ra các giới hạn cho con người. Giữa cái khả giải và bất khả giải luôn tồn tại những giới hạn mà con người phải cố gắng bước qua, khi chưa thể làm điều đó thì cái kỳ ảo trong văn học trở thành một giải pháp và điểm tựa cho con người, có khi như một niềm tin, có lúc như một thủ pháp. Rõ ràng cái kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng và nó đã gặp được bạn đồng hành của mình là văn học- một hình thái ý thức xã hội bằng tư duy nghệ thuật, hạt giống lớn lên từ mảnh đất phì nhiêu của trí tưởng tượng phong phú. Vì thế, yếu tố kỳ ảo đã, đang và sẽ tồn tại trong văn học như một bộ phận không thể tách rời. Vai trò của yếu tố kỳ ảo trong nền văn học ngày càng trở nên quan trọng. Theo thời gian yếu tố kỳ ảo đã có những biến đổi nhất định để thích nghi với văn học. Nói đúng hơn, người nghệ sĩ đã vận dụng yếu tố kỳ ảo theo những cách khác nhau nhằm đạt những mục đích của mình. Khi bơ vơ trước tự nhiên, con người đã đồng nhất bản thể vào thiên nhiên và hình thức hóa các vị thần dưới sức mạnh của cái kỳ ảo. Ngay cả đến khi con người đề cao tuyệt đối lý trí thì cái kỳ ảo không mất đi mà vẫn âm thầm cảnh tỉnh, nhắc nhở nhân loại về những vấn đề hệ trọng của thế giới quan và nhân sinh quan; vẫn soi sáng con đường qua hỏa ngục, luyện ngục và thiên đàng của Dante; vẫn như một hồn ma day dứt về tội ác của Shakespeare,… Cái kỳ ảo càng trở nên quan trọng hơn trong văn học cận đại, hiện đại và hậu hiện đại, khi những chuẩn mực giá trị đặt trên viên đá tảng lý trí dần lung lay, con người hoang mang trước những tan vỡ thì càng khao khát bám lấy một bến bờ kỳ ảo đã quen thuộc tự xa xưa. Trên đồng dollar của đất nước hiện đại nhất thế giới người ta trang trọng in dòng chữ In God we trust, con người ngày nay đang dần sống lại những cổ tích, người ta dạy cho trẻ em tin vào những chuyện thần tiên,
  18. người lớn cố gắng tìm ra ước mơ trong hình bóng Santa Claus, cả thế giới hồi hộp theo bước chân của cậu phù thủy Harry Potter… Chính trong cuộc sống bộn bề của hiện tại, người ta càng cần đến yếu tố huyền ảo trong văn học. 1.1.1 Yếu tố kỳ ảo Chúng tôi dùng khái niệm cái kỳ ảo trong mối tương quan so sánh giữa các thuật ngữ: myth, fantasy và magic. Trước hết, “myth” được hiểu là thần thoại, chuyện hoang đường tưởng tượng. Đó là câu chuyện kể về các vị thần trong cuộc sáng tạo thế giới và con người. Theo nhà nghiên cứu Đào Ngọc Chương trong công trình Phê Bình Huyền thoại [17], thần thoại hay huyền thoại gắn liền với tư duy huyền thoại; đó là cảm quan siêu tự nhiên khi người nguyên thủy và thế giới là một, chưa chia tách nhưng thể hiện ở hai cấp độ vĩ mô và vi mô khác nhau. Thứ cảm quan này kết nối con người và tự nhiên từ trong bản chất nhưng với mục đích phân biệt, con người bằng lời nói đã đặt tên và phân xuất cái ta ra khỏi cái khác bằng cách phóng chiếu bản thân mình. Chính bản chất phổ quát tạo nên tính siêu tự nhiên là đặc trưng của myth- huyền thoại chứ không phải ở cách hình thức hóa thành các vị thần. Thuật ngữ cái kỳ ảo được dịch từ “phantasia” trong tiếng Latin mang nghĩa điều tưởng tượng, về sau được hiểu như những hư huyễn, ma quỷ. Theo Lê Nguyên Long [44] thì: Về mặt từ nguyên học, chữ fantastic (tiếng Pháp: fantastique, tiếng Latin: phantasticus), xuất hiện trong tiếng Anh Trung cổ thế kỷ XIV, vốn có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp phantastikos, có nghĩa là “tạo ra những hình ảnh thuộc về tinh thần”, chữ phantazein, nghĩa là “xuất hiện trong tâm trí”… Tiếp đó tác giả dẫn ý kiến của Allienne Backer trong bài giới thiệu tuyển tập nghiên cứu về cái kỳ ảo trong hội nghị thường niên lần thứ 15 tổ chức tại Florida của Hiệp hội cái kỳ ảo nghệ thuật quốc tế thì lý thuyết về cái kỳ ảo đến tận thế kỷ XIX mới hình thành do người Pháp dịch tác phẩm của nhà văn Đức Hoffmann vào năm 1828. Trong khi Hoffmann cho rằng tác phẩm của mình là hoàn toàn hư ảo: fantasy, thì do cách dịch của Contes: fantastique, đã định hình một thể loại văn học. Trước đó Joseph Addison (1672-1719) trên tờ Spectactor năm 1712 đã cho đăng “Những khoái cảm của sự tưởng tượng” đề cập đến “lối viết theo kiểu truyện cổ tích thần kỳ, tức là những sáng tác hiện đại viết theo cách thức bắt chước những câu chuyện cổ tích và những khúc ballad có tính chất siêu nhiên cổ xưa” đã giúp cho thuật ngữ fantastic “tạo ra một loại khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí đọc giả và làm thỏa mãn trí tưởng tượng của đọc giả bởi cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đó.” [tlđd] Vấn đề là đã phát sinh từ cái kỳ ảo, như một yếu tố, một nhóm các tác phẩm văn học có đặc trưng riêng. Trào lưu văn học kỳ ảo sẽ được chúng tôi đề cập đến ở phần sau. Ở đây chúng tôi tập trung giải quyết cái kỳ ảo với tư cách là một yếu tố. Trước hết về lịch đại, nếu nói kỳ ảo là những sự việc không
  19. thể xảy ra thì bản thân việc con người nhận thức những cái không thể xảy ra hoàn toàn không phải một kết điểm mà là một quá trình bởi không có những giới hạn của vật chất, chỉ có những giới hạn của nhận thức con người. Về mặt đồng đại, mở ra nhiều không gian khác nhau, cái kỳ ảo cũng khó có thể được xác định là cái không có thực, không thể tin được, bởi lẽ sự khác biệt về văn hóa tạo nên những khung giá trị và quan niệm khác nhau. Một người châu Âu duy lý kiểu “Tôi nghi ngờ là tôi tư duy, tôi tư duy là tôi tồn tại” (Dercarte) chắc hẳn sẽ khó chấp nhận tư duy mang đậm tính tôn giáo của phương Đông với sức thu hút kỳ lạ của những mê cung ngôn ngữ như “sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc,…” (Bát Nhã tâm kinh), càng khó nhận thức được thứ hiện thực kỳ diệu ở các quốc gia Mỹ Latin- đang được con người ở đó xác tín từng ngày từng giờ… Vì thế, một cách tương đối, có thể xác định cái kỳ ảo trong nét nghĩa hẹp nhất, thường được hiểu là sự thể hiện của ma quỷ, các thế lực siêu nhiên, thần bí và được ý thức trong văn học như yếu tố khác thường tác động theo những cách thức đặc biệt gây nên phản ứng, cảm xúc tột độ của con người. Đó là bóng ma của đức vua Đan Mạch- cha của Hamlet, là tiểu thuyết Gothic thế kỷ XVIII- XIX với bối cảnh rùng rợn, đáng sợ, là Người tu sĩ vận đồ đen của Tchekhov, là Miếng da lừa của Balzac,… Magic thường được dịch là huyền ảo, vốn là một tính từ tiếng Latin: magicus, về sau phát triển ở dạng danh từ là magica; bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là magikē (tekhnē) nghĩa là (nghệ thuật của) thầy phù thủy. Đó là một sức mạnh bí ẩn có khả năng làm những điều không thực thành có thực (thường gắn với nét nghĩa tiêu cực- black magic- phép thuật ma quỷ). Tuy nhiên, từ huyền ảo được sử dụng rộng rãi trong nền văn học hiện đại để chỉ những điều kỳ lạ, huyền diệu xảy ra trong cuộc đời thực. Đó là việc con người biến thành bọ trong Hóa thân của Kafka; là mê cung cuộc đời mà Borges đề cập theo kiểu xác suất trong Những công viên có lối đi rẽ hai ngã, là những con người ăn đất, mất ngủ vì tiếng các vì sao chuyển động, là con người có cánh, người hóa nhện của Marquez,… Chúng tôi hiểu cái kỳ ảo là sự tổng hòa tất cả các đối tượng vừa nêu. Nếu như không quá lệch lạc thì cái kỳ ảo là một sản phẩm của trí tưởng tượng được biểu hiện theo một logic riêng, khác thường trong văn học từ cổ chí kim. Điều này hẳn không tránh khỏi cảm nhận thuật ngữ này quá rộng, và nằm vào hướng thứ nhất trong chỉ trích của Lê Nguyên Long khi phê phán Marshall B. Tymm, tác giả công trình Fantasy literature: A core Collection and reference guide đã chia thể loại này thành fantasy cấp cao và fantasy cấp thấp. Fantasy cấp thấp là sự cùng tồn tại của cái lý tính và phi lý tính; fantasy cấp cao bao gồm kiểu huyền thoại và truyện thần tiên của Hóa thân (Kafka) và Kinh Thánh. Nhà nghiên cứu cho rằng: Thực ra những hình thức mà Marshall B. Tymm gọi là fantasy cao cấp đó chỉ có tư cách như là cội nguồn và tiền đề cho một sự thay đổi về chất dẫn đến sự ra đời của cái kỳ ảo thực thụ trong kỷ nguyên hiện đại khi có sự vươn lên thống trị của lý tính và các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho
  20. phép con người thôi tin vào các phép màu huyền diệu, còn các nhà văn thì sáng tạo nên những chuyện thần kỳ quái đản chỉ vì những mục tiêu thuần túy nghệ thuật của mình. [43,44] Thật ra, quan niệm rộng vấn đề ở đây không phải mở toang phạm vi cho truyện ngắn kỳ ảo vốn chỉ thực sự xuất hiện khi có ý thức rõ rệt về lý luận vào thế kỷ XIX mà là nhận thức yếu tố kỳ ảo theo một nét nghĩa rộng nhất, bao gồm các đặc điểm về bản chất, cách biểu hiện và tính chỉnh thể của nó. Cái kỳ ảo xuất phát từ trí tưởng tượng của con người. Nó giống như thật nhưng do bản chất của mình, nó không có thật. Tính chất này có phần tương đồng với bản chất văn học; có lẽ vì thế mà cái kỳ ảo có mối quan hệ mật thiết với văn học như. Cơ sở tâm lý của yếu tố kỳ ảo là trí tưởng tượng của con người. “Giai đoạn đầu tiên và thứ nhất của tưởng tượng phải kể là tưởng tượng hoang đường”[57]. Như vậy, cái kỳ ảo không phải là điều gì hư vô bên ngoài mà bắt nguồn từ chính thế giới tưởng tượng, tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn của con người. Sự thể hiện cái kỳ ảo trong văn học mỗi thời kỳ, do những tiền đề xã hội nhất định, lại không giống nhau. Yếu tố kỳ ảo gắn chặt với tâm lý lo sợ của con người về những gì không lý giải được hoặc không được phép lý giải. Phần không lý giải được thể hiện thành những yếu tố kỳ ảo thời cổ đại chỉ với tư cách là huyễn tưởng thế giới thực tại mà con người hiểu theo trí tưởng tượng ngây thơ chất phác nguyên thủy. Phần không được phép lý giải thể hiện ở cái kỳ ảo được sử dụng phản ánh thái độ của con người về những ẩn ức, những điều kiêng kị trong xã hội không được phép nói đến. Một trong những mục đích sử dụng cái kỳ ảo là thoả mãn lý tưởng đạo đức đang mâu thuẫn với một xã hội nhất định. Cái kỳ ảo thường được hiểu là kỳ dị, quái lạ, siêu nhiên, bất thường, kinh dị, thần ma, huyền thoại,… Tuy có nhiều dạng thức nhưng cái kỳ ảo luôn mang trong mình một logic nhất định. Logic này có thể được lý giải hay thuộc dạng “bất khả tư nghì” nhưng nó vẫn có ở đó, trong từng hoàn cảnh lại bộc lộ một khía cạnh của mình để luôn soi chiếu và làm rõ từng phần cuộc đời, văn học và chính cái nó đã là và sẽ là. Từ tư duy, cái kỳ ảo được đan cài và hiện thực hóa trong tác phẩm văn học dưới dạng thức yếu tố kỳ ảo. Yếu tố là một bộ phận cấu thành sự vật, sự việc, hiện tượng. Yếu tố mang nghĩa nhân tố tức là yếu tố cần thiết gây ra, tạo ra cái gì đó [63,1170]. Trong Anh ngữ, yếu tố có thể hiểu là “element”. Element xuất phát từ khoảng thế kỷ XII đến XVI dùng để chỉ các thành tố cơ bản của thế giới hay các đối tượng thiêng liêng từ bầu trời. Từ này phát xuất từ tiếng Pháp cổ xưa nhất được sử dụng cho đến khoảng những năm 1400, có thể truy nguyên về tiếng Latin: elementum- mang nghĩa là nguyên tắc (principle), nguyên lý cơ bản (rudiment), được dịch từ tiếng Hy Lạp là stoikheion- bước (một giai đoạn trong tiến trình), bộ phận cấu thành. Theo từ điển Oxford (Advanced Leaner) bản in lần thứ 7, element có 08 nhóm nghĩa chia thành 09 nét nghĩa như sau: 1. Phần, lượng: Bộ phận điển hình, bộ phận cần thiết của sự vật; thành phần chất lượng hay cảm xúc. 2. Nhóm người: nhóm người tạo thành một bộ phận của tập thể lớn hơn, của xã hội. 3.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2