Luận văn: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI KHÔNG CỨU GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG.
lượt xem 16
download
Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong BLHS năm 1985. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng lần đầu tiên được quy định trong BLHS Việt Nam năm 1985 tại Điều 107.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI KHÔNG CỨU GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG.
- Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé T¦ PH¸P Trêng ®¹i häc luËt hµ néi Phan thanh hoa Hs31A Téi kh«ng cøu gióp ngêi ®ang ë trong t×nh tr¹ng nguy hiÓm ®Õn tÝnh m¹ng – nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn Chuyªn ngµnh: LuËt H×nh sù Khãa luËn tèt nghiÖp Gi¸o viªn híng dÉn: ThS. Ph¹m V¨n B¸u Hµ néi - 2010
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình. Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy Phạm Văn Báu, ng ười đã nhiệt tình chỉ bảo để tôi hoàn thành khóa luận của mình. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong tổ bộ môn, các thầy cô giáo trong trường Đại học Luật Hà Nội đã dạy dỗ tôi trong những năm học qua. Và cuối c ùng là lời cảm ơn c ủa tôi đến gia đình và bạn bè, những người luôn động viên giúp tôi hoàn thành khóa luận này. Quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận chắc chắn sẽ gặp không ít sai sót và hạn chế, tôi rất mong nhận đ ược sự chỉ bảo tận tình của thầy cô và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tác giả Phan Thanh Hoa
- MỤC LỤC CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÍ CỦA TỘI KHÔNG CỨU GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG. .............................................................................. 6 1.1. Khái quát chung về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. ................................................................ ............ 6 1.1.1. Khái quát lịch sử lập pháp về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong luật Hình sự Việt Nam. 6 1.1.2. Khái niệm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. ................................................................................... 9 1.2. Các dấu hiệu pháp lí của tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. ................................................................ 11 1.2.1 Khách thể của tội phạm. ................................................................. 11 1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm. ....................................................... 12 1.2.3. Chủ thể của tội phạm. ..................................................................... 23 1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm. ........................................................... 24 1.3. Phân biệt tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng với một số tội phạm khác trong BLHS năm 1999. .. 26 1.3.1. Phân biệt tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng với tội giết người...................................................... 26 1.3.2. Phân biệt tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng với tội vô ý làm chết người. ..................................... 28 1.3.2. Phân biệt điểm a khoản 2 Điều 102 (Ng ười không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm) với điểm c khoản 2 Điều 202 (Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn). ................................ ............................................................ 31 CHƯƠNG 2: HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG CỨU GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TR ẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG. ...... 33
- 2.1. Hình phạt chính: ................................ .................................................. 33 2.1.1. Hình phạt cảnh cáo: ....................................................................... 33 2.1.2. Hình phạt cải tạo không giam giữ:................................................. 34 2.1.3. Hình phạt tù:................................................................................... 35 2.2. Hình phạt bổ sung: ............................................................................... 40 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI KHÔNG CỨU GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TR ẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG. ...... 42 2.1. Tình hình xét xử tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong những năm gần đây. .............................. 42 2.2. Những tồn tại, khó khăn và vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. ........ 44 2.3. Một số kiến nghị về công tác giải thích hướng dẫn áp dụng quy định Điều 102 BLHS năm 1999................................................................. .......... 51
- B¶ng tõ viÕt t¾t Bé luËt h×nh sù Blhs : Tr¸ch nhiÖm h×nh sù TNHS : CÊu thµnh téi ph¹m CTTp : Toµ ¸n nh©n d©n tèi cao. TANDTC :
- CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÍ CỦA TỘI KHÔNG CỨU GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG. 1.1. Khái quát chung về tội không cứu giúp ng ười đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng . 1.1.1. Khái quát lịch sử lập pháp về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong luật Hình sự Việt Nam. * Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong BLHS năm 1985. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng lần đầu tiên được quy định trong BLHS Việt Nam năm 1985 tại Điều 107. “Điều 107 . Tội cố ý không giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. 1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp, dẫn đến chết người, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm hoặc là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Nghị quyết số 04/HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 29/11/1986 hướng dẫn một số dấu hiệu của tội này như sau: “Tội cố ý không cứu giúp ng ười đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107). Theo khoản 1 đây là hành vi phạm tội của người thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (sắp chết) hoặc có thể chết (như: sắp chết đuối; bị th ương tích nặng do tai nạn giao thông gây ra…), tuy có điều kiện m à không cứu giúp (tức là có khả năng cứu giúp và sự cứu giúp không gây nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người khác) mà cố ý bỏ mặc, dẫn đến chết người.
- - Theo khoản 2, người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm (như: cùng đi tắm ở sông, người biết bơi đùa nghịch làm cho người không biết bơi bị chới với sắp chìm mà không cứu vớt) hoặc là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp, có nghĩa vụ phải cứu giúp (nh ư thủy thủ tàu đang đi trên sông, trên biển đối với người đang vật vờ trên mặt nước, bác sĩ đối với bệnh nhân đang cần cấp cứu…). Đối với trường hợp điều khiển phương tiện giao thông vận tải gây ra tai nạn rồi bỏ chạy, cố ý không cứu giúp người bị nạn để trốn tránh trách nhiệm thì xử lý theo Điều 186, khoản 2, điểm b (tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng)”. Do nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi không c ứu giúp người khác và c ũng nhằm loại ra khỏi xã hội những tư tưởng lạc hậu, lối sống ích kỉ, cá nhân mà BLHS năm 1985 đã xác định và quy định hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là tội phạm và quy định hình phạt đối với tội phạm. Quy định tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của BLHS 1985 đã cơ bản đáp ứng được thực tiễn tình hình phạm tội trong giai đoạn này, nó không những có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn là căn cứ pháp lí đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, góp phần to lớn trong thực tiễn xét xử tội phạm, thể hiện sự tiến bộ trong trình độ lập pháp của nhà nước ta. * Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong BLHS năm 1999. Sau hơn 10 năm thực hiện BLHS năm 1985, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và những thành tựu nhà nước ta đạt được trong mọi lĩnh vực, tình hình xã hội cũng có nhiều biến đổi. Khi đó, BLHS năm 1985 có nhiều quy định không còn phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là cần phải có sự sửa đổi bổ sung một cách toàn diện, đầy đủ hơn. Để đáp ứng yêu cầu đó, BLHS năm 1999 đã được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và so với BLHS năm 1985 nó đã có những thay đổi đá ng kể theo hướng hoàn thiện hơn. Tội
- không c ứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 102 BLHS năm 1999 thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng con người. Điều 102 BLHS năm 1999 quy định như sau: “Điều 102. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. 1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm; b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có ngh ĩa vụ phải cứu giúp. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” So với quy định tại Điều 107 BLHS năm 1985 thì quy đ ịnh tại Điều 102 BLHS năm 1999 về tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có một số điểm mới sau: Thứ nhất: trong tên tội danh đã bỏ đi hai từ: “cố ý”, Điều 107 BLHS năm 1985 quy định là “Tội cố ý không giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” còn Điều 102 BLHS năm 1999 quy định “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”. Điều này rõ ràng là hợp lí, nó làm cho quy định trong điều luật ngắn gọn, c hặt chẽ và logic hơn rất nhiều vì bản thân của hành vi không cứu giúp đã bao hàm sự cố ý. Thứ hai: Điều 102 BLHS năm 1999 đã thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với tội phạm này, thể hiện tội phạm được phân thành các cấu thành c ụ thể và chi tiết tạo thuận lợi cho việc xét xử và áp
- dụng hình phạt thống nhất hơn (Ví dụ: tại khoản 2 Điều 102 đã chia thành các điểm cụ thể mà không gộp chung như quy định tại Điều 107 BLHS năm 1985). Thứ ba: Điều luật quy định hình phạt bổ sung thành một khung (khoản 3) của tội phạm mà không q uy định chung trong một điều luật riêng như trong BLHS năm 1985 cũng cho thấy sự hợp lí và thuận lợi cho việc nhận thức và áp dụng trong thực tiễn, thể hiện rõ sự tiến bộ trong trình độ lập pháp của nhà nước. Có thể nói, với việc nghiên cứu và đánh giá sơ lược lịch sử lập pháp của tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đã cho thấy một cái nhìn tổng quát về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, của các tội xâm hại tính mạng con người và tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nói riêng. Cùng với sự thay đổi của xã hội, mỗi thời kì, luật pháp có thể có những sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và có những hình phạt hợp lí. Với việc quy định cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể và những tình tiết định khung tăng nặng rõ ràng tại Điều 102 BLHS năm 1999 đã tạo ra căn cứ thuận lợi cho việc xử lí tội phạm và người phạm tội này khi cá thể hóa TNHS và hình phạt, hạn chế đến mức thấp nhất việc xử lí oan sai. Dù còn có đ iểm chưa hợp lí nhưng phải ghi nhận rằng quy định của BLHS năm 1999 về tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là một sự tiến bộ trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm tội không cứu giúp ng ười đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là tội phạm xâm hại đến tính mạng con người, nó không chỉ phản ánh hành vi vi phạm pháp luật của một người không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật buộc phải thực hiện mà hơn thế nó còn thể hiện sự xuống cấp về mặt đạo đức và truyền thống “thương người như thể thương thân” trong xã hội ta của người phạm tội này.
- Đặt dưới góc độ tương quan so sánh với các tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người, có thể thấy tội không cứu giúp người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chiếm tỉ lệ không cao về số vụ bị khở i tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm (chỉ chiếm khoảng 1.2% trong tổng số các tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người – Nguồn: báo cáo tổng kết toàn ngành Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) năm 2003). Đ iều đó không có nghĩa là tính chất của tội phạm này là ít nguy hiểm và không đáng lo ngại, mà trên thực tế, những vụ án bị xét xử về tội phạm này rất được dư luận quan tâm, theo cách nói của một số người thì tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cũng được ví như là một hành vi “giết người không dao”. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là tội phạm được quy định lần đầu tiên trong BLHS Việt Nam năm 1985 tại Điều 107 và cho đến hiện nay chưa có một văn bản pháp lí nào đưa ra định nghĩa cụ thể về tội này. Khoản 1 Điều 102 BLHS năm 1999 cũng mới chỉ quy định cấu thành cơ bản của tội không cứu giúp người đang tro ng tình trạng nguy hiểm đến tính mạng: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm ” [2, 51] mà chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Hiểu theo thuật ngữ đơn thuần thì không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là hành vi b ất hợp pháp của một hay nhiều người bỏ mặc người khác chết khi người đó gặp nguy hiểm đến tính mạng. Còn trong khoa học luật hình sự: “ Tội không cứu giúp ng ười đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là hành vi không cứu giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà họ thấy và có điều kiện cứu giúp, dẫn đến người đó chết” [6, 402].
- Để xác định một hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không khó nhưng rất khó để biết hành vi không cứu giúp đó có CTTP hay không vì đây được coi là loại tội phạm ẩn. Chỉ hành vi nào thỏa mãn các dấu hiệu định tội được nhà làm luật dự liệu trong CTTP quy định tại Điều 102 mới bị coi là phạm tội. 1.2. C ác dấu hiệu pháp lí của tội không cứu giúp ng ười đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. 1.2.1 Khách thể của tội phạm. “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [6, 86]. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được quy định trong Điều 8 BLHS năm 2009, theo đó: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã h ội được quy định trong Bộ luật h ình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Khách thể của tội phạm thể hiện tính chất, nội dung, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại chương XII BLHS (chương các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người), điều này có nghĩa là khách thể loại của tội không cứu giúp người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là quan hệ nhân thân còn khách thể trực tiếp của tội này là quyền được sống, quyền đ ược tôn trọng và bảo vệ tính mạng [6, 374]. Quyền sống của con người là quyền cơ bản và thiêng liêng nhất, điều đó được ghi nhận từ rất sớm trên thế giới. Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đã gián tiếp xâm hại đến quyền sống của
- con người. Hành vi không cứu giúp người khác khi họ đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mặc dù mình có đủ điều kiện cho thấy sự coi thường tính mạng con người dẫn đến hậu quả là người không được cứu giúp chết. Hành vi đó hoàn toàn trái với pháp luật và đạo đức xã hội, đáng bị lên án và trừng trị. Tuy nhiên, khách thể của tội phạm này không phải là dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội phạm này với các tội phạm có tính chất tương tự như tội vô ý làm chết người, tội giết người hay một số tội xâm hại đến tính mạng, sức khỏe khác. Vì vậy, việc xác định khách thể của tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà không có ý nghĩa về mặt thực tiễn xét xử. 1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài c ủa tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan như: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài c ủa việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thời gian, địa điểm phạm tội) [8, 78]. Một trong những dấu hiệu quan trọng của mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Một hành vi được coi là hành vi khách quan c ủa tội phạm khi nó hội tụ đủ ba đặc điểm sau: Thứ nhất: hành vi đó phải có tính nguy hiểm c ho xã hội, đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt hành vi phạm tội với những hành vi khác. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện ở chỗ hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nếu hành vi đó không xâm hại đến các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự thì sẽ không phải là hành vi c ủa tội phạm. Thứ hai: hành vi khách quan c ủa tội phạm là hoạt động có ý thức và có ý chí. Nếu hành vi đó là cách xử sự của một con người không có nhận thức, không có ý chí thì nó không phải là hành vi phạm tội.
- Thứ ba: hành vi khách quan c ủa tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự, có nghĩa là hành vi đó được quy định là hành vi khách quan c ủa một tội phạm cụ thể trong BLHS. Khi thõa mãn cả ba đặc điểm trên đây thì một hành vi sẽ được coi là hành vi khách quan c ủa tội phạm [6, 104]. Từ những cơ sở lí luận trên, tác giả đi sâu vào phân tích để làm sáng tỏ mặt k hách quan c ủa tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. * Hành vi khách quan của tội phạm Người phạm tội có hành vi (không hành động) không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà họ thấy. Từ quy định này, cần làm rõ một số khái niệm sau: - Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi không hành động phạm tội. “Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm” [6, 108]. Trong luật hình sự Việt Nam, các tội phạm hầu hết đ ược thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, loại tội không hành động chiếm tỉ lệ không nhiều, và tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là một ví dụ điển hình về loại tội này. Ở đây, chủ thể tội phạm đã không thực hiện một hành vi mà pháp luật quy định đó là nghĩa vụ pháp lí của chủ thể và chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ này (hành vi không cứu giúp người khác dẫn đến hậu quả người không được cứu giúp chết). Không hành động là một biểu hiện tiêu c ực, lẽ ra một người phải có nghĩa vụ làm mọi việc để loại trừ sự nguy hiểm cho xã hội nhưng lại không làm nên dẫn đến hậu quả. Cần phân biệt hành vi (không hành động) không cứu giúp với hành vi có hành động nhưng vẫn dẫn đến hậu quả chết người, nếu một người đã có hành đ ộng nhưng vẫn không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì c ũng không coi là phạm tội [11, 124].
- Ví dụ: Một người là cảnh sát cứu hỏa, thấy một người khác đang vùng vẫy trong đám cháy lớn đã xông vào để cứu, nhưng thực tế là người đó đang bị bao vây bởi một biển lửa quá lớn không có lối vào nên người cứu giúp mặc dù đã có hành vi cố gắng cứu người nhưng không thể cứu được nạn nhân. Tuy nhiên, nếu một người đang thực hiện hành vi cứu giúp, không có một trở ngại nào ngăn cản mà tự ý dừng lại mặc dù vẫn còn điều kiện cứu mà không cứu để người bị nạn chết thì vẫn bị coi là phạm tội. Ví dụ: Một người làm nghề đánh cá, thấy một người sắp chết đuối định chèo thuyền đến cứu vớt, nhưng người vợ lại nói: “cứu người chết đuối làm ăn chẳng ra gì”. Vì nghe lời vợ, người đó đã không cứu mà để người bị nạn chết, trong trường hợp này, người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của mình [11, 125]. Hầu hết, hành vi (không hành động) không cứu giúp người là do chủ thể không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, hoặc một số bộ phận dân cư do quan niệm lạc hậu sợ xúi, hoặc sợ bị hiểu nhầm mình là người gây ra tình trạng đó cho nạn nhân nên đã không hành động cứu giúp người bị nạn mà bỏ mặc cho người bị nạn chết. - N gười đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là người mà tính mạng của họ đang trực tiếp bị đe dọa, đòi hỏi phải có sự cứu giúp kịp thời của người khác, nếu không sẽ dẫn đến hoặc có thể dẫn đến chết người. Tình trạng nguy hiểm đang diễn ra hết sức khẩn cấp, tự bản thân nạn nhân không khắc phục được mà cần phải có sự cứu giúp kịp thời của người khác. Nếu khô ng có sự cứu giúp hoặc cứu giúp không kịp thời thì có thể dẫn đến sự nguy hại cho tính mạng của nạn nhân. Ví dụ: Chị K đang trên đường đi làm về bỗng lên cơn đau bụng dữ dội, chị ngã xuống và nằm lăn lộn giữa đường một lúc thì bất tỉnh. Lúc đó có G là người xe ôm thường xuyên đứng ở gần vị trí đó để đón khách. Thấy chị K trong tình trạng ấy, G không những không quan tâm mà còn thản nhiên phóng xe đi mất. Lúc
- này, có thể thấy, tính mạng của chị K đang thực sự bị đe dọa, rất cần sự cứu giúp kịp thời của người khác. Sự nguy hiểm này có thể do tai nạn bất ngờ (bị thương do tai nạn giao thông, tai nạn lao động… đòi hỏi phải được cấp cứu) hoặc có thể do những rủi ro khác như người không biết bơi bị ngã xuống ao, hồ, thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn hoặc có thể do bị bệnh tật (đau ruột thừa, trụy tim…) cần phải được cấp cứu. Sự nguy hiểm đến tính mạng có thể do bên ngoài đưa lại hoặc có thể do chính bản thân người đang trong tình trạng nguy hiểm đó tự gây ra. Người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng do hành vi tự sát của họ gây ra (như treo cổ, uống thuốc độc…) cũng thuộc trường hợp này [6, 402]. Nếu một người chưa thực sự ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, nghĩa là họ còn có khả năng tự cứu mình và người đó vẫn chưa ở trong tình trạng như ví dụ đã nê u trên mà có người không cứu giúp thì cũng không bị coi là phạm tội. Người ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không được cứu mà bị chết thì mới có dấu hiệu cấu thành tội không cứu giúp. Việc xem xét dấu hiệu này phải được tiến hành một cách cụ thể khoa học và chính xác để tránh nhầm lẫn trong việc xác định một người có tội hay không có tội. - Người phạm tội phải “thấy” người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Đây là dấu hiệu pháp lí đ ược quy định trong BLHS mà thực tế đã được hiểu và áp dụng không thống nhất. Có quan điểm cho rằng “thấy” là mắt “nhìn thấy”, có quan điểm lại cho rằng thấy là “biết rõ”. Theo công văn của TANDTC số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp dụng pháp luật có giải thích như sau: “Thấy quy đ ịnh trong Điều 107 BLHS hoặc là “mắt nhìn thấy” hoặc là tuy mắt không nhìn thấy nhưng “có đầy đủ căn cứ để biết rõ” người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện cứu m à không cứu dẫn đến chết ng ười” [5, 1].
- Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp “th ấy” ở đây không phải hiểu theo nghĩa rộng như các cách khác nhau được giải thích trong Từ điển tiếng Việt, nhưng cũng không phải hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ nhìn thấy. Tuy nhiên, những giải đáp nói trên chỉ nêu ra phạm vi, cách hiểu mà chưa nêu ra bản chất của khái niệm pháp lí này. Trước hết, từ “thấy” được xem xét ở đây là một khái niệm pháp lí trong BLHS và là một dấu hiệu bắt buộc của CTTP quy định tại Điều 102 BLHS. Dấu hiệu “thấy” người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trước hết thể hiện sự nhận thức của chủ thể về tình trạng nguy hiểm của nạn nhân. Nhận thức là việc chủ thể ý thức được nạn nhân và tình trạng nguy hiểm của nạn nhân bằng các cách khác nhau như nghe, nhìn hoặc bằng tri thức khoa học hay kinh nghiệm mà biết được rằng nạn nhân đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của họ thông qua những biểu hiện cụ thể của hiện thực khách quan đang diễn ra. Ví dụ: một bác sĩ khi gặp một nạn nhân bị thương tích, sau khi xem xét vị trí vết thương, tác nhân gây thương tích, mức độ tổn thương có thể sơ bộ đánh giá bệnh nhân có ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng hay không? [19, 24]. Theo sự đánh giá của tác giả Nguyễn Văn Hương trong bài “Dấu hiệu thấy người khác đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trong CTTP quy định tại Điều 102 BLHS” đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2004 thì dấu hiệu “thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” không chỉ là sự “nghe thấy” như nghe thấy tiếng kêu cứu hay “nhìn thấy” như nhìn thấy có người trong hỏa hoạn… Theo tác giả , trên thực tế có thể có trường hợp nghe thấy, nhìn thấy, thậm chí vừa nghe có người kêu cứu, vừa nhìn rõ có người đang chới với dưới sông mà một người đã “không thấy” được nạn nhân đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, nên đã không cứu giúp [19, 25]. Ví dụ: Nguyễn Văn A thường đi qua đoạn đường gần khúc sông sâu, vào mùa hè những đứa trẻ chăn trâu thường tắm ở đó. Một hôm khi đi đến gần đoạn sông nọ, A nghe thấy tiếng kêu cứu “Có người chết đuối” của đám trẻ. A nhìn xuống
- sông thấy một đứa trẻ đang chới với như sắp chết đuối, A vội vàng dừng xe xuống cứu. Sau một hồi lặn xuống mò tìm không đ ược, A ngẩng lên thấy đám trẻ đang ngồi cả ở bờ sông cười đùa chế giễu. A biết mình b ị lừa nên bỏ đi. Một lần khác, cũng ở đoạn sông này, A lại nghe thấy tiếng kêu cứu “Cứu người chết đuối” của đám trẻ. A thấy một đứa trẻ như sắp kiệt sức đang chới với, A xuống cứu và lại bị lừa. Lần thứ ba đi qua khúc sông đó, A cũng nghe tiếng kêu cứu và nhìn thấy một đứa trẻ đang vùng vẫy mặc d ù đã dừng xe nhưng nghĩ mình bị lừa nên A đã không xuống cứu và do vậy có đứa trẻ bị chết đuối. A có phạm tội theo điều 102 BLHS hay không? Trường hợp này tuy “nhìn thấy, nghe thấy” nhưng A có thấy đứa trẻ đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng hay không? Trên thực tế A đã không thấy được điều đó. Trong nhận thức của A khi đó chỉ thấy mình bị đám trẻ lừa để làm trò cười cho chúng. Chính vì vậy, A đã không có hành vi cứu giúp [19, 25]. Theo tôi, cách hiểu mà tác giả Nguyễn Văn Hương đưa ra là hoàn toàn hợp lí, bản chất pháp lí của dấu hiệu “thấy” không chỉ đơn giản là nhìn thấy hay nghe thấy mà phải biết rõ, bởi có nhiều trường hợp tuy nhìn thấy, nghe thấy nhưng lại không thấy nạn nhân đang đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cần phải được cứu giúp như ví dụ đã nêu trên. Một trường hợp khác cũng được đánh giá là “thấy”, tuy nhiên trong trường hợp này, việc xác định có tội hay không có tội đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi, đó là trường hợp thấy một người đang bị người khác tấn công xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe. Ví dụ: A, B, thấy D đang đánh đập một đứa trẻ rất dã man, vì lí do là đứa trẻ này đã ăn trộm gà của nhà D. D đã dùng gậy gỗ đánh liên tiếp vào người đứa trẻ mặc dù đứa trẻ đã ra sức van xin D và cầu cứu A, B giúp. Do quá sức chịu đựng, đứa trẻ đã lịm đi nhưng D vẫn tiếp tục đánh. Ở đây, A và B, không chỉ nhìn thấy, nghe thấy đứa trẻ bị đánh đập kêu cứu mà còn biết rất rõ tình trạng nguy hiểm của đứa trẻ. A, B đều có đủ điều kiện để cứu giúp tuy nhiên cả A và B đều không có hành động cứu giúp nào.
- Lúc này, việc A, B, chỉ đứng nhìn mà không có hành vi can ngăn hay cứu giúp đứa trẻ thì có được coi là hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không? Đứa trẻ đang bị tấn công có được coi là ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không? Nếu bị truy cứu TNHS thì A, B sẽ bị truy cứu với tội danh gì? Đây là một vấn đề rất cần được làm sáng tỏ. Theo quan điểm của cá nhân tôi, thì rõ ràng trong trường hợp này A, B sẽ phải chịu TNHS nếu như đứa trẻ chết. Hành vi không cứu giúp của A, B có đủ dấu hiệu để cấu thành tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một quy định hay một hướng dẫn nào để giải quyết tình huống trên, mặc dù nó đã xảy ra khá nhiều trên thực tế. Đặc biệt, nếu ở đây A, B là người có chức vụ, có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, nhân dân (ví dụ như A, B là công an) thì rõ ràng A, B phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. V ì khi đứa trẻ không thể tự bảo vệ được mình thì trong trường hợp này, với tư cách là người có chức vụ có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của nhân dân thì phòng vệ chính đáng là nghĩa vụ pháp lí của A, B. Khi không có hành vi cứu giúp đứa trẻ nghĩa là A, B đã vi phạm nghĩa vụ của mình và A, B sẽ phải chịu TNHS với tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Vì chưa có sự giải thích, hướng dẫn cụ thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên vấn đề này vẫn còn rất nhiều tranh cãi và chưa đi đến sự thống nhất trong cách giải quyết. Điều đó đặt ra yêu cầu là cần phải có một văn bản chính thức, hướng dẫn đầy đủ để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách đồng bộ, có hiệu quả, tránh hiện tượng bỏ lọt tội phạm. - Người phạm tội là người có đủ điều kiện để cứu giúp, ngăn chặn hậu quả chết người xảy ra mà lại không thực hiện hành vi cứu giúp. Khả năng của bản thân cũng như những điều kiện bên ngoài khác hoàn toàn cho phép người phạm tội có khả năng cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. V iệc cứu giúp không gây nguy hiểm cho bản thân
- ngườ i cứu giúp cũng như người khác. Nhưng người phạm tội đã không cứu giúp, không thực hiện việc làm mà pháp luật cũng như đạo đức đều đòi hỏi phải làm. N gười không cứu giúp phải chịu TNHS về tội này khi người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng bị chết. Hậu quả chết người xảy ra là do nạn nhân không được cứu giúp, nếu đ ược người phạm tội cứu giúp hậu quả đó sẽ không xảy ra. Một người khi thấy người khác ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có điều kiện cứu giúp được người đó khỏi chết mà không cứu dẫn đến người đó bị chết thì bị coi là có tội. Ví dụ: một người đi qua đường thấy người khác bị tai nạn, máu chảy đầm đìa tuy có điều kiện cứu giúp nhưng vì sợ bị liên lụy nên đã không cứu, dẫn đến người này bị chết. Điều kiện để cứu đ ược người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là khả năng thực tế có thể cứu được người sắp chết. Khả năng này có thể do bẩm sinh như có khả năng thính giác rất tốt, do rèn luyện, học tập như khả năng nhịn thở khá lâu trong môi trường nước, hoặc do tính chất nghề nghiệp mà có như bác sĩ, công an… Việc kết luận một người thực hiện hành vi không cứu giúp người khác đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là có tội hay không có tội phải phụ thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể và khả năng của người cứu giúp. Nếu thiếu một trong hai yếu tố trên thì chưa đủ yếu tố để CTTP. Ví dụ: một bác sĩ phẫu thuật, ngày chủ nhật vào rừng săn bắn, gặp một người bị đau ruột thừa cấp tính, nếu không được mổ ngay thì sẽ chết. Vì không có phương tiện (bộ đồ kĩ thuật), khu rừng lại xa khu dân c ư, ít người qua lại. Người bác sĩ này đã cõng bệnh nhân ra khỏi khu rừng nhưng vì không kịp mổ nên bệnh nhân đã chết [11, 123]. Do đó, khả năng sẵn có của một người chỉ là tiền đề tạo điều kiện để có thể cứu được người bị nguy hiểm đến tính mạng, còn thực tế có cứu được hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác. Khả năng của con người chỉ phát huy được khi nó có những điều kiện cần thiết. Ngược lại, điều kiện có nhưng người ở trong điều kiện lại không có khả năng mà không cứu được người
- đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng dẫn đến người này chết thì cũng không coi là phạm tội. Ví dụ: Xe cấp cứu của bệnh viện đang trên đường đi về thì gặp chị D đang đau bụng dữ dội chuẩn bị sinh, do sinh thiếu tháng, chị H lại có tiền sử bệnh tim nên cần phải đ ược phẫu thuật ngay. Tuy nhiên, trên xe lúc này, mặc dù có bộ đồ phẫu thuật nhưng do chỉ có hai y tá, cả hai người đều không có khả năng chuyên môn, vì vậy, chị D đã chết trên đường đi cấp cứu. Chủ thể có nghĩa vụ cứu giúp khi thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Khi thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, chủ thể cũng thấy được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm cần phải đ ược cứu giúp. Chủ thể nhận thức được là nếu không được cứu giúp, nạn nhân sẽ bị chết hoặc có thể bị chết. Trách nhiệm pháp lí phải cứu giúp chỉ phát sinh khi chủ thể “Th ấy ng ười khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” . Tuy nhiên chủ thể cũng thấy mình có đủ điều kiện cứu giúp và việc cứu giúp đó không nguy hiểm đến tính mạng của bản thân hoặc người khác. Điều luật quy định “…tuy có đ ủ điều kiện mà không cứu giúp…”. Điều đó khẳng định rằng: một người thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nhưng không có điều kiện để cứu giúp nên đã không có hành vi cứu giúp nạn nhân thì cũng không phải chịu TNHS về tội này. Điều kiện để cứu giúp là điều kiện thực tế bao gồm khả năng của chủ thể và những điều kiện bên ngoài khác. Ví d ụ: Để cứu giúp người sắp chết đuối, chủ thể cần có khả năng bơi lội hoặc những phương tiện như tàu thuyền, phao, sào, dây… hoặc để cứu bệnh nhân bị đau ruột thừa cấp thì ngoài trình độ phẫu thuật, người bác sĩ cần có những điều kiện khác như những loại thuốc cần thiết khác, dụng cụ phẫu thuật, ánh sáng… [19, 14]. Như vậy, dấu hiệu “thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” không chỉ là thấy nạn nhân đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, thấy nạn nhân cần được cứu giúp mà chủ thể còn thấy mình có đủ điều kiện cứu giúp nạn nhân. Trường hợp, do những hạn chế về chủ quan, khách quan (như năng lực, trình độ hoặc các phương tiện kĩ thuật…), chủ thể
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn
85 p | 270 | 78
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam
77 p | 182 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trong hợp đồng tín dụng từ thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Bình Dương
99 p | 31 | 17
-
Luận án Tiến sĩ: Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam
0 p | 121 | 17
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
27 p | 139 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền tố tụng của bị cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
77 p | 57 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
102 p | 18 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong Tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 36 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010
7 p | 123 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử
11 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội
92 p | 46 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong hệ thống pháp luật Việt Nam
101 p | 49 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Xét xử án hành chính qua thực tiễn tỉnh Lào Cai
9 p | 95 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hủy việc kết hôn trái pháp luật qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Thừa Thiên - Huế
75 p | 22 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010
117 p | 20 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện các quy định của phần chung Luật hình sự Việt Nam
13 p | 67 | 1
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam
9 p | 43 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn