intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:62

261
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “ cơ cấu”. Cơ cấu là một phạm trù triết học dùng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Nó biểu hiện ra như là một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ

  1. Luận văn THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1
  2. CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ I. CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 1.Nhận thức chung về cơ cấu kinh tế 1.1.Khái luận về cơ cấu kinh tế Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “ cơ cấu”. Cơ cấu là một phạm trù triết học dùng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Nó biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật hiện thượng nó biến đổi cùng với sự biến đổi sự vật, hiện tượng”. Vì thế khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. Ở trên là khái niệm về cơ cấu, cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp thì có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành của chúng, tuỳ theo cách mà chúng ta tiếp cận khi nghiên cứu. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế -xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội. Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được bản chất chủ yếu của cơ cấu kinh tế đó là các vấn đề: Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia. Số lượng, tỷ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước. 2
  3. Các mối quan hệ thương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố hướng vào các mục tiêu đã xác định. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian luôn bao hàm trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi của các kiểu cơ cấu. Cho nên dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào cũng có thể thấy rằng. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng, số lượng giữa các bộ phận cơ cấu thành đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế -xã hội nhất định. 1.2. Những đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế hình thành một cách khách quan: do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Một cơ cấu kinh tế mới trong từng thời kỳ bao giờ cũng dựa vào cơ cấu kinh tế của thời kỳ trước để lại. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức sản xuất sẽ quyết định tính đặc thù về cơ cấu kinh tế của vùng, nước. Do vậy cơ cấu kinh tế phản ánh quy luật chung của quá trình phát triển, nhưng những biểu hiện cụ thể phải thích ứng với điều kiện của từng vùng, từng nước về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử. Không có một cơ cấu mẫu chung cho mọi phương thức sản xuất, mọi vùng kinh tế hược đại diện chung cho nhiều nước khác nhau; cũng không thể nóng vội, kìm hãm chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phù hợp với yêu cầu và khả năng. Mỗi quốc gia, mỗi vùng có thể và cần thiết phải lựa chọn cơ cấu kinh tế phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử phát triển. Cơ cấu kinh tế không thể cố định mà phải có sự biến đổi điều chỉnh và chuyển dịch cho thích hợp với sự biến đổi các điều kiện kinh tế – xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ để đảm bảo quy mô và nhịp độ phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động phát triển và chuyển hoá cho nhau theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cơ cấu kinh tế cũ chuyển dịch dần dần và ra đời cơ cấu mới thay thế nó. Cơ cấu mới, sau một thời gian lại trở nên không phù hợp. Cứ thế cơ cấu kinh tế vận động biến đổi không ngừng từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn điệu đến đa dạng và thêm hoàn thiện. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình. Không phải cơ cấu kinh tế được hình thành ngay một lúc và lập tức thay thế cơ cấu cũ. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải là một quá trình tích luỹ về lượng, thay đổi về lượng đến một mức nào độ nhất định mới dẫn đến thay đổi về chất. Trong quá trình đó, cơ cấu cũ thay đổi dần dần và chuyển sang cơ cấu mới. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự tác đọng trực tiếp rất quan trọng của các chủ thể lãnh đạo và quản lý.Sự nóng vội hay bảo thủ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều có hại đối 3
  4. với sự phát triển của nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất thiết phải là một quá trình nhưng không phỉa và không thể là một quá trình tự phát với cac bước tuần tự, mà ở đó con người bằng nhận thức vượt trước và am hiểuthực tế sâu sắc hoàn toàn có thể tạo ra những tiền đề, tác đọng cho quá trình đó diễn ra nhanh hơn theo đúng hướng. Quan trọng là quá trình đó bắt đầu từ đâu, dùng những biện pháp nào để bắt đầu, gây được tác động lan truyền trong tổng thể nền kinh tế. 2.Phân loại cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng; muốn nắm vững được bản chất cơ cấu kinh tế và thực thi giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế. Mỗi một loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận và các cách mà chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc dân dưới giác độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại cơ cấu khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh tế. Những loại cơ cấu kinh tế cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc dân bao gồm: 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế: Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính: Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm các ngành nông lâm, ngư nghiệp. Nhóm ngành công nghiệp: Gồm các ngành công nghiệp và xây dựng Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại, du lịch. . . Chúng ta cần nghiên cứu loại cơ cấu này nhằm tìm ra cách thức duy trì tính tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao nguồn lực có hạn của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất. 2.2.Cơ cấu vùng, lãnh thổ kinh tế: Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu vùng -lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một hệ thống nhất và đều là biểu hiện cuả sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu vùng lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu vùng -lãnh thổ kinh tế có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong 4
  5. điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Loại cơ cấu này phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một đất nước trong hoạt động kinh tế. Thông thường cơ cấu này bao gồm cơ cấu khu vực kinh tế thành thị và nông thôn, khu vực kinh tế trọng điểm và phi trọng điểm, khu vực kinh tế đồng bằng và miền núi. 2.3.Cơ cấu thành phần kinh tế: Nếu như phân công lao động sản xuất đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ - vùng, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng - lãnh thổ. Sự tác động đó là biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Loại cơ cấu này phản ánh các mối quan hệ giữa con người trong quá trình sản xuất sản xuất trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất. Mô hình chung về số lượng thành phần kinh tế trong nền kinh tế các nước bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp. Tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế này thường không giống nhau. Điều này tạo ra tính đặc thù trong chiến lước phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong mỗi giai đoạn phát triển của từng quốc gia. Trên đây là ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác việc phân bố không gian vùng một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên vùng, lãnh thổ kinh tế. Ngoài ba cơ cấu cơ bản trên còn có các cơ cấu sau: 2.4.Cơ cấu xuất nhập khẩu: Đó là loại cơ cấu phản ánh mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế. Ngày nay xu hướng hội nhập để phát triển, không còn tồn tại nền kinh tế tự cung tự cấp trong phạm vi một quốc gia mà mọi nền kinh tế đều có sự trao đổi lẫn nhau để phát huy cao nhất lợi thế so sánh, cũng như khắc phục những điểm yếu trong quá trình phát triển. Bởi vậy cơ cấu xuất nhập khẩu được xem như là tất yếu khách quan của mọi nền kinh tế. Theo tiến trình chung có tính quy luật mà mỗi nước phải trải qua trong quá trình chuyển đổi loại cơ cấu này là đi từ nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, tiếp theo sản xuất thay thế nhập khẩu, cuối cùng là phát triển nền kinh tế theo định lượng xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao. 2.5.Cơ cấu công nghệ sản xuất: 5
  6. Phản ánh số lượng và tỷ lệ các loại cộng nghệ đang và sẽ sử dụng trong nền kinh tế. Một nền kinh tế thường sử dụng những loại công nghệ khác nhau: công nghệ kém hiện đại, công nghệ hiện đại, công nghệ tiên tiến, công nghệ sử dụng nhiều lao động, sử dụng ít lao động, công nghệ sạch, công nghệ gây ô nhiễm. Vai trò, vị trí quan hệ tương hỗ và tỷ lệ giữa các loại công nghệ nói trên trong quá trình phát triển nền kinh tế tạo thành cơ cấu công nghệ của nền kinh tế đó. 2.6.Cơ cấu kết cấu hạ tầng: Nền kinh tế quốc dân muốn phát triển phải có cơ cấu hạ tầng hợp lý, cơ cấu kết cấu hạ tầng của nền kinh tế là số lượng, quan hệ tỷ lệ, vị trí, vai trò của các ngành thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội. Thuộc các ngành cơ sở hạ tầng kỹ thuật có ngành điện, giao thông, nước, thông tin liên lạc, các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội gồm: giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, pháp lý. Ngoài các loại cơ cấu kinh tế kể trên còn có nhiều loại cơ cấu khác nữa nhưng trong phạm vi bài viết xin được chỉ nêu những cơ cấu cơ bản có sự ảnh hưởng lớn đến cơ cấu ngành mà thôi. 3. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế Cơ cấu kinh tế là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại, phát triển kinh tế các nước. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng phát triển thì phải hợp lý, tiên tiến, đáp ứng nhu cầu đặt ra của thời đại không một nền kinh tế nào chỉ dựa vào nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thông tạo động lực cho việc khai thác có hiệu quả nguồn lực trong ngoài nước. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất sao cho thích nghi với quá trình phát triển là điểm mấu chốt, có tính chất quyết định. Vấn đề đặt ra là chuyển dịch như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu. Nói đến quá trình phát triển kinh tế người ta thường quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, sự gia tăng các nguồn lực sản xuất theo thời gian và cách thức phân phối sản phẩm và thu nhập cho các nhân tố sản xuất. Còn khi nói đến cơ cấu của một nền kinh tế, ta thường quan tâm đến các thành phần có ý nghĩa cơ bản, tồn tại lâu dài, là cơ sở cho những biến đọng có tính chất thường xuyên trong đời sống kinh tế.Cơ cấu xã hội và kinh tế là cơ sở cho những nhân tố quyết định phúc lợi vật chất của nhân dân. Việc hình thành cơ cấu kinh tế được diễn ra theo hai quá trình tự phát và có kế hoạch. Ngày nay để được thực hiện được mục tiêu tổng quát trong phát triển kinh tế, chính phủ các nước chủ động xác định cơ cấu kinh tế trong chiến lước phát triển của mình, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế luôn là trọng tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế các nước. 6
  7. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành cơ cấu kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu và phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành cơ cấu kinh tế. 4.1Nhóm các nhân tố khách quan Nhóm các nhân tố tự nhiên: tài nguyên thiên nhiên( khoáng sản, hải sản, lâm sản, nguồn nước .. .) và các điều kiện tự nhiên( khí hậu, thời tiết, bờ biển ...) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp du lịch, ngư nghiệp và nông nghiệp...Chính Các Mác đã viết: “ Bất cứ một nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Tuy vậy, việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định... Như vậy sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu. Nhóm các nhân tố kinh tế – xã hội: Dân số và lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh trong các ngành hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học – kỳ thuật trong sản xuất. Thứ hai, quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng. Thứ ba, sự phát triển của các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như tong các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương. Sự phát triển và chuyển hoá các nghề này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Sản phẩm của các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa chuông trên thi trường quốc tế. 7
  8. Vị trí địa lý cũng là một yếu tố phải được xem xét khi hình thành cũng như định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Yếu tố này trở nên quan trọng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phát triển của các loại thị trường: cần khẳng định ngay rằng thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ thi trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất – kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ qua hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với điều kiện của thị trường dẫn tới từng bước thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vậy sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nước ( thị trường hàng hoá -dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ... ) có tác động mạnh đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trường, điều kiện cho thị trường và các hoạt động sản xuất –kinh doanh thông qua các chính sách vĩ mô. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào là phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ có tính đến các yếu tố trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế. -Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ công nghệ tiên tiến như: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ khoa học – công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao , chi phí kinh doanh hạ, do đó co sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả làm cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Khoa hoạc và công nghệ phụ thuộc 2 yếu tố: Thứ nhất, chính sách khoa học- công nghệ của Đảng và Nhà nước. 8
  9. Thứ hai, sự yếu kém của hệ thống kỹ thuật – công nghệ đang sử dụng trong các ngành kinh tế quốcdân và khả năng hạn hẹp về vốn đầu tư cho đổi mới kỹ thuật công nghệ. -Nhóm các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở trong nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở mức độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế mỗi nước đều phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các ngành, lĩnh vực có chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Đối với một tỉnh, cơ cấu kinh tế chụ sự chi phối bởi cơ cấu kinh tế cả nước, ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế của các tỉnh trong vùng như thị trường đầu ra, thị trường đầu vào ... Trong điều kiện quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế hiện nay, cơ cấu kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế các nước trong khu vực. Khái quát hoá tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã nêu lên một số đặc trưng quan trọng về biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiếu làn sóng. Khi phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, dựa trên những số liệu thống kê dài hạn Kamane Akamatsu đã sử dụng thuật ngữ “ đội ngỗng trời bay- flock fomation of flying wild geese pattern” để mô tả sự nối tiếp tăng trưởng liên tục của các ngành trong cơ cấu kinh tế được xét cả về mặt số lượng lẫn chu kỳ biến thiên trong quá trình xuất nhập khẩu. Năm 1963, kết hợp với sự phân tích của Akamatsu với chu kỳ sản phẩm của Vesnon, Kojima đã đặt tên lại cho mô hình “Đàn ngỗng trời bay” là mô hình “ chu kỳ đuổi kịp sản phẩm- catching up product cycle”. Mô hình này phản ánh một thực tế sống động gọi là “hiệu ứng chảy tràn” về cơ cấu kinh tế từ các quốc gia ở các nấc thang phát triển cao hơn sang quốc gia phát triển thấp hơn. Sự quan sát thực tế cho thấy khi Nhật bản khởi động và đạt được thành tích tăng trưởng rực rỡ vào thập niên 1950- 1960, bốn quốc gia hiện đã trở thành NICs đã tiếp theo đó bắt nhịp vào quá trình tăng trưởng vào thập niên 1960- 1970; đến thập kỷ 1970 và 1980 là một số nước thuộc ASEAN và từ thập niên 1980 đến nay “ hiệu ứng chảy tràn” đang lan sang Trung Quốc và Việt Nam. Rõ ràng đây là một quá trình tăng trưởng liên tục và diễn ra theo đúng kiểu “ làn sóng”. 4.2.Nhóm các nhân tố chủ quan 9
  10. Nhân tố chủ quan như đường lối chính sách Nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế –xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế là yếu cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế thường gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị và đường lối xây dựng kinh tế. Nói cách khác, quan điểm, đường lối chính trị nào sẽ có môi trường thể chế đó, đến lượt nó, môi trường thể chế lại ước định các hướng chuyển dịch cơ cấu ngàn kinh tế nó chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành, từng vùng và từng thành phần kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của những quan điểm, ý tưởng, hành vi của Nhà nước can thiệp và định hướng phát triển tổng thể, cũng như sự phát triển các bộ phạn cấu thành của nền kinh tế. Trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ( dù là chuyển dịch theo hướng nào) thì Nhà nước đóng vai trò quyết định. Vai trò đó thể hiện tập trung ở: Thứ nhất, Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược và kế hoạch kinh tế – xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội tổng thể của đất nước. Đó thực chất là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực đầu tư cũng theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Thứ hai, bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nước khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã xác định. Như vậy sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường thể chế có ý nghĩa quantọng đối với quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế. II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triến gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả về chất và lượng trong nội bộ 10
  11. cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên nền tảng cơ sở một cơ cấu hiện có do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dụng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế, đó là cơ cấu ngành, cơ cấu thành hần kinh tế, cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế. Nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển. Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triến gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả về chất và lượng trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên nền tảng cơ sở một cơ cấu hiện có do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dụng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế, đó là cơ cấu ngành, cơ cấu thành hần kinh tế, cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế. Nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển. 2.Quy luật phổ biến trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế chịu tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và Nhà nước. - Thị trường là nơi diễn ra các mối quan hệ tác động qua lại giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp để xác định sản lượng và giá cả, thông qua giá cả thị trường thực hiện chức năng phân phối nguồn lực vào các ngành, các lĩnh vực, bộ phận cảu nền kinh tế. - Nhà nước với tư cách là chủ thể kinh tế, can thiệp vào nền kinh tế thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt được mục tiêu đã xác định trước. 11
  12. Cơ cấu kinh tế được hình thành từ hai động lực tác động đó tất yếu là một cơ cấu có định hướng, hợp lý và hiệu quả. Cơ cấu kinh tế hợp lý không chỉ biểu hiện về mặt số lượng mà quan trọng hơn là mối quan hệ giữa các bô phận cấu thành nền kinh tế.Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình hình thnàh cơ cấu hợp lý chịu sự chi phối của các xu hướng có tính quy luật phổ biến sau đây: Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, cơ cấu kinh tế các nước có thể và cần phải chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá đời sống kinh tế, cơ cấu kinh tế các nước có thể và cần phải chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng lên nhanh chóng, còn tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống mặc dù số lượng tuyệt đối vẫn tănglên không ngừng. Trong nội bộ ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm chứa hàm lượng lao động cao sang sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vón và khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn trong giá trị sản lượng tăng lên và tỷ trọng ngành nông nghiệp thuần tuý giảm xuống. Trong nội bộ nông nghiệp tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. Xét về cơ cấu thành phần, theo đà phát triển của thị trường bộ phận kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, do xu hướng tự do hoá kinh tế ngày càng mở rộng. Kinh tế Nhà nước có thể giảm xuống về tỷ trọng song sẽ namứ giữ phần lớn cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp quan trọng có tính chất quyết định, và có vai trò then chốt trong nền kinh tế. Theo khu vực lãnh thổ, sự phát triển kinh tế giữa các vùg sản xuất đảm bảo tính chất hài hoà hơn, một mặt khác sẽ xuất hiện các trung tâm công nghiệp, các vùng hình thành các khu công nghiệp tập trung như vậy là tất yếu khách quan nhằm khai thác một cách hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Để lượng hoá mức độ chuyển hoá giữa hai thời điểm t1, t2 người ta thường dùng công thức sau: Cos =Si(t ). 3. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 12
  13. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra yêu cầu cần phải chuyển dịch cơ cấu ngành Đảng ta đã xác định “ công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghiệp, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.” Đối với nước ta, đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nhằm cảibiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất của chế độ mới. Nền kinh tế nước ta bước vào quá trình công nghiệp hoá với điểm xuất phát thấp; nền công nghiệp lạc hậu không cân đối, công nghiệp thấp kém. Do vậy, để sử dụng sức lao động một cách phổ biến với công nghệ hiện đại nhằm khai thác tối đa nguồn lực của đất nước, không ngừng tăng năng xuất lao động, làm nền cho kinh tế tăng trưởng nhanh, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hơn nữa, theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển hiện nay cho ta bài học kinh nghiệm về công nghiệp hoá, đó là phải điều hỉnh lại cơ cấu của nền kinh tế. III. Một số lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.Một số mô hình lý thuyết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được các trường phái thuyết kinh tế đề cập từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Vì vậy, trước hết cần điểm qua những quan điểm cơ bản nhất của các trường phái kinh tế. Ba trường phái lớn là: kinh tế học Macxit, kinh tế học thuộc trào lưu chính và kinh tế học phát triển. 1.1.Kinh tế học Macxit Trong kinh tế học Macxit, vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được trình bầy tập trung trong hai học thuyết: học thuyết phân công lao động xã hội và học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội. Trong học thuyết về phân công lao động xã hội, kinh tế học Macxit không những chỉ rõ những điều kiện tiền đề cần thiết mà còn vạch ra khuôn khổ, thể chế quyết định sự thay đổi về chất của cuộc cách mạng công nghiệp - cơ sở vật chất của phương thức sản xuất TBCN hiện đại. Những tiền đề ấy là: +Sự tách rời giữa thành thị và nông thôn. +Số lượng dân cơ và mật độ dân số. 13
  14. Năng xuất lao động trong nông nghiệp được nâng cao, đủ đểcung cấp sản phẩm “tất yếu” cho cả những người lao động trong nông nghiệp lẫn những người lao động thuộc những ngành sản xuất khác. Điều kiện thể chế có ý nghĩa quyết định cuộc cách mạng công nghiệp trong TBCN là sản xuất hàng hoá, là kinh tế thị trường. Từ tiền đề trên có thể suy ra rằng, việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nói chung và chuyển dịch cơ cấu nói riêng không thể có kết quả nếu không tới độ chín muồi của những tiền đề này. Nó cũng hàm ý rằng trong điều kiện cụ thể của mỗi nền kinh tế, độ chín muồi của mỗi loại tiền đề có thể không giống nhau và con đường để hoàn thiện hay thay thế những tiền đề nói trên sẽ không giống nhau. Học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội đã phân tích mối quan hệ giữa các ngành sản xuất trong quá trình vận động và phát triển. Sau những phân tích công phu, đặc biệt là tính tới ảnh hưởng của khoa học – kỹ thuật dưới thuật ngữ “ cấu tạo hữu cơ”, có thể tóm tắt tinh thần cơ bản về mối quan hệ giữa các ngành trong học thuyết tái sản xuất xã hội tư bản như sau: “ sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất; sau đó đến sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng và chậm nhất là sự phát triển của tư liệu tiêu dùng.” 1.2.Kinh tế học thuộc trào lưu chính “ Kinh tế học thuộc trào lưu chính” là một trong những trường phái kinh tế lớn nhất hiện nay. Nó có cội nguồn từ kinh tế học cổ điển. Vì đối tượng của kinh tế học thuọc trào lưu chính là kinh tế thị trường phát triển nên về phương diện nào đó có thẻe thấy rằng vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá không phải là mục tiêu phân tích chính của nó. Song, không phải vì vậy mà vấn đề này không được đề cập đến dưới hình thức này hay hình thức khác. khi nhằm mục tiêu duy trì hiệu quả của nền kinh tế, kinh tế học thuộc trào lưu chính một mặt đi sâu phân tích các điều kiện đảm bảo cho sự hoạt động hữu hiệu của thị trường với tư cách alf động lực phát triển kinh tế, mặt khác đề cao vai trò của Nhà nước qua một loạt các chính sách kinh tế vĩ mô với chức năng đảm bảo cho thị trường hoạt động tốt và duy trì sự ổn định vĩ mô. ở địa hạt này, những phân tích về xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những nền kinh tế phát triển đang diễn ra dưới tác động của khoa học- kỹ thuật và xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cùng những biện pháp can thiệp của Nhà nước, đặc biệt là những chương trình tái tạo cơ cấu nền kinh tế quốc gia, trong đó có chính sách cơ cấu nên được xem là những tài liệu khảo cứu có giá trị. 14
  15. Thật vậy, trong điều kiện bình thường, các công ty căn cứ vào các chỉ báo của thị trường như giá cả, chi phí cơ hội, chỉ số ICOR .... để quyết định xem nên đầu tư vào những lĩnh vực nào có hiệu quả nhất. Song cơ chế thị trường tự nó không đảm bảo được sự phát triển với hiệu quả kinh tế- xã hội mong muốn. Vì thế, sự can thiệp của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô trở thành một trong những nội dung quan trọng trong phân tích lý thuyết của trường phái này. Như vậy, những phân tích về mặt lý thuyết của trường phái kinh tế này đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng. Cũng vì lẽ đó mà hầu như công cụ phân tích động thái tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của trường phái lý thuyết này đang được sử dụng trong các lý thuyết phát triển ( đối tượng là các nền kinh tế phát triển ). 1.3.Các lý thuyết phát triển Với tư cách là lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường hay các mô hình phát triển kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang nỗ lự tiến hành công nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tớ một nội dung cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song, do bản thân thế giới châm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với những đặc điểm đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau nên cách giải quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành của các lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể tháy điều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau: 1.3.1. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế Tư tưởng cơ bản của người chủ xướng lý thuyết này- Walt Rostow- cho rằng, quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trải qua 5 giai đoạn tuần tự như sau: Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống: với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thồng trị trong đời sống kinh tế, năng xuất lao động thấp và kém linh hoạt. Giai đoạn 2: Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: với những thay đổi quan trọng là trông xã hội đã xuát hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới kết cấu hạ tầng sản xuất, nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tàu ( leading sectors) có tác động lôi kéo nền kinh tế phát triển . Giai đoạ 3: Giai đoạn cất cánh ( take off): với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu tư so với thu nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển 15
  16. biến mạnh mẽ trong thể chế xã hội, thuận lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đại và kinh tế đối ngoại. Giai đoạn 4: Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế : là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trong thu nhập quốc dân đạt mức cao ( 10- 20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới. Giai đoạn 5: Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt: là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất đa dạng thỉtường linh hoạtvà có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này, hầu hết các nước đang phát triển tiến hành công nghiệp hoá hiện nay ở khoảng giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ của từng nước. Ngoài những dấu hiệu kinh tế – xã hội khác, về mặt cơ cấu phải bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là sự thay đổi của lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn phát triển cụ thể. Do tiếp cận vấn đề góc độ lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước hay từng nhóm nước, song những nhận xét khái quát chung ấy có thể xem như những gợi ý rất có ý nghĩa đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá của những nước đang phát triển hiện nay. 1.3.2Lý thuyết nhị nguyên Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis ( giải thưởng Nobel kinh tế học năm 1979 ) khởi xướng, tiếp cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nước đang phát triển, ông đã có những kiến giải khá cụ thể về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện nay. Lý thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu sản xuất nông nghiệp và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại- du nhập từ bên ngoài. Khu vực truyền thống có đặc điểm là trì trệ, năng xuất lao động thấp và dư thừa lao động. Vì thế có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang công nghiệp hiện đại mà không làm ảnh hưởng tơí sản lượng nông nghiệp. Do có năng xuất cao nên khu vực công nghiệp hiện đại có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một cách độc lập mà không phụ thuộc vào điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế. Kết luận đương nhiên rút ra từ những nhận định này là thúc đẩy sự phát triển kinh tế của những nước chậm phát triển, cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không 16
  17. cần quan tâm tới khu vực truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất xã hội từ trạng thái nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển. Phải nói rằng, những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây được ấn tượng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển đang muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Trên thực tế các chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu kinh tế ở các quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của lý thuyết này. Lý thuyết kinh tế nhịn nguyên còn được nhiều nhà kinh tế ( J.Fei, G. Ranis, Harris, Tadora,..) tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận điểm xuất phát của họ là khả năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiện đại. Khu vực này có nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật, trong đó có những loịa kỹ thuật có hệ số sử dụng lao động cao, nên về nguyên tắc, có thể thu hút lao đông dư thừa từ khu vực nông nghiệp truyền thống. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là chênh lệch về mức thu nhập của lao động của hai khu vực kinh tế trên quyết định. Có nghĩa là, khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút được lao động từ khu vực nông nghiệp trong treường hợp đang có nạn nhân mãn, khi có mức lương cao hơn mức thu nhập khi họ còn ở nông thôn. nhưng khả năng duy trì chênh lệch này sẽ cạn dần cho tới khi nguồn lao động dư thừa từ nông nghiệp không còn nữa. Đến khi đó, việc tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản lượng nông nghiệp giảm đi,khiến cho giá cả hàng hoá nông phẩm tiêu dùng tăng lên kéo theo mức lương tương ứng trong khu vực sản xuất công nghiệp. Chính sự tăng lương của khu vực sẽ đặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm về lao động của bản thân nó. Như vậy, mặc dù về kỹ thuật- công nghệ khu vực công nghiệp hiện đại có thể có khả năng thu dụng không hạn chế lao động, nhưng về mặt thu nhập và độ co giãn cung cầu nhân lực của hai khu vực thì sức thu nạp lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp là có hạn. Một hướng phát triển dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp – thành thị. Quá trình dịch chuyển lao động chỉ trôi trảy khi “ tổng cung” về lao động từ nông nghiệp phù hợp với “ tổng cầu” ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển này không chỉ phụ thuộc vào sự chênh lệch về thu nhập mà còn phụ thuộc vào xác suất tìm được việc làm đối với nhưngx người lao động nông nghiệp. Khi đưa thêm yếu tố “ xác suất tìm được việc làm” vào phân tích, người ta 17
  18. thấy xuất hiện các yếu tố làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giữa hai khu vực như sau: Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: vè mặt này so với công nghiệp ở các nước phát triển khu vực gọi là “ công nghiệp hiện đại” ở các nước chậm phát triển yếu kếm hơn rất nhiều. Vì vậy, để có thể tăng cường khả năng cạnh tranh với nền công nghiệp nước ngoài khác, vừa làm đầu tầu lôi kéo sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp phải hướng tới những kỹ thuật cao. Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là cần tăng hàm lượng lao động. Vì thế khu vực “ công nghiệp hiện đại” ở các nước chậm phát triển cũng có nghuy cơ gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ không riêng gì khu vực nông nghiệp. Khả năng đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật của người lao động khi chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là người lao động nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị và thậm trí chưa quen với môi trường lao động công nghiệp. Việc đào tạo lại lao động công nghiệp kỹ thuật cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà còn có vốn đầu tư lớn, đến mức người ta xem như một trong những lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất đối với nền kinh tế. Với những phân tích trên, người ta thấy rằng sá suất tìm được việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với người nông dân rời bỏ ruộng đồng là có giới hạn. Tóm lại khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, các ký thuyết nhị nguyên đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập chung vào phát triển sản xuất công nghiệp mà không cần chú ý đến nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những giới hạn của chúng và vì thế, cần quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế này. 1.3.3 Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành Những người ủng hộ quan điểm này như R. Nurkse, P. Rosenstein-, Rodan...cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá, cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa vào những luận cứ sau: Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với nhau trong chu trình “ đầu ra” của ngành này là “đầu vào” của ngành kia. Vì thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất. Sự phát triển cân đối giữa các ngành như vậy còn giúp tránh đước ảnh hưởng tiêu cực của những biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức 18
  19. độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt. Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh như vậy chính là nền tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước thuộc thê giới thứ ba chống lại chủ nghĩa thực dân. Lý do sau cùng tỏ ra rất hấp dẫn đối với nhiều quốc gia chậm phát triển mới giành được độc lập về chính trị trong những năm sau đại chiến thế giới lần thứ hai. Vì thế, mô hình phát triển theo cơ cấu cân đối khép kín- mô hình công nghiệp hoá “hướng nội” hay “thay thế nhập khẩu”- đã trở thành trào lưu thời kỳ đó. Tuy nhiên, thực tế đã dần cho thấy những yếu điểm rất lớn của mô hình lý thuyết này. ở đây có hai vấn đề cần đặc biệt xem xét lại là: Thứ nhất, việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền kinh tế khép kín với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những ngược với xu hướng chung của tất thẩy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là khu vực hoá và toàn cầu hoá, mà trong lúc ngăn ngừa các tác động tiêu cực của thị trường thế giới, đã loại bỏ cả những ảnh hưởng tích cực do bên ngoài mang lại. Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển không đủ khả năng về nhân tài, vật lực để có thể thực hiện những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá gặp khó khăn, bởi lẽ cách tiếp cận vấn đề trên đã làm phân tán các nguồn lực phát triển rất có hại cho quốc gia, khiến cho ngay cả việc sửa chữa lại di sản cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở ngại. Chính vì thế, sau một thời kỳ tăng trưởng các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ cấu cân đối này đã nhanh chóng rơi nvào tình trạng thiểu năng (maldevelopment). 1.3.4. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay cực tăng trưởng Ngược lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối ( A. Hirschman, F. Perrons, G. Destanne de Bernis...) cho rằng không thể và không nhất thiết phải bảo đảm tăng trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia, vơi những luận cứ chủ yếu sau: Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây nên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu tư . trong mối trương quan giữa các ngành, nếu cung bầng cầu thì sẽ triệt tiêu động lực khuyến khích đầu tư ,nâng cao năng lực sản xuất .do đó nếu có những dự án đầu tư lớn hơn vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu tư sẽ xuất 19
  20. hiện bởi câu lớn hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩng vực .Chính những dự án đó có tác dụng lôi kéo đầu tư rtheo kiểu lí thuyết số nhân . Trong mổi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá ,vai trò “cực tăng trưởng “ của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau .Vì thế ,cần tập trung những nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong thời điểm nhất định. Lúc đầu,lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì dường như nó bỏ qua những nỗ lực xây dựng một nền kinh tế độc lập có cơ cấu ngành cân đối để chống lại chủ nghĩa thực dân. Mặt khác, đằng sau cách đặt vấn đề xây dựng một cơ cấu không cân đối và mở cửa ra bên ngoài là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế- mà thường thì các nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi. Song, do những hạn chế ngày càng trở nên rõ ràng của ý tưởng thực hiện mô hình công nghiệp hoá hướng nội có cơ cấu ngành hoàn chỉnh và những thành công “thần kỳ “ của những nước tiên phong, điển hình là nhóm NICs Đông á, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các cực tăng trưởng ngày càng được thừa nhận rộng rãi. Trên thực tê, mô hình công nghiệp mở cửa, hướng ngoại đã trở thành một xu hướng chính yếu ở các nước chậm phát triển từ thập niên 1980 trở lại đậy. 1.3.5.Lý thuyết phát triển theo mô hình Đàn nhạn bay Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa trênlý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, người khởi xướng lý thuyết này, giáo sư Kaname Akamatsu đã đưa ra những kiến giải về quá trình “ đuổi kịp” các nước tiên tiến nhất của các nước kếm phát triển hơn. trong số những ý tưởng về sự “đuổi kịp” này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xét trên góc độ toàn bộ ngành công nghiệp, từng phân ngành hay thậm trí từng ngàh riêng biệt, quá trình đuổi kịp về mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng được chia thành 4 giai đoạn sau: Giai đoạn 1: các nước kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ các nước phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công nghiệp đặc biệt. Giai đoạn này xảy ra sự phân liệt hay phân công lao động quốc tế ngay trong lòng các nước kếm phát triển –chuyên sản xuất một số loại sản phẩm thủ công đặc biệt để bán và nhập khẩu hàng tiêu dùng công nghiệp khác từ các nước công nghiệp phát triển. Giai đoạn 2: các nước chậm phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển để tự chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trước đây vẫn phải nhập. Đây là giai đoạn các nước kém phát triển bắt đầu tích luỹ tư bản ( vốn) và phỏng theo ( bắt chước ) công nghệ chế tạo từ các 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2