LUẬN VĂN: Thực trạng công tác Kiểm Tra Sau Thông Quan
lượt xem 86
download
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hải quan được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Theo quy định mới, phương pháp quản lý nhà nước về hải quan được thay đổi một cách căn bản. Công tác kiểm tra giám sát hải quan dựa vào phương pháp quản lý rủi ro, chuyển dần từ "Tiền kiểm" sang "Hậu kiểm". Chính sự đổi mới này đã khẳng định rõ nét vai trò vị trí của công tác kiểm tra sau thông quan (KTSTQ),...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực trạng công tác Kiểm Tra Sau Thông Quan
- LUẬN VĂN: Thực trạng công tác Kiểm Tra Sau Thông Quan
- ĐẶT VẤN ĐỀ Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hải quan được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Theo quy định mới, phương pháp quản lý nhà nước về hải quan được thay đổi một cách căn bản. Công tác kiểm tra giám sát hải quan dựa vào phương pháp quản lý rủi ro, chuyển dần từ "Tiền kiểm" sang "Hậu kiểm". Chính sự đổi mới này đã khẳng định rõ nét vai trò vị trí của công tác kiểm tra sau thông quan (KTSTQ), đồng thời tạo ra những thách thức lớn cho công tác KTSTQ để đáp ứng được các nhiệm vụ, yêu cầu quản lý ngày càng cao. Cơ hội để khẳng định, nâng cao vai trò vị thế của mình là ở chỗ - việc tăng cường công tác KTSTQ đã trở thành yêu cầu cấp thiết, bắt buộc và tất yếu của toàn ngành hải quan trong giai đoạn trước mắt, nhằm từng bước đưa hoạt động này đi vào nề nếp, hoạt động vững chắc, đảm bảo thực hiện đúng Luật Hải quan (SĐBS), tạo thông thoáng cho hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư, phù hợp với xu thế đơn giản hoá, hài hoà hoá và hiện đại hoá TTHQ, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng vẫn đảm bảo quản lý nhà nước về hải quan. Thách thức là ở chỗ: khi nhiệm vụ được mở rộng, tăng cường, phức tạp hơn... đòi hỏi phải có được trước hết là một đội ngũ cán bộ làm công tác KTSTQ có đủ năng lực, trình độ, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của hoạt động KTSTQ; một hệ thống các UBPL rõ ràng, minh bạch, khả thi làm hành lang pháp lý cho hoạt động KTSTQ được thực hiện một cách chính xác, một cơ chế phối hợp thực hiện hiệu quả giữa các cơ quan trong và ngoài ngành với lực lượng KTSTQ... Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường phát triển của công tác KTSTQ từ trước khi có Luật Hải quan và ngay cả khi Luật Hải quan (SĐBS) có hiệu lực, nhìn chung công tác KTSTQ triển khai vẫn còn chậm, chưa có những chuyển biến rõ rệt và chưa thực sự hiệu quả. Thực trạng này là do cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan cần phải tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ trong thời gian tới. Trong phạm vi cho phép của một bài tiểu luận, người viết chỉ xin được đề cập một cách khái quát những suy nghĩ bước đầu của mình về thực trạng công tác KTSTQ, trên cơ sở đã thống nhất xác định phương hướng chung cũng như một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động KTSTQ.
- 1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGHIỆP VỤ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN 1.1. Vài nét về lịch sử hình thành nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan + Tổ chức Hải quan thế giới (WCO): Ngay từ những năm 60 của Thập kỷ XX Hội đồng hợp tác hải quan (Tổ chức Hải quan thế giới ngày nay) đã bắt tay nghiên cứu các biện pháp quản lý hải quan tiên tiến, trong đó có biện pháp tiến hành kiểm tra sau khi hàng hoá đã được thông quan, cơ sở kiểm tra là các chứng từ hải quan, sổ sách kế toán và các loại giấy tờ khác còn lưu lại tại cơ quan hải quan, tại doanh nghiệp và các bên liên quan khác về hàng hoá đã thông quan hay còn gọi bằng một thuật ngữ chuyên môn là "kiểm tra trên cơ sở kiểm toán". Trên thực tế, Hải quan một số nước từ lâu ễa áp dụng các biện pháp quản lý này khi tiến hành các cải cách về thủ tục hải quan, hiện đại hoá các quay trình thủ tục hải quan. Việc áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan giúp cơ quan Hải quan tập trung vào việc chỉ kiểm tra những đối tượng trọng điểm có các hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu không minh bạch. Đây là một công có hữu hiệu đối với công tác kiểm tra giám sát của Hải quan bởi vì: - Nó đưa ra một bức tranh rõ ràng và đầy đủ về các giao dịch có liên quan tới hoạt động Hải quan, được phản ánh trong các sổ sách và ghi chép của doanh nghiệp; - Đồng thời kiểm tra sau thông quan cũng cho phép cơ quan Hải quan áp dụng các biện pháp giám sát Hải quan theo hướng đơn giản hoá, ưu tiên làm thủ tục hải quan nhanh chóng, thuận tiện đối với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan; - Kiểm tra sau thông quan là một trong những biện pháp đấu tranh gian lận thương mại có hiệu quả nhất; Hiện nay Hải quan nhiều nước, khu vực thuộc Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã áp dụng các biện pháp kiểm tra sau thông quan trong công tác nghiệp vụ quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Tuy nhiên để xác định lịch sử và nguồn gốc hình thành nghiệp vụ quản lý này là một vấn đề khó; vì nghiệp vụ này được hình thành và hoàn thiện dần cùng với việc hình thành và hoàn thiện khoa học về quản lý rủi ro trong hoạt động của các cơ quan Hải quan trên thế giới trong những năm gần đây. Công ước về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan
- (Công ước Kyoto) ngày 18/05/1973 có hiệu lực ngày 25/09/1974 đã manh nha có những quy định bước đầu về kiểm tra sau thông quan. Nhưng cho đến những năm sau này, trong quá trình nghiên cứu áp dụng các biện pháp quản lý mới tại một số nước thì hoạt động nghiệp vụ này mới được Tổ chức Hải quan Thế giới đưa vào chương trình và có thể vào tháng 9 năm 1999 thì Công ước Kyoto được sửa đổi bổ sung thì vấn đề mới chính thức được nêu ra tại Phần phụ lục tổng quát, Chương VI có quy định về các hoạt động này với tên gọi là kiểm toán sau thông quan và kiểm toán hệ thống sổ sách doanh nghiệp. WCO đã khuyến nghị các nước thành viên nhanh chóng hoàn chỉnh và tiến tới áp dụng rộng rãi hệ thống kiểm tra hàng hoá sau khi thông quan nhằm tạo thuận lợi nhất cho hoạt động thương mại và nhấn mạnh rằng kiểm tra hải quan là một hệ thống tổng thể bao gồm các biện pháp kiểm tra khác nhau như kiểm tra hải quan trước thông quan, kiểm tra hải quan trong quá trình thông quan hàng hoá xuất nhập khẩu và kiểm tra sau thông quan. Thực tế công tác kiểm tra sau thông quan của Hải quan một số nước đó đạt được nhiều thành tích đáng quan tâm và rất đáng học hỏi đối với hoạt động nghiệp vụ mới mẻ này của Hải quan Việt Nam. + Tổ chức Hải quan ASEAN: Trong các nước ASEAN khi tiến hành biện pháp kiểm tra sau thông quan không có một khuôn mẫu chung nào bởi mỗi nước áp dụng các phương pháp triển khai thực hiện khác nhau. Do đó để thực hiện kiểm tra sau thông quan, Tổ chức ASEAN đó nghiên cứu xây dựng một cuốn sách hướng dẫn về vấn đề này để định hướng cho các nước thành viên áp dụng một chiến lược tổng thể và có phương pháp chung thực hiện thống nhất trong Khối. Tổ chức này đã xây dựng kế hoạch hành động hải quan ASEAN về kiểm toán sau thông quan (PCA) với các mục tiêu là: - Cung cấp một diễn đàn để trao đổi thông tin và kinh nghiệm về kiểm toán hải quan sau thông quan. - Thiết lập sự hiểu biết hơn về thực trạng của việc thực hiện PCA ở từng nước thành viên. - Xác định nhu cầu trợ giúp kỹ thuật và các hoạt động hợp tác khu vực khác tiếp theo mà chúng sẽ hỗ trợ các nước thành viên trong việc thực hiện PCA. Trong khối ASEAN có hai nước có hệ thống Kiểm tra sau thông quan khá phát triển, đó là: Hải quan Indonesia và hải quan Thái Lan:
- - Luật Hải quan Inđônêxia ban hành năm 1995 tại các Điều từ 49-52 quy định rõ về lưu giữ chứng từ phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan; các Điều 86 và 103 quy định về cơ sở pháp lý tiến hành kiểm toán của công chức hải quan và các chế tài xử phạt khi từ chối hoặc cản trở việc kiểm tra. Đến năm 1997 - 1998 kiểm tra sau thông quan được triển khai áp dụng rộng rãi. - Hải quan Thái Lan đó tiến hành áp dụng biện páhp kiểm tra sau thông quan vào cuối những năm 90 của Thế kỷ XX. Ngay trong năm 1997 đó phát hiện 400 triệu bath, năm 1998 phát hiện 832 triệu bath, chiếm 1/3 tổng số thuế xuất nhập khẩu và chiếm 2/3 tổng số tiền phạt thu được của Hải quan. + Đối với Hải quan Việt Nam: Trước khi Luật hải quan có hiệu lực thi hành vào 01/01/2002 thì nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 quy định về thủ tục hải quan, giám sát và lệ phí hải quan được gọi là kiểm tra sau giải phóng hàng. Những nội dung về kiểm tra sau giải phóng hàng khi đõ chưa được quy định rõ nét, đầy đủ về cơ sở pháp lý, phương pháp hoạt động; chưa hình thành bộ máy chuyên trách theo hệ thống. Tiếp đó, Tổng cục Hải quan đã ban hành quy chế kiểm tra sau giải phóng hàng theo Quyết định số 199/1999/QĐ-TCHQ ngày 05/06/1999, Điều 1 đã nêu: "Kiểm tra sau giải phóng hàng là một khâu nghiệp vụ kiểm tra hải quan, do cơ quan Hải quan thực hiện để thẩm định tính chính xác trung thực các nội dung đó khai báo và tính thuế của người làm thủ tục hải quan đối với lô hàng xuất nhập khẩu đó được giải phóng nhằm thu đủ thuế cho ngân sách nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân liên quan". Chỉ khi Luật Hải quan có hiệu lực, Hải quan Việt Nam mới chính thức triển khai hoạt động nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan. Như vậy, nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển, có thể thấy rằng, hoạt động thực tiễn về KTSTQ tại Việt Nam vẫn còn là một khâu nghiệp vụ mới mẻ, không giống như các công tác nghiệp vụ quen thuộc trước, nên đòi hỏi phải có sự nỗ lực, tập trung đầu tư trên mọi phương diện (nhân lực, vật lực, chính sách pháp luật...) để thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện công tác KTSTQ. 1.2. Khái niệm về kiểm tra sau thông quan * Theo Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO)
- "Kiểm tra sau thông quan là quy trình công tác cho phép viên chức Hải quan kiểm tra tính chính xác của hoạt động khai hải quan bằng việc kiểm tra các hồ sơ, tài liệu ghi chép về kế toán và thương mại liên quan đến hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá và tất cả các số liệu, thông tin, bằng chứng khác cho cơ quan Hải quan mà hiện tại đang được các đối tượng kiểm tra (cá nhân hoặc doanh nghiệp) trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào hoạt động buôn bán quốc tế nắm giữ". Theo Công ước Kyoto sửa đổi, bổ sung tháng 9/1999: Tại Phụ lục tổng quát, Chương 2, định nghĩa E3/F4) Công ước Kyoto có nêu: "Kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp được cơ quan Hải quan tiến hành nhằm thoả mãn mục đích của họ trong việc xác định tính chính xác và trung thực của các tờ khai hàng hoá thông qua kiểm tra các chứng từ, biên bản, hệ thống kinh tế và dữ liệu thương mại của các bên liên quan". * Theo Hải quan ASEAN: Trong cuốn Sổ tay hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan của Tổ chức Hải quan ASEAN vừa được công bố tại cuộc họp Tổng cục trưởng Hải uan ASEAN tại Thái Lan tháng 8/2003 và được sửa đổi bổ sung vào tháng 11/2005 đó nêu: "Kiểm tra sau thông quan là một biện pháp kiểm soát hải quan có hệ thống mà cơ quan Hải quan thấy thoả đáng về độ chính xác và trung thực của việc khai báo hải quan thông qua việc kiểm tra sổ sách, hồ sơ có liên quan, hệ thống kinh doanh và dữ liệu thương mại của các cá nhân/ các công ty tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào thương mại quốc tế". * Theo Hải quan Việt Nam: Kiểm tra sau thông quan là hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm: - Thẩm định tính chính xác, trung thực nội dung các chứng từ mà chủ hàng, người được chủ hàng uỷ quyền, tổ chức, cá nhân trực tiếp xuất nhập khẩu, nhập khẩu đó khai, nộp, xuất trình với cơ quan hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đó được thông quan. - Thẩm định việc tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Khái niệm về kiểm tra sau thông quan của mỗi nước tuy có nêu theo nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng tính chung vẫn bao hàm 7 khía cạnh cơ bản về kiểm tra sau thông quan: Thứ nhất, là một quy trình nghiệp vụ của cơ quan hải quan (KTSTQ không phải là một hệ thống độc lập mà là một chức năng của tổ chức hải quan); chia sẻ trách nhiệm quản lý nhà nước về hải quan có hệ thống với các đơn vị chức năng khác của Hải quan. Thứ hai, KTSTQ được tiến hành bởi các công chức hải quan. Thứ ba, KTSTQ là phương pháp kiểm tra ngược thời gian diễn ra sau khi giải phóng hàng. Thứ tư, KTSTQ được tiến hành để xác định tính tuân thủ pháp luật của người khai hải quan. Thứ năm, KTSTQ chú trọng thực hiện các biện pháp kiểm tra theo tất cả các thông tin liên quan, kể cả dữ liệu điện tử. Thứ sáu, KTSTQ không chỉ hướng vào đối tượng khai báo mà cả các cá nhân, công ty, tổ chức khác liên quan đến thương mại quốc tế. Thứ bảy, KTSTQ được thực hiện với sự cộng tác chặt chẽ giữa cơ quan hải quan và đối tượng kiểm tra. 1.3. Tính tất yếu khách quan của nghiệp vụ KTSTQ Từ những năm trước đây trong quá trình nghiệp vụ Hải quan đã có một bộ phận phụ trách công tác phúc tập hồ sơ hải quan sau khi hàng hoá đã làm xong thủ tục hải quan, công tác hải quan ký, đóng dấu xác nhận thông quan trên tờ khai hải quan. Bộ phận này (đội phúc tập hồ sơ tại các chi cục hải quan cửa khẩu) đảm nhận trách nhiệm kiểm tra xem xét lại từng hồ sơ hải quan, phân loại hồ sơ để xử lý việc truy thu, truy hoàn thuế, yêu cầu bổ sung giấy tờ, chứng từ thiếu, hoàn chỉnh các hồ sơ chưa đầy đủ, thanh khoản hồ sơ và tổng hợp phân loại thành từng loại hình rồi đưa vào lưu trữ khi hồ sơ đã phúc tập xong. Công tác này đơn giản, nhiều lúc, nhiều nơi không làm hoặc làm không đến nơi đến chốn, không phát huy được tác dụng phòng ngừa vi phạm gian lận thương mại, có nơi còn bị bỏ một thời gian dài, kém hiệu quả quản lý, năng lực cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.
- Cho đến nay, xuất phát từ yêu cầu ứng dụng phương pháp quản lý rủi ro trong kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu quy định tại Luật hải quan (sửa đổi bổ sung) (các Điều 15, 28, 29, 30, 32); từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hải quan. Sự cần thiết tăng cường công tác KTSTQ càng được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết. Tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ KTSTQ còn do yêu cầu hội nhập quốc tế và phát triển thương mại, trong khi đó, khả năng kiểm soát của Hải quan có hạn cả về nhân lực, vật lực, nhận thức tư tưởng. Yêu cầu thực hiện các điều ước, cam kết quốc tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và Hải quan Việt Nam với các nước trong khu vực và các tổ chức trên thế giới: WCO, WTO, ASEAN, APEC... Yêu cầu tiếp cận kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến về hải quan. Cụ thể là việc áp dụng phương pháp kiểm tra xác suất, trọng điểm trên cơ sở phân tích tổng hợp các yếu tố có liên quan đến giao dịch, chu chuyển hàng hoá thương mại, hạn chế các biện pháp và lưu lượng phải kiểm tra trong quá trình thông quan, thực hiện nguyên tắc "giảm tiền kiểm" mà "tăng hậu kiểm". Nhưng hậu kiểm không tràn lan mà kiểm tra theo trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả. Phương pháp này sẽ thực sự hiệu quả khi công tác KTSTQ phải được đồng hành chú trọng phát triển. Tính tất yếu khách quan của công tác KTSTQ một mặt khẳng định vai trò, vị thế và xu hướng phát triển của nó đồng thời chỉ ra những nhiệm vụ, thách thức không nhỏ đối với công tác KTSTQ để đáp ứng được các nhiệm vụ yêu cầu quản lý ngày càng cao. Hải quan các nước nói chung và Hải quan Việt Nam nói riêng, tùy vào điều kiện hoàn cảnh của mình trên tinh thần tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm tiên tiến của các n ước để định hướng phát triển, từng bước hoàn thiện công tác KTSTQ sao cho vừa phù hợp với điều kiện riêng (điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể) vừa tương đồng với xu hướng phát triển chung của hải quan các nước. Thiết nghĩ rằng, việc tổng kết, rà soát, đánh giá thực trạng công tác KTSTQ, để rồi trên cơ sở đó ghi nhận những thành quả đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, bất cập, vướng mắc, khó khăn, đồng thời xác định phương hướng, tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và tăng cường hiệu lực hiệu quả cho khâu nghiệp vụ này là việc làm thiết thực trong giai đoạn hiện tại của Hải quan Việt Nam. 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KTSTQ
- 2.1. Hệ thống quy định pháp luật có liên quan đến KTSTQ * Hệ thống văn bản: Luật SĐBS một số điều của Luật hải quan có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 đã có những thay đổi căn bản trong công tác quản lý nhà nước về hải quan nói chung và công tác KTSTQ nói riêng. Đứng trước yêu cầu cải cách và hội nhập quốc tế, cũng như để đáp ứng được yêu cầu do Luật Hải quan đặt ra, Tổng cục Hải quan đã tham mưu trình Bộ Tài chính và Chính phủ ban hành hệ thống các VBQPPL quy định về KTSTQ và có liên quan đến công tác KTSTQ (phụ lục 1). * Đánh giá Mặc dù hệ thống các văn bản đã tương đối đầy đủ so với trước đây, tuy nhiên để đáp ứng được yêu cầu của công tác kiểm tra sau thông quan trong tình hình mới, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn bộc lộ một số tồn tại tiếp tục cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thống nhất, thể hiện trong một số vấn đề lớn sau đây: Thứ nhất, hệ thống văn bản chưa đủ sức mạnh cần thiết, chưa quy định rõ về hành vi vi phạm trong lĩnh vực kiểm tra sau thông quan, các chế tài xử phạt và thẩm quyền xử lý các vi phạm đó, cụ thể ở những hành vi: Từ chối, trốn tránh không cử người có đủ thẩm quyền làm việc với đoàn kiểm tra khi KTSTQ tại trụ sở đơn vị (trụ sở doanh nghiệp); có hành vi cản trở đoàn kiểm tra dưới các hình thức khác nhau; không cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời chứng từ tài liệu theo yêu cầu, không trả lời những câu hỏi do Đoàn kiểm tra nêu ra... Thứ hai, mặc dù đã được quy định trong Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ, nhưng hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mới quan hệ giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan có liên quan khác trong trao đổi cung cấp thông tin phục vụ công tác KTSTQ như: cơ quan vận tải, bảo hiểm, cơ quan thương mại, quản lý thị trường, kế hoạch và đầu tư... Thứ ba, ngoài ra do đặc thù của KTSTQ, ngoài hệ thống VQQPPL còn phải xây dựng những tài liệu hướng dẫn kỹ thuật (cẩm nang) kiểm tra về: gian lận trị giá, gian lận thuế suất, gian lận định mức, các chính sách ưu đãi về thuế, về kiểm toán doanh nghiệp. Thứ tư, một số văn bản cần tiếp tục hướng dẫn thực hiện như: Hướng dẫn pháp lệnh ĐTHS (về quyền khởi tố của Cục tổng cục KTSTQ), quy định tại Bộ luật TTHS
- năm 2005 về việc chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát nhân dân những vụ việc tuy thu thuế trên 50 triệu đồng... (vấn đề này hiện đang còn thực hiện không thống nhất, có địa phương chuyển Viện Kiểm sát nhân dân, có địa phương không). 2.2. Thực trạng cán bộ và công tác đào tạo * Về cán bộ: Mặc dù trình độ cán bộ đã được tiêu chuẩn hoá theo quy định của TCHQ theo công văn 2722/TCHQ-TCCB ngày 12/06/2003 của TCHQ, nhưng xét về mặt bằng chung tại thời điểm hiện nay vẫn không đủ cán bộ có trình độ làm công tác KTSTQ, đặc biệt là về trình độ chuyên môn kế toán, kiểm toán doanh nghiệp. Nếu so sánh với chuẩn mực cán bộ theo tiêu chuẩn ASEAN (phụ lục 2) thì chưa đáp ứng được. Một điều dễ nhận thấy là cán bộ KTSTQ th ường chỉ được đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực nhất định như: Tài chính kế toán, ngoại thương, luật... trong khi đó, công tác KTSTQ vốn là khâu nghiệp vụ đặc biệt - luôn đòi hỏi phải có khối lượng kiến thức tổng hợp. Vì vậy cán bộ làm công tác KTSTQ hiện nay đa phần thiếu chuyên nghiệp, thiếu chuyên sâu, chất lượng còn yếu so với yêu cầu thực tế, thiếu 6 kỹ năng cơ bản của một cán bộ làm kiểm tra sau thông quan... Cơ cấu chuyên môn và bố trí sử dụng còn nhiều bất cập, thiếu nghiêm trong lực lượng có nghiệp vụ tài chính kế toán, kiểm toán, trong khi đây là nghiệp vụ chính để kiểm tra chứng từ, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính tại doanh nghiệp. Chưa kể đến, số đông cán bộ công chức KTSTQ chưa sử dụng được ngoại ngữ và tin học để phục vụ thiết thực cho công tác KTSTQ. Việc sắp xếp bố trí, luân chuyển - vấn đề này hiện cũng còn nhiều bất cập, không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn hoá trong công tác KTSTQ. Nhiều cán bộ được đào tạo chuyên sâu các chuyên ngành có liên quan đến KTSTQ, nhưng không được bố trí làm KTSTQ. Việc luân chuyển cán bộ làm công tác KTSTQ còn tùy tiện, có người giỏi thì lại chuyển sang bộ phận khác, hoặc người được điều chuyển về KTSTQ lại không được chuyên sâu. * Về đào tạo: Đã phối hợp với các đơn vị trong và ngoài ngành tài chính, trong và ngoài nước tổ chức các lớp học liên quan đến nghiệp vụ hải quan như: trị giá, xuất xứ, HS, kế toán
- kiểm toán... Cho cán bộ trong ngành và cộng đồng doanh nghiệp, đang trong giai đoạn xây dựng Bộ giáo trình đào tạo riêng về các nghiệp vụ liên quan đến KTSTQ. Bước đầu đã hình thành được đội ngũ giảng viên chuyên về KTSTQ (12 người) bao gồm cấp Tổng cục của cấp Cục Hải quan. Tuy nhiên, công tác đào tạo vẫn còn có những tồn tại và hạnc hế như: + Mặc dù đã xây dựng được kế hoạch tổng thể chuyên sâu đào tạo cho toàn hệ thống, tuy nhiên chưa gắn kết được với chương trình đào tạo chung của ngành, chưa tổ chức để triển khai có hiệu quả; + Nội dung đào tạo nhìn chung chưa phù hợp với các đối tượng và thời gian đào tạo. Có những nội dung khó, phức tạp... rất cần có một khoảng thời gian dài hợp lý giản g viên mới có thể truyền đạt hết và đối tượng là học viên mới có thể lĩnh hội được một cách thấu đáo, xong thực tế lại quy định rập khuôn với một th ời lượng quá ngắn, chưa kể đến việc truyền đạt, giảng dậy đã thực sự hiệu quả hay chưa. + Việc tổ chức các lớp đào tạo chủ yếu theo chương trình ngắn hạn, chưa được thường xuyên tập trung và chuyên sâu, dẫn đến chưa đào tạo được những cán bộ chuyên sâu về KTSTQ và các lĩnh vực chuyên môn. 2.3. Công tác chỉ đạo và phối hợp thực hiện 2.3.1. Công tác chỉ đạo thực hiện * Tại cơ quan Tổng cục Hải quan - Lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan chưa đầu tư, chưa quan tâm đúng mức đến công tác KTSTQ, một số chỉ đạo còn lúng túng. - Vai trò tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra của cơ quan tham mưu (Cục Kiểm tra sau thông quan) trong thời gian qua chưa thật sự rõ rệt và còn nhiều bất cập, chưa mang tính hệ thống và phát huy sức mạnh của toàn ngành. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, Cục chưa phát huy được vai trò của mình trong chỉ đạo các địa phương, dẫn đến phần lớn các cuộc kiểm tra sau thông quan đều do hải quan địa phương tự phát hiện thông tin và kiểm tra, Cục chỉ mang tính tham gia hỗ trợ về cán bộ hoặc cung cấp thông tin. - Các phòng nghiệp vụ thuộc Cục được phân chia quản lý theo địa bàn, nhưng việc quản lý và chỉ đạo chưa được sát sao và chuyên sâu, chỉ nắm công việc chủ yếu qua báo cáo của địa phương.
- * Tại Cục hải quan địa phương - Một số Lãnh đạo Cục hải quan tỉnh, thành phố còn coi nhẹ, chưa quan tâm đúng mức và coi trọng công tác này, dẫn đến việc tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện không sát sao. Có địa phương còn tâm lý "ngại đụng chạm", không có những chỉ đạo cụ thể đối với các bộ phận chức năng phối hợp với Phòng kiểm tra sau thông quan trong triển khai nhiệm vụ. - Phòng kiểm tra sau thông quan ở một số địa phương chưa làm tốt công tác tham mưu cho Lãnh đạo Cục trong việc chỉ đạo các Chi cục thực hiện việc phúc tập, kiểm tra hồ sơ cũng như việc kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp. 2.3.2. Công tác phối hợp thực hiện * Phối hợp trong ngành: - Tại cơ quan Tổng cục, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên việc phối kết hợp công tác giữa Cục kiểm tra sau thông quan và các đơn vị vụ, Cục chưa được chặt chẽ trong lĩnh vực chỉ đạo nghiệp vụ, cung cấp và trao đổi thông tin; - Tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố và các Chi cục: Chức năng nhiệm vụ các đơn vị còn chồng chéo nhau giữa các đơn vị như giá, thuế, kiểm soát và kiểm tra sau thông quan, dẫn đến tình trạng các đơn vị không làm hết chức năng của mình, không phát huy hết nguồn lực, giảm hiệu quả quản lý; - Phối hợp giữa các Cục hải quan tỉnh, thành phố và Tổng cục chưa thực sự tốt, nhiều vụ việc có liên quan đến nhiều đơn vị nhưng Cục Kiểm tra sau thông quan không nắm cụ thể được hết tình hình; * Phối hợp ngoài ngành: - Mặc dù Bộ Tài chính đã có Quyết định số 1081/QĐ-BTC ngày 6/4/2004 ban hành Quy chế về việc phối hợp công tác giữa hệ thống thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, đồng thời 03 ngành đã có văn bản số 1537/TCT-TCHQ-KBNN ngày 24/5/2004 hướng dẫn Quyết định 1081/QĐ-BTC, tuy nhiên việc triển khai thực hiện ở cấp Trung ương cũng như ở địa phương chưa thực sự đạt hiệu quả; - Thông tư liên tịch 01/2006/TTLT-BTC-NHNN ngày giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết trong việc trao đổi thông tin với hệ thống ngân hàng phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan. Chúng ta biết rằng, trước đó
- việc trao đổi và được cung cấp thông tin liên quan đến thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng của lực lượng kiểm tra sau thông quan gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, .... - Chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mối quan hệ giữa cơ quan hải quan và các cơ quan có liên quan khác như vận tải, bảo hiểm, quản lý thị trường, công an... trong trao đổi cung cấp thông tin, vì vậy việc được cung cấp, trao đổi thông tin từ các ngành khác phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan còn nhiều hạn chế; - Chưa chủ động và chú trọng tới công tác hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù đã tham gia biên soạn Sổ tay kiểm tra sau thông quan ASEAN; nhưng nhìn chung công tác phối hợp quốc tế chưa có hiệu quả, chưa biết tận dụng những lợi thế của những quốc gia đi trước, đặc biệt trong tham khảo kinh nghiệm đối với công tác rất mới này. 2.3.3. Về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu Trong thời gian qua, cùng với kế hoạch hiện đại hoá, toàn ngành đã có quan tâm, cố gắng trong lĩnh vực này, tuy nhiên đối với hệ thống kiểm tra sau thông quan, mặc dù cơ sở pháp lý cho việc cập nhật, khai thác, sử dụng và quản lý thông tin đã được quy định tại các văn bản pháp quy về công tác kiểm tra sau thông quan nhưng vấn đề này còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Có thể khẳng định hệ thống kiểm tra sau thông quan hiện nay thiếu thông tin để chủ động thực hiện nhiệm vụ. * Tại cấp Tổng cục - Dung lượng đường truyền giữa Cục kiểm tra sau thông quan và cơ quan Tổng cục còn thấp, mới chỉ khai thác, sử dụng được chương trình quản lý văn bản hành chính (net office). - Cục kiểm tra sau thông quan đã phối hợp với Cục Công nghệ thông tin xây dựng Danh bạ doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu trên phạm vi toàn quốc năm 2003, năm 2004. Tuy nhiên danh bạ được xây dựng mới ở dưới dạng bảng báo cáo trên file Excel do các đơn vị gửi về theo chu kỳ 01 năm/ 01 lần, sau đó được Cục Công nghệ thông tin tổng hợp trên phạm vi toàn quốc, vì vậy thông tin trên danh bạ không đạt được một số yêu cầu đặt ra. - Thực tế, ở trong ngành đến nay chưa có một hệ thống phần mềm cung cấp thông tin phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan. Hệ thống phần mềm cung cấp
- trao đổi dữ liệu thông tin với các ngành như Kho bạc, Tổng cục Thuế... chưa được triển khai. * Tại địa phương Ngoài những bất cập như chưa có phần mềm riêng cho toàn hệ thống kiểm tra sau thông quan như đã đề cập ở trên, việc khai thác và sử dụng các thông tin từ chương trình sẵn có trong Ngành cũng còn nhiều hạn chế: có địa phương có tương đối đủ các chương trình (trong phạm vi của Cục), có nơi chưa có đủ; có nơi có chương trình nhưng chưa có dữ liệu; có nơi được cấp quyền sử dụng khai thác, có nơi bị hạn chế. Có nơi bị hạn chế hoàn toàn. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị của các đơn vị còn rất yếu, thiếu máy móc, hoặc chỉ được trang bị máy cũ, lạc hậu. Hệ thống đường truyền nhiều nơi không bảo đảm. 2.3.4. Về kinh phí và chế độ đãi ngộ Theo quy định hiện hành chưa có chễ độ đãi ngộ thích đáng cho lực lượng kiểm tra sau thông quan nhằm động viên, khuyến khích cán bộ công chức chủ động trong công việc, trong điều kiện cán bộ không tâm huyết với công tác này. Hơn nữa, do kiểm tra sau thông quan là việc khó, dẫn đến tình trạng một số cán bộ không nỗ lực cố gắng xử lý công việc.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Thực trạng công tác hạch toán kế toán tổng hợp tại Xí nghiệp dệt may xuất nhập khẩu và dịch vụ tổng hợp
157 p | 1311 | 851
-
Luận văn: Thực trạng công tác kế toán tiền lương tại Công ty Thiết bị và Quảng cáo truyền hình
85 p | 746 | 309
-
Luận văn Thực trạng công tác Quản lý dự án đầu tư tại Tổng công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng
91 p | 1083 | 251
-
LUẬN VĂN: Thực trạng công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Tư vấn Xây dựng và Phát triển Nông thôn
58 p | 440 | 115
-
Luận văn - THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY NAM HÀ
136 p | 297 | 100
-
LUẬN VĂN: "Thực trạng công tác hạch toán kế toán tổng hợp tại Xí nghiệp dệt may xuất nhập khẩu và dịch vụ tổng hợp "
144 p | 244 | 97
-
LUẬN VĂN: Thực trạng công tác thẩm định khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn trung và dài hạn tại sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam
109 p | 270 | 72
-
Luận văn: Thực trạng công tác huy động vốn và một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ kho bạc nhà nước Hà Tây
65 p | 265 | 67
-
Luận Văn: Thực trạng công tác tiêu thụ xe ô tô và chất lượng dịch vụ sau bán xe ô tô của Công ty cơ khí ô tô 3-2
68 p | 305 | 64
-
Luận văn: Thực trạng công tác cho vay dự án đầu tư tại SGDI - BIDV Việt Nam
104 p | 158 | 56
-
Luận văn: Thực trạng công tác tạo động lực đang áp dụng tại công ty công nghiệp tàu thủy và xây dựng sông Hồng
84 p | 182 | 54
-
Luận văn: Thực trạng công tác quản lý và giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại NHĐT và PT Việt Nam
90 p | 157 | 52
-
Luận văn: Thực trạng công tác tiêu thụ và một số biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt May Hà Nội
69 p | 214 | 48
-
Luận văn: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán kế toán tại công ty TNHH Thế Vũ
31 p | 129 | 35
-
LUẬN VĂN: Thực trạng công tác kế toán tại cửa hàng thương mại cát linh thuộc công ty thương mại dịch vụ tràng thi
36 p | 135 | 25
-
Luận văn: Thực trạng công tác huy động vốn và một số kiến nghị để đẩy mạnh công tác huy động vốntại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản
74 p | 113 | 19
-
LUẬN VĂN: Thực trạng công tác tính giá thành tại công ty thương mại – gia công kim khí thép thái nguyên
40 p | 83 | 16
-
Luận văn: Thực trạng công tác huy động vốn và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và định hướng phát triển nguồn vốn trong công tác huy động vốn tại SGD I NHCT VN
80 p | 106 | 16
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn