intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

93
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho nông nghiệp, nông thôn là vấn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho nông nghiệp, nông thôn là vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa quyết định. Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Trong những năm đổi mới, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ; phát triển đa dạng, phong phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các vùng, miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội vẫn còn những yếu kém. Sự phát triển nông nghiệp ở vùng này còn gặp nhiều hạn chế, trở ngại, trong đó có vấn đề: thiếu vốn và chưa huy động được tối đa các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động vốn trên địa bàn ngoại thành có những lợi thế, đặc điểm và yêu cầu riêng. Các giải pháp nào đẩy mạnh việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội? Do đó chọn đề tài luận văn này vẫn là cần thiết, góp phần nhỏ vào việc giải đáp các câu hỏi trên đây. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phạm trù tư bản, tích tụ và tập trung tư bản; vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, trên các ấn phẩm, các nhà kinh tế học hiện đại cũng tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
  3. ở nước ta, dưới ánh sáng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, vấn đề vốn phục vụ phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, vốn cho phát triển công nghiệp, vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý là các tác phẩm sau đây: 1. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt Nam - G S Nguyễn Điền (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997; 2. Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp nước ta hiện nay - Trần Xuân Kiên, Luận án Tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1998; 3. Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và triển vọng - TS Nguyễn Sinh Cúc và TS Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; 4. Khuyến khích đầu tư trong nước - GS,TS Chu Văn Cấp, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1/1995; 5. Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam - Nguyễn Văn Lai, Luận án TS Khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội ,1996; 6. Một số giải pháp đầu tư vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, TS Cao Sỹ Kiêm, Tạp chí Ngân hàng, số 13/1998; 7. Vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn - GS,TS Thứ trưởng Bộ Tài chính Tào Hữu Phùng, Tạp chí Cộng sản, số 1/1999. ... Tháng 7/1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tổ chức cuộc Hội thảo quốc gia: "Nghị quyết Trung ương 4 và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn". Hầu hết các công trình nêu trên đã đề cập một cách toàn diện, khái quát hoặc đi sâu phân tích từng mặt của quá trình đầu tư vốn nói chung, đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề huy động vốn trên địa bàn các huyện ngoại thành, nơi mà điều kiện, đặc điểm và yêu cầu phát triển
  4. kinh tế - xã hội chứa đựng những đặc trưng kinh tế riêng đang đòi hỏi phải được nghiên cứu. Vì vậy, luận văn: "Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay" là đề tài cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng huy động vốn trong nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, đề xuất những phương hướng, giải pháp khả thi nhằm huy động có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn, đặc điểm, vai trò vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp. - Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. - Luận chứng phương hướng, giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Nội dung nghiên cứu của luận văn liên quan chủ yếu đến lĩnh vực huy động vốn trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. Đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên chỉ tập trung vào những phương hướng, quan điểm và giải pháp có tính chất định hướng. Những tài liệu, số liệu được phân tích ở thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là trong 5 năm trở lại đây. 5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu luận văn
  5. - Thực hiện đề tài luận văn, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng trong các văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và các Hội nghị Trung ương. Đồng thời, tham khảo một số lý thuyết kinh tế hiện đại, đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; coi trọng phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp chặt chẽ với phương pháp điều tra khảo sát thực tiễn nhằm khái quát, chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn để đưa vào luận văn. 6. Những điểm mới của luận văn - Trình bày một cách hệ thống lý luận về vốn và vai trò của vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp. - Đánh giá thực trạng huy động vốn phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. - Đưa ra những giải pháp có tính chất định hướng, góp phần huy động có hiệu quả các nguồn vốn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo h ướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết, 12 biểu và 8 phụ lục.
  6. Mục lục Trang 1 Mở đầu 5 Chương 1: Vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp 5 1.1. Vốn và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm về vốn 5 1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và các phương thức huy động vốn trong nước 10 1.1.3. Vai trò của vốn đối với phát triển nông nghiệp 19 26 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn để phát triển nông nghiệp 1.2.1. Nhu cầu vốn quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn 26 1.2.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chi phối khả năng huy động 28 vốn 1.2.3. Khả năng cung ứng của các nguồn vốn và trình độ phát triển của 28 hệ thống tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn 1.2.4. Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến việc huy động vốn 30 31 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc tạo vốn để phát triển nông nghiệp Chương 2: 35 Thực trạng huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội 35 2.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội và tình hình phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội thời gian qua 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội 35 2.1.2. Tình hình phát triển nông nghiệp ngoại thành thời gian qua 37
  7. 41 2.2. Thực trạng huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội 2.2.1. Thực trạng huy động vốn thông qua nguồn ngân sách nhà nước để 42 phát triển nông nghiệp ngoại thành 2.2.2. Thực trạng huy động vốn tín dụng nhà nước để phát triển nông 45 nghiệp ngoại thành 2.2.3. Thực trạng huy động vốn từ doanh nghiệp và hợp tác xã để phát 51 triển nông nghiệp 2.2.4. Thực trạng huy động vốn từ dân cư để phát triển nông nghiệp 54 2.2.5. Đánh giá chung 57 65 Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu huy động vốn có hiệu quả nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới 65 3.1. Định hướng phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội và dự báo nhu cầu về vốn 3.1.1. Định hướng phát triển nông nghiệp ngoại thành 65 3.1.2. Dự báo nhu cầu về vốn 68 69 3.2. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm huy động có hiệu quả các nguồn vốn, để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới 3.2.1. Một số phương hướng chủ yếu để huy động vốn có hiệu quả để 69 phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội 3.2.2. Những giải pháp chủ yếu huy động có hiệu quả các nguồn vốn 79 để phát triển nông nghiệp ngoại thành trong thời gian tới Kết luận 98 Danh mục tài liệu tham khảo 100
  8. Chương 1 Vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp 1.1. Vốn và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm về vốn Vốn là nguồn lực quan trọng nhất đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu về vốn là rất lớn. Tuy nhiên, do tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, khả năng "hút" vốn từ nước ngoài còn hạn hẹp nên lượng vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế còn rất thiếu. Vì vậy, nhận thức và vận dụng đúng đắn phạm trù vốn sẽ là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn để đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho đến nay đã có nhiều khái niệm về vốn dưới các giác độ khác nhau: Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa vào chu chuyển, như: tiền, lao động, vật tư, tài nguyên, máy móc, thiết bị, ruộng đất; giá trị của những tài sản vô hình, như: vị trí đất đai, công nghệ, quyền phát minh, sáng chế. Trong các nền kinh tế phát triển thì tài sản vô hình ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Đối với các nhà kinh tế, vốn là yếu tố thứ ba của sản xuất (các yếu tố khác là lao động và đất đai) được kết hợp lại để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế trước C.Mác đã nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế. Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển, vốn không những là yếu tố quan trọng đối với quá trình sản xuất của các nước có nền kinh tế phát triển mà còn là yếu tố khan hiếm đối với hầu hết các quốc gia đang và kém phát triển trên thế giới. Vì vậy, phạm trù vốn luôn được các nhà kinh tế hiện đại quan tâm nghiên cứu và tiếp cận nó trên những bình diện khác nhau. Đó là:
  9. - "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm sinh lợi" [62, 1126]. - "Vốn là một loại nhân tố "đầu vào" đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra" của hoạt động kinh tế" [12, 138]. - Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, tức là một phần thu nhập chưa được tiêu dùng. Dưới dạng vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công trình hạ tầng, các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các thành phẩm... Ngoài ra, còn có các loại vốn vô hình (bằng phát minh sáng chế, vị trí kinh doanh v.v..), không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng có giá trị kinh tế và cũng là những yếu tố vốn cần thiết cho quá trình phát triển. Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn luôn luôn vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ. Tổng số vốn đã tích lũy được còn gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia tích lũy được, có thể chia thành hai nhóm: vốn sản xuất (tài sản vật chất) và vốn phi vật chất (tài sản phi vật chất). Như vậy, vốn sản xuất vật chất là một phần của tài sản quốc gia nh ư là kết quả của quá trình tích lũy và được trực tiếp sử dụng trong quá trình sản xuất hiện tại. Tài nguyên thiên nhiên, như: đất đai, hầm mỏ... không được liệt vào phạm trù trên vì nó không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư. Các khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc, nhà xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thì được xếp vào vốn sản xuất. Ngoài ra, bộ phận tài sản quốc gia phi sản xuất là các công sản quốc gia cũng hết sức quan trọng. Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới. Quá trình này được thực hiện bởi hoạt động đầu tư nhờ vốn đầu tư [12, 138-139]. - "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái khác tạo ra. Vốn là một trong bốn yếu tố sản xuất, và bao gồm máy móc, nhà máy và nhà cửa
  10. là cái làm cho sản xuất trở thành hiện thực nhưng trừ nguyên liệu thô và có thể được coi như là giữ giá trị được tích trữ của những cái này" [7, 56]. Từ những cách tiếp cận trên về vốn, có thể rút ra một số nhận xét sau: Thứ nhất, vốn là một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nó góp phần tạo ra thu nhập, đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thứ hai, vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận mà còn là đại diện về mặt giá trị cho những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất - kinh doanh. Thứ ba, vốn được biểu hiện bằng tiền. Song, không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền là hình thái biểu hiện của vốn. Trường hợp tiền để tiêu dùng hàng ngày, tiền để cất trữ không được coi là vốn. Đó là các khoản để chi tiêu và tiền tiết kiệm để giành, là các khoản tiền không sinh lời, không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Chỉ có những đồng tiền được đảm bảo bằng tài sản thật, đưa vào đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời mới là vốn. Trong nền kinh tế thị trường, cách vận động và phương thức vận động của tiền do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức: TLSX ... SX ... H’ - T’: là hình +T-H SLĐ thức vận động của vốn đầu tư trong các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng chính là mô hình tái sản xuất nói chung. + T - H - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư trong các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ. + T - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư thuộc các tổ chức tài chính trung gian mua trái phiếu, cổ phiếu công ty, đầu tư góp vốn liên doanh. Trong cơ chế thị trường, đối với một quốc gia, từng doanh nghiệp có thể sử dụng cùng một lúc ba phương thức đầu tư vốn theo mô hình trên nhằm mục tiêu có mức doanh
  11. lợi cao và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt nhất nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất một cách hiệu quả. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời của vốn vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với qui mô ngày càng mở rộng ở chu kỳ sau. Sự vận động của vốn trong thị trường tuân theo qui luật khách quan của kinh tế thị trường. Song, con người có thể nắm bắt và lợi dụng chúng để tạo ra những kênh huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục đích sản xuất, kinh doanh của mình. Trong giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập dưới góc độ huy động vốn trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp. Cụ thể: Một là, vốn trong nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia [29, 17]. Hay, nói cụ thể hơn, vốn trong nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết cấu thành quá trình sản xuất, bao gồm: tiền mặt, nhà xưởng máy móc thiết bị, vật kiến trúc, nguyên liệu, đất đai, lao động, kinh nghiệm quản lý, chữ tín của khách hàng đối với sản phẩm, bí quyết công nghệ, vị trí kinh doanh, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm,... Được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia. Như vậy, các nhân tố cấu thành vốn trong nước là rất đa dạng: vốn bằng tiền, các dạng của cải, vốn con người, vốn tài sản,... Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa, các loại vốn trên có thể thâm nhập vào nhau, chuyển hóa cho nhau và dĩ nhiên, chúng sẽ trở thành tiền mặt trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng, linh hoạt về các nguồn vốn. Từ đó mà có biện pháp khai thác, huy động nguồn vốn còn tiềm ẩn trong nền kinh tế vào phát triển kinh tế. Nhất là, khi có một nguồn vốn nhất định đủ sức tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa thì điều quan trọng là phải tìm cách cấu trúc tối ưu các yếu tố, quản lý có hiệu quả chúng để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
  12. Hai là, vốn bằng tiền (tiềm lực về tài chính) đầu tư vào phát triển nông nghiệp. Nói cụ thể, vốn đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp hay trên phạm vi từng quốc gia cần phải có các khoản tiền ứng ra để đầu tư ban đầu và đầu tư vào sản xuất trong giai đoạn đưa công trình vào hoạt động. Xã hội càng phát triển, những chi phí cho các khoản "đầu vào" càng lớn. Bởi lẽ, những tư liệu lao động và đối tượng lao động do con người tạo ra có quy mô ngày càng lớn, phong phú về kết cấu, đa dạng về chủng loại và hàm chứa một trình độ khoa học - công nghệ ngày càng cao. Chúng trở thành những tài sản (vốn) rất có giá trị. Dựa theo những tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia vốn thành các loại khác nhau. Dưới đây là một số loại cơ bản: + Dựa vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định ứng với tài sản cố định (nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dụng cụ đo lường, phương tiện quản lý...; vốn lưu động ứng với tài sản lưu động (nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa và các khoản tiền tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả,...). + Dựa theo hình thái và nguồn lực đầu tư, vốn có hai loại: vốn hữu hình và vốn vô hình. Vốn hữu hình có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm các tài sản hữu hình, tiền mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán...; vốn vô hình là phần vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm sử dụng những tài sản vô hình để phục vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn vô hình bao gồm: vị trí kinh doanh, bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế... + Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 1 năm. Vốn trung hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ 1 năm đến dưới 5 năm. Vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 5 năm trở lên. + Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: vốn chủ sở hữu và vốn vay. Vốn chủ sở hữu là lượng vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một chủ thể kinh doanh. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, được hình thành trên cơ sở ngân sách nhà nước
  13. cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần, được hình thành thông qua huy động vốn góp của cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn, được hình thành thông qua vốn góp của các thành viên. Vốn vay là lượng vốn huy động từ các nguồn bên ngoài chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo tính liên tục, hiệu quả của quá trình sản xuất. Vốn vay có thể vay ngân hàng hay các tổ chức tài chính trung gian khác và vay qua thị trường chứng khoán (trái phiếu công ty). Trong nền kinh tế thị trường, vốn vay là lượng vốn chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư. Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn có những cách thức phân loại vốn khác,như: phân theo giác độ sử dụng vốn có hai loại: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn để tiến hành đầu tư trên tổng thể nền kinh tế có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài,... [40, 13]. Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi góc nhìn khác nhau cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, đầu tư vốn, song, xét về bản chất nó là thể thống nhất. Việc phân chia vốn thành các loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất phạm trù vốn. Nói cách khác, là hiểu được tính đa dạng, phong phú và rất phức tạp của vốn đầu tư trong nền kinh tế thị trường, giúp cho các chủ thể kinh doanh có kế hoạch chủ động để huy động và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả. 1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và các phương thức huy động vốn trong nước 1.1.2.1. Cơ cấu nguồn vốn Hiện nay, nguồn vốn trong nước tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu chung lại có các loại: vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng ngân hàng và vốn tích lũy của dân cư. - Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Nguồn này được hình thành thông qua việc tiết kiệm của chính phủ. Nói cách khác, phần tiết kiệm của chính phủ là phần tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của chính phủ thể hiện ở số chênh lệch giữa tổng số thu so với tổng số chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước. Về bản chất, đây là nguồn vốn của ngân sách nhà nước chi cho phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, qui mô ngân sách của Nhà nước ta không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nguồn thu. Song, thu chủ yếu vẫn qua huy động thuế và phí (trên 90%).
  14. Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình từ 13,1% GDP (1986 - 1990) lên 20,5% GDP (1991 - 1995) và hiện nay, khoảng 22% GDP (ước tính giá trị GDP nước ta khoảng 26 tỷ USD) [38, 3]. Với khả năng huy động vốn trên, ngân sách nhà nước sẽ có điều kiện để tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng. - Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn này được hình thành từ phần tiết kiệm của doanh nghiệp, thể hiện ở phần lãi thuần được để lại dùng làm tăng vốn chủ sở hữu. Phần lãi thuần để lại thực chất là phần đầu tư ròng tăng thêm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, phần khấu hao c ơ bản hàng năm cũng là nguồn để các doanh nghiệp đầu tư. ở nước ta hiện có 5.280 doanh nghiệp nhà n ước, chiếm khoảng 30% GDP, 20% tổng đầu tư, 50% dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong n ước. Trong đó, có 200 doanh nghiệp lớn nhất, chiếm 60% tổng số vốn nhà nước và 40% tổng số dư nợ [6]. Bên cạnh đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh, khả năng thu hút vốn thuận lợi, mức thu nhập lao động và nộp ngân sách khá cao. Năm 1991 có 123 doanh nghiệp với tổng vốn điều lệ là 69 tỷ đồng, 1996 có 26.091 doanh nghiệp và 8.257 tỷ đồng [6, 4]. Đây là nguồn có khả năng lớn trong huy động để phát triển nền kinh tế. - Nguồn vốn tín dụng: Nguồn này được hình thành từ vốn tự có của ngân hàng, vốn huy động tiền gửi trong dân cư và các nguồn khác. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, nguồn vốn tín dụng càng trở thành nguồn vốn chủ yếu trong tổng vốn kinh doanh của các chủ thể kinh tế. ở nước ta, nguồn vốn tín dụng được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, ngân hàng cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó, hệ thống ngân hàng thương mại bao gồm: Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước), Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong đó, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là ngân hàng chủ yếu cung ứng vốn tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tính đến cuối năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã có tổng nguồn vốn kinh doanh là 31.789 tỷ đồng, tăng 29% so với năm 1997. Trong 7 tháng đầu năm 1999, do tích cực tìm nguồn vốn rẻ và ổn định, mở rộng quan hệ với bạn hàng
  15. nước ngoài, khai thác các nguồn vốn ủy thác quốc tế; mở rộng mạng lưới tín dụng ở nông thôn nên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm bảo được tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, tổng nguồn vốn tăng 12,9% so với 1998. Trong đó, vốn tín dụng tăng 6,4% [5]. Và, đến cuối 1998, Ngân hàng trên cho vay hết số vốn ước khoảng 691 tỷ đồng, thu nợ 69,7 tỷ đồng, dư nợ 621 tỷ đồng và nợ quá hạn 679 triệu đồng, chiếm 0,15% dư nợ. Đồng thời Ngân hàng đã tài trợ cho 229.477 tiểu dự án với doanh số cho vay là 994,3 tỷ đồng, dư nợ đến 31/10/1999 là 686 tỷ đồng [51]. Tuy nhiên, khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được các tài trợ về đầu tư cơ bản. Nguồn vốn huy động được chủ yếu mới cho vay ngắn hạn. Vốn cho vay trung và dài hạn còn rất khiêm tốn. - Nguồn vốn của dân cư: Đây là nguồn được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư được hình thành từ thu nhập trong kết quả lao động ở lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của các gia đình, cá nhân người lao động; thu nhập do thừa kế các loại thu nhập khác, như: trúng xổ số, thân nhân từ nước ngoài gửi về. Nói cách khác, nguồn vốn của dân cư là khoản tiết kiệm của họ. Thực chất đó là phần dôi ra sau khi đã trừ chi tiêu của các hộ gia đình. Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu và ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng trong việc hình thành tổng nguồn vốn đầu tư của các quốc gia. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê; của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ước tính nguồn vốn trong dân cư hiện có từ 6-8 tỷ USD. Trong đó chỉ có 36% vốn hiện có được huy động cho đầu tư phát triển [38,4]. Biểu 1: Mức vốn huy động trong dân qua các năm Mức huy động Mức tăng so với năm trước Năm (tỷ đồng) (%) 1991 6.430 181,4 1992 10.864 170 1993 13.000 120 1994 17.000 130
  16. 1995 20.000 117,7 1996 24.000 120,6 1997 28.000 116,7 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/1994 [38, 6] Tóm lại: Cơ cấu nguồn vốn trong nước bao gồm: vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn của doanh nghiệp, vốn của dân cư... Mỗi nguồn vốn đều có đặc điểm, tầm quan trọng riêng. Song, bản thân chúng là những yếu tố hợp thành nên tổng nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Do đó, phải biết cách khai thác, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả. 1.1.2.2. Các phương thức huy động vốn Trong nền kinh tế thị trường, để có đủ vốn đầu tư, chủ đầu tư có thể và cần phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, bằng những phương thức khác nhau. Trên thực tế, có hai phương thức cơ bản để huy động vốn: Một là, phương thức huy động vốn gián tiếp: Đó là phương thức chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn thông qua các trung gian tài chính, như: các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia... Nội dung của phương thức này là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi vào các trung gian tài chính, từ đó, các trung gian tài chính cấp vốn cho những nơi cần vốn. Việc đa dạng hóa các kênh huy động vốn đã từng bước đáp ứng được các nhu cầu về vốn đầu tư. Tuy nhiên, ở nước ta, việc huy động vốn thông qua các công ty bảo hiểm, công ty tài chính còn là loại hình mới mẻ. Do đó, việc huy động vốn cho phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng chủ yếu được thực hiện qua kênh ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Hiện nay ở Việt Nam có 1.202 chi nhánh của 4 ngân hàng quốc doanh, gần 200 chi nhánh của 63 ngân hàng thương mại cổ phần và 186 quỹ tín dụng nhân dân. Các ngân hàng thương mại huy động vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, phát hành kỳ phiếu ngân hàng thương mại, hình thành các quỹ tín dụng nhân dân. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các phương thức huy động vốn mới, như: huy
  17. động vốn cổ phần xác lập và cổ phần thường xuyên từ các hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Số dư tiền gửi loại hình này lên tới hàng trăm tỷ đồng. Các ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng công thương đã hình thành hình thức huy động tiết kiệm xây dựng nhà ở (điển hình là Ngân hàng phát triển nhà ở đồng bằng sông Cửu Long), với số vốn huy động hàng ngàn tỷ đồng. Các loại trái phiếu vô danh, trái phiếu ghi danh của các ngân hàng phát hành trên thị trường theo chủ trương của Nhà nước vào các thời điểm khác nhau đã khai thác được lượng vốn khá lớn. Ngoài ra, hình thức huy động vốn thông qua mở tài khoản tiền gửi cho khoảng 50.000 tài khoản tiền gửi, với số dư hàng chục tỷ đồng. Về lãi suất: cơ chế điều hành lãi suất đã có sự thay đổi căn bản. Nếu như trước đây, Ngân hàng nhà nước trực tiếp qui định mức lãi suất, thì từ tháng 4 năm 1994, Ngân hàng nhà nước chỉ qui định khung lãi suất, còn dành quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo diễn biến cung cầu vốn trên thị trường. ở đây, thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý trong chính sách huy động các nguồn vốn của Đảng và Nhà nước cũng như của ngành ngân hàng. Cũng trong tháng 9 năm 1994 Thống đốc Ngân hàng nhà nước ra Quyết định số 211/QĐ/NH1 ban hành qui chế phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước và Quyết định số 212/QĐ/NH1 ban hành thể lệ phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động vốn. Tín phiếu Ngân hàng nhà nước là giấy nợ ngắn hạn có lãi do ngân hàng nhà nước phát hành nhằm tạo công cụ để điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách trong từng thời kỳ. Đối tượng mua tín phiếu ngân hàng nhà nước là các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính. Việc mua tín phiếu ngân hàng nhà nước dựa trên cơ sở tự nguyện, nhưng trong trường hợp cần thiết để phục vụ mục tiêu ổn định tiền tệ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước có thể qui định tỷ lệ mua tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc đối với các ngân hàng trên. Tỷ lệ này được tính trên tổng vốn huy động của các ngân hàng [42]. Về bản chất, huy động vốn bằng trái phiếu ngân hàng là nguồn vốn dài hạn của các tổ chức tín dụng, không phải dành để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước mà chủ yếu để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, lao động,... cho các dự án kinh tế. Vì vậy, lãi suất của trái phiếu do các tổ chức tín dụng quy định phải dựa
  18. trên cơ sở quan hệ cung cầu đồng vốn trên thị trường. Nghĩa là lãi suất của trái phiếu phải linh hoạt, mềm dẻo để vừa khuyến khích được người gửi tiền dài hạn, chủ đầu tư (người vay) có thể chấp nhận được; vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Hai là, phương thức huy động vốn trực tiếp: Đó là phương thức chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn một cách trực tiếp, thông qua thị trường chứng khoán mà không qua các trung gian tài chính. Các nhà đầu tư có thể phát hành các cổ phiếu, trái phiếu thu hút vốn. Ngược lại, các nhà đầu tư tài chính mua cổ phiếu, trái phiếu do các công ty hay chính phủ phát hành có thể rút vốn thông qua mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán. Cụ thể là: - Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước. Trái phiếu doanh nghiệp nhà nước là chứng chỉ vay nợ có kỳ hạn, có mệnh giá và có lãi phát hành bao gồm các loại ký danh và vô danh, thời hạn từ một năm trở lên tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng và khả năng thu hồi vốn để trả nợ của doanh nghiệp nhà nước. Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp nhà nước được Bộ Tài chính qui định và do doanh nghiệp nhà nước công bố theo từng đợt phát hành đảm bảo cho người mua trái phiếu được hưởng lãi suất thực (+) với các chỉ số trượt giá và căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu hồi vốn của doanh nghiệp. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước là chứng chỉ thừa nhận sự góp vốn và quyền sở hữu về vốn của chủ sở hữu cổ phiếu do doanh nghiệp nhà nước phát hành nhằm góp vốn vào doanh nghiệp đang hoạt động hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp mới mà nhà n ước là người sáng lập. Cổ phiếu bao gồm các loại ký danh và vô danh, phát hành dưới dạng chứng chỉ do kho bạc nhà nước qui định theo mẫu. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước chỉ có một loại mệnh giá do doanh nghiệp nhà nước qui định sau khi đã được Bộ Tài chính chấp thuận. Lợi tức cổ phần được thanh toán hàng năm vào cuối năm tài chính qui định, tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và theo Điều lệ hoạt động doanh nghiệp. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước được tự do mua bán, chuyển nhượng, thừa kế. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các loại cổ phiếu, ký danh và vô danh được thực hiện tại doanh nghiệp nhà nước, nơi phát hành cổ phiếu và không phải chịu bất cứ khoản phí nào.
  19. Trên thế giới, huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước là phương thức quan trọng và phổ biến nhằm vay vốn để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. ở nước ta, phương thức huy động vốn này còn rất mới mẻ. Việc thành lập thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm trên thực tiễn. Tuy nhiên, đó sẽ là một phương thức, một kênh chủ lực để huy động vốn đầu tư hiệu quả trong tương lai. Vì vậy, Chính phủ đang rất chủ động thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán bằng các thông tư, nghị định hướng dẫn việc thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đó là Nghị định số 120/CP (ngày 17/9/1994) [17] của Chính phủ ban hành qui chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước; Thông tư số 91/TC-KBNN (ngày 5/11/1994) [50] của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết việc thực hiện qui chế trên; Nghị định số 28/CP (ngày 7/5/1996) về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần [35]. Và, gần đây nhiều thông tư, nghị định mới ra đời nhằm thúc đẩy sự ra đời thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Có thể nói rằng, mỗi thông tư, nghị định ra đời đều thể hiện sự tìm tòi, thử nghiệm và tiếp tục hoàn thiện dần hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước; phù hợp với từng bước đi của tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Về thực chất, đó là nhằm mục tiêu huy động tối đa vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện cho những người góp vốn, những người có cổ phần nâng cao vai trò làm chủ, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. - Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành (trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước không có ý nghĩa tác động trực tiếp đến việc giảm bội chi ngân sách nhà nước). Trái phiếu chính phủ được phát hành dưới các dạng: tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu kho bạc nhà nước và trái phiếu công trình.
  20. + Tín phiếu kho bạc nhà nước là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách tạm thời trong năm tài chính. Số dư nợ về trái phiếu kho bạc nhà nước đến cuối năm tài chính (31/12) chưa đến hạn thanh toán được tính là khoản vay bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và được hoàn trả trong năm tài chính tiếp theo. + Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu đầu tư phát triển trong kế hoạch ngân sách nhà nước được duyệt. + Trái phiếu công trình có hai loại: trái phiếu chính phủ huy động vốn cho các công trình trung ương do Bộ Tài chính (Ngân sách trung ương) bảo lãnh thanh toán. Trái phiếu chính phủ bao gồm các loại ký danh và vô danh; phát hành d ưới dạng chứng chỉ trái phiếu và có nhiều mệnh giá khác nhau, được ghi thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam theo thời giá của cơ quan có thẩm quyền quy định. Lãi suất trái phiếu chính phủ do Bộ Tài chính công bố theo từng đợt phát hành, sau khi đã thỏa thuận với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đảm bảo cho người mua trái phiếu được hưởng lãi suất thực (+) có tính đến chỉ số trượt giá. Mức lãi suất trái phiếu được xác định trên cơ sở tỷ lệ lạm phát và biến động giá cả theo từng thời kỳ do Tổng cục Thống kê công bố; lãi suất trái phiếu có thời hạn dài được qui định cao hơn lãi suất trái phiếu có thời hạn ngắn; nhu cầu huy động vốn và khả năng huy động trái phiếu. Ngoài ra còn có trái phiếu với lãi suất chỉ đạo, tổ chức đấu thầu chọn lãi suất phát hành là mức lãi suất đặt thầu tối đa cho các trái phiếu mà đơn vị tham gia đấu thầu có thể đặt thầu. Mức lãi suất chỉ đạo được Bộ Tài chính công bố trong thông báo đấu thầu. Trong những giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, "Chính phủ chủ trương phát hành trái phiếu là để thực hiện chức năng đi vay (thực hiện tín dụng nhà nước) của Chính phủ, nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế để tạo vốn bù đắp thiếu hụt ngân sách, tăng cường vốn cho đầu tư phát triển. Chính phủ cần phải huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ và giao cho Bộ Tài chính phát hành" [33]. Tóm lại: Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại song hành hai phương thức huy động vốn: trực tiếp và gián tiếp. Hai phương thức huy động vốn này luôn hỗ trợ, bổ sung,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2