NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THUẾ NĂM 2016<br />
<br />
LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 2016:<br />
NHỮNG ĐỔI MỚI QUAN TRỌNG THEO YÊU CẦU HỘI NHẬP<br />
ThS. HOÀNG THỊ THU HIỀN<br />
<br />
Sau hơn 10 năm đi vào cuộc sống, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã tạo ra môi trường kinh<br />
doanh thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, do tiến trình hội nhập ngày<br />
càng sâu rộng, nhiều quy định của Luật đã không còn phù hợp với thực tế. Do đó, ngày 6/4/2016,<br />
Quốc hội đã thông qua Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, thay thế Luật Thuế xuất khẩu,<br />
thuế nhập khẩu năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2016). Với nhiều điểm mới, sửa đổi<br />
theo hướng tiến bộ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển, Luật mới được kỳ vọng sẽ mang lại<br />
những hiệu ứng tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất<br />
nhập khẩu của doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh…<br />
• Từ khóa: Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, cạnh tranh, doanh nghiệp, môi trường kinh doanh.<br />
<br />
Một số tác động tích cực và yêu cầu sửa đổi<br />
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/<br />
QH11 được Quốc hội XI thông qua ngày 14/6/2005<br />
có hiệu lực ngày 1/1/2006. Sau hơn 10 năm thực thi,<br />
Luật đã đem lại nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cụ<br />
thể: Luật đã tạo ra khuôn khổ pháp lý, góp phần<br />
quan trọng trong thực hiện đường lối chủ động hội<br />
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối<br />
ngoại của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tiến trình<br />
cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế giai đoạn<br />
2005 đến 2015; Các quy định tại Luật đã có tác dụng<br />
thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu (XK) phát triển, hỗ<br />
trợ chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời, bảo hộ hợp<br />
lý, có điều kiện, có chọn lọc đối với một số nhóm<br />
mặt hàng, ngành nghề phù hợp với tiến trình hội<br />
nhập quốc tế và hạn chế nhập khẩu (NK) các hàng<br />
hóa gây ô nhiễm môi trường, hàng hóa tiêu dùng<br />
không khuyến khích NK, góp phần hạn chế nhập<br />
siêu. Cùng với đó, tỷ trọng số thu thuế XK, thuế<br />
NK trong tổng thu ngân sách nhà nước qua các năm<br />
giảm do thực hiện các cam kết quốc tế nhưng số thu<br />
vẫn góp phần điều chỉnh cơ cấu thu ngân sách nhà<br />
nước theo hướng bền vững và phát huy vai trò quản<br />
lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại,<br />
chống thất thu thuế...<br />
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực,<br />
Luật thuế XK, NK năm 2005 cũng đã bộc lộ một số<br />
hạn chế, không phù hợp với diễn biến thực tế phát<br />
triển kinh tế và hội nhập quốc tế của đất nước. Một<br />
16<br />
<br />
số nội dung quy định tại Luật không còn phù hợp<br />
với quy định của hệ thống pháp luật nói chung và<br />
một số luật liên quan như Luật Quản lý thuế, Luật<br />
Hải quan, Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường…<br />
và thực tiễn XK, NK hàng hóa những năm gần đây,<br />
đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội<br />
nhập quốc tế và triển khai mạnh mẽ công tác cải<br />
cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Trước yêu<br />
cầu đổi mới, phát triển, hội nhập mạnh mẽ của nền<br />
kinh tế cần phải sửa đổi Luật thuế XK, thuế NK cho<br />
phù hợp với thực tiễn, ngày 6/4/2016, Quốc hội đã<br />
thông qua Luật Thuế XK, thuế NK khẩu sửa đổi,<br />
thay thế Luật Thuế XK, thuế NK khẩu năm 2005.<br />
<br />
Những thay đổi quan trọng của Luật thuế mới<br />
Luật thuế XK, thuế NK đã đổi mới toàn diện hơn<br />
về phương thức quản lý và chính sách thuế XK, thuế<br />
NK phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế theo<br />
hướng ổn định, công khai, minh bạch, tạo điều kiện<br />
thuận lợi cho doanh nghiệp. Cụ thể:<br />
Đổi mới về cách tính thuế<br />
<br />
Tách biệt từng loại thuế<br />
Luật Thuế XK, thuế NK số 45/2005/QH11 chỉ quy<br />
định chung tại Điều 10: “(i) Thuế suất đối với hàng<br />
hoá XK được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại<br />
Biểu thuế XK; (ii) Thuế suất đối với hàng hóa NK<br />
gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và<br />
thuế suất thông thường”.<br />
Luật Thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13 (Luật<br />
<br />
TÀI CHÍNH - Tháng 7/2016<br />
Thuế XK, thuế NK sửa đổi) đã quy định cụ thể từng<br />
loại thuế gồm: Thuế theo tỷ lệ phần trăm (Điều<br />
6), thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp (Điều 7), thuế đối<br />
với hàng hóa nhập khẩu áp dụng hạn ngạch thuế<br />
quan (Điều 8)... Trong đó, thuế theo tỷ lệ phần trăm<br />
“được xác định căn cứ vào trị giá tính thuế và thuế<br />
suất theo tỷ lệ phần trăm (%) của từng mặt hàng tại<br />
thời điểm tính thuế”.<br />
Để phù hợp với việc thực hiện các cam kết cắt<br />
giảm thuế xuất khẩu trong khuôn khổ một số Hiệp<br />
định thương mại tự do (FTA) như: TPP, Việt Nam –<br />
EU, Luật thuế sửa đổi cũng quy định: “Trường hợp<br />
hàng hóa XK sang nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh<br />
thổ có thỏa thuận ưu đãi về thuế XK trong quan hệ<br />
thương mại với Việt Nam thì thực hiện theo các thỏa<br />
thuận này”. Như vậy, quy định tại Luật thuế sửa<br />
đổi được tách bạch rõ ràng, phù hợp với xu hướng<br />
hội nhập quốc tế, các cam kết liên quan đến thuế XK<br />
và tạo điều kiện cho việc thực hiện các cam kết thuế<br />
quan mà Việt Nam tham gia.<br />
Bổ sung quy định về loại thuế suất<br />
Nếu như Luật Thuế XK, thuế NK cũ chưa có quy<br />
định về loại thuế suất được áp dụng cụ thể là thuế<br />
NK ưu đãi, ưu đãi đặc biệt hay thuế thông thường…<br />
đối với hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị<br />
trường nội địa, do đó chưa bao quát hết các trường<br />
hợp phát sinh, thì Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi<br />
đã bổ sung quy định về áp dụng thuế suất đối với<br />
hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị trường<br />
nội địa theo nguyên tắc hàng hóa đáp ứng điều kiện<br />
xuất xứ nào thì áp dụng theo mức thuế suất tương<br />
ứng với loại xuất xứ đó. Cụ thể: Thuế suất ưu đãi<br />
áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ<br />
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối<br />
xử tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại<br />
với Việt Nam hoặc hàng hóa từ khu phi thuế quan<br />
nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng quy<br />
tắc xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ<br />
thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương<br />
mại với Việt Nam.<br />
Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng<br />
hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc<br />
vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế<br />
nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam<br />
hoặc hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị<br />
trường trong nước đáp ứng quy tắc xuất xứ từ nước,<br />
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi<br />
đặc biệt về thuế NK trong quan hệ thương mại với<br />
Việt Nam.<br />
Bên cạnh đó, quy định về thuế suất thông thường<br />
cũng được sửa đổi, bổ sung. Luật thuế XK, thuế<br />
NK trước đây hiện hành quy định thuế suất thông<br />
<br />
thường không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của<br />
từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định.<br />
Tại Điểm c, Khoản 3, Điều 6, Luật sửa đổi đã bổ<br />
sung quy định: Thuế suất thông thường áp dụng<br />
đối với hàng hóa NK không thuộc các trường hợp<br />
áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc<br />
biệt nêu trên, “được quy định bằng 150% so với thuế<br />
suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng”.<br />
Không quy định khung thuế suất thuế XK<br />
Điều 12 Luật thuế XK, thuế NK năm 2005 quy<br />
định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Biểu<br />
thuế XK theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và<br />
khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, Biểu thuế<br />
NK ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và<br />
khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng,<br />
bao gồm cả mức tối thiểu và mức tối đa (sau đây gọi<br />
tắt là Biểu khung).<br />
Việc quy định mức khung thuế suất, bao gồm<br />
cả mức tối thiểu (sàn) và mức tối đa (trần) như thời<br />
gian qua đã phát huy tác dụng tích cực và là căn cứ<br />
quan trọng để Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính<br />
ban hành mức thuế XK, thuế NK ưu đãi MFN đối<br />
với từng mặt hàng; đáp ứng tính chủ động, kịp thời<br />
trước những biến động giá cả của thị trường thế giới,<br />
góp phần bình ổn giá cả thị trường trong nước và<br />
phù hợp với tính chất đặc thù của Biểu thuế NK. Tuy<br />
nhiên, kể từ năm 2007 khi gia nhập WTO, Việt Nam<br />
đã cam kết cho 100% số dòng thuế tại thời điểm gia<br />
nhập và phải cắt giảm hàng năm theo lộ trình cam<br />
kết, đến nay lộ trình này cơ bản hoàn thành. Do đó,<br />
việc quy định mức trần tối đa Biểu khung thuế suất<br />
thuế NK như hiện hành thực tế không có ý nghĩa.<br />
Bên cạnh đó, về mức thuế suất sàn (tối thiểu) thuế<br />
suất NK cũng bộc lộ bất cập, do vậy việc xây dựng<br />
sàn thuế (tối thiểu) của Biểu khung thuế suất thuế<br />
NK như hiện hành là không phù hợp.<br />
Để khắc phục tình trạng trên, Luật thuế XK, thuế<br />
NK sửa đổi và Danh mục nhóm hàng chịu thuế XK<br />
không quy định khung thuế suất thuế xuất, nhập<br />
khẩu mà thay bằng quy định mức tối thiểu đối với<br />
một số nhóm hàng chịu thuế XK.<br />
Bổ sung nhiều trường hợp miễn thuế<br />
<br />
Luật thuế mới đã bổ sung nhiều trường hợp<br />
được miễn thuế, chuyển từ đối tượng được hoàn<br />
thuế sang miễn thuế. Cụ thể như:<br />
Thứ nhất, chuyển từ hoàn thuế sang miễn thuế<br />
đối với nguyên liệu, vật tư sản xuất xuất khẩu.<br />
Theo Khoản 1d Điều 19 Luật thuế XK, thuế NK<br />
2005 quy định: nguyên liệu, vật tư NK để sản xuất<br />
XK thuộc đối tượng tạm nộp thuế, sau khi XK sản<br />
phẩm sản xuất từ nguyên liệu này sẽ được hoàn<br />
17<br />
<br />
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THUẾ NĂM 2016<br />
<br />
lại thuế; máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ<br />
sản xuất hàng XK phải nộp thuế NK. Tuy nhiên,<br />
Luật cũng quy định hàng hóa NK để gia công<br />
sau đó XK sản phẩm gia công thuộc đối tượng<br />
miễn thuế (bao gồm cả nguyên liệu, vật tư, máy<br />
móc thiết bị). Về bản chất kinh tế thì hai trường<br />
hợp này giống nhau, đều là hàng hóa NK để sản<br />
xuất hàng hóa XK, không tiêu dùng tại Việt Nam,<br />
nhưng chế độ thuế, chế độ quản lý hải quan áp<br />
dụng khác nhau.<br />
Theo Điểm E3 (phần định nghĩa) Phụ lục F Công<br />
ước Kyoto và kinh nghiệm một số nước như Nhật<br />
Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Pakistan thì<br />
nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất XK được<br />
áp dụng chế độ miễn thuế. Qua rà soát cho thấy,<br />
mức thuế NK của đa số máy móc thiết bị cho sản<br />
xuất hàng hóa XK có thuế suất 0% hoặc mức thấp.<br />
Do đó, Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi đã chuyển<br />
hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập để sản xuất<br />
XK từ đối tượng hoàn thuế sang đối tượng miễn<br />
thuế. Quy định này nhằm khuyến khích sản xuất<br />
xuất khẩu, tạo giá trị gia tăng cao, góp phần tháo<br />
gỡ khó khăn cho DN đặc biệt là DN nhỏ và vừa (đa<br />
số DN thuộc diện này thực hiện hoạt động sản xuất<br />
XK), nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa<br />
Việt Nam, đồng thời, đơn giản thủ tục hành chính<br />
việc tạm thu để hoàn thuế đối với vật tư nguyên liệu<br />
NK để sản xuất hàng XK.<br />
Thứ hai, miễn thuế đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất - tái nhập có thời hạn. Luật đã bổ<br />
sung quy định tại Khoản 9, Điều 16 về miễn thuế<br />
cho một số hàng hóa thuộc chế độ tạm nhập - tái<br />
xuất, tạm xuất - tái nhập trong thời hạn nhất định.<br />
Cụ thể:<br />
- Hàng hóa tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái<br />
nhập để tổ chức hoặc tham dự hội chợ, triển lãm,<br />
giới thiệu sản phẩm, sự kiện thể thao, văn hóa,<br />
nghệ thuật hoặc các sự kiện khác; máy móc, thiết bị<br />
tạm nhập, tái xuất để thử nghiệm, nghiên cứu phát<br />
triển sản phẩm; máy móc, thiết bị, dụng cụ nghề<br />
nghiệp tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập để<br />
phục vụ công việc trong thời hạn nhất định hoặc<br />
phục vụ gia công cho thương nhân nước ngoài, trừ<br />
trường hợp máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương<br />
tiện vận chuyển của các tổ chức, cá nhân được<br />
phép tạm nhập, tái xuất để thực hiện các dự án<br />
đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình, phục<br />
vụ sản xuất;<br />
- Máy móc, thiết bị, linh kiện, phụ tùng tạm nhập<br />
để thay thế, sửa chữa tàu biển, tàu bay nước ngoài<br />
hoặc tạm xuất để thay thế, sửa chữa tàu biển, tàu<br />
bay Việt Nam ở nước ngoài; hàng hóa tạm nhập, tái<br />
18<br />
<br />
xuất để cung ứng cho tàu biển, tàu bay nước ngoài<br />
neo đậu tại cảng Việt Nam;<br />
- Hàng hóa tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái<br />
nhập để bảo hành, sửa chữa, thay thế;<br />
- Phương tiện quay vòng theo phương thức tạm<br />
nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập để chứa hàng<br />
hóa xuất khẩu, nhập khẩu;<br />
- Hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất trong<br />
thời hạn tạm nhập, tái xuất (bao gồm cả thời gian<br />
gia hạn) được tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc đã đặt<br />
cọc một khoản tiền tương đương số tiền thuế nhập<br />
khẩu của hàng hóa tạm nhập, tái xuất.<br />
Quy định này nhằm phù hợp với Điểm 22 thực<br />
hành khuyến nghị Phụ lục chuyên đề G Công ước<br />
Kyoto; cam kết với EU và sắp tới là TPP, theo đó<br />
hàng hóa tạm nhập - tái xuất, tạm xuất - tái nhập có<br />
thời hạn đều thuộc đối tượng miễn thuế.<br />
Thứ ba, sửa đổi về miễn thuế nhập khẩu nguyên<br />
liệu, vật tư, linh kiện cho sản xuất của dự án đặc<br />
biệt khuyến khích đầu tư. Luật thuế XK, thuế NK<br />
2005 quy định miễn thuế NK 05 năm kể từ khi bắt<br />
đầu sản xuất cho một số dự án thuộc lĩnh vực đặc<br />
biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều<br />
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trừ sản<br />
xuất lắp ráp ô tô, xe máy, điều hòa, máy sưởi điện,<br />
tủ lạnh, máy giặt, quạt điện, máy rửa bát đĩa, đầu<br />
đĩa, dàn âm thanh, bàn là điện, ấm đun nước,<br />
máy sấy khô tóc, làm khô tay, rượu, bia, thuốc<br />
lá và những mặt hàng theo quyết định của Thủ<br />
tướng Chính phủ. Để phù hợp với Luật Đầu tư số<br />
67/2014/QH13 ngày 26/11/2014, tại khoản 13 Điều<br />
11 Luật sửa đổi quy định về miễn thuế nguyên<br />
liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất<br />
được theo hướng: Bổ sung thêm DN công nghệ<br />
cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức<br />
khoa học và công nghệ được miễn thuế nguyên<br />
liệu, vật tư, linh kiện trong thời hạn 05 năm kể từ<br />
khi bắt đầu sản xuất. Đồng thời, Luật cũng quy<br />
định rõ việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng<br />
hoá nhập khẩu quy định tại khoản này không<br />
áp dụng đối với dự án đầu tư khai thác khoáng<br />
sản; dự án sản xuất sản phẩm có tổng giá trị tài<br />
nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng<br />
chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên; dự án<br />
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối<br />
tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.<br />
Cũng với đó, Luật đã bổ sung quy định miễn<br />
thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập<br />
khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất,<br />
lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên<br />
cứu, chế tạo. Chính sách này đã được quy định<br />
tại Quyết định số 54/2014/QĐ-TTg. Để minh bạch,<br />
<br />
TÀI CHÍNH - Tháng 7/2016<br />
nâng cao tính pháp lý của quy định này, phù hợp<br />
với chủ trương khuyến khích phát triển ngành Y<br />
tế, tại Khoản 14, Điều 16 Luật thuế XK, thuế NK<br />
sửa đổi đã bổ sung quy định về miễn thuế đối với<br />
trường hợp này.<br />
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định miễn thuế đối<br />
với hàng hóa có trị giá tối thiểu hoặc có số tiền thuế<br />
phải nộp dưới mức tối thiểu; hàng hóa không nhằm<br />
mục đích thương mại với các trường hợp: hàng<br />
mẫu, ảnh, phim, mô hình thay thế cho hàng mẫu;<br />
ấn phẩm quảng cáo số lượng nhỏ… để tạo thuận lợi<br />
cho người khai hải quan và người nộp thuế.<br />
Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước<br />
<br />
Bên cạnh việc đổi mới về cách tính thuế, Luật<br />
Thuế XK, thuế NK sửa đổi cũng đã bổ sung nội<br />
dung quan trọng về thuế chống bán phá giá, chống<br />
trợ cấp, chống phân biệt đối xử để góp phần bảo<br />
vệ nền sản xuất kinh doanh trong nước, phù hợp<br />
định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các<br />
cam kết quốc tế đã ký kết. Cụ thể, tại Khoản 2, 3<br />
Điều 5 và Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 11 Luật thuế XK,<br />
thuế NK có quy định các biện pháp về thuế để tự<br />
vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân<br />
biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhưng chưa<br />
đầy đủ, mới chỉ dừng ở việc định danh về các biện<br />
pháp này. Việc áp dụng các loại thuế phòng vệ<br />
đang được thực hiện theo quy định tại các pháp<br />
lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp,<br />
Pháp lệnh về tự vệ.<br />
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nội dung về<br />
thuế áp dụng đối với hàng hóa XK, NK phải được<br />
quy định thống nhất tại Luật Thuế XK, thuế NK<br />
để đảm bảo sự nhất quán, xuyên suốt, nhằm phát<br />
huy vai trò là công cụ bảo vệ sự lành mạnh của môi<br />
trường kinh tế, bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước<br />
trong điều kiện phải cắt giảm thuế NK theo các cam<br />
kết quốc tế gần như xuống 0% trong thời gian tới;<br />
mặt khác, nâng quy định pháp lý từ Pháp lệnh lên<br />
thành Luật và việc hợp nhất các nội dung về các<br />
biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa XK, NK tại<br />
Luật Thuế XK, thuế NK phù hợp với quy định của<br />
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo sự<br />
rõ ràng, minh bạch trong quá trình hoàn thiện pháp<br />
luật Việt Nam.<br />
Để phát huy công cụ bảo vệ này, trong phạm vi<br />
điều chỉnh, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) đã bổ<br />
sung các biện pháp phòng vệ về thuế áp dụng đối<br />
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gồm: Thuế<br />
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự<br />
vệ. Mặt khác, trong phần giải thích từ ngữ, Luật<br />
đã bổ sung giải thích một loạt cụm từ ngữ có liên<br />
<br />
quan về 3 loại thuế phòng vệ được chuyển nguyên<br />
trạng từ quy định tại các Pháp lệnh chống bán<br />
phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh về tự<br />
vệ, bao gồm: “Gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại<br />
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước”; “Ngăn<br />
cản sự hình thành của ngành sản xuất trong<br />
nước”; “Ngành sản xuất trong nước”; “Trợ cấp”;<br />
“Nhập khẩu hàng hoá quá mức”... Cùng với đó,<br />
tại chương III (từ Điều 12 đến Điều 15) Luật quy<br />
định về nội hàm của từng biện pháp phòng vệ<br />
thuế như điều kiện, nguyên tắc, thời hạn áp dụng<br />
biện pháp phòng vệ và thẩm quyền áp dụng các<br />
loại thuế này. Các nội dung này về cơ bản kế thừa<br />
quy định tại 3 Pháp lệnh hiện hành và có bổ sung<br />
thẩm quyền của Bộ Tài chính về việc quy định kê<br />
khai, thu, nộp, hoàn trả số tiền thuế phòng vệ. Cụ<br />
thể về thẩm quyền quyết định việc áp dụng thuế<br />
chống bán phá giá; thuế chống trợ cấp; thuế tự<br />
vệ, Luật quy định: (i) Bộ Tài chính quy định việc<br />
kê khai, thu, nộp, hoàn trả thuế bán phá giá, thuế<br />
chống trợ cấp, thuế tự vệ; (ii) Bộ Công Thương<br />
quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá,<br />
thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ; (iii) Trường hợp lợi<br />
ích của Việt Nam bị xâm hại hay vi phạm, căn cứ<br />
vào các điều ước quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc<br />
hội quyết định áp dụng biện pháp thuế phòng vệ<br />
khác phù hợp.<br />
Về các nội dung liên quan đến trình tự thủ tục,<br />
hồ sơ để thực hiện các biện pháp phòng vệ về thuế,<br />
khiếu nại và xử lý vi phạm hiện đang được quy định<br />
tại Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống<br />
trợ cấp, Pháp lệnh về tự vệ, sẽ không quy định cụ<br />
thể tại Luật này mà quy định tại Nghị định hướng<br />
dẫn Luật. Ngoài ra, Luật cũng bỏ các nội dung liên<br />
quan đến khiếu nại và xử lý vi phạm tại Luật này để<br />
thực hiện theo Luật khiếu nại và các pháp luật khác<br />
có liên quan. Điều này nhằm đảm bảo tính linh hoạt,<br />
chủ động cho đơn vị chủ trì triển khai quyết định áp<br />
dụng các biện pháp tự vệ về thuế.<br />
Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi có nhiều điểm<br />
mới đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập,<br />
đồng thời cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi,<br />
hỗ trợ DN giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả<br />
năng cạnh tranh; đảm bảo cơ sở pháp lý để thực<br />
hiện cam kết TPP, các FTA đang thực hiện hoặc vừa<br />
ký kết. Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi chính thức có<br />
hiệu lực kể từ ngày 01/9/2016.<br />
Tài liệu tham khảo:<br />
1. Quốc hội, Luật Thuế XK, thuế NK số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005;<br />
2. Chính phủ, Tờ trình về dự án Luật Thuế XK, thuế NK (sửa đổi);<br />
3. Quốc hội, Luật Thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016.<br />
19<br />
<br />