intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mâu thuẫn trong thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

46
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn này có ảnh hưởng lớn đến tiến trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: hoặc kìm hãm sự phát triển – nếu không phát hiện kịp thời và giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn; hoặc thúc đẩy sự phát triển – nếu được phát hiện kịp thời và giải quyết triệt để mâu thuẫn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích mâu thuẫn giữa mục tiêu phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền vững.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mâu thuẫn trong thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Phạm Thị Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 124(10): 131 - 135<br /> <br /> MÂU THUẪN TRONG THỰC HIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG<br /> ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM<br /> Phạm Thị Nga*, Ngô Thị Tân Hương<br /> Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các<br /> lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội<br /> chủ nghĩa cũng nảy sinh không ít những mâu thuẫn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Việc phát hiện<br /> và giải quyết những mâu thuẫn này có ảnh hưởng lớn đến tiến trình thực hiện nền kinh tế thị<br /> trường định hướng xã hội chủ nghĩa: hoặc kìm hãm sự phát triển – nếu không phát hiện kịp thời và<br /> giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn; hoặc thúc đẩy sự phát triển – nếu được phát hiện kịp thời và giải<br /> quyết triệt để mâu thuẫn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích mâu thuẫn giữa<br /> mục tiêu phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền vững.<br /> Từ khóa: mâu thuẫn, động lực, kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Qua gần 30 năm xây dựng và phát triển kinh<br /> tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở<br /> Việt Nam, bên cạnh những thành tựu đạt<br /> được đã nảy sinh mâu thuẫn giữa mục tiêu<br /> phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền<br /> vững trên các lĩnh vực cơ bản: kinh tế, xã hội<br /> và môi trường. Mâu thuẫn giữa mục tiêu<br /> phát triển nhanh với mục tiêu phát triển bền<br /> vững thể hiện trên các khía cạnh sau:<br /> Thứ nhất, tính thiếu bền vững của cân đối<br /> bên ngoài: Xét trên khía cạnh bền vững, cân<br /> đối bên ngoài của Việt Nam còn nhiều điều<br /> bất cập.<br /> Một là, trong cơ cấu xuất khẩu, xuất siêu<br /> thuộc về khu vực đầu tư nước ngoài (FDI),<br /> khu vực đầu tư trong nước vẫn nhập siêu:<br /> năm 2012, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước<br /> ngoài xuất siêu gần 12 tỷ USD, doanh<br /> nghiệp trong nước nhập siêu gần 11,7 tỷ<br /> USD [3, tr.9]. Bên cạnh đó, tỷ trọng của khu<br /> vực kinh tế trong nước trong cơ cấu xuất<br /> khẩu hàng hóa năm 2000 là 52,98%, giảm<br /> xuống còn 36,93 % năm 2012. Tỷ trọng này<br /> của khu vực FDI tăng lên tương ứng từ 47,02<br /> năm 2000 lên 63,07% năm 2012. Điều này<br /> cho thấy năng lực cạnh tranh của các doanh<br /> nghiệp trong nước còn thấp.<br /> *<br /> <br /> Tel: 0962 260638, Email: vietanh8909@gmail.com<br /> <br /> Hai là, sự thâm hụt của cán cân thương mại<br /> dịch vụ kéo theo sự thâm hụt của cán cân<br /> hàng hóa và dịch vụ: năm 2012, cán cân<br /> thương mại hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam<br /> đã thâm hụt 3,1 tỷ USD, tăng 8,3% so với<br /> mức cùng kỳ năm trước[3, tr.11]. Thêm vào<br /> đó, thâm hụt tài khoản vãng lai liên tục tăng<br /> từ mức 0,3% GDP năm 2006 lên 9,85% năm<br /> 2007 và 12,85% năm 2008, vượt xa so với<br /> chuẩn an toàn của thế giới (dưới 5% GDP).<br /> Thứ hai, tính thiếu bền vững của cân đối<br /> bên trong<br /> Tính bền vững của cân đối bên trong thể<br /> hiện qua chất lượng tăng trưởng, năng suất,<br /> hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.<br /> Cụ thể:<br /> Một là, chất lượng tăng trưởng còn thấp,<br /> chủ yếu dựa vào các yếu tố phát triển theo<br /> chiều rộng: tăng trưởng kinh tế trong những<br /> năm qua bị chi phối chủ yếu bởi yếu tố vốn.<br /> Riêng năm 2013, những nhân tố tác động<br /> đến tăng trưởng GDP của Việt Nam gồm:<br /> vốn chiếm tới 57,54%, cao gấp hơn 2 lần<br /> đóng góp của nhân tố lao động (chiếm<br /> 25,5%).<br /> Ở Việt Nam, đóng góp của yếu tố năng suất<br /> tổng hợp (TFP) còn thấp (nếu giai đoạn 2000<br /> – 2006, hệ số này đóng góp vào tăng trưởng<br /> khoảng trên 25% thì đến giai đoạn 2006 –<br /> 131<br /> <br /> Phạm Thị Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 2012, con số này đã giảm đáng kể chỉ còn<br /> dưới 10%). Năm 2013, TFP chiếm<br /> 16,25%[7].<br /> Đưa ra con số so sánh, có thể thấy các nước<br /> khác, trong cùng thời kỳ 2001-2009, tỷ lệ<br /> đóng góp của nhân tố TFP vào tăng trưởng<br /> GDP của Việt Nam (20%) thấp hơn rất nhiều<br /> so với Hàn Quốc (32,2%), Đài Loan (35%),<br /> Inđônêxia (28%), Thái Lan (36%). Ở các<br /> nước phát triển, tỷ lệ đóng góp của TFP vào<br /> tăng trưởng GDP thường rất cao, khoảng 60 –<br /> 75% [4, tr.25].<br /> Tăng trưởng kinh tế chưa dựa nhiều vào tri<br /> thức, khoa học và công nghệ. Chỉ số tri thức<br /> (Knowledge Index - KI) và chỉ số kinh tế tri<br /> thức (Knowledge Economy Index - KEI) (do<br /> Viện Nghiên cứu Ngân hàng Thế giới đưa<br /> ra) của Việt Nam năm 2008 là 3,02, xếp thứ<br /> 102 trong 133 quốc gia được phân tích. So<br /> với các nước trong khu vực, chỉ số KEI của<br /> Việt Nam chưa bằng 1/2 của nhóm nền kinh<br /> tế công nghiệp mới (NIEs) (gồm Hàn Quốc,<br /> Singapo, Đài Loan, Hồng Kông).<br /> Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Nợ<br /> xấu còn cao (đến cuối tháng 8/2013, tỷ lệ nợ<br /> xấu trong tổng dư nợ tín dụng là 4,64%). Tuy<br /> nhiên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia<br /> đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu là 11,8% tương<br /> đương với khoảng 270.000 tỷ đồng [5, tr.34].<br /> Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động<br /> còn lớn: Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và<br /> Đầu tư, đến cuối năm 2012 có tới 55.000<br /> doanh nghiệp giải thể hoặc dừng hoạt động.<br /> Đây là năm có số lượng doanh nghiệp giải thể<br /> hoặc dừng hoạt động cao nhất từ trước tới<br /> nay. Bước sang năm 2013, trong 2 tháng đầu<br /> năm, cả nước có 8.600 doanh nghiệp ngừng<br /> hoạt động, trong khi số doanh nghiệp mới<br /> thành lập chỉ đạt ở mức 8.000[8].<br /> Hai là, hiệu quả đầu tư thấp. Hiệu quả đầu<br /> tư được xác định thông qua hệ số ICOR. Hệ<br /> số ICOR xác định hiệu quả sử dụng vốn trong<br /> nền kinh tế.<br /> Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ<br /> đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm<br /> 132<br /> <br /> 124(10): 131 - 135<br /> <br /> 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến 43.1%, đến<br /> hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này là 43,9%. Dù<br /> đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng<br /> chỉ từ 6 - 8.5%, năm 2009, mức tăng trưởng<br /> của Việt Nam cũng chỉ dừng ở 5,2%, do đó,<br /> hệ số ICOR luôn ở mức cao.<br /> Ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng<br /> tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì<br /> để tăng thêm một đơn vị liên kết sản xuất cần<br /> nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và<br /> nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản<br /> lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản<br /> lượng tiềm năng. Như vậy, việc hệ số ICOR<br /> của Việt Nam tăng lên qua các năm một phần<br /> cũng là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, điều<br /> đáng nói là hệ số này của Việt Nam tăng quá<br /> nhanh trong những năm gần đây.<br /> Bảng 1: ICOR Việt Nam qua các giai đoạn<br /> Giai đoạn<br /> ICOR<br /> 1991 – 1995<br /> 3,5<br /> 1996 – 2000<br /> 4,8<br /> 2001 – 2003<br /> 5,24<br /> 2004 – 2006<br /> 5,04<br /> 2007 – 2008<br /> 6,15<br /> 2008 – 2010<br /> 6,7<br /> 2011 – 2013<br /> 5,6<br /> Nguồn: Gso.gov.vn và xử lý của tác giả<br /> <br /> Về mặt lý thuyết, các nước phát triển (do sử<br /> dụng nhiều vốn mà thực chất là máy móc<br /> thiết bị, công nghệ) thì hệ số ICOR thường<br /> cao hơn các nước đang phát triển (do sử dụng<br /> nhiều lao động). Tuy nhiên, so sánh ICOR<br /> của Việt Nam với các nước trong khu vực<br /> Đông Nam Á và Trung Quốc cho thấy, các<br /> nước này có hệ số ICOR của nhiều thập kỷ<br /> gần đây phổ biến là từ 3 – 4, như vậy là hệ số<br /> ICOR của Việt Nam luôn cao gấp rưỡi hoặc<br /> gấp đôi so với những nước này.<br /> Ba là, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn<br /> thấp. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt<br /> Nam còn thấp và chậm được cải thiện: chỉ số<br /> năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global<br /> Competitiveness Index - GCI) của Việt Nam<br /> liên tục giảm: xếp hạng 61 năm 2004/2005,<br /> hạng 64 năm 2006/2007, hạng 68 năm<br /> <br /> Phạm Thị Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 2007/2008, hạng 70 năm 2008/2009 và hạng<br /> 75 năm 2009/2010. Năm 2011/2012, Viêt<br /> Nam đã vươn lên xếp hạng thứ 65 nhưng<br /> ngay lập tức bị tụt 10 bậc từ hạng 65 xuống<br /> hạng 75 năm 2012/2013 [2, tr.3] và hiện là<br /> nước có thứ hạng thấp thứ hai trong số 8<br /> thành viên ASEAN được khảo sát trong đó,<br /> Việt Nam xếp hạng thấp nhất về môi trường<br /> kinh tế vĩ mô, đứng ở vị trí thứ 106.<br /> Trong khi đó, Inđônêxia hiện đang trong<br /> cùng giai đoạn phát triển như Việt Nam<br /> nhưng năng lực cạnh tranh cao hơn 25 bậc so<br /> với Việt Nam, Thái Lan cao hơn Việt Nam<br /> 37 bậc, Malaysia cao hơn Việt Nam 50 bậc.<br /> Thậm chí xét về chỉ số cạnh tranh kinh<br /> doanh (năng lực cạnh tranh ở tầm vi mô) của<br /> Việt Nam cũng thấp hơn khá nhiều (thấp hơn<br /> <br /> 124(10): 131 - 135<br /> <br /> Inđônêxia 40 bậc, Trung Quốc 19 bậc và<br /> Thái Lan 39 bậc).<br /> Điều này cho thấy những yếu kém xét cả từ<br /> phía doanh nghiệp và Nhà nước, từ góc độ<br /> chiến lược kinh doanh và môi trường kinh<br /> doanh. Đây là những dấu hiệu “cảnh báo”<br /> rằng nếu không có những giải pháp tăng<br /> cường hiệu quả hơn, nền kinh tế Việt Nam có<br /> thể sẽ tiếp tục bị tụt hậu xa hơn và ảnh hưởng<br /> đến sự phát triển bền vững trong dài hạn.<br /> Qua phân tích trên cho thấy, ổn định kinh tế<br /> vĩ mô phải trở thành mục tiêu thường xuyên<br /> của chính sách. Điều này tạo ra điều kiện cần<br /> cho cải cách cơ cấu kinh tế - động lực quan<br /> trọng và có tính quyết định đối với sự phát<br /> triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam<br /> trong dài hạn.<br /> <br /> Bảng 2: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Nam Á<br /> Quốc gia<br /> <br /> Giai đoạn<br /> <br /> Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)<br /> <br /> Đầu tư/GDP (%)<br /> <br /> ICOR<br /> <br /> Hàn quốc<br /> <br /> 1961 – 1980<br /> <br /> 7,9%<br /> <br /> 23,3<br /> <br /> 3,0<br /> <br /> Đài Loan<br /> <br /> 1961 – 1980<br /> <br /> 9,7%<br /> <br /> 26,2<br /> <br /> 2,7<br /> <br /> Indonesia<br /> <br /> 1981 – 1995<br /> <br /> 6,9%<br /> <br /> 25,7<br /> <br /> 3,7<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 1981 – 1995<br /> <br /> 8,1%<br /> <br /> 33,3<br /> <br /> 4,1<br /> <br /> Trung Quốc<br /> <br /> 2001 – 2006<br /> <br /> 9,7%<br /> <br /> 38,8<br /> <br /> 4,0<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 2001 – 2006<br /> <br /> 7,6%<br /> <br /> 39,1<br /> <br /> 5,1<br /> Nguồn: World Bank<br /> <br /> Bảng 3: Một số nước Đông Nam Á được xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2012 – 2013<br /> và có so sánh với năm trước đó<br /> Quốc gia<br /> <br /> Thứ hạng GCI 2012-2013<br /> <br /> Thứ hạng GCI 2011 -2012<br /> <br /> Singapo<br /> <br /> 2<br /> <br /> 2<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 25<br /> <br /> 21<br /> <br /> Brunây<br /> <br /> 28<br /> <br /> 28<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 38<br /> <br /> 39<br /> <br /> Inđônêxia<br /> <br /> 50<br /> <br /> 46<br /> <br /> Philipin<br /> <br /> 65<br /> <br /> 75<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 75<br /> <br /> 65<br /> <br /> Campuchia<br /> <br /> 84<br /> <br /> 97<br /> <br /> Timor Leste<br /> <br /> 136<br /> <br /> 131<br /> <br /> Nguồn: The Global Competitiveness Index 2012–2013,World Economic Forum, 2013<br /> <br /> 133<br /> <br /> Phạm Thị Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> VỀ MÔI TRƯỜNG<br /> Môi trường hiện nay của Việt Nam tiếp tục<br /> bị xuống cấp, ô nhiễm nước, không khí, suy<br /> giảm đa dạng sinh học đã đến mức báo động.<br /> Hiện nay, Việt Nam là một trong số ít quốc<br /> gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề<br /> nhất của biến đổi khí hậu. Theo Báo cáo của<br /> Ngân hàng Thế giới (2008), với mực nước<br /> biển dự báo dâng cao 1m thì nền kinh tế Việt<br /> Nam sẽ chịu thiệt hại khoảng 17 tỷ đô la Mỹ<br /> hàng năm, gây ngập 12% diện tích đất ven<br /> biển và ảnh hưởng tới cuộc sống của 23%<br /> dân số sống tại khu vực này.<br /> VỀ VĂN HÓA, XÃ HỘI<br /> Lĩnh vực văn hóa, xã hội còn tồn tại nhiều<br /> hạn chế, yếu kém. Giải quyết việc làm chưa<br /> đạt kế hoạch. Việc thực hiện các chính sách<br /> về hỗ trợ hộ nghèo còn nhiều bất cập, chất<br /> lượng xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc.<br /> Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao<br /> nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số: năm<br /> 2012, còn khoảng 1 triệu hộ cận nghèo, số<br /> hộ tái nghèo chiếm 7 – 10% tổng số hộ thoát<br /> nghèo, còn 62 huyện có trên 50% hộ nghèo.<br /> Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2013 là 9,8%<br /> Trong tháng 6/2014, cả nước có 23 nghìn hộ<br /> thiếu đói, tương ứng với 97 nghìn nhân khẩu<br /> thiếu đói. Tính chung 6 tháng đầu năm 2014,<br /> cả nước có 271,2 nghìn lượt hộ thiếu đói [1,<br /> tr.10]. Phân hóa giàu nghèo gia tăng: chênh<br /> lệch thu nhập giữa nhóm dân cư có thu nhập<br /> cao nhất và nhóm dân cư có thu nhập thấp<br /> nhất còn lớn, giai đoạn 2001 – 2008 là 8,14<br /> lần, giai đoạn 2006 – 2007 là 8,4 lần. Tỷ lệ<br /> hộ nghèo giữa vùng Tây Bắc (vùng có tỷ lệ<br /> hộ nghèo cao nhất: 31,5%), cao gấp 9,8 lần<br /> vùng Đông Nam Bộ (vùng có tỷ lệ hộ nghèo<br /> thấp nhất: 3,2%).<br /> Tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến. Tỷ lệ<br /> thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng<br /> đầu năm 2014 là 2,14% (Quý I là 2,21%; quý<br /> II là 2,07%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp của lao<br /> động trong độ tuổi khu vực thành thị là 3,62%<br /> (Quý I là 3,72%; quý II là 3,52%), cao hơn<br /> mức 3,19% của quý IV năm 2013; tỷ lệ thất<br /> 134<br /> <br /> 124(10): 131 - 135<br /> <br /> nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực<br /> nông thôn là 1,47%. Tỷ lệ thiếu việc làm 6<br /> tháng là 2,63% (Quý I là 2,78%; quý II là<br /> 2,47%), trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực<br /> thành thị là 1,33%; khu vực nông thôn là<br /> 3,20%, thấp hơn mức 3,37% của quý I và<br /> 3,23% của quý IV năm 2013. Tỷ lệ thất<br /> nghiệp của thanh niên (từ 15 - 24 tuổi) 6<br /> tháng là 6,32%, trong đó khu vực thành thị là<br /> 11,87%; khu vực nông thôn là 4,54%. Tỷ lệ<br /> thất nghiệp của người lớn (từ 25 tuổi trở lên)<br /> 6 tháng là 1,18%, trong đó khu vực thành thị<br /> là 2,23%; khu vực nông thôn là 0,71%[9].<br /> An sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa thật<br /> vững chắc, hơn 80% lực lượng lao động<br /> chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Công tác<br /> chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân<br /> còn nhiều bất cập. Hệ thống y tế, chất lượng<br /> dịch vụ y tế và đạo đức nghề nghiệp của đội<br /> ngũ y bác sỹ còn nhiều bất cập. Điều kiện<br /> chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu,<br /> vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều<br /> thiếu thốn. Tình trạng quá tải ở các bệnh<br /> viện truyến trung ương, tuyến tỉnh còn cao.<br /> Đầu tư cho y tế còn thấp, tỷ lệ chi ngân sách<br /> Nhà nước mới đạt khoảng 8,5%.<br /> KẾT LUẬN<br /> Như vậy, có thể nói những bước đi sau gần 30<br /> năm tiến hành đổi mới đất nước còn chứa<br /> đựng nhiều mâu thuẫn đồng thời thiếu tính<br /> bền vững trên cả ba mặt: kinh tế, môi trường<br /> và văn hóa, xã hội. Từ thực tiễn trên cho<br /> thấy, nếu chỉ chú trọng vào mục tiêu phát<br /> triển nhanh là chưa đủ. Xuất phát từ nhận<br /> thức này, Dự thảo chiến lược Phát triển kinh<br /> tế - xã hội 2011 – 2020 đã xác định “Phát<br /> triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,<br /> phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong<br /> Chiến lược”. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa<br /> phát triển nhanh và bền vững “phát triển bền<br /> vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển<br /> nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền<br /> vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn<br /> gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và<br /> chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.<br /> <br /> Phạm Thị Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã<br /> hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5<br /> năm 2011 – 2015 và nhiệm vụ 2014 – 2015.<br /> 2. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2012 –<br /> 2013 của WEF – Trung tâm xử lý và phân tích<br /> thông tin ( Cục Thông tin khoa học và công nghệ<br /> quốc gia).<br /> 3. Uỷ ban Kinh tế Quốc hội năm 2013, Bản tin<br /> Kinh tế Vĩ mô. Số 8 – Quý I/2013.<br /> 4. PGS. TS Ngô Thắng Lợi, “Thực hiện mục tiêu<br /> vượt qua ngưỡng nước đang phát triển, có mức<br /> <br /> 124(10): 131 - 135<br /> <br /> thu nhập thấp – một số đánh giá ban đầu”, Tạp<br /> chí nghiên cứu – Trao đổi số 25 (3 + 4/2009)<br /> 5. PGS. TS Nguyễn Thị Mùi: Thực trạng nợ xấu<br /> tại các Ngân hàng Việt Nam và giải pháp tháo gỡ.<br /> 6]. PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn, Kinh tế Việt Nam<br /> 2012 và hàm ý chính sách 2013; Một vài bình luận<br /> từ giác độ tính bền vững, Diễn đàn Kinh tế mùa<br /> xuân, 4/2013<br /> 7. Bùi Quang Vinh, Chương trình Dân hỏi Bộ<br /> trưởng trả lời ngày 15/12/2013.<br /> 8. http://vnmedia.vn/VN/kinh - te/thi truong/13<br /> 789667/8600 doanh nghiep ngung hoat dong trong<br /> dau nam 2013.html.<br /> 9. Gso.gov.vn<br /> <br /> SUMMARY<br /> CONFLICT OF PERFORMANCE MARKET ECONOMY<br /> SOCIALIST ORIENTED IN VIETNAM<br /> Pham Thi Nga*, Ngo Thi Tan Huong<br /> College of Economics and Business Administration – TNU<br /> <br /> After nearly 30 years of innovation, our nation has made great achievements in all fields of social<br /> life. However, implementing process-oriented market economy and socialism arose many conflicts<br /> both theoretical and practical. Detecting and resolving these conflicts have great influence on the<br /> process of implementing economy-oriented market socialism: or inhibit the development - if not<br /> detected promptly and satisfactorily resolve conflicts support; or promote the development - if<br /> detected promptly and thoroughly solve conflicts. Within the scope of this article, we focus on<br /> analyzing the contradictions between development goals faster with the goal of sustainable<br /> development.<br /> Keywords: conflict, motivation, market economy, socialist orientation, Vietnam<br /> <br /> Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:29/8/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014<br /> Phản biện khoa học: TS. Tạ Thị Thanh Huyền – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN<br /> *<br /> <br /> Tel: 0962 260638, Email: vietanh8909@gmail.com<br /> <br /> 135<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2