Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật
lượt xem 98
download
Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật Với những đặc thù riêng, chính sách và pháp luật tác động đến đời sống xã hội theo các mức độ khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ gắn kết, phối hợp, hỗ trợ cho nhau cùng phát huy tác dụng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội. Từ thực tiễn Việt Nam, tác giả đề cập đến nội dung nêu trên và liên hệ đến việc đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội Khái quát về pháp luật và chính sách Pháp luật là...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật
- Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật
- Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật Với những đặc thù riêng, chính sách và pháp luật tác động đến đời sống xã hội theo các mức độ khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ gắn kết, phối hợp, hỗ trợ cho nhau cùng phát huy tác dụng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội. Từ thực tiễn Việt Nam, tác giả đề cập đến nội dung nêu trên và liên hệ đến việc đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội Khái quát về pháp luật và chính sách Pháp luật là những quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. Pháp luật một mặt hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội phù hợp với nhu cầu của xã hội, mặt khác, hướng đến ý thức tình cảm làm cho mô hình hành vi đọng lại trong ý thức của con người. Pháp luật mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, mọi cơ quan, tổ chức nhằm mục đích ngăn ngừa, răn đe, trừng phạt những hành vi sai trái, giáo dục, cảm hoá những người có hành vi này, bồi dưỡng cho mọi người tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật bảo đảm cho xã hội phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững… Pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ xã hội chủ yếu, cơ bản mang tính ổn định và được lặp đi lặp lại. 1
- Chính sách là những cách thức tác động của Nhà nước vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng. Chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang tính ổn định, mềm dẻo, linh động. Chính sách có tác động nhanh và kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện đến cả nhận thức, thái độ và hành vi của các chủ thể bị tác động. Đặc biệt, chính sách điều chỉnh động cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt động của các cá nhân và từng nhóm đối tượng cụ thể. Chính sách có vai trò định hướng cho các hoạt động kinh tế – xã hội; khuyến khích các hoạt động kinh tế – xã hội theo định hướng; phát huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế những tiêu cực của nó; tạo lập sự cân đối trong phát triển; kiểm soát và phân phối nguồn lực cho quá trình phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế – xã hội, giúp cho các thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật; phối hợp hoạt động giữa các cấp độ, các bộ phận để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ trong quá trình vận động của thực thể. Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật Vai trò của chính sách đối với pháp luật Thứ nhất, chính sách bao giờ cũng đi trước pháp luật, mang tính định hướng và là nền tảng để xây dựng pháp luật: chính sách phản ánh một cách trung thực, khách quan điều kiện kinh tế – xã hội tại thời điểm cụ thể và dự báo xu thế, khả năng phát triển trong tương lai. Nếu chính sách không làm tốt vai trò này thì việc thể chế hoá các chính 2
- sách thành các quy phạm pháp luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật sẽ không có tính khả thi, hoặc kìm hãm sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Do đó, các nhà hoạch định chính sách phải là người có khả năng đúc kết thực tiễn và dự báo tương lai. Thứ hai, chính sách có tính ổn định tương đối để pháp luật có điều kiện đi vào thực tế cuộc sống vì pháp luật luôn hướng tới mục tiêu chung, thống nhất nên trong mỗi giai đoạn nhất định, pháp luật có tính đồng bộ và ổn định. Điều này có nghĩa, khi một chính sách có quá nhiều thay đổi hoặc không có những lộ trình cụ thể sẽ gây khó khăn, phức tạp cho việc xây dựng và thực thi pháp luật. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách phải tính toán thời gian, điều kiện áp dụng để đưa chính sách vào cuộc sống. Đồng thời, họ phải là những người có khả năng chia việc thực thi chính sách thành các giai đoạn khác nhau với các mục tiêu và lộ trình cụ thể, tránh những bất lợi cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Thứ ba, chính sách là một trong các nguồn tạo ra những thể chế pháp luật mới. Hay nói cách khác, do chính sách là công cụ thể hiện thái độ chính trị của Đảng lãnh đạo để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra theo định hướng, nên pháp luật được ban hành cùng các quy định cụ thể cho mỗi loại quan hệ. Thông thường, sau khi Nhà nước ban hành chính sách mới trên cơ sở định hướng chính sách của Đảng, chính sách này được thực thi thông qua việc cụ thể 3
- hoá thành các quy phạm pháp luật. Như vậy, một chính sách mới được ban hành đồng thời tạo nên một lĩnh vực điều chỉnh mới của hệ thống pháp luật. Ví dụ, khi Nhà nước ban hành chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật được hình thành mới hoặc được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chính sách như Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư nước ngoài; Luật Doanh nghiệp nhà nước; Luật Hợp tác xã; Luật Phá sản doanh nghiệp, các sắc luật thuế v,v... Vai trò của pháp luật đối với chính sách Thứ nhất, pháp luật là căn cứ xây dựng chính sách, là công cụ để cụ thể hoá và thực thi chính sách. Chính sách có tính linh hoạt và thích nghi với thực tế xã hội cao hơn pháp luật nhưng không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu thiếu pháp luật bởi hệ thống pháp luật tạo nên khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh tất các các quan hệ xã hội. Chính sách do Nhà nước ban hành phải căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành và về nguyên tắc không được trái với các quy định của pháp luật. Do đó, không thể xây dựng chính sách có hiệu quả và khả thi khi không nắm được tất cả những quy định pháp luật đang điều chỉnh lĩnh vực liên quan đến chính sách đó. Ví dụ: Điều 5, Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào 4
- dân tộc thiểu số”. Từ quy định này, nhiều chính sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số đã được hoạch định và thực thi như chương trình 135, 137 và các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao dân trí, trình độ cho đồng bào… Thứ hai, pháp luật phản ánh các chính sách ở điểm cân bằng. Điều này có nghĩa, do đặc trưng của pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ chủ yếu, cơ bản mang tính ổn định và được lặp đi lặp lại, do đó nếu không tìm ra được điểm cân bằng và tương đối ổn định thì chính sách khó có thể cụ thể hoá thành pháp luật. Thứ ba, pháp luật được ban hành và đi vào cuộc sống sẽ giúp các quan hệ xã hội diễn ra có trật tự theo định hướng thống nhất với các chính sách hiện hành. Quá trình thực thi pháp luật giúp các đối tượng có ý thức chấp hành các quy định chung, trên cơ sở đó nêu cao tinh thần chấp hành chính sách một cách tự giác. Tác động qua lại của chính sách và pháp luật Thứ nhất, pháp luật đôi khi cản trở việc hoạch định và thực thi chính sách mới. Về nguyên tắc, khi hoạch định chính sách phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, việc hoạch định chính sách có thể bị cản trở khi pháp luật chứa đựng trong bản thân nó những yếu tố không bền vững, thiếu tính khả thi và thường xuyên thay đổi. Thứ hai, hoạch định chính sách mới cũng thách thức sự nhất quán, không mâu thuẫn của hệ thống pháp luật quốc gia, nhất là khi hệ thống chính sách thiếu nhất quán, mâu 5
- thuẫn, hạn chế lẫn nhau giữa các chính sách chung của quốc gia hoặc giữa các chính sách của quốc gia với các chính sách cụ thể của từng địa phương… Ví dụ: chính sách nhập khẩu xe gắn máy của cơ quan nhà nước ở trung ương không phù hợp với chính sách điều tiết, quản lý cơ sở hạ tầng giao thông của các địa phương nên buộc nhiều địa phương, nhất là những thành phố lớn, điển hình là Hà Nội phải thực thi biện pháp dừng đăng ký xe máy mới… Khi đó, nếu tiếp tục hoạch định chính sách mới và cụ thể hoá nó thành pháp luật sẽ khó có thể thực hiện được trong môi trường pháp luật này. Thứ ba, nếu pháp luật tốt thì mục tiêu chính sách có thể được đề cao hơn so với hệ thống biện pháp, hoặc chỉ cần hoạch định những biện pháp mềm dẻo nhưng chính sách vẫn có tính khả thi và hiệu quả cao. Phát huy mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật trong hội nhập Từ những phân tích trên cho thấy, chính sách và pháp luật gắn bó biện chứng chặt chẽ với nhau, có mối quan hệ nhân quả và chế ước lẫn nhau. Trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, nhất là chuẩn bị cho việc gia nhập WTO, một trong những yêu cầu không thể thiếu được của Việt Nam là phải hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật. Đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật vì những phân tích trên đã khẳng định vai trò của chính sách đối với việc xây 6
- dựng đồng bộ hệ thống pháp luật. Thiết nghĩ, các nhà hoạch định chính sách và pháp luật nên thực hiện song song một số giải pháp sau: Yêu cầu đối với hoạch định chính sách - Coi trọng việc tập hợp các thông tin pháp luật liên quan đến việc hoạch định các chính sách để tránh mâu thuẫn, chồng chéo và để các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng trên nền tảng hệ thống chính sách tương đối ổn định. - Quan tâm đến sự hài hoà các lợi ích bằng việc dự liệu các tác động trước mắt và ảnh hưởng lâu dài của chính sách đối với bản thân đối tượng được thụ hưởng và với toàn xã hội trên cơ sở tính toán cụ thể các biện pháp nhằm giảm thiểu việc gây mâu thuẫn, xung đột xã hội do chính sách chỉ đáp ứng lợi ích cho một bộ phận xã hội. - Quan tâm đến việc bảo đảm đồng bộ nhiều giải pháp thực hiện chính sách để đạt được mục tiêu chính sách. Ví dụ, chính sách khuyến khích cán bộ, công chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp do chỉ chú ý khuyến khích bằng vật chất và tinh thần cho đối tượng được thụ hưởng, mà không quan tâm đến các yếu tố khác nên trên thực tế cũng không đạt được mục tiêu, vì cán bộ, công chức không được học theo nhu cầu của bản thân về kỹ năng nghề nghiệp cần thiết mà buộc phải học theo chương trình sẵn có của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Những chương trình này có nhiều nội dung 7
- trùng với những chương trình khác mà họ đã được đào tạo, bồi dưỡng. - Tính đến mặt trái của chính sách, bảo đảm không để chính sách bị lợi dụng. Việc tính toán không chỉ giúp hạn chế những thiệt hại về vật chất mà còn cả những thiệt hại về tinh thần, trong đó quan trọng nhất là niềm tin của nhân dân vào chính sách, pháp luật Nhà nước, nhất là trong quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Tính toán thời điểm công bố chính sách, nhất là những chính sách mang tính nhạy cảm đến lợi ích của người dân. Trong trường hợp cần thiết nên tiến hành các hoạt động thăm dò phản ứng và dư luận xã hội trước khi công bố. Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội Phân tích và quyết định chính sách trước khi bắt tay vào việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, vấn đề này cần được làm mạnh và triệt để hơn để có cái nhìn tổng thể, lựa chọn được những giải pháp tối ưu, bước đi thích hợp cho vấn đề mà thực tế cuộc sống đặt ra. Điều này sẽ khắc phục được tình trạng trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhiều vấn đề thuộc về chủ trương, chính sách không được làm rõ dẫn đến việc phải làm đi làm lại nhiều lần gây tốn kém về thời gian, công sức, chi phí và nảy sinh tình trạng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trình ra Quốc hội còn ý kiến băn khoăn về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, sự cần thiết có nên ban hành văn bản quy phạm pháp luật đó hay không… 8
- Đào tạo kỹ năng xây dựng chính sách và pháp luật Thực tế ở Việt Nam hiện nay, nhiều nhà hoạch định chính sách cũng là những người tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật. Bên cạnh thuận lợi đó có những khó khăn trong việc phân định ranh giới giữa vấn đề chính sách và quy định của pháp luật. Do đó, cần phải tăng cường đào tạo kỹ năng xây dựng chính sách và pháp luật ở các trường đào tạo chuyên ngành. Hiện nay, phần lớn những người hoạch định chính sách và pháp luật thực thi nhiệm vụ trên cơ sở kinh nghiệm và quá trình học tập không bài bản, nên dẫn đến những bất cập của chính sách và pháp luật làm cho những quy định trên văn bản khó phát huy được tác dụng và hiệu quả thực tế, dẫn đến phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần trong một khoảng thời gian ngắn. Để thực hiện có hiệu quả quyền hành pháp và tư pháp, Nhà nước đã thành lập Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Tư pháp, Trường Cao đẳng kiểm sát, Trường Bồi dưỡng thẩm phán. Nên chăng, trong một tương lai gần nước ta sẽ hình thành Trường Đào tạo kỹ năng lập pháp để đào tạo đội ngũ cán bộ lập pháp chuyên nghiệp, đồng thời, tháo gỡ được khó khăn cho các đại biểu dân cử hiện nay trong việc tham gia xây dựng pháp luật. /. (Bài viết đăng trên TCNCLP số 53, tháng 6/2005) 9
- 10
- Sự cần thiết hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách công của Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ThS. TRỊNH THỊ KIỂU ANH Bộ Công an C hính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy trình chính sách; trong đó có quy trình hoạch định chính sách - bước khởi đầu đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách. Chính sách công do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định (tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội cũng cần có chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy, chính sách công được hiểu là "Những quy định về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm 11
- thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng" (1). Hay chính sách công cũng chính là "Một chuỗi các quyết định hành động của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang được đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định" (2). Ở nước ta, chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách...". Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ "chính sách của Đảng và Nhà nước". Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - Đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban 12
- hành các chính sách công. Các chính sách công là do Nhà nước ban hành. Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng. (Do vậy việc đề cập tới chính sách công ở đây được hiểu là các chính sách công do Nhà nước ban hành). Chính sách công ở Việt Nam thường được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển. Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực hiện cần tiến hành phân tích chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách... Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của Nhà nước và được xây dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, 13
- công đoạn để tạo ra một chính sách công. Hiện nay quy trình hoạch định chính sách do nhà nước ta ban hành, theo tôi, được thực hiện theo sơ đồ sau: Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án lựa chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Trong thực tế, các chính sách công của nước ta chủ yếu được thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ nên quy trình hoạch định chính sách công được tiến hành theo quy định ban hành nghị quyết của Chính phủ tại các điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm1996, sửa đổi năm 2002. Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 20 thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công như nêu trên cũng còn bộc lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc 14
- Trung ương thực hiện. Như vậy, chính sách công được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính sách trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện cụ thể của tình trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện, nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia 15
- đề xuất, xây dựng chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản lý nhà nước không có chính sách để điều chỉnh. Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy định về soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi 2002 còn mang tính chất khung chưa phân công rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu, công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án, thẩm định, ban hành... Quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng. Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên thế giới và ở nước ta, cho thấy việc 16
- dự báo chính sách còn nhiều yếu kém. Dự báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh hưởng tới tính tự giác thực hiện chính sách...). Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các phương án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ thực tiễn để hoạch định chính sách, đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan của chính sách). Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách công bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính toàn cầu. Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua sự kiện giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương thực đặt ra... Chính sách phát triển nông nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính toán, cân nhắc, điều chỉnh lại. Như vậy, chính sách công của một quốc gia 17
- cũng đang phải chịu nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn. Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách phù hợp với thực tế. Từ những vấn đề lý luận v à thực tiễn nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách công của Nhà nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế./. Ghi chú: (1) Giáo trình hoạch định chính sách công, Học viện Hành chính Quốc gia, Tr 21. (2) Thuật ngữ Hành chính, Học viện Hành chính quốc gia, Tr 53. 18
- Phân tích chính sách tài chính thời mở cửa Cập nhật: 30/4/2008 09:01 Hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường toàn cầu và khu vực, đặc biệt là kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức hơn đối với Việt Nam. Trong bối cảnh đó, cải cách tài khoá và tài chính công trở nên cấp thiết và phức tạp hơn, đòi hỏi phân tích chính sách cẩn trọng để xây dựng các chính sách phù hợp, hỗ trợ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế. Để giải quyết yêu cầu này, Bộ Tài chính (MOF) đã thành lập Nhóm Tư vấn Chính sách (PAG) nhằm đưa ra các ý kiến tư vấn chính sách độc lập và có chất lượng cho Bộ trưởng Tài chính và các lãnh đạo của Bộ. PAG có trách nhiệm thiết lập hạ tầng cơ sở phân tích chính sách trong bộ, và xây dựng năng lực phân tích chính sách cho các đơn vị và cơ quan khác trực thuộc MOF. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Mối quan hệ giữa chính sách thương mại và chính sách công nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
104 p | 163 | 35
-
Luận án Tiến sỹ Kinh tế: Mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế và khung khổ chính sách thương mại Việt Nam
166 p | 148 | 30
-
Bài thuyết trình Mối quan hệ giữa đất đai và văn hoá tộc người: Nhìn từ một vài điển cứu
29 p | 60 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa giá tài sản và chính sách tiền tệ ở Việt Nam
102 p | 40 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và các nhân tố chính sách tiền tệ ở một số nước Châu Á
91 p | 27 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách chi trả cổ tức và dòng tiền bất định tại các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM - Lê Tố Thiên Hoa
72 p | 19 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực ở Việt Nam
94 p | 43 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và chất lượng thu nhập của các công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam
92 p | 24 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tạo sự truyền miệng tích cực thông qua mối quan hệ giữa khách hàng và nhân viên trong ngành ngân hàng trên địa bàn TP.HCM
93 p | 40 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn đầu tư nước ngoài - Nghiên cứu trường hợp Việt Nam
34 p | 39 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và giá tài sản
85 p | 25 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và cấu trúc sở hữu của các công ty niêm yết tại Việt Nam
62 p | 12 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách chi trả cổ tức và dòng tiền bất định tại các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM
109 p | 23 | 3
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Quản lý thu thuế thông qua mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán thuế
26 p | 40 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển: Vai trò của nhà nước nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa trường đại học - doanh nghiệp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ
0 p | 38 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và biến động giá cổ phiếu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
103 p | 37 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và chi phí đại diện – Nghiên cứu cho các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
67 p | 16 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn