
Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp
quyền
Cantơ và các nhà tư tưởng tiến bộ thế kỷ XVIII-XIX đã đưa ra quan niệm Nhà
nước pháp quyền nhằm chống lại Nhà nước chuyên chế, cực quyền phong kiến,
chống lại sự độc đoán, lạm quyền và nằm trong trào lưu chung của hệ tư tưởng
giải phóng.Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải thay đổi hệ thống
chính trị, mở rộng dân chủ dựa trên nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của pháp luật
và pháp chế.Với tính cách là một hình thức chính trị pháp lý hợp lý, Nhà nước
pháp quyền là một trong những giá trị quý báu chung của toàn nhân loại, được xếp
ngang với những giá trị khác như nhân quyền, dân chủ và chế độ lập hiến.
Vấn đề Nhà nước pháp quyền được đề cập nhiều trong các tác phẩm kinh điển
về Nhà nước và pháp luật.
Từ thời cổ đại, người ta đã bắt đầu tìm kiếm nguyên tắc, hình thức và cơ cấu để
thiết lập quan hệ qua lại, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật và
quyền lực.
Trào lưu của quan niệm ngày càng sâu sắc, sớm hình thành tư tưởng về sự hợp
lý và công bằng của việc tổ chức một hình thức chính trị của đời sống xã hội,
trong đó nhờ vào sự thừa nhận và ủng hộ của quyền lực, pháp luật trở thành sức
mạnh của quyền lực, còn sức mạnh của quyền lực được tổ chức có trật tự, thừa
nhận pháp luật và bị hạn chế, ràng buộc bởi pháp luật, trở thành quyền lực Nhà
nước công bằng (tức phù hợp với pháp luật) . Sự nhận thức như vậy về Nhà nước
như một tổ chức pháp lý của sức mạnh quyền lực công khai là tư tưởng cơ bản về

Nhà nước pháp quyền. Học thuyết về Nhà nước pháp quyền thực tế được xây
dựng muộn hơn trong cuộc đấu tranh chống lại sự lộng quyền, độc đoán của giai
cấp phong kiến. Tuy vậy, ý tưởng về Nhà nước pháp quyền có cội nguồn xa xưa
trong lịch sử nhân loại.
Có người cho rằng cội nguồn của Nhà nước pháp quyền chính là biểu tượng cổ
xưa về quan tòa - nữ thần bịt mắt bằng băng vải đen, một tay cầm kiếm, một tay
cầm cán cân công lý, thể hiện sự kết hợp giữa sức mạnh và quyền lực pháp luật có
ý nghĩa sâu sắc: Trật tự pháp luật mà nữ thần bảo vệ là bắt buộc, bình đẳng đối với
tất cả mọi người. Biểu tượng nữ thần nói trên, theo quan niệm của người cổ đại,
không chỉ là biểu tượng về toà án công bằng mà còn là chế độ Nhà nước công
bằng nói chung (tổ chức quyền lực công bằng). Tư pháp được coi là sự phán xét
dựa trên cơ sở pháp luật.
Thế kỷ thứ VI Tr. CN, Sô-Lông - nhà thông thái Hy Lạp - đã áp dụng tư tưởng
kết hợp sức mạnh với quyền lực trong việc tổ chức Nhà nước Ai Cập trên những
nguyên tắc dân chủ. Ông diễn đạt tư tưởng của mình rằng, phải giải phóng tất cả
mọi người bằng quyền lực pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật.
Theo Aristôt, ở vương quốc Ai Cập cổ đại, nền dân chủ được hình thành từ
thời đại Sô-Lông. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của người cổ đại nhằm
chống lại quan niệm ấu trĩ, ngụy biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật (tức lẽ
phải thuộc về kẻ mạnh ….)
Heraclit nói câu bất hủ: "Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ Luật như bảo vệ chốn
nương thân của mình".
Còn Plato thì cho rằng, "chúng ta thừa nhận rằng những nơi mà luật được định
ra vì lợi ích của một số người thì ở đó không có chế độ Nhà nước. Chỉ có thể gọi
là Nhà nước nếu ở đó có sự công bằng".

Aristôt - cha đẻ của khoa học chính trị cổ đại - cho rằng nơi nào không có sức
mạnh của Luật thì nơi đó không có hình thức chế độ Nhà nước. Aristôt hiểu luật là
luật pháp quyền (bất cứ đạo luật nào cũng bao hàm trong mình pháp luật, nói về
tính tối cao của luật trong một Nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa của nó).
Theo ông, khái niệm công bằng gắn liền với quan niệm về Nhà nước, bởi vì pháp
luật là tiêu chuẩn của sự công bằng, là quy phạm điều chỉnh mọi giao tiếp chính
trị.
Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của luật, của pháp
luật mà còn chú trọng tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quản lý Nhà nước. Cả hai
khía cạnh đều có ý nghĩa quan trọng, liên hệ mật thiết với nhau. Nếu không có tổ
chức quy củ của Nhà nước, không có sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn; Không quy định trật tự trong mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan Nhà nước
thì không thể có tính tối cao của pháp luật. Mặt khác, bản thân tổ chức hệ thống
quyền lực của Nhà nước pháp quyền không thể tồn tại nếu không phù hợp với
pháp luật, nếu luật không được tuân thủ.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp
luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị.
Đó là hai yếu tố không thể thiếu và không thể tách rời của Nhà nước pháp quyền.
Bước phát triển đáng kể trong lý luận về Nhà nước pháp quyền được thể hiện
trong các học thuyết chính trị - pháp lý của các nhà tư tưởng La mã cổ đại, đặt biệt
của Xixêrông. Theo ông, Nhà nước là sự nghiệp và tài sản của nhân dân.
Xixêrông quan niệm rằng nhân dân không phải là sự tập hợp bất kỳ nào của
nhiều người, tập trung lại với nhau theo kiểu nào đó mà là sự tập hợp của nhiều
người gắn bó với nhau bằng sự thống nhất với nhau về pháp luật và lợi ích chung .

Như vậy, pháp luật là cội nguồn đẻ ra chế độ, tổ chức Nhà nước. Pháp luật ở
đây được hiểu là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con
người và của thế giới xung quanh con người như sự sáng tạo của lý trí thần thánh.
Pháp luật tự nhiên có trước Nhà nước và luật thành văn. Vì con người là sản phẩm
của tạo hóa, sản phẩm có lý trí nên pháp luật và sự công bằng là thuộc tính vốn có
của con người. Theo ông, một Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do
Nhà nước đó tuân thủ luật của mình mà là vì xét về cội nguồn và về bản chất, Nhà
nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân. Pháp luật của Nhà nước
phải đáp ứng những đòi hỏi của pháp luật tự nhiên. Các đạo luật đó đóng vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ chính trị - quyền lực. Xixêrông đưa
ra nguyên tắc: Luật tác động tới tất cả mọi người, kể cả người nắm quyền lực Nhà
nước. Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật của Nhà nước xuất phát
ngay từ chỗ bản thân Nhà nước là pháp luật chung của mọi công dân. Do vậy,
công dân là một trong những chủ thể bình đẳng của pháp luật, của các mối quan hệ
pháp lý và của trật tự pháp luật chung. Tính hiện thực và hiệu lực thực tế của Nhà
nước với tính cách là trật tự pháp luật chung, theo Xixêrông phụ thuộc vào tính
tích cực chính trị, pháp lý của nhân dân. Do vậy, bảo vệ tự do cho công dân không
phải việc của riêng ai mà là tất cả mọi người, vì tự do của công dân là quyền công
dân, là bộ phận cấu thành của trật tự pháp luật chung, của toàn bộ tổ chức Nhà
nước .
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng cổ đại ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển các học thuyết về phân quyền, Nhà nước pháp
quyền của các nhà tư tưởng thời kỳ trung đại và cận đại. Các học thuyết này đã
đóng vai trò to lớn trong việc phê phán sự bất bình đẳng của chế độ phong kiến, sự
lạm quyền của quan lại phong kiến, khắc phục các quan điểm thần học về Nhà
nước và pháp luật, khẳng định tư tưởng bình đẳng và tự do của mọi người trong
đời sống xã hội, trong tổ chức pháp luật - Nhà nước của các quan hệ chính trị.

Ý nghĩa quyết định của sự phát triển về lịch sử và lý luận của những quan
niệm mới về Nhà nước pháp quyền vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên
chủ nghĩa tư bản, là những vấn đề quyền lực chính trị dưới hình thức phân quyền
phù hợp với tương quan mới của các lực lượng chính trị, xã hội - giai cấp, đồng
thời loại trừ khả năng độc quyền hoá quyền lực trong tay một người hay một cơ
quan. Thế giới quan pháp lý của giai cấp tư sản đang lên đòi hỏi những quan niệm
mới về tự do của con người thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật
trong mọi việc công, tư.
Lốccơ (nhà triết học pháp quyền người Anh thế kỷ XVII) lý giải về việc phải
thực hiện phân quyền dựa trên sự ngự trị của pháp luật thể hiện dưới hình thức
Nhà nước, trong đó Luật có tính tối cao - Luật phù hợp với pháp luật tự nhiên,
công nhận tự do và các quyền tự nhiên của cá nhân. Nhà nước (có luật ngự trị) đối
lập với chuyên quyền, pháp chế đối lập với phi pháp của người nắm quyền. Theo
ông, nguyên tắc “cho phép làm tất cả những gì mà luật không cấm” chỉ đúng khi
áp dụng đối với công dân còn đối với người nắm quyền lực phải áp dụng nguyên
tắc ngược lại: "Cấm không được làm những gì mà luật không cho phép".
Quan niệm mới về phân quyền thể hiện đầy đủ trong các công trình của
Môngtexkiơ (Pháp) vào thế kỷ thứ XVIII. Theo ông, ở mỗi Nhà nước có ba loại
quyền :
- Quyền lập pháp;
- Quyền hành pháp;
- Quyền tư pháp.
Để tránh lạm quyền, ba quyền đó phải nằm trong tay ba cơ quan khác nhau,
chế ước lẫn nhau. Đó là điều kiện chủ yếu để đảm bảo tự do chính trị trong Nhà
nước. Tự do không phải làm những gì mà mình muốn và cũng không có nghĩa là