1<br />
<br />
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM<br />
GẮN LIỀN VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG<br />
ThS. Đinh Việt Phương<br />
Viện Du lịch – Trường ĐH Kinh tế Tp.HCM<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Du lịch Việt Nam luôn là lựa chọn tuyệt vời đối với khách du lịch quốc tế với<br />
đường bờ biển dài hơn 3260km, những khu bảo tồn thiên nhiên đầy lý thú, những thành<br />
phố nhiều sắc màu, những di tích lịch sử hào hùng, nền văn hóa độc đáo, cùng danh sách<br />
những món ăn thuộc top ngon nhất thế giới do nhiều tổ chức và tạp chí du lịch quốc tế<br />
bình chọn. Thời gian gần đây, du lịch Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu tăng trưởng khả<br />
quan với với tốc độ tăng trưởng trung bình 7% năm. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của<br />
Tổng cục du lịch, hiện Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trong top đầu các nước có tốc độ<br />
tăng trưởng du lịch cao trên Thế giới nhưng số lượng khách quốc tế đến Việt Năm chỉ<br />
khiêm tốn xếp giữa bảng xếp hạng trong khu vực ASEAN và chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn<br />
trong bảng xếp hạng quốc tế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nằm<br />
ở chất lượng lao động du lịch đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn<br />
chế.<br />
<br />
Dưới góc độ quản lý kinh tế địa phương, khu vực hay quốc gia muốn đẩy mạnh<br />
phát triển kinh tế - xã hội, cần chú ý đến các nguồn lực bao gồm: tài nguyên thiên nhiên,<br />
nguồn vốn, khoa học - công nghệ, con người… Trong đó, nguồn lực con người hay còn<br />
gọi là nguồn nhân lực được xem là yếu tố quan trọng và có tính chất quyết định nhất.<br />
Hiện nay có khá nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm liên quan đến nguồn nhân lực.<br />
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc (UN) thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức,<br />
kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát<br />
triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Còn theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì:<br />
“Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng<br />
tham gia lao động”. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định là một bộ<br />
phận của nguồn nhân lực nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt, bao gồm những<br />
người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc trong các lĩnh vực<br />
khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát<br />
triển bền vững của cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung.<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận không thể tách rời khỏi nguồn nhân lực<br />
quốc gia, khi quốc gia đó chuyển dần cơ cấu sang nền kinh tế dựa trên tri thức là trọng<br />
yếu. Trong xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, nguồn nhân lực chất lượng cao<br />
đóng vai trò quyết định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao làm gia tăng giá trị cho<br />
con người cả về vật chất, tinh thần, trí tuệ, kỹ năng, làm tươi mới năng lực và phẩm chất<br />
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, phát triển<br />
nguồn nhân lực chất lượng cao của một quốc gia chính là sự thay đổi số lượng và chất<br />
lượng về kiến thức, kỹ năng, thể lực và tinh thần; là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực<br />
toàn diện của con người cho phát triển kinh tế - xã hội cùng sự hoàn thiện của mỗi cá<br />
nhân. Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng<br />
lại rất hạn chế về mặt chất lượng. Năm 2015, cả nước có khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ<br />
khoa học; 1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa<br />
học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong số đó 49% giảng viên đại<br />
học có trình độ thạc sĩ trở lên. Đồng thời, cả nước hiện có 14.000 giáo viên trung cấp<br />
chuyên nghiệp; 11.200 giáo viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ thông. Trong số<br />
9.000 tiến sĩ được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực sự làm công<br />
tác chuyên môn. Theo kết quả điều tra gần đây, hiện tại ở nước ta 63% số sinh viên tốt<br />
nghiệp đại học chưa có việc làm, nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm<br />
việc phải mất từ 1 đến 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên ra trường có việc làm<br />
thì về cơ bản cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc... Rõ ràng là chất lượng nguồn<br />
nhân lực của nước ta chưa cao, có sự mâu thuẫn giữa lượng và chất của nguồn nhân lực<br />
chất lượng cao. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá, chất lượng nguồn nhân lực Việt<br />
Nam hiện nay đạt mức 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp<br />
thứ 73 trong tổng số 133 quốc gia được xếp hạng. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực ở nước<br />
ta cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng: cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ<br />
tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó, tỷ lệ này của thế giới<br />
tương ứng là 4 và 12. Ở Việt Nam, cứ 1 vạn dân thì có 181 sinh viên đại học, trong khi đó<br />
của thế giới là 100 và Trung Quốc là 140... Bên cạnh đó, nguồn nhân lực chất lượng cao ở<br />
nước ta lại phân bố đồng đều theo vị trí địa lý: 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập<br />
trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, số cán bộ có trình độ từ<br />
tiến sĩ trở lên ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chiếm chưa tới 1%. Trong số<br />
giáo sư và phó giáo sư, có tới 86,2% ở Hà Nội; 9,5% ở Thành phố Hồ Chí Minh, các địa<br />
phương còn lại chưa tới 4,3%. Những năm gần đây, ở Việt Nam mỗi năm có hàng trăm<br />
ngàn sinh viên đại học, hàng chục ngàn học viên cao học, nghiên cứu sinh. Tỷ lệ lao động<br />
có trình độ đại học trở lên tăng từ 3,8% trong tổng lực lượng lao động năm 2002 lên<br />
khoảng 6.2% trong năm 2013... Nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta đang còn rất<br />
nhiều vấn đề bất cập. Số lượng lao động qua đào tạo ở trình độ từ đại học trở lên ngày<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
một gia tăng, nhưng chất lượng của lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng công việc<br />
và phát huy kết quả đào tạo của số lao động này lại rất thấp. [1]<br />
Du lịch đã và đang trở thành một nhu cầu tất yếu của cuộc sống hiện đại và được đưa vào<br />
nhóm ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên Thế giới. Thực tế, theo số liệu<br />
thống kê của Tổ chức du lịch Thế giới ngành du lịch đóng góp 10% vào GDP toàn thế<br />
giới, cụ thể với đóng góp 1.5 ngàn tỷ USD trong tổng giá trị xuất khẩu toàn thế giới. Cũng<br />
trong năm 2015, du lịch quốc tế với tốc độ gia tăng số lượng khách du lịch quốc tế vào<br />
khoảng 4.6% đạt 1,184 triệu lượt khách. Gần đây, du lịch Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu<br />
tăng trưởng khả quan với với tốc độ tăng trưởng trung bình 7% năm. Theo số liệu thống<br />
kê của Tổng cục du lịch, hiện Việt Nam đứng thứ 5 trong các nước ASEAN về số lượng<br />
khách du lịch quốc tế đến với 7,94 lượt năm 2015, nhưng chỉ bằng 27% số lượng khách<br />
của Thái Lan (29,88 triệu), bằng 31% so với Malaysia (25,70 triệu), 52% so với<br />
Singapore (15,23 triệu). Như vậy có thể nói với tốc độ tăng trưởng trong top đầu các nước<br />
có tốc độ tăng trưởng du lịch cao trên Thế giới nhưng số lượng khách quốc tế đến Việt<br />
Năm chỉ khiêm tốn xếp giữa bảng xếp hạng trong khu vực ASEAN và chiếm tỷ trọng rất<br />
khiêm tốn trong bảng xếp hạng quốc tế. Điều này đang trở thành một thách thức với<br />
ngành du lịch Việt Nam khi từng được UNESCO công nhận 22 di sản Thế giới tại Việt<br />
Nam với nhiều điểm du lịch và cơ sở lưu trú lọt top những địa điểm du lịch đáng mơ ước<br />
hoặc top những khách sạn, resort đẹp nhất Thế giới do các tổ chức, tạp chí du lịch quốc tế<br />
bình chọn như Rough guides (Anh), Trip Advisor (Mỹ), Business Insider (Mỹ), The<br />
Richest…Những nhận định trên có thể thấy vai trò của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực<br />
chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ trong du lịch sẽ là một<br />
trong những đòn bẩy để du lịch Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách với các quốc gia<br />
trong khu vực và trên Thế giới. Bài tham luận nhằm mục đích xác định các yếu tố có thể<br />
ảnh hưởng đến việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngành du lịch bao gồm thực<br />
trạng và đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của địa phương và khu<br />
vực, vùng miền.<br />
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Du lịch mỗi năm ngành Du lịch Việt Nam cần<br />
thêm 40.000 lao động nhưng sinh viên ra trường chỉ khoảng 15.000 người, trong đó hơn<br />
12% có trình độ cao đẳng, đại học. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực này vẫn chưa<br />
đạt yêu cầu của doanh nghiệp dẫn đến tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động trong<br />
ngành Du lịch. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (ITDR) với tốc độ<br />
tăng trưởng là 6,2%/năm trong giai đoạn 2011-2015, đến hết năm 2015, nhu cầu nhân lực<br />
làm việc trực tiếp (hướng dẫn viên du lịch, điều hành tour, lễ tân…) trong ngành ước cần<br />
620.000 người. Và 5 năm nữa, con số này lên đến 870.000 lao động trực tiếp với tốc độ<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
tăng trưởng trong giai đoạn 2016-2020 là 7,0%/năm. Hiện nay, có khoảng 50 vạn lao<br />
động trực tiếp và trên 1 triệu lao động gián tiếp trong ngành này [2]. Đồng thời, ngành Du<br />
lịch hiện được đánh giá là ngành có nhu cầu nhân sự cao gấp 2-3 lần so với các ngành<br />
trọng điểm khác như giáo dục, y tế, tài chính… Riêng tại TP.HCM, một trung tâm lớn về<br />
du lịch, đặc biệt với nhiều tiềm năng về du lịch MICE, nhu cầu từ nay đến 2020, mỗi năm<br />
cần khoảng 21.600 lao động. Cũng theo quan sát và kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên<br />
cứu và Phát triển Du lịch Việt Nam, lao động trong ngành du lịch hiện nay ở nước ta về<br />
cơ bản đáp ứng được nhu cầu của ngành dịch vụ nói chung. Tuy nhiên, so với yêu cầu của<br />
hội nhập, phát triển, cạnh tranh trên thế giới, đặc biệt trong khu vực dịch vụ cao cấp - tiêu<br />
chuẩn khách sạn từ 3 đến 5 sao hoặc hơn nữa, nhân lực Việt Nam chưa đáp ứng được yêu<br />
cầu trong môi trường có tính cạnh tranh cao, còn thiếu nhiều ở kỹ năng quản trị toàn cầu<br />
và quản trị chuỗi giá trị đặc thù của ngành.<br />
Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng chất lượng nguồn nhân lực du lịch chỉ đáp ứng<br />
được mức cơ bản còn ở phân khúc chất lượng cao thì còn nhiều khiếm khuyết ở kiến thức,<br />
kỹ năng và thái độ như sau:<br />
•<br />
<br />
•<br />
<br />
•<br />
<br />
•<br />
<br />
Nhân lực ngành du lịch hiện nay được đánh giá là không đáp ứng được yêu cầu<br />
của doanh nghiệp vì việc đào tạo tại các trường đặt nặng kiến thức lý thuyết quá<br />
nhiều, trong khi ngành du lịch là một ngành dịch vụ đặc thù cần chú trọng thực<br />
hành trong môi trường thực tế. Cụ thể, thời gian thực tập tại các doanh nghiệp chưa<br />
đảm bảo cung cấp cho người học đủ thời gian tích lũy kiến thức và kỹ năng thực<br />
hành dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường hầu như không có kinh nghiệm gì.<br />
Trong khi đó tại các quốc gia hàng đầu về du lịch - khách sạn như Thụy sĩ,<br />
Singapore, Australia,…thời gian thực tập tại các doanh nghiệp phải được sắp xếp<br />
tương đương thời gian học lý thuyết.<br />
Tình trạng mất cân bằng giữa nguồn nhân lực có kỹ năng nghiệp vụ và kỹ năng<br />
ngoại ngữ dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực chưa hoàn chỉnh để đáp ứng yêu cầu<br />
nghề nghiệp.<br />
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là<br />
công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực du lịch còn rất hạn chế. Trong<br />
môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới<br />
luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam nói chung và trong ngành du lịch nói<br />
riêng.<br />
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức<br />
văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể sinh viên mới ra<br />
<br />
4<br />
<br />
5<br />
<br />
trường chưa cao. Điều này một phần dẫn đến năng suất lao động còn thấp so với<br />
nhiều nước trong khu vực và thế giới.<br />
Dưới góc độ giáo dục và đào tạo thì giáo dục và đào tạo về du lịch ở Việt Nam hiện<br />
nay đang do một số lượng lớn các trường Giáo dục và đào tạo Nghề Du lịch công lập,<br />
gần 60 trường đại học và một số các cơ sở dân lập thực hiện. Theo Bộ VHTTDL, số<br />
lượng giảng viên chính trong các trường đại học và cao đẳng công lập là 1,460 người và<br />
hơn 600 giảng viên cộng tác. Có 2,579 đào tạo viên du lịch có chứng chỉ do Hội đồng cấp<br />
Chứng chỉ Du lịch Việt Nam (VTCB) cấp. Thực tế, bên cạnh những đóng góp tích cực về<br />
đào tạo ngành du lịch, cũng phải thẳng thắn thừa nhận một số nguyên nhân dẫn đến chất<br />
lượng đào tạo du lịch chưa cao xuất phát từ phía các nhà quản lý giáo dục, đào tạo mà cụ<br />
thể vai trò của các trường đào tạo, huấn luyện nhân lực ngành du lịch. Đặc biệt, thỏa<br />
thuận ASEAN Mutual Recognition Arrangement (MRA) on Tourism Professionals - Thỏa<br />
thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch đã chính thức có hiệu lực trong<br />
Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015 mang đến nhiều cơ hội làm việc tại nước<br />
ngoài trong khu vực ASEAN cho nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, nâng cao kỹ năng<br />
nghề nghiệp với mức thù lao tốt. Tuy nhiên thỏa thuận này cũng mang đến nhiều thách<br />
thức cho chính thị trường lao động tại Việt Nam dưới áp lực cạnh tranh của lực lượng lao<br />
động từ các quốc gia khối ASEAN. Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề<br />
du lịch sẽ đưa ra cơ chế thỏa thuận về tính tương đương của các thủ tục chứng nhận và<br />
trình độ chuyên môn du lịch trong ASEAN. Khi các quốc gia ASEAN công nhận trình độ<br />
của nhau sẽ khuyến khích mở cửa và tự do hóa thị trường lao động du lịch trong khu vực<br />
và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của ngành du lịch trong mỗi quốc gia ASEAN; đồng thời<br />
thu hút nguồn nhân lực giỏi cần thiết bù đắp sự thiếu hụt lao động có tay nghề tại một<br />
quốc gia thành viên. Lao động đủ điều kiện để làm việc ở một quốc gia ASEAN sẽ phải<br />
tuân theo pháp luật hiện hành trong nước và các quy định của nước sở tại [3]. Có thể dễ<br />
dàng nhận thấy, thỏa thuận MRA mở ra cánh cổng luân chuyển lao động các ngành nghề<br />
được công bố nói chung và trong du lịch nói riêng trong cộng đồng các quốc gia thành<br />
viên ASEAN. Điều này sẽ tăng cơ hội cho lao động ngành du lịch Việt Nam được cọ xát<br />
với mọi trường quốc tế, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp với mức thu nhập tốt hơn. Tuy<br />
nhiên sẽ không ít lao động ngành du lịch chịu tác động trực tiếp của việc cạnh tranh việc<br />
làm trên chính thị trường nội địa khi lao động tại các quốc gia thành viên ASEAN được<br />
quyền làm việc tại Việt Nam theo thỏa thuận MRA. Bởi một trong những điểm yếu của<br />
lao động ngành du lịch Việt Nam đó là: Khả năng sử dụng ngoại ngữ hiện đang là rào cản<br />
và là một trong những hạn chế của lao động ngành du lịch vì thế lực lượng lao động<br />
ngành du lịch trong nước cần hoàn thiện các kỹ năng về ngoại ngữ để nâng cao năng lực<br />
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập hiện nay.<br />
5<br />
<br />