Nghiên cứu về tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam
lượt xem 97
download
Lao động : Là hoạt động cú mục đích, cú ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiờn, để phự hợp với lợi ớch của mỡnh. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quỏ trỡnh kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xó hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nghiên cứu về tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam
- Luận văn tốt nghiệp Đề tài : KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 3
- CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM I – Khái quát về xuất khẩu lao động Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập các khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động. 1, Khái niệm : 1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con người đến độ tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muốn và có quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu cho xã hội. 1.2 Sức lao động : Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội. 1.3 Nguồn lao động : Là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong độ tuổi lao động, không kể số người mất khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên hoặc dưới tuổi lao động) nhưng 4
- thực tế có tham gia lao động. (Nước ta độ tuổi lao động quy định từ 15-55 đối với nữ và 15-60 đối với nam). 1.4 Thị trường lao động : Thị trường là một phạm trù riêng của kinh tế hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nội dung của thị trường được biểu hiện qua hai nhân tố có quan hệ mật thiết với nhau : cung và cầu hàng hoá. Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên thị trường lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động gồm những người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi hay thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì ta có thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một nước thì ta có thị trường lao động quốc tế. 1.5 Xuất khẩu sức lao động : Là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá nhân cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dung sức lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động. Như vậy. khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước khác. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước xuất khẩu lao động, nước tiếp nhận sức lao động được coi là nước nhập khẩu lao động. Trên thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh. Đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động, khác so với các loại hàng hoá khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hoá này. Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp đinh hay hợp đồng cung ứng lao động, ngoài những điều khoản quy định như đối với các loại hàng hoá bình thường còn phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này 5
- bị chi phối phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hoá của các quốc gia tham gia vào lĩnh vực này. Có hai hình thức xuất khẩu lao động là : - Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (LHQ dùng khái niệm di dân quốc tế) : là hình thức đầu tư lao động sống ra nước ngoài nhằm thu hút thu nhập quốc dân từ nước ngoài về cho đất nước. - Xuất khẩu lao động tại chỗ: Theo luật Đầu tư nước ngoài của nước ta, là hình thức đầu tư lao động sống ở trong nước để thực hiện giá trị sức lao động cho mình đối với nước ngoài. Trong nội dung khoá luận này, em chỉ xin đề cập đến hình thức xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết : "Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ dan cư thấp. Như vậy việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tương khách quan trong quá trình làm việc của bản thân người lao động. Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan khác như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức cung ứng và tiếp nhận lao động... Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây : 6
- Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước. Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một nước có thể là do nước dó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong nước lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh. Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động. Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao. Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và phát triển của xuất khẩu lao động. Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia, Bungari... Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình. Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc 7
- tế. Hơn nữa, việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động II – Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam 1, Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam Cùng với việc giải quyết việc làm trong nước, hoạt động xuất khẩu lao động có vị trí quan trọng. Nó là hoạt động đặc thù nhằm đạt kết quả tổng hợp về kinh tế xã hội. Nhà nước ta đã xác định : "Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách và góp phần tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế - văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với các nước sử dụng lao động Việt Nam. a, Xuất phát từ vấn đề kinh tế. Các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thị trường lao động khu vực và quốc tế đều nhận thấy một điều nổi bật, rõ ràng là: Một số nước công nghiệp phát triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Italia... lẫn một số nước mới phát triển như Thailand, Malaisia, Philipine... ngay từ đầu, khi nền kinh tế còn chưa phát triển đều biết sử dụng một phương tiện đầy hiệu quả, đó là xuất khẩu lao động. Theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khoản thu nhập của người lao đông của nước ngoài mỗi năm đạt tới 65,5 USD, trong khi đó hàng năm tổng các khoản viện trợ chính thức (ODA) chỉ đạt mức 51 tỷ USD. Người đi làm việc ở nước ngoài thường có mức thu nhập bình quân cao hơn trong nước từ 6 đến 10 lần. Chênh lệch về thu nhập là nguyên nhân khiến nhiều nước tận dụng mọi thời cơ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại Việt Nam cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong hơn 10 năm (1991 - hết tháng 6/2003) theo cơ chế mới đã đưa được gần 250.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đem lại thu nhập hàng năm 1 -1,5 tỷ USD. Tuy còn khiêm tốn trên thị trường lao động thế giới nhưng về mặt kinh tế đã góp phần đáng kể làm tăng trưởng ngân sách quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải quyết việc làm trong nước giữa hoàn cảnh nước ta còn đang chắt chiu từng đồng ngoại tệ mạnh. Có thể sử dụng một so sánh : Để có được 800 triệu 8
- USD do xuất khẩu hàng dệt may chúng ta phải đầu tư rất nhiều cơ sở vật chất, xây dựng nhà máy, trang bị máy móc thiết bị, đảm bảo cơ sở hạ tầng... Nhưng với gần 20.000 lao động xuất khẩu hàng năm, chúng ta thu được lượng ngoại tệ gần gấp đôi mà số vốn đầu tư lại ít hơn nhiều lần. Về lâu dài xuất khẩu lao động nước ta có khả năng đóng góp cao cho thu nhập quốc dân khi phạm vi xuất khẩu lao động được mở rộng, số lượng người đưa đi lớn, ngành nghề hình thức đa dạng, chính sách và thủ tục đưa lao động đi thông thoáng. b, Xuất phát từ vấn đề dân số và giải quyết việc làm Sự gia tăng dân số, lao động ở Việt Nam là yêu cầu bức xúc phải phát triển xuất khẩu lao động. Sự phát triển dân số, lao động đối với Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp và gay gắt chẳng những trong giai đoạn hiện nay mà còn trong những năm tới. Trong dân số có lực lượng lao động - yếu tố quyết định của sản xuất, đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này được cụ thể hoá thành quan hệ giữa dân số và phát triển là nội dung quan trọng của chiến lược kinh tế xã hội. Với tốc độ tăng dân số ở mức trên dưới 2% như hiện nay tạo nên áp lực đối với đời sống và việc làm. Hàng năm, Việt Nam phải tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới, khoảng gần 8 triệu lao động thiếu việc làm, hàng chục vạn bộ đội phục viên, lao động dôi dư ở khu vực Nhà nước... Trong những năm qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó có việc giải quyết việc làm trong nước; tuy nhiên so với số lượng lao động cần giải quyết việc làm hàng năm cũng chỉ đạt 35% nhu cầu. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp vô cùng quan trọng, không chỉ trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Nhu cầu việc làm càng ngày càng lớn mà khả năng giải quyết còn rất hạn chế trong khi tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm lớn song lại chưa được khai thác và phát huy, chưa gắn được lao động với tiềm năng đất đai và tài nguyên. Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm càng gay gắt khi đổi mới cơ cấu kinh tế, tổ chức lại lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế tất yếu dẫn đến việc đẩy lao động tách khỏi việc làm cho một bộ phận lớn lao 9
- động trở nên dư thừa, trước hết ở khu vực Nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp... Trong các năm qua, lao động khu vực Nhà nước dư thừa khoảng 30%-50%, tương đương 1 triệu người. Mâu thuẫn trong bản thân vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế xã hội cơ bản lâu dài có tính chiến lược, lại vừa là vấn đề cấp bách trước mắt như đối tượng thanh niên mới lớn, lao động thôi việc từ khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, gia đình chính sách xã hội... Không giải quyết được vấn đề việc làm thì sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội trầm trọng dẫn đến mất an toàn xã hội, thậm chí mất ổn định chính trị. Chính từ những mâu thuẫn trên chúng ta thấy việc phát triển xuất khẩu lao động như là một trong các hướng giải quyết việc làm, có tầm quan trọng to lớn và cần thiết đối với đất nước ta hiện nay. c, Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu lao động mang lại một nguồn ngoại tệ mạnh cho đất nước góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc sẽ học tập được tác phong làm việc công nghiệp sản xuất lớn, thái độ đúng đắn trong công việc... cùng với một tay nghề vững chắc khi về nước họ sẽ là nguồn nhân lực đáng quý tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Người Việt Nam ra nước ngoài lao động tốt sẽ góp phần tăng thêm uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường sự hiểu biết và góp phần thúc đẩy quan hệ hơp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Đó là điều quan trọng không thể thiếu được nếu muốn tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. d, Lợi thế của lao động xuất khẩu Việt Nam. Thứ nhất, xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : "Phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong những năm gần đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Thứ hai, nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng người trong độ tuổi lao động tính đến tháng 7/2002 là 40.694.360 người, mỗi năm bình quân có thêm hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động đó. 10
- Thứ ba, cơ cấu dân số nước ta thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ tuổi dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22% dân số ở độ tuổi trên 40. Thứ tư, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Thứ năm, Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường hội nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không ngừng tăng trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham gia và phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. 2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động của ta cũng đã qua nhiều lần thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế của ta trong từng thời kỳ. Đánh giá chung, có thể nói công tác xuất khẩu lao động của ta đã đạt được những yêu cầu cơ bản trong mục tiêu đặt ra và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam có thể chia thành hai thời kỳ. a, Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế theo cơ chế bao cấp (1980-1990). Thời kỳ này, lao động Việt Nam chủ yếu được đưa sang các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm : Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ) và Bungari. Một bộ phận công nhân xây dựng với số lượng đáng kể được đưa đi làm việc ở Irăc, Liby, Angiêri cùng với một số chuyên gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc tại nhưng nước Châu Phi khác (Ăng - gô - la, Mô - zăm – bich, Công – gô, Y- ê –men, Madagasca...). Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khi đó nước ta là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) nên hoạt động xuất khẩu lao động mang tính chất hợp tác lao động, giúp đỡ lẫn nhau : bạn cần lao động để bù đắp sự thiếu hụt lao động trong phát triển kinh tế đất nước; ta cần bạn giúp đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động và giải quyết việc làm cho bộ phận 11
- lao động này. Nền kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, liên kết chặt chẽ với các nước thành viên khác của SEV, cơ chế quản lý kinh tế của ta cũng tương tự như cơ chế quản lý của các nước đó mang tính quản lý tập trung, bao cấp. Các nước như Irăc, Liby và các nước Châu Phi đón nhận lao động và chuyên gia của Việt Nam cũng đều có cơ chế quản lý tương tự. Vì vậy, cũng như các quan hệ kinh tế khác, quan hệ hợp tác sử dụng lao động giữa ta và các nước nay đều thông qua các Hiệp định chính phủ, thpả thuận giữa ngành với ngành. Trong bối cảnh đó, cơ chế hợp tác sử dụng lao động và chuyên gia theo mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức thực hiện đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời kỳ này là gần 300.000 người, trong đó đi lao động ở 4 nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô cũ, Cộng hoà dân chủ Đức cũ, Tiệp Khắc cũ và Bungari) là 261.605 người; đi làm chuyên gia ở các nước Châu Phi là 7.200 người, đi làm công nhân xây dựng ở Trung Đông khoảng 18.000 người, ngoài ra còn có 23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong những năm 80. Bảng 1. Số lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (1980-1990) LAO ĐỘNG PHÂN CHIA THEO KHU VỰC VÀ SỐ LƯỢNG NGÀNH NGHỀ (người) Tổng số 288.106 Bao gồm : * Chuyên gia 7.200 * Lao động 280.906 Chia theo khu vực : * Đi các nước XHCN 261.605 * Đi các nước ngoài XHCN 19.301 Chia theo ngành nghề : * Cơ khí 71.077 * Công nghiệp nhẹ 117.432 * Hoá chất 8.329 * Công nghiệp thực phẩm 3.542 * Xây dựng và sản xuất vật liệu XD 64.247 * Nông, lâm nghiệp 6.160 * Các ngành khác 10.119 12
- ( Nguồn : Bản tin Việc làm ngoài nước - Số 6/1999) Như vậy, hơn 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài (1980 -1990) ta đã thu được những kết quả đáng kể, song cũng còn một số tồn tại do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, do sự thiếu kinh nghiệm cũng như chưa có nghiệp vụ chuyên môn và đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này. Nhưng chính từ đây chúng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu để phát triển hoạt động xuất khẩu lao động cho giai đoạn sau. b, Thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường (1991 – 6/2003) Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động chính trị lớn, dẫn đến sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế; ở nhiều nước Châu Phi có chuyên gia ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế, chính trị; ở Irăc xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn nhu cầu nhận tiếp lao động và chuyên gia Việt Nam, hoặc nếu có nhu cầu thì cũng không nhận lao động và chuyên gia theo cơ chế như trước đây nữa. Đồng thời, cơ chế quản lý kinh tế cua nước ta thời kỳ này đang từng bước đổi mới chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trước tình hình đó, nếu chúng ta không đổi mới cơ chế xuất khẩu thì sẽ không đưa được lao động sang làm việc tại các khu vực mới, trong lúc ở khu vực truyền thống ta có nguy cơ phải đưa về nước hàng loạt lao động và chuyên gia khi vẫn chưa chuẩn bị được các điều kiện tiếp nhận và bố trí việc làm, gây khó khăn và mất ổn định cho tình hình trong nước. Thực tiến khách quan và chủ quan đặt ra yêu cầu bức bách là phải đổi mới cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia cho phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế. Một cơ chế mới về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia được hình thành, trong đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất quản lý xuất khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng cung ứng lao động ký với bên nước ngoài. Trong thời gian đầu chuyển đổi sang cơ chế mới, do các doanh nghiệp mới thoát ra khỏi sự bao cấp của Nhà nước nên gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong việc tìm kiếm thị trường lao động ngoài nước; đôi khi thậm chí trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, chưa có sự chủ động trong việc khai thác hợp đồng. Các thị trường chủ yếu tiếp nhận lao động 13
- của ta lâu nay do những bíên động về chính trị, kinh tế, xã hội đã không còn khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam như trước đây. Đối với thị trường mới, ta còn chưa quen, thiếu nhiều thông tin, kinh nghiệm và kiến thức. Hơn nữa, quan hệ đối ngoại trong môi trường quốc tế những năm đầu thập niên 90 (1991 -1993) chưa thuận lợi đối với ta. Trong tình hình đó, chỉ có một số ít doanh nghiệp là ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số lượng nhỏ, khoảng hơn 5000 lao động cho cả 3 năm này. Những năm sau đó, các doanh nghiệp đã bước đầu có sự chủ động trong nghiên cứu, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các nước có truyền thống xuất khẩu lao động và từng bước hoà nhập thị trường lao động quốc tế. Cho đến nay, chúng ta đã tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường lao động thuộc trên 40 nước và khu vực trên thế giới như khu vực Đông và Đông Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi; ngoài ra ta đang từng bước mở rộng thị trường lao động đến một số đảo Nam Thái Bình Dương và khu vực Bắc Mỹ. Số lượng lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài tăng nhanh qua các năm kể từ năm 1994, có giảm đáng kể vào năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nhưng lại đặc biệt tăng mạnh từ thời điểm năm 1999 trở lại đây. Trong vòng hơn 12 năm qua, Việt Nam có xấp xỉ 1/4 triệu người đi xuất khẩu lao động. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2003 ta đã đưa được 43.000 người đi xuất khẩu lao động, gần bằng con số 46.122 người của cả năm 2002. Dự kiến trong năm nay ta sẽ đưa được 5 vạn lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc. Bảng 2. Số liệu lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (1991 - 06/2003) Năm Số lượng (người) 1991 1.022 1992 816 1993 3.960 1994 9.230 1995 10.050 1996 12.660 1997 18.470 1998 12.240 1999 21.810 2000 31.500 2001 37.000 14
- 2002 46.122 06/2003 43.000 Tổng số 247.880 ( Nguồn : Số liệu lưu trữ của Cục quản lý lao động với nước ngoài ) Thời kỳ này, số lượng người đi xuất khẩu lao động tăng mạnh qua từng năm cho thấy sự đi lên về chất lượng cũng như nhận thức của người lao động, sự cố gắng của Nhà nước cùng với sự vươn lên của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Hiện có gần 200 doanh nghiệp đã được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động và đa phần các doanh nghiệp này hoạt động khá hiệu quả. Các doanh nghiệp lớn như : VINACONEX, LOD, VIETRACIMEX, SIMCO, SOVILACO ... bình quân hàng năm đưa được 1000 – 2000 lao động ra nước ngoài làm việc. Ngành nghề xuất khẩu lao động cũng rất đa dạng, có đến trên 30 ngành nghề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như : xây dựng, cơ khí, giúp việc gia đình và khán hộ công, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học v.v.. Số lao động nữ hiện nay chiếm khoảng hơn 25%, tập trung chiếm ưu thế ở các lĩnh vực : dệt, may (69%), điện tử (80%), chăm sóc người bệnh và giúp việc gia đình (94%). Xuất khẩu lao động của Việt Nam đang không ngừng vươn lên ngang tầm các nước có truyền thống xuất khẩu lao động ở Châu Á như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh.... Tuy nhiên, cần nhận thấy đây vẫn chỉ là những bước đi khởi đầu để tạo đà cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam tiếp tục phấn đấu, mở rộng thêm thị trường lao động và tăng số lượng cũng như chất lượng lao động xuất khẩu trong thời gian tới. Trong giai đoạn qua, bên cạnh việc góp phần giải quyết vấn đề việc làm trong nước, xuất khẩu lao động còn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho đất nước. Lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập bằng ngoại tệ có khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ mạnh. Nguồn ngoại tệ này rất cần thiết để xây dựng đất nước. Mức thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài thường cao hơn từ 6 – 10 lần thu nhập của người làm việc trong nước. Mức thu nhập ròng hàng tháng (kể cả làm thêm giờ, sau khi đã trừ đi chi phí sinh hoạt ngoài nước) bình quân đầu người khoảng 350USD/người. Như vậy, với gần 250.000 lao động đã đưa đi, trung bình mỗi hợp đồng làm việc là là 2 năm thì tổng số tiền được chuyển về cho đất nước ước tính khoảng 2,8 tỷ USD. Chỉ tính riêng trong năm 2001, tổng số tiền lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau gửi về nước đã đạt 1,3 tỷ USD. Đó là khoản thu lớn góp phần tăng nguồn thu ngoại 15
- tệ cho đất nước, phục vụ thiết thực cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà. Tuy nhiên cần nhận thấy hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta cũng còn nhiều bất cập, nhiều tồn tại cần khắc phục. Đầu tiên phải kể đến công tác quản lý xuất khẩu lao động chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế. Chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động với các cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện các hợp đồng lao động. Việc tuyển chọn và làm thủ tục cho lao động dù đã có sự cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng hiện vẫn còn qua rất nhiều khâu trung gian nên người lao động phải mất nhiều thời gian và chi phí bất hợp lý. Cá biệt vẫn có tình trạng lừa đảo, thu tiền bất chính từ người lao động. Thêm vào đó, công tác đào tạo chuẩn bị nguồn lao động trước khi đi cũng như quản lý lao động tại nước đến chưa được sự quan tâm đúng mức từ phía doanh nghiệp, lao động trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ còn yếu, ý thức chấp hành nội quy và pháp luật nước sở tại rất kém, dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao động phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc hay bị trả về nước do không đạt yêu cầu còn cao. Đây là những vấn đề bức thiết mà chúng ta cần phải khắc phục và phải khắc phục nhanh để hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta thực sự đạt đến hiệu quả kinh tế - xã hội tương xứng với tiềm năng và cơ hội của mình. III – Vị trí, vai trò của khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á đối với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta. 1, Các thị trường xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta. Bước sang thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường, chúng ta đã mất hầu hết các thị trường hợp tác lao động truyền thống trước đây, song bằng nỗ lực của chính mình, ta đã tiếp cận mở thêm và phát triển được nhiều thị trường xuất khẩu lao động mới. Trong vòng hơn 10 năm qua, ngành xuất khẩu lao động nước ta đã đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại trên 30 thị trường thuộc nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Các thị trường tiếp nhận lao động chủ yếu của nước ta hiện nay có thể phân thành bốn khu vực thị trường bao gồm : khu vực thị trường Trung 16
- Đông, khu vực thị trường Châu Phi, khu vực thị trường trên biển và khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á. a, Khu vực thị trường Trung Đông : Trung Đông là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động lớn nhất trên thế giới thường xuyên có khoảng 9 -10 triệu lao động ngoại quốc làm việc tại các thị trường này) với các ngành nghề đa dạng : xây dựng, dầu khí, cơ khí, dệt may, giúp việc gia đình và chuyên gia các ngành. Khu vực này có điều kiện làm việc rất khó khăn, khí hậu và môi trường sinh hoạt rất khắc nghiệt, công việc chủ yếu làm ngoài trời nắng nóng, tiền lương thấp (100 – 150 USD/tháng đối với lao động tay nghề thấp và 200 – 300 USD/tháng đối với công nhân kỹ thuật, kỹ sư, cán bộ quản lý) nhưng phải chịu nhiều loại thuế, phong tục tập quán đạo Hồi nghiêm ngặt. Thời gian vừa qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đưa lao động xây dựng, dệt may sang Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) với số lượng không nhiều (tổng cộng khoảng gần 2000 người). Ngoài ra, một vài doanh nghiệp khác đã nhận thầu công trình xây dựng ở Kuwait cũng đã đưa lao động sang đây nhưng do chưa có kinh nghiệm tổ chức thi công và quản lý lao động ở nước ngoài nên hoạt động chưa có mấy hiệu quả. Tổng số lao động ta đã đưa sang thị trường Trung Đông từ năm 1991 – 2001 là 2.927 người, nhưng từ đầu năm 2002 đến nay ta không có thêm lao động nào tại thị trường này. b, Khu vực thị trường Châu Phi : Ở Châu Phi có một số quốc gia có nhu cầu nhận lao động nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ta chủ yếu chỉ đưa lao động sang Libya. Đây là thị trường tiếp nhận lao động tương đối ổn định của ta. Cho đến nay, bằng hình thức cung ứng trực tiếp và cung ứng qua nước thứ ba, ta đã đưa được trên 10.000 lượt lao động sang Libya làm việc trong lĩnh vực xây dựng. Song do mức lương ở đây không cao (150 -200 USD/tháng), điều kiện làm việc và sinh hoạt lại hết sức khắc nghiệt nên thị trường gần đây không tỏ ra hấp dẫn người lao động. Ngoài ra, tại một số nước Châu Phi khác tuy có tỷ lệ lao động cao nhưng vẫn có nhu cầu nhận nhiều lao động nước ngoài cho các công trình 17
- xây dựng. Các doanh nghiệp ta có khả năng đưa được số lượng lớn lao động thông qua các công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này. Bên cạnh đó, ta còn đưa một số chuyên gia nông nghiệp, y tế và giáo dục sang các nước như Angola, Mozambique... nhưng với số lượng không nhiều và không thường xuyên. c, Khu vực thị trường trên biển : Hiện nay, nhu cầu của thị trường thế giới đối với lao động trên biển còn rất lớn. Trong thời gian qua, ta đã đưa được trên 26 nghìn lượt sĩ quan, thuyền viên tàu vận tải, thuỷ thủ đánh bắt cá đi làm việc trên biển. Trong đó hiện có trên 2.000 người đang làm việc trong các đội tàu của Hàn Quốc, Nhật Bản, Na Uy, Đài Loan, Singapore và các nước khác. Tuy nhiên trên thực tế lao động của ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ tàu cả về số lượng và chất lượng. d, Khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á : Đây là khu vực thị trường chính mà em muốn đề cập đến trong khoá luận tốt nghiệp này. Khu vực này chính xác hơn có thể chia thành hai nhóm thị trường nhỏ hơn là : nhóm thị trường Đông Á (bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan) và nhóm thị trường Đông Nam Á (bao gồm Lào và Malaysia). Vượt trên các khu vực thị trường đã kể trên, Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay. Khu vực này đồng thời cũng bao gồm những thị trường tiếp nhận lao động có quy mô lớn nhất ở Châu Á với tổng số lao động nước ngoài đi theo con đường hợp pháp lên đến trên 2.000.000 người, chưa kể hàng triệu lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp khác. Không chỉ lớn mạnh về số lượng lao động nước ngoài tiếp nhận hàng năm, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á còn rất đa dạng về ngành nghề tiếp nhận lao động nước ngoài (gồm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế), hình thức tiếp nhận (hợp dồng tu nghiệp sinh hoặc lao động), trình độ lao động (lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật, chuyên gia)... 18
- 2, Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta. Có thể nói không ngần ngại rằng khu vực Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường xuất khẩu lao động có tầm quan trọng bậc nhất đối với nước ta hiện nay và theo dự báo của các chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, khu vực thị trường này vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ chốt cả trong những năm tới đây. Thứ nhất, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay. Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi xem Bảng 3 thống kê về số lượng người Việt Nam đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường trong thời gian qua dưới đây. Bảng 3. Số người đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường (1991 – 6/2003) Khu vực thị trường Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Đông và Đông Nam Á 193.540 78,08 Trên biển 26.563 10,72 Châu Phi 12.695 5,12 Trung Đông 2.927 1,18 Các thị trường khác 12.156 4,9 Tổng số 247.880 100 (Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài) Số lao động Việt Nam đã và đang làm việc tại các thị trường thuộc khu vực này chiếm đến 78,08% trong tổng số 247.880 lao động ta đã đưa đi làm việc ở nước ngoài trong vòng hơn 10 năm qua; trong khi đó, các khu vực thị trường khác nhiều nhất cũng chỉ chiếm đến trên dưới 10%. Có thể thấy rõ đây là khu vực thị trường tập trung lao động đi xuất khẩu số một của nước ta hiện nay. Là khu vực thị trường có nhiều lao động Việt Nam sinh sống và làm việc nhất, đây cũng đồng thời là khu vực cung cấp nguồn kiều hối lớn nhất của ta. Năm 2002, lao động Việt Nam tại các thị trường này chuyển về nước khoảng 1,2 tỷ USD, chiếm 80% trong tổng số 1,5 tỷ USD kiều hối mà ta nhận được trong cả năm. 19
- Thứ hai, khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu rất đa dạng, bao gồm cả lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật và chuyên gia trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Chính khu vực thị trường này đã giữ vai trò chủ yếu tạo nên tính đa dạng trong lĩnh vực xuất khẩu lao động của ta. Trong số lao động Việt Nam đưa sang các nước Đông và Đông Nam Á, lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, lên đến 70%, chủ yếu là lao động tại các vùng nông thôn. Trong bối cảnh tình trạng thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam còn tương đối phổ biến như hiện nay, như vậy khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đã góp phần quan trọng để giải quyết vấn đề trên thông qua con đường xuất khẩu lao động. Nhiều lao động phổ thông qua quá trình làm việc tại đây, ngoài việc có được thu nhập đáng kể còn có điều kiện học hỏi để trở thành lao động có nghề. Thứ ba, trong số các khu vực thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam, khu vực Đông và Đông Nam Á có điều kiện gần gũi nhất về địa lý, điều kiện tự nhiên, nền văn hoá cũng như phong tục tập quán với ta. Đó là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc đưa lao động của ta sang làm việc tại những thị trường này. Sự gần gũi về địa lý làm cho các chi phí đi lại, liên lạc của lao động cũng như của doanh nghiệp xuất khẩu lao động thấp hơn rất nhiều so với các khu vực thị trường khác. Trong khi sự gần gũi về điều kiện tự nhiên, nền văn hoá, phong tục tập quán lại khiến giới chủ sử dụng dễ dàng chấp nhận lao động Việt Nam vào làm việc, hai bên dễ dàng tìm được tiếng nói chung trong công việc cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Lao động Việt Nam có được nhiều thuận lợi hơn so với các khu vực thị trường khác trong việc hoà nhập vào đời sống kinh tế xã hội của nước sở tại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng để Đông và Đông Nam Á trở thành khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ chốt của nước ta. Thứ tư, khu vực thị trường này tập trung những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật vào loại phát triển nhất trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những con rồng Châu Á với nền kinh tế có hàm lượng khoa học công nghệ cao, Malaysia cũng có nền khoa học kỹ thuật rất phát triển. Xuất khẩu lao động sang những thị trường là cơ hội quan trong cho phép lao động ta tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất. Thứ năm, đây đồng thời là khu vực thị trường xuất khẩu lao động rất có triển vọng trong tương lai. Một mặt, triển vọng thể hiện rõ ở nhu cầu lao động nước ngoài còn rất lớn của những thị trường mà ta đã đưa lao động 20
- sang làm việc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào và đặc biệt là Malaysia - thị trường mới mở gần đây đều có nhu câu rất lớn về lao động nước ngoài mà lượng lao động đã tiếp nhận mới chỉ đáp ứng được một phần. Hơn nữa, với đà phát triển kinh tế của những nước trên, dự báo nhu cầu này còn tăng lên nhiều trong thời gian tới. Ngoài ra, triển vọng còn thể hiện ở một số thị trường tiếp nhận lao động nước ngoài có tiếng khác trong khu vực Đông và Đông Nam Á như Singapore hay Bruney. Tuy trước mắt những thị trường này vẫn chưa chính thức tiếp nhận lao động của ta (trừ một số ít y tá sang Singapore) song chính phủ ta đang nỗ lực tiến hành nhiều hoạt động tích cực nhằm xúc tiến tiếp cận tìm cách đưa lao động của ta sang đây. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ĐÔNG VÀ ĐÔNG NAM Á I – Vài nét về thị trường các nước Đông và Đông Nam Á 1, Thị trường Nhật Bản : Nhật Bản là một quốc đảo với diện tích 377.682 km2, dân số 127.100.000 người, nền kinh tế đứng thứ ba trên thế giới. Với dân số có tỷ lệ người già đã quá tuổi lao động chiếm đến 30% dân số và một nền kinh tế phát triển như vậy, nhu cầu về lao động nước ngoài của Nhật Bản là rất lớn. Tuy nhiên, Nhật Bản lại được các chuyên gia quốc tế nghiên cứu về xuất khẩu lao động coi là một nước có chính sách đóng cửa với lao động nước 21
- ngoài. Trong Luật kiểm tra về người nhập cư và di tản của Nhật Bản được phê chuẩn năm 1990 đã quy định không được tuyển dụng lao động người nước ngoài không nghề vào Nhật Bản, chỉ cho phép tuyển dụng những chuyên gia có trình độ và những lao động đặc biệt lành nghề từ các quốc gia khác. Song cũng từ đầu những năm 90, Nhật Bản đã đưa ra chính sách tiếp nhận lao động từ các nước đang phát triển sang Nhật Bản tu nghiệp nâng cao tay nghề theo "Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật" tại các xí nghiệp vừa và nhỏ với số lượng hàng năm khoảng 50.000 người, người lao động được gọi là "tu nghiệp sinh". Theo quan điểm của các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản, đây là một biện pháp chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển, cũng là giảm số lượng lao động nước ngoài bất hợp pháp tại đây, đồng thời đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang thiếu lao động trầm trọng. Đối với các nước xuất khẩu lao động, đây cũng là một biện pháp được hoan nghênh vì nó mở ra một kênh để đưa lao động sang Nhật Bản. Tuy người lao động chỉ được hưởng quy chế tu nghiệp sinh (ít quyền lợi hơn so với quy chế các lao động thông thường tại Nhật Bản) và hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng mức thu nhập này vẫn cao hơn nhiều so với mức lương của người lao động ở nhiều thị trường khác, thông thường đạt 670 – 780 USD/ tháng. Nhật Bản tiếp nhận tu nghiệp sinh trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và cả các ngành thủ công truyền thống. Theo quy định, tu nghiệp sinh nước ngoài phải là người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp của nước phái cử có nghề chuyên môn sẽ tu nghiệp tại Nhật Bản. Họ được doanh nghiệp cử đi cam kết sẽ sẽ tiếp nhận lại làm việc sau khi hết hạn tu nghiệp. Thời hạn tu nghiệp tại Nhật Bản từ 2 – 3 năm, tuỳ theo từng ngành nghề. Trong năm đầu tiên, tu nghiệp sinh vừa học lý thuyết vừa được đào tạo thực hành trong sản xuất, hưởng quy chế trợ cấp tu nghiệp. Từ năm 1994 đến nay, chính sách đối với lao động nước ngoài của Nhật Bản được mở rộng thêm một bước : Sau khi kết thúc giai đoạn 1, tu nghiệp sinh phải qua kỳ thi sát hạch tay nghề để chuyển qua giai đoạn 2, nếu đạt, tu nghiệp sinh sẽ được hưởng quy chế nhận tiền công theo công việc gần giống lao động thông thường. Tham gia vào chương trình này của Nhật Bản có rất nhiều nước Châu Á, chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Philippnines, Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Đài Loan và một số nước khác. Hiện có tổng cộng gần 320.000 tu nghiệp sinh người nước ngoài hiện đang làm việc tại Nhật Bản, trong đó, Trung Quốc là nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất với 123.117 người, chiếm đến trên 40% tổng số tu nghiệp sinh nước ngoài tại Nhật Bản. 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài “Hoàn thiện chính sách tín dụng để nghiên cứu về tình hình tài chính, tình hình thu nợ tại công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung “
101 p | 728 | 309
-
Đề cương nghiên cứu tình hinh xuất khẩu cá tra, cá ba sa công ty thủy sản bình an
6 p | 860 | 215
-
Đồ án tốt nghiệp: Nghiên cứu công nghệ sản xuất nước ép bưởi
85 p | 641 | 156
-
Tìm hiểu tình hình sử dụng đất canh tác tại xã Hòa Sơn huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk
34 p | 393 | 94
-
Chuyên đề thực tập: Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tiến Phước
110 p | 310 | 85
-
Công trình nghiên cứu: Mô hình phân tích ảnh hưởng của các nhân tố tới xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam
73 p | 269 | 70
-
Đề tài nghiên cứu: Tìm hiểu tình hình xuất khẩu may mặc của công ty TNHH May Nam Việt
49 p | 152 | 28
-
Luận văn: Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ TÌNH HÌNH NGHIỆP VỤ NHẬN XĂNG DẦU Ở CỬA HÀNG SỐ
30 p | 107 | 25
-
Đề cương đề tài: Vận dụng phương pháp thống kê kinh tế để phân tích một số chỉ tiêu xuất khẩu – nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu theo từng nhóm hàng và theo từng khu vực của Việt Nam (từ năm 2000 – đến năm 2008). Dự báo tình hình xuất – nhập khẩu cho các năm 2009, 2010, 2011, 2012
7 p | 199 | 20
-
Đề tài nghiên cứu: Vẽ hình minh họa bài giảng bằng Microsoft Word
19 p | 153 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của lãi suất, lạm phát và tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt Nam
115 p | 55 | 12
-
Báo cáo " Dự báo về tình hình kinh tế - xã hội EU đến năm 2012 - Tham chiếu các yếu tố văn hoá xã hội "
9 p | 100 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Công nghệ thông tin: Nghiên cứu phương pháp trích xuất đặc trưng trên ảnh vệ tinh sử dụng các kỹ thuật học sâu
58 p | 30 | 5
-
Khóa luận cuối khóa: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH MTV Xây dựng Kỷ Nguyên
103 p | 23 | 5
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Xuất bản - Phát hành: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà xuất bản Thế Giới trong hai năm 2012-2013
9 p | 42 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật cơ khí: Nghiên cứu về mô hình hóa và điều khiển phân số cho các quá trình đa biến
44 p | 7 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật cơ khí: Nghiên cứu về mô hình hóa và điều khiển phân số cho các quá trình đa biến
186 p | 8 | 2
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh: Tình hình xuất khẩu gạo của công ty Lương Thực Đồng Tháp trong thị trường Đông Nam Á
87 p | 4 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn