BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH --------------------------
VÕ MINH HẢI
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH --------------------------
VÕ MINH HẢI
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số:
62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Lê Thu Yến
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 05 năm 2015
Tác giả luận án
Võ Minh Hải
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................01
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................. 02
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 14
4. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 16
5. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................... 17
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 17
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ..........................................................19
8. Cấu trúc của luận án .......................................................................................... 20
Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ NHÌN TỪ
QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI.............................................................22
1.1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hoá...........................................................22
1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hoá........................................ 22
1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá ............................................. 26
1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hoá................ 31
1.2. Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học ....................34
1.2.1. Khái niệm ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác
học ........................................................................................................................ 34
1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác
học ........................................................................................................................ 37
1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn chương cổ điển
Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá........................................................................... 41
1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm - Tấm gương phản chiếu văn hoá .........46
1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao tiếp đặc thù của văn
học cổ điển Việt Nam............................................................................................. 46
1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật
truyện Nôm............................................................................................................ 49
1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều ......52
1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du............................ 52
1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và
Truyện Kiều .......................................................................................................... 57
Chương 2. NGỮ LIỆU VĂN HOÁ TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRUYỆN KIỀU .....................................................................................................68
2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học và văn hoá Việt, bình dân
đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều .........................68
2.1.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học đối với hệ thống ngữ
liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ......................................................... 68
2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Việt, bình dân đối với hệ thống ngữ
liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ......................................................... 71
2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều ................................................................................................. 76
2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều.......................................................................................................... 91
2.2.1. Khảo sát và nhận xét về ngữ liệu văn hoá bác học.................................. 91
2.2.2. Khảo sát và nhận xét về ngữ liệu văn hoá bình dân ................................ 96
2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều......................... 102
2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên, biến hoá và thích
hợp với nội dung ngữ cảnh .................................................................................. 102
2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một cách sáng
tạo ....................................................................................................................... 112
2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ liệu bác học
và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều........................................... 122
Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HOÁ
TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU ................................. 133
3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện tính triết luận và bức tranh thời đại qua
ngôn ngữ tác giả................................................................................................. 133
3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hoá qua ngôn ngữ trữ tình................... 133
3.1.2. Bức tranh văn hoá thời đại qua ngôn ngữ tự sự .................................... 142
3.2. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện chiều sâu triết mỹ qua ngôn ngữ nhân vật trong
Truyện Kiều...........................................................................................................151
3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn và Hải hạc
văn ...................................................................................................................... 151
3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều..... 154
3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều........... 161
3.3. Âm hưởng của ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống xã hội,
văn chương Việt Nam.........................................................................................167
3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống văn hoá,
xã hội Việt Nam ................................................................................................. ..167
3.3.2. Sự lan toả và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời
sống văn chương Việt Nam .................................................................................. 177
KẾT LUẬN........................................................................................................ 185
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................. 189
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH................................................................... 190
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQG: ĐHSP : HN: KHXH & NV: SG: TCVH: TCNCVH: TP. HCM : Tr.: Đại học Quốc gia Đại học Sư phạm Hà Nội Khoa học Xã hội và Nhân văn Sài Gòn Tạp chí Văn học Tạp chí Nghiên cứu văn học Thành phố Hồ Chí Minh Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang Stt
Bảng 2.1. Ngữ liệu văn hoá bác học trong một số 92 1 truyện Nôm
Bảng 2.2. Ngữ liệu văn hoá trong Hoa Tiên, Truyện 94 2 Kiều và Lục Vân Tiên
Bảng 2.3. Ngữ liệu văn hoá bác học trong ngôn ngữ 95 3 nghệ thuật Truyện Kiều
Bảng 2.4. Ngữ liệu văn hoá bình dân trong Hoa Tiên, 96 4 Truyện Kiều và Lục Vân Tiên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển văn hoá, văn học của nhân loại, có những tác phẩm
văn học kiệt xuất, phản ánh, kết tinh văn hoá tinh thần của một quốc gia, phô bày
những nét đẹp kiều diễm của ngôn ngữ mẹ đẻ - một biểu tượng văn hoá tài hoa của
một dân tộc. Những tác phẩm ấy không chỉ là những nỗi đam mê, niềm kiêu hãnh tự
hào của dân tộc đó mà còn là chiếc cầu nối văn hoá – tâm linh mang lại bao nhiêu
tình yêu, sự kính trọng và những trải nghiệm của những dân tộc khác. Vì vậy, có thể
nói, Nguyễn Du 阮攸 đã cống hiến cho dân tộc chúng ta một tuyệt phẩm, đúng như
Đặng Thai Mai đã từng nhận định: “Trong toàn bộ văn học Việt Nam ngày xưa,
Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn
hết...” [05, tr.165].
Từ khi ra đời đến nay Truyện Kiều 傳翹 (nguyên danh Đoạn trường tân
thanh 斷腸新聲) đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn,
tâm linh của dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng. Nhờ có
Truyện Kiều, vẻ đẹp của tiếng Việt càng được tôn xưng, tài năng của các thi nhân
người Việt càng được khẳng định, đề cao. Tuy đã có không ít công trình nghiên cứu
công phu về tác phẩm nhưng cho đến nay vẫn còn có khá nhiều vấn đề cần được
làm sáng tỏ. Những vấn đề liên quan đến văn bản, nội dung và thế giới nghệ thuật
của nó vẫn để lại những tồn nghi, cần tiếp tục kiểm chứng, bổ sung và khảo cứu
thêm. Tuy vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định những
thành tựu về ngôn ngữ của Nguyễn Du trong tuyệt phẩm này cũng như những
đóng góp thiết thực của ông đối với lịch sử phát triển ngôn ngữ văn chương cổ
điển Việt Nam.
Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một
hướng tiếp cận có tính chất liên ngành. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một
số nhà nghiên cứu đã đi sâu, tìm hiểu nội dung, tư tưởng thẩm mỹ và phong cách
văn hoá của Nguyễn Du trong hành trình sáng tạo, những đóng góp cụ thể của ông
2
cho văn học nước nhà. Từ định hướng này, thông qua ngôn ngữ chúng ta có thể
khảo sát, từng bước chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật, khám phá bức tranh về đời sống
xã hội và những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những
trải nghiệm của một nhà nghệ sĩ trước những cuộc dâu bể, biến thiên của cuộc sống.
Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các thế hệ học giả đi trước, chúng tôi tiến
hành khảo sát hệ thống ngữ liệu cổ văn trong Truyện Kiều và đối chiếu chúng với các
tài liệu khảo chứng, hệ thống văn bản thư tịch Hán Nôm có liên quan. Từ đó, chúng
tôi tìm hiểu một số vấn đề có tính lý thuyết về hệ thống điển cố, thi liệu, các lớp từ
ngữ, những vấn đề thi pháp ngôn ngữ mang tính cao nhã, từ chương, uyển ngữ trong
ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, đặc biệt là ý nghĩa hàm ẩn, các tầng nghĩa văn hoá
của chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể. Đây cũng là một trong những việc làm cần
thiết góp phần nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học
cổ điển trong nhà trường và bảo tồn vốn di sản Hán Nôm của ông cha ta. Từ những ý
nghĩa cấp thiết trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều từ góc nhìn văn hoá như một sự thể nghiệm, biện giải ngôn ngữ văn chương
cổ điển và văn hoá thông qua các mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự ra đời của Truyện Kiều là một mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành
của ngôn ngữ văn học, văn hoá dân tộc. Tài năng và những đóng góp của Nguyễn
Du không chỉ được thể hiện qua việc tái tạo một tác phẩm tiểu thuyết diễm tình Hán
văn trong văn học cổ điển Trung Quốc mà còn được khẳng nhận từ nhiều góc độ
khác nhau, nhất là từ phương diện ngôn ngữ và văn hoá.
Với số lượng 3.254 câu thơ lục bát trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã huy
động một vốn từ phong phú, đa dạng và liên kết chúng thành một hệ thống ngữ liệu
đặc sắc tạo nên những thần cú diễm từ trong văn học cổ điển Việt Nam. Do đó, nó đã
trở thành một đối tượng nghiên cứu, so sánh của nhiều chuyên ngành khác nhau như:
Văn bản học, Thi pháp học cổ điển, Ngôn ngữ học văn hoá... gắn liền với những tên
tuổi các học giả nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Sỹ Tế, Đặng
Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Khắc Viện, Bửu Cầm, Lê Ngọc Trụ, Bùi
3
Khánh Diễn, Tản Đà, Bùi Giáng, Bằng Giang, Thẩm Thệ Hà, Trần Phương Hồ,
Nguyễn Tử Quang, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Văn Hoàn, Lê Trí Viễn,
Đào Thản, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thạch Giang... và gần
đây nhất là những công trình quy mô của Trần Đình Sử, Trần Nho Thìn, Nguyễn Hữu
Sơn, Đào Thái Tôn, Phạm Đan Quế, Lê Thu Yến, Lê Xuân Lít, Vũ Thanh Huân...
Tựu trung, qua những tư liệu hiện có, theo chúng tôi, lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều có thể khái quát thành các hướng như sau:
2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Từ góc nhìn lịch sử phái sinh, tuỳ theo từng mục đích của các chuyên luận,
tiểu luận nghiên cứu, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều được xem xét từ
nhiều góc độ với nhiều khái niệm khác nhau. Qua nghiên cứu, chúng tôi tạm nêu
một số nét khái quát như sau: Ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ quý tộc (Lê Trí
Viễn, Đào Thản, Lê Đình Kỵ, Đặng Thanh Lê); Ngôn ngữ hiện thực và ngôn ngữ
ước lệ (Nguyễn Lộc, Lê Đình Kỵ); Ngôn ngữ (dòng, sắc thái) bình dân và bác học
(Mai Quốc Liên, Lê Đình Kỵ); Ngôn ngữ văn học dân gian và ngôn ngữ văn học
chữ Hán (ngôn ngữ văn chương bác học) (Đào Duy Anh, Lê Trí Viễn, Nguyễn Lộc,
Đặng Thanh Lê, Đào Thản, Nguyễn Thuý Hồng); Ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Hán
Việt (Đào Thản, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Lộc, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Thuý
Hồng, Lê Thu Yến, Vương Trọng...).
Trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3, in năm 1962, tái bản 1976) của
nhóm tác giả Đại học Sư phạm, khi bàn về một vài phương diện của nghệ thuật
Nguyễn Du, Lê Trí Viễn đã cho rằng:
Nguyễn Du sử dụng rất tài tình vốn ngôn ngữ nhân dân. Ông cũng đã
học tập cách sử dụng của người đi trước hay đồng thời... Nguyễn Du còn
dùng ca dao và tục ngữ, cách dùng cũng có những hình thức biến hoá tài
tình, thích hợp. Hồ Xuân Hương đã có lối trích dùng ca dao và tục ngữ
thành điển cố ngang hàng với những điển cố trong văn học Trung Quốc.
Điều đó không những nâng cao giá trị của vốn dân tộc mà tác dụng thực tế
là đem lại cho thơ văn một ý vị đậm đà, một dáng dấp thanh thoát mà khi
4
dùng điển cố ngoại lai không thể có được. Nguyễn Du đã thực sự đi theo con
đường đó và đã rất thành công. [168, tr.179 - 180].
Bên cạnh đó, Lê Trí Viễn còn nhấn mạnh đến vấn đề ảnh hưởng của văn hoá
Trung Hoa trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, ông khẳng định: “Tác giả
Truyện Kiều cũng tiếp tục truyền thống vay mượn văn học Trung Quốc đã có từ
lâu. Hoặc lấy ngay những thành ngữ chữ Hán, hoặc thu gọn những điển cố trong
văn học Trung Quốc thành những thành ngữ bằng tiếng Việt Nam, hoặc chuyển
hình ảnh trong thơ Trung Quốc sang thơ Việt Nam.” [168, tr.180].
Những nhận định trên đã được Lê Trí Viễn tiếp tục tái khẳng định trong giáo
trình Văn học Trung đại Việt Nam (Trường ĐHSP TP. HCM, 1996) [169]. Quả vậy,
qua những nhận xét của nhà nghiên cứu, chúng ta có thể nhận thấy khả năng phổ
cập hoá, dung dị hoá của lời thơ Truyện Kiều của Nguyễn Du đến với mọi tầng lớp
nhân dân. Đó có lẽ cũng là niềm tự hào lớn của dân tộc mà không phải tác giả văn
học nào cũng có thể đạt được.
Theo sự sưu tập của chúng tôi, xuất phát từ quan điểm xem ngôn ngữ là một
bộ phận quan trọng cấu thành vẻ đẹp đặc biệt của tác phẩm, Nguyễn Lộc trên Tạp
chí Văn học số 11 năm 1965 với bài viết Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều [89]
và tiếp tục trong công trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ
XIX) (1978, tái bản 2006) [90] đã khảo sát nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn
Du ở các phương diện như từ ngữ Hán Việt, điển cố, thi liệu, ngữ liệu tập văn, tập
thi... Tác giả đi sâu phân tích nét đặc sắc và chỉ ra những sáng tạo của Nguyễn Du trong
nghệ thuật sử dụng từ trong thi phẩm của mình. Ông cho rằng:
Cũng như Hồ Xuân Hương, với Nguyễn Du thơ ca không tự bó mình
trong khuôn khổ nào của ngôn từ. Không có sự phân biệt của ngôn ngữ thơ và
ngôn ngữ đời sống. Đối với ông, bất cứ một từ ngữ nào cũng trở thành từ ngữ
của thơ, miễn là phải dùng nó một cách có nghệ thuật... [90, tr. 778].
Tiếp tục những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lộc, nhà Ngữ học Đào Thản
với tiểu luận Đi tìm một vài đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) [135] đã khái
quát những vấn đề cơ bản về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du, nhất là
5
phần điển cố và các ngữ liệu cổ văn khác. Trong những công trình này này, các tác
giả đã nhận định cụ thể như sau: “Cái đặc sắc ở Nguyễn Du là ở chỗ mài dũa đến
điêu luyện mà không làm mất vẻ tự nhiên, chọn lọc tinh vi mà không cầu kỳ vẫn giữ
được phần trong trẻo của ngôn ngữ dân tộc” [135, tr.68]. Trong Đặc điểm ngôn ngữ
Truyện Kiều (1988), Đào Thản tiếp tục khẳng định:
Ngôn ngữ Truyện Kiều nói chung không có vay mượn xa lạ và cầu kì
như Cung oán ngâm khúc, không có cái đài các quá ư lộng lẫy nhưng bề bộn
rườm rà của Hoa tiên hay đẽo gọt vụng về của Sơ kính tân trang. Quả thật ngôn
ngữ Truyện Kiều gần với thôn ca hơn cả. [136, tr.169].
Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đã có nhiều công
trình nghiên cứu tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau nhằm tìm hiểu phong cách
đặc thù của Nguyễn Du và giai phẩm nổi tiếng của ông. Từ góc độ phong cách, tu từ
học, một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Sỹ Tế trong Luận đề về Nguyễn Du và
Đoạn Trường Tân Thanh (1959) [154], Phạm Văn Diêu với Việt Nam văn học
giảng bình (1970) [23], Nguyễn Quảng Tuân trong Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện
Kiều (1992, tái bản có bổ sung 2000) [159], Chữ nghĩa Truyện Kiều (1990, 2004)
[158], Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80] và
trong mục Truyện Kiều (Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế
kỉ XIX, 1999) [81], Giảng văn Truyện Kiều (1999, 2006) [82] và Thích Nhất Hạnh
với Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán (2000) [140]... cũng đã
có những dòng đánh giá, giảng giải và bình phẩm về hệ thống từ ngữ trong các đoạn
trích tiêu biểu của Truyện Kiều khá hấp dẫn. Khi khẳng định Truyện Kiều là một
thành tựu rực rỡ và kết tinh những giá trị văn hoá đặc biệt của ngôn ngữ dân tộc
Việt Nam, Đặng Thanh Lê đã cho rằng:
Vận dụng triệt để ngôn ngữ dân tộc - đưa hệ thống từ vựng xã hội,
đưa khẩu ngữ vào mảnh đất thơ ca, kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian và
tiếp thu tinh hoa ngôn ngữ văn học nước ngoài... đồng thời Nguyễn Du tái
tạo tất cả những chất liệu đó theo yêu cầu xây dựng hình tượng và chủ đề tác
phẩm. Sử dụng vốn liếng ngôn ngữ của đời sống quá khứ, của ngoại lại đồng
6
thời in vào đó dấu vết của phong cách cá nhân, của cá tính sáng tạo, những
câu thơ Kiều phản phất phong vị ca dao, phong vị thơ Đường luật, phong cách
thành ngữ, tục ngữ và cả màu sắc khúc ngâm trữ tình... nhưng đồng thời đó vẫn là
những câu thơ riêng biệt của Truyện Kiều. [81, tr.206].
Đặc biệt, trong công trình Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du qua Truyện
Kiều (1985, tái bản có bổ sung 2003) [100], Phan Ngọc đã đưa ra những nhận định
về phong cách, cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du và tác phẩm
của ông rất khoa học và thú vị. Nhà nghiên cứu đã cho rằng:
Nghiên cứu Truyện Kiều trong phong cách thể hiện truyện Nôm ta thấy
tác giả thừa hưởng những cái hay của thể loại nhưng còn phải chịu một vài
nhược điểm của nó. Cái hay là ở tâm trạng, ở ngôn ngữ, ở sự xây dựng một
phong cách diễn đạt gần như toàn dân. Nhưng nhược điểm vẫn còn: phần thể
hiện hoàn cảnh khách quan không mãnh liệt mà chiều theo khuôn sáo, đưa
yếu tố thần linh vào không tự nhiên, những khuyết điểm chung của hầu hết các
truyện Nôm. [100, tr.323].
Tiếp sau Phan Ngọc, Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều (2002) [132]
đã khảo sát và tìm hiểu thế giới nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của Nguyễn Du và tác
phẩm của ông một cách khá công phu. Tác giả đã đi vào nghiên cứu tác phẩm theo
một hệ thống và biện giải nó ở nhiều phương diện. Ông đã tôn vinh Nguyễn Du là
“nhà nghệ sĩ ngôn từ”, là “nhà nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học trung đại
Việt Nam” [132, tr.305]. Đặc biệt, Trần Đình Sử đã nhấn mạnh:
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ, ông cũng “đập
vỡ” cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày để tạo thành ngôn từ nghệ thuật. Ông đã
tránh ngôn từ tác giả thực dụng để sử dụng ngôn từ đã chủ thể. Ông đã trao
quyền tự sự cho người kể chuyện và cho nhân vật, làm cho ngôn từ ấy có thể
“nói” nhiều hơn là lời của ông Tham tri bộ Lễ, ông Cai bạ Quảng Bình và
ông sứ thần triều Nguyễn. [132, tr.308].
Qua những công trình của Lê Trí Viễn, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Lộc, Đặng
Thanh Lê, Phan Ngọc, Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử... người đọc cảm thấy
7
thích thú với những nhận xét sắc sảo, tinh tế, thực sự thoả đáng và qua đó có thể có
được một cái nhìn khái quát hơn về phong cách ngôn ngữ, thế giới thẩm mỹ và quan
điểm sáng tác của Nguyễn Du - nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
Như đã trình bày, kể từ ngày ra đời cho tới nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du
đã được giới nghiên cứu Ngữ văn học tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Trong
hàng trăm nghiên cứu, một số được tập trung vào tư tưởng và triết lý từ câu chuyện
hay từ tác giả qua câu chuyện; một số xoay quanh các giá trị đạo lý có thể suy ra từ
tác phẩm; và một số đặt trọng tâm về ngôn ngữ dùng trong truyện. Đối với vấn đề
ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, khái quát về giá trị ngôn ngữ của tác phẩm
này đã có những đánh giá cụ thể bằng nhãn quan thẩm mỹ mang tính định lượng, bằng
những số liệu thống kê khá cụ thể và chi tiết. Theo phương pháp này, Từ điển Truyện
Kiều (1974) [03] của Đào Duy Anh, Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều (2001) [91] của Lê
Xuân Lít, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1995) [161] của Đỗ
Minh Tuấn, luận án Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều (1995) [65] của Nguyễn Thuý Hồng đã có những con số chính xác về tần
số, tần suất xuất hiện của các ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong tác phẩm. Cách
làm này nhằm đưa đến cho người đọc một cái nhìn khoa học, thực chứng về hệ thống
từ vựng trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Thông qua hệ thống này, người tiếp nhận đã có
những cơ sở, số liệu cụ thể để có thể tìm hiểu, biện giải và cắt nghĩa ý đồ nghệ thuật,
thế giới trữ tình và hình tượng nhân vật mà Nguyễn Du muốn gửi gắm trong tác phẩm
của mình một cách khoa học và hợp lý.
2.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá
So với nhiều truyện Nôm cùng thể tài khác, ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều dường như là một thế giới đầy hương sắc, là phức thể đa dạng và phong phú.
Do đó, càng đào sâu tìm hiểu, chúng ta càng phát hiện thêm nhiều điều mới lạ. Tuy
nhiên, trong nhiều đặc điểm trội bật ấy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua toàn bộ ngôn ngữ
Truyện Kiều và làm nên giá trị vĩ đại của tác phẩm ấy, phải chăng là sự kết hợp
tuyệt diệu giữa hai khuynh hướng bình dân và bác học trong ngôn ngữ tác phẩm.
Đây có thể xem là những bước khám phá đầu tiên về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc
8
nhìn văn hoá, cụ thể ở đây là văn hoá bình dân và bác học. Mai Quốc Liên trong
Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) đã cho rằng:
Nguyễn Du là một nhà thơ vô song đã đóng góp rất nhiều vào ngôn
ngữ văn học dân tộc. Công lao của ông trong việc kế thừa một cách sáng tạo
ngôn ngữ dân gian và trong việc sử dụng tài tình ngôn ngữ văn học Trung
Quốc. Thành tựu tuyệt vời của ông trong việc làm phong phú, làm trong sáng
ngôn ngữ văn học thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng sâu xa và lâu dài đến sự phát
triển ngôn ngữ văn học dân tộc ta. [83, tr.57].
Sau học giả Mai Quốc Liên, nhà lý luận phê bình văn học Lê Đình Kỵ cũng
khảo sát Sắc thái bác học, sắc thái bình dân và tính thống nhất của ngôn ngữ
Truyện Kiều (1986), ông cũng thống nhất quan điểm:
Tính dân tộc của ngôn ngữ có gốc rễ chủ yếu ở thành phần bình
dân... những yếu tố bác học như điển cố, tượng trưng, ước lệ đã được
Nguyễn Du nhào nặn tái tạo và đưa vào một âm hưởng mới, chứa chan tình
điệu dân tộc...” và “làm thế nào kết hợp giữa hai thành phần đó trong cùng
một tác phẩm mà không có sự phân ly, chắp nối. Hoàn cảnh mỹ học cụ thể
lúc bấy giờ cho phép sự thống nhất hai thành phần ấy trong một sự kết hợp
biện chứng, hữu cơ. [76, tr 425].
Hướng tiếp cận trên tuy đã chỉ ra được hai nguồn gốc cơ bản cấu thành hệ
thống ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều nhưng vẫn chưa đi sâu phân tích, đưa
ra những dẫn liệu cụ thể và nêu bật rõ ràng những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm trong
ngôn ngữ Truyện Kiều, nhất là nguồn gốc, xuất xứ cụ thể của hệ thống ngữ liệu văn
hoá trong tác phẩm tiêu biểu này.
Năm 1995, Nguyễn Thị Ly Kha đã công bố bài viết Bước đầu tìm hiểu về
hiện tượng giao thoa từ ngữ tiếng Hán sang từ ngữ tiếng Việt (qua cứ liệu Đoạn
trường tân thanh) và phần phụ lục Đôi điều về Truyện Kiều và cổ thi trong Kỷ yếu
Hội nghị Khoa học, Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM. Từ góc độ lý thuyết tiếp
xúc ngôn ngữ, tác giả đã trình bày khá nhiều vấn đề về sự giao thoa của hai hệ
thống ngôn ngữ, tuy nhiên, bài viết cũng chỉ dừng lại ở mức độ nêu vấn đề, chưa
9
thật sự giải quyết một cách thấu đáo những giá trị văn hoá của hai hệ thống từ ngữ
Hán Việt và thuần Việt trong điều kiện hành chức của nó. Trong bài viết này, tác
giả cũng nhận định:
Giao thoa ngôn ngữ gắn liền với giao thoa văn hoá. Sự giao thoa ấy
đã góp phân tăng thêm cho Truyện Kiều một số lượng từ phong phú, có khả
năng chuyển tải mọi tâm tư phức tạp tế nhị của con người. Sự giao thoa từ
ngữ trong Truyện Kiều góp thêm một minh chứng về khả năng mở khi tận
dụng ngôn ngữ để diễn đạt nhưng vẫn đảm bảo quy luật tiết kiệm ngôn ngữ
bằng phương thức chuyển nghĩa từ... có tác dụng tích cực khi người song
ngữ ấy đồng thời là người song văn hoá. [68, tr. 160].
Về ngôn ngữ bình dân, nhất là lớp từ ngữ dân tộc qua ca dao, tục ngữ, lối nói
khẩu ngữ, từ địa phương đã được các tác giả Hoàng Hữu Yên trong Cái hay, cái đẹp
của tiếng Việt trong Truyện Kiều (2003) [173], Phạm Đan Quế trong Về những thủ
pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2008) [115], Thế giới nghệ thuật
Truyện Kiều (2013) [122], Lê Nhật Ký trong Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du (2013) [97]... đã có những kết luận cơ bản. Bàn về vấn
đề này, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên đã nhận thấy:
Đọc các tác phẩm Nôm của Nguyễn Du, chúng ta bắt gặp trong
Truyện Kiều cũng như trong một số tác phẩm khác của nhà thơ vốn từ thuần
Việt lấp lánh trong tác phẩm, chứng tỏ đại thi hào của chúng ta hết sức trân
trọng và chân thành học tập sáng tạo từ cái vốn quý đó. [179, tr.31].
Cũng như hướng tiếp cận văn bản học của Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn,
Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Quảng Tuân..., hầu hết
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khi phân tích, khảo chứng về hai nguồn gốc bác học
và bình dân của ngôn ngữ Truyện Kiều đều có những nhận xét khái quát về phong
cách ngôn ngữ văn hoá của Nguyễn Du. Có thể nói, lời thơ của Tố Như rất gần gũi
với lời ăn tiếng nói và nếp suy nghĩ của mọi tầng lớp nhân dân. Nhà thơ đã có ý
thức rất cao khi học tập, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá của ngôn từ trong
văn chương bác học, bình dân Việt Nam. Đó cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn
Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc.
10
Cũng từ góc độ văn hoá, một số nhà nghiên cứu khác đã đi theo khuynh
hướng truy tìm những nguồn gốc, xuất xứ của các ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ
Truyện Kiều. Đây có thể xem như là một trong những hướng tiếp cận liên ngành
ngôn ngữ - văn hoá kết hợp với những thành tựu nghiên cứu về Huấn hỗ học Hán
ngữ. Đặc biệt ở đây, hướng tiếp cận này có thể phục dựng lại một bức tranh phong
phú về những ảnh hưởng của văn hoá, văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam
đến tư duy thẩm mỹ, khả năng lựa chọn ngữ liệu trong quá trình hình thành tác phẩm
và tìm hiểu được sự vận động lý thú, những ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều đến đời sống văn chương hậu thế.
Những tác giả đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này, theo chúng tôi, có
thể kể đến vai trò mở đường của Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Đặng Thanh Lê,
Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Hoàng Hữu
Yên, Nguyễn Thạch Giang, Lê Thu Yến, Nguyễn Hữu Sơn... Nhà nghiên cứu
Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80], Nguyễn
Thạch Giang trong Đoạn Trường tân thanh qua cái nhìn của Thiền gia, Nho gia
(1995) [47], Lời quê chắp nhặt (2001) [46] và Nguyễn Thuý Hồng trong công
trình Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong Truyện Kiều (1995) [65] và Phạm Đan
Quế trong công trình Về những thủ pháp nghệ thuật văn chương Truyện Kiều
(2006) [115], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [122] đã đặt vấn đề khảo sát
hệ thống ngôn ngữ văn hoá trong ngôn ngữ truyện Nôm nói chung và Truyện Kiều
nói riêng như một thủ pháp đặc trưng tiếp cận thế giới nghệ thuật tác phẩm từ sự
phân loại nguồn gốc của từ ngữ: Việt và Hán - Việt. Kết quả nghiên của các
chuyên gia trên đều thống nhất, phù hợp với quan điểm của Nguyễn Thuý Hồng,
khi tác giả cho rằng:
Từ ngữ Hán Việt được vận dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều và các
truyện thơ Nôm chủ yếu là những từ ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ văn hoá
(ngôn ngữ của các văn bản viết) của Trung Quốc như: Các từ địa danh,
nhân danh và điển cố thi liệu quen thuộc của văn chương Trung Quốc, các
thuật ngữ khái niệm trong các tác phẩm triết học Phật giáo và kinh điển Nho
giáo. [65, tr.45 - 46].
11
Kết quả của hướng nghiên cứu trên tuy có nhiều điểm mới so với những
người đi trước song những tác giả này là đi sâu phân tích, quy loại, phân loại các
ngữ liệu một cách chặt chẽ, theo hệ thống, đặc biệt là chưa nêu bật vẻ đẹp cũng như
sự đóng góp của hệ thống từ ngữ này đối với toàn bộ hệ thống cấu trúc ngôn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều. Nói cách khác, đây cũng là hướng tiếp cận và lý giải
Truyện Kiều bằng phương pháp thống kê học, một trong những phương pháp đặc
trưng của ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu trên cũng
là những định hướng quan trọng giúp cho người thực hiện đề tài này đi sâu phân
tích những đặc trưng và giá trị nghệ thuật của lớp từ ngữ văn hoá trong ngôn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu về thế giới ngôn ngữ trong sáng tác
của Nguyễn Du ngày càng nhiều nhưng việc nghiên cứu, đánh giá nó dưới góc độ
liên ngành ngôn ngữ - văn hoá vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Cá biệt,
một số nhà thơ đã chịu ảnh hưởng về tư tưởng, văn phong của Truyện Kiều một
cách rất nghệ thuật và văn hoá. Chẳng hạn ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975,
Tuệ Không Phạm Thiên Thư đã cảm khái viết nên Đoạn Trường vô thanh (Lá Bối
xuất bản, Sài Gòn, 1974) [149] như một sự tâm cảm, “biệt nhỡn liên tài” đối với Tố
Như Tử. Ngôn từ văn hoa, ý tứ điêu luyện, bố cục rõ ràng, Đoạn Trường vô thanh
như một sự tương thức, hoà hợp của những tình điệu thẩm mỹ, như một sự hội ngộ
ngẫu nhiên của những hồn thơ đa cảm trước cảnh tang thương của cuộc đời và
mang theo cả lịch sử văn hiến ngàn năm của một dân tộc anh hùng. Tuy vậy, theo
chúng tôi, mở đầu cho hướng nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ - văn hoá đối với
Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều có lẽ là nhà Kiều học Phạm Đan Quế, trong hàng
loạt các công trình của mình do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành như: Tập Kiều -
một thú chơi tao nhã (1999) [112], Đố Kiều - nét đẹp văn hoá (2002) [118], Về
những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2002) [115], Bình Kiều,
Vịnh Kiều, Bói Kiều (2003) [110], Lục bát hậu Truyện Kiều (2003) [117], Truyện
Kiều trên báo chương thế kỷ XX (2004) [120], Thế giới nhân vật Truyện Kiều
(2005) [121], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [121]... và bộ sách Truyện
12
Kiều trong văn hoá Việt Nam (Tùng thư Truyện Kiều) (2013) của Hội Kiều học Việt
Nam đã bước đầu đi sâu phân tích những nét đẹp văn hoá được thể hiện qua ngôn
ngữ của thi phẩm.
Thông qua những bộ tùng thư văn hoá Kiều mà chúng tôi vừa đề cập trên,
Phạm Đan Quế đã nêu bật những hiện tượng, khía cạnh văn hoá của Truyện Kiều đã
ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống xã hội, văn học nước nhà. Tuy nhiên, qua các
công trình này, các tác giả chưa thực sự đầu tư phân tích quá trình chuyển hoá, đặc
trưng văn hoá Trung Hoa và Việt Nam đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ Truyện Kiều
như thế nào. Nói cách khác, cả Phạm tiên sinh lẫn Tuệ Không cư sỹ đã góp phần
minh chứng cho sức sống trường cửu của Truyện Kiều và những câu lục bát đậm
tình dân tộc. Tuy nhiên, cả hai đều chưa đi sâu lý giải cội nguồn văn hoá của tác
phẩm. Sự lan toả, vang vọng của những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm bên trong lớp
ngôn ngữ đặc biệt của Truyện Kiều đã khiến cho giai phẩm này đi vào thế giới tinh
thần của người đọc dường như lớn hơn nhiều so với những gì mà Nguyễn Du đã ký
thác. Giá trị, ý nghĩa của Truyện Kiều ngày càng được nâng cao bởi những yếu tố
thẩm mỹ, những nội hàm văn hoá đang ẩn sâu dưới lớp băng nghệ thuật của ngôn từ
và nó đem lại cho người tiếp nhận những dự cảm, tình điệu, tâm thức mới trong
hành trình đi tìm các tầng nghĩa nhân sinh, văn hoá của nghệ thuật và đời sống.
Từ năm 1999 đến nay (2014), một số nhà nghiên cứu đã kế thừa quan điểm
học thuật của Dương Lâm (Trung Quốc), Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương...
Đặc biệt, các chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá
(2003, tái bản bổ sung 2007) [144] của Trần Nho Thìn, Từ cái nhìn văn hoá (1999)
[147], Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá (2005) [148] của Đỗ Lai Thuý,
Từ vựng Hán ngữ với nền văn hoá Hoa Hạ (2002) [66] của Huỳnh Chương Hưng
đã thật sự mang lại một hướng tiếp cận mới cho lĩnh vực nghiên cứu Ngữ văn cổ
điển ở Việt Nam. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu mới nhất về ngôn ngữ
văn hoá trong Truyện Kiều được các nhà nghiên cứu như Thái Kim Đỉnh, Vương
Trọng, Vũ Thế Khôi, Trương Quế Phương, Lê Thu Yến, Trương Xuân Tiếu, Mai
Thị Ngọc Chúc, Vũ Thanh Huân, Lê Nhật Ký... lần lượt công bố cho thấy trào lưu
13
tiếp cận ngôn ngữ văn hoá đối với Truyện Kiều đã thực sự cần thiết, cần có sự nâng
cấp thành lý luận. Do đó, kế thừa những người đi trước, chúng tôi luôn ý thức tìm
về những giá trị văn hoá của Truyện Kiều cũng như là những sáng tạo mà Nguyễn
Du đã để lại cho hậu thế.
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện luận án, bản thân chúng tôi cũng đã cố
gắng tìm hiểu, thể hiện kết quả nghiên cứu bước đầu của mình về giá trị văn hoá
trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều qua một số bài viết như: Hàm nghĩa văn
hoá của chữ Đông và chữ Tây trong văn học trung đại Việt Nam (2003), Đặc trưng
thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
(2009), Hàm nghĩa văn hoá của hai từ Nam, Bắc trong ngôn ngữ văn học trung đại
Việt Nam (2011), Ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến đời sống văn
chương và xã hội Việt Nam (2012), Phong cách văn hoá Nguyễn Du qua ngôn ngữ
nhân vật trong Truyện Kiều (2013).
Qua một số hướng tiếp cận văn hoá đã đề cập trên, chúng tôi cho rằng việc
khảo sát hệ thống ngữ liệu mang hàm nghĩa văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật
truyện Nôm nói chung, Truyện Kiều nói riêng là một vấn đề hấp dẫn và cần có sự
đầu tư thỏa đáng. Điều đó cho thấy, đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ
góc nhìn văn hoá mà chúng tôi đang thực hiện tuy không phải hướng tiếp cận mới
lạ, song nó vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ cho những ai tâm huyết với các tác
phẩm văn học dân tộc. Hướng tiếp cận này góp phần minh chứng khả năng liên hội
của từ ngữ văn hoá tạo nên đặc trưng tư duy mang tính biểu tượng, ý nghĩa liên hội
của các chúng trong ngôn ngữ Truyện Kiều, làm cho trường liên tưởng của tác phẩm
này càng được mở rộng mà mỗi độc giả tuỳ theo bề dày văn hoá của mình có thể
thẩm thấu được.
Tóm lại, từ những hướng nghiên cứu đã tổng thuật và nhìn lại một chặng
đường lịch sử khảo sát Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy tiếp cận tác phẩm văn học
từ góc nhìn văn hoá là vấn đề lớn, cần có sự đầu tư, tìm hiểu của nhiều thế hệ học
giả và bạn đọc. Từ định hướng này, nhiều nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu, khám
phá thế giới nghệ thuật, bức tranh ngôn ngữ về đời sống xã hội, khẳng định những
14
cách tân, đóng góp của Thanh Hiên tiên sinh trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực
cùng với những trải nghiệm của một nhà nghệ sỹ trước những dâu bể, biến thiên,
tang thương của cuộc đời. Do vậy, khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học
trung đại nói chung và Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn
hoá là một công việc khá phức tạp và có giá trị khoa học, thực tiễn đối với công tác
nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm này trong nhà trường. Thông qua hệ thống ngữ liệu
văn hóa, một số nhà nghiên cứu bước đầu đã khám phá nội dung, tư tưởng, những
sáng tạo, đặc trưng phong cách văn hoá của đại thi hào Nguyễn Du.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá,
chúng tôi nhận thấy cần phải có những cách thức tiếp cận liên ngành, khảo cứu,
giảng giải ngữ liệu văn hoá một cách khoa học và chuẩn xác. Vì thế, khi thực hiện
luận án, chúng tôi cũng đã gặp không ít những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, việc
xác định rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã giúp tác giả luận án từng
bước tháo gỡ được những vướng mắc học thuật cần giải quyết.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án chúng tôi là hệ thống ngữ liệu văn
hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, cụ thể ở đây là ngữ liệu văn hoá bác
học và ngữ liệu văn hoá bình dân. Xét về hình thức ngôn ngữ, nguồn gốc và xuất
xứ, đây là hệ thống từ ngữ Hán Việt, có yếu tố Hán Việt, thuần Việt, từ ngữ nguyên
dạng hay chuyển dịch được dẫn dụng trong văn chương bác học có nguồn gốc từ
các tác phẩm kinh điển trong triết học và văn chương cổ điển Trung Hoa như Tứ
thư 四書, Ngũ kinh 五經, Lão Tử Đạo Đức kinh 老子道德經, Trang Tử Nam Hoa
kinh 莊子南華經, Sở Từ 楚辭, Nhạc phủ 樂府, Đường thi 唐詩, Tống từ 宋詞,
Minh Thanh cổ điển tiểu thuyết 明清古典小說... hay những bộ kinh tạng của Phật
giáo nói chung. Về ngữ nghĩa và phạm vi sử dụng, đó là các từ ngữ thể hiện những
quan niệm, biểu tượng về màu sắc, phương vị, từ ngữ thuộc các lĩnh vực chính trị,
quân sự, sinh hoạt văn hoá cộng đồng, quan niệm đạo đức, thẩm mỹ của thi ca cổ
điển phương Đông. Cụ thể có thể khái quát thành những thành phần sau: địa danh,
15
nhân danh Hán Việt, các từ ngữ, khái niệm xã hội, thành ngữ, tục ngữ Hán Việt, hệ
thống từ ngữ, thi văn liệu tiếp thu từ văn hoá, văn học cổ điển Trung Hoa.
Bên cạnh những ngữ liệu có nguồn gốc từ văn hoá, văn chương bác học, đề
tài còn hướng đến những từ ngữ có nguồn gốc từ trong văn học dân gian, văn học
bình dân, trong lối nói sinh hoạt khẩu ngữ đời thường của cuộc sống. Cụ thể là các
thành phần ngôn ngữ như: từ ngữ có phong cách khẩu ngữ, bình dân (chủ yếu
nghiên cứu qua lớp hư tư tiếng Việt, từ cổ Việt ngữ, từ địa phương xứ Nghệ), từ láy,
những từ ngữ ảnh hưởng từ ca dao, thành ngữ, tục ngữ và khẩu ngữ trong tiếng Việt.
Đặc biệt, luận án còn hướng đến một lớp từ ngữ chịu ảnh hưởng từ Truyện
Kiều trong văn chương và đời sống tinh thần của các thế hệ văn nghệ sĩ sau Nguyễn
Du mà chúng tôi tạm gọi là Từ ngữ văn hoá hậu Truyện Kiều. Do vậy, thông qua
kết quả thống kê, phân loại ngữ liệu, chúng tôi sẽ bước đầu đi vào tìm hiểu, phân
tích hàm nghĩa văn hoá, chức năng, giá trị sử dụng nó trong ngôn ngữ Truyện Kiều.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hoá, những ảnh hưởng của văn hoá bác học, bình dân đối với ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều. Từ những kết luận có được, thông qua quá trình khảo sát, thống
kê, phân loại các tiểu hệ thống ngôn ngữ với những nét nghĩa văn hoá đặc thù,
chúng tôi bước đầu tìm hiểu phong cách, giá trị cũng như những hiệu quả thẩm mỹ
của các hệ thống ngữ liệu văn hoá, những biểu hiện cụ thể của nó trong Truyện
Kiều. Để tạo tính thống nhất trong quá trình khảo sát ngữ liệu, trong luận án này,
chúng tôi không đi sâu khảo sát những hiện tượng cú pháp câu trong ngôn ngữ nghệ
thuật của Truyện Kiều.
Ngoài ra, trên một hệ quy chiếu mới, chúng tôi bước đầu so sánh những đặc
trưng văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật của thiên truyện này với một số truyện thơ
Nôm bác học khác trước và sau nó.
3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê
Văn bản Truyện Kiều được khảo sát trong luận văn của chúng tôi là bản
Truyện Thuý Kiều (1925, tái bản 1960) do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo
16
[30]. Đây là một trong những bản phiên quốc ngữ chất lượng, có giá trị khoa học.
Bên cạnh đó chúng tôi có những đối chiếu và so sánh với các bản quốc ngữ Vương
Thuý Kiều chú giải tân truyện (1952) [35] do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chấp bút
hiệu đính, chú giải, bình luận, bản Truyện Kiều chú giải (1952, tái bản 2010) [28]
do Vân Hạc Lê Văn Hoè chú giải và bản Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh)
(1960, bản in lần 3) [29] do học giả Bùi Khánh Diễn chú thích và bình luận.
Trong quá trình thống kê, tác giả luận án đã sử dụng một số kết quả, thành
tựu nghiên cứu về văn bản học, ngôn ngữ học của các nhà nghiên cứu trước đây.
Với công việc này, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói trong lịch sử tìm hiểu, tiếp
nhận ngôn ngữ Truyện Kiều. Tiếp đến là trình bày những diễn giải, cắt nghĩa thêm
một số thông tin liên quan đến các ngữ liệu văn hoá đã được thống kê, phân loại
trong luận án. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã gặp phải
không ít khó khăn, nhất là ở hệ thống tiêu chí phân loại ngữ liệu. Và tất nhiên, việc
thống kê, phân loại, xử lý một số lượng lớn dữ liệu, sự thiếu sót, khiếm khuyết là
điều không tránh khỏi, nhất là trong quá trình thẩm bình và phân tích những nét đẹp
văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều - Tập đại thành về văn hoá, văn học Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành thống kê cụ thể các thành
phần từ ngữ về quy mô, số lượng, tỷ lệ của các thành phần ngôn ngữ bác học, bình dân
trong Truyện Kiều, so sánh tác phẩm này với một số truyện Nôm khác.
Từ số lượng, tỷ lệ được thống kê, tác giả luận án sẽ phân tích các đặc điểm
ngữ dụng, đặc trưng văn hoá, tính chất đặc thù của từng hệ thống để đi đến những
kết luận về vai trò, vị trí và giá trị thẩm mỹ của các thành phần ngữ liệu văn hoá cụ
thể trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
Bên cạnh đó, tác giả luận án sẽ so sánh những tương đồng và dị biệt trong
nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du với một số tác giả văn học khác. Qua đó,
chúng tôi xác định những đặc trưng trong phong cách văn hoá của tác giả Truyện
Kiều, vị trí của tác phẩm trong tiến trình phát triển văn hoá, văn chương cổ điển
Việt Nam và tiếp tục khái quát những quy luật phát triển của ngôn ngữ văn học
trung đại Việt Nam.
17
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Vận dụng mối quan hệ văn hoá - ngôn ngữ vào khảo sát một tác phẩm văn
học cụ thể là một trong những hướng tiếp cận mang tính triết học, đa ngành. Hướng
đi này sẽ trực tiếp luận giải mối quan hệ biện chứng giữa văn học, ngôn ngữ với văn
hoá. Văn hoá là một hiện tượng tồn tại một cách không cụ thể, trực tiếp, người ta
chỉ có thể nhận diện văn hoá qua hệ thống các biểu hiện cụ thể - các hiện tượng văn
hoá như một tập hợp đa trị cần được tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Mục
đích chính của luận văn là tìm hiểu những giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam
trong hệ thống Ngôn ngữ nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể - Truyện Kiều. Thông
qua những kết quả thu thập được, chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích những yếu tố văn
hoá ẩn hàm trong lớp ngôn từ nghệ thuật đặc sắc của thi phẩm này.
Nhiệm vụ cơ bản của luận án là tiến hành phác hoạ một cách chân thực bức
tranh toàn cảnh về thế giới trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều từ góc độ
ngôn ngữ văn hoá. Từ đó, chúng tôi xác định những nét riêng biệt về giá trị văn hoá
của ngôn ngữ tác phẩm trong hành trình phát triển của văn học cổ điển, những yếu
tố đã làm nên giá trị bất hủ của thi phẩm.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm hỗ trợ cho việc lý giải, tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến điển cố, thi
liệu, từ ngữ tập cổ trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều và hàm nghĩa văn hoá của
chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể, chúng tôi tiến hành khảo sát, truy nguyên hệ thống
ngữ liệu cổ văn Truyện Kiều trong các văn bản, tài liệu Hán Nôm. Đây là một việc
làm cần thiết đối với những ai yêu mến tác phẩm và bảo tồn di sản văn học cổ điển
của ông cha ta. Vì những lý do cơ bản ấy, chúng tôi thiết nghĩ ngôn ngữ văn hoá
trong Truyện Kiều cần phải xem một biểu tượng, một minh chứng cho mối quan hệ
ngôn ngữ - văn hoá thông qua các quan hệ hữu cơ của hai hệ thống này.
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng
kết hợp các lý thuyết, quan điểm nghiên cứu về văn hoá học, ngôn ngữ học lịch sử,
thi pháp học và các kiến thức liên ngành liên quan đến việc khảo chứng hệ thống
ngữ liệu văn hoá bác học, bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Trong luận án này,
chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:
18
6.1. Phương pháp tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm văn học
Với phương pháp này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cội nguồn, dấu vết văn
hóa và đặt hệ thống ngữ liệu văn hóa trong mối quan hệ với chỉnh thể tác phẩm. Cụ
thể, chúng tôi sẽ từng bước phân tích những giá trị của từng hệ thống ngữ liệu văn
hoá bác học, bình dân đã tham gia kiến tạo nên những đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm. Bên cạnh đó, với tư cách là một yếu tố cấu tạo nên những nét
đặc sắc trong Truyện Kiều, chúng tôi cũng đi sâu lý giải những những ảnh hưởng
văn hóa của ngôn ngữ tác phẩm đến đời sống văn chương, học thuật và văn hóa Việt
Nam hậu Truyện Kiều.
6.2. Phương pháp thống kê, phân loại và so sánh
Trên cơ sở giới thuyết về các nguồn gốc văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều, chúng tôi đi vào thống kê và phân loại hệ thống ngữ liệu cổ văn.
Thông qua việc phối kết hợp hai tiêu chí truyền thống văn hóa (văn hóa Hán, văn
hóa Việt) và phẩm chất văn hóa (bác học và bình dân), chúng tôi phân chia thành
ngữ liệu văn hóa Hán, bác học và ngữ liệu văn hóa Việt, bình dân. Đó là những cơ
sở khoa học để khảo sát toàn bộ hệ thống ngôn ngữ văn hóa trong Truyện Kiều và
chứng minh cho những luận điểm mà chúng tôi sẽ trình bày trong luận án của mình.
Dựa vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn tự cũng như khả năng hành chức
của nó trong Ngôn ngữ nghệ thuật, trong khi nhận diện các thành phần ngữ liệu văn
hoá trong Truyện Kiều, chúng tôi sử dụng các bản sau: Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ,
Trần Trọng Kim hiệu khảo) [30]; Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện (Tản Đà chú
giải) [35]; Từ điển Truyện Kiều (Đào Duy Anh biên soạn) [03]; Đoạn Trường Tân
Thanh dưới cái nhìn Nho gia, Thiền gia (Nguyễn Thạch Giang biên soạn); Truyện
Kiều tập chú (Trần Văn Chánh và nhóm soạn giả chú giải) [32]; Tìm hiểu từ ngữ
Truyện Kiều (Lê Xuân Lít biên soạn) [91]...
6.2. Phương pháp phân tích miêu tả
Chúng tôi vận dụng phương pháp này để phân tích, miêu tả, tìm hiểu các ngữ
liệu đã thống kê, từ đó đưa ra những chỉ xuất, những dẫn liệu, nêu rõ nguồn gốc,
xuất xứ của ngữ liệu từ kho tàng cổ văn Trung Hoa và Việt Nam. Kết quả thu thập
19
được sẽ là luận cứ minh chứng cho những luận điểm mà chúng tôi đề xuất trong quá
trình nghiên cứu đề tài luận án.
6.3. Phương pháp phân tích logic
Phương pháp này được sử dụng để phân tích những giá trị thẩm mỹ, văn hoá
của các thành phần ngôn ngữ được sử dụng trong Truyện Kiều. Với ý nghĩa là
phương tiện thể hiện thi pháp nghệ thuật ngôn từ của chính tác giả, qua phương
pháp phân tích logic, chúng tôi sẽ nêu bật những hiệu quả nghệ thuật của các thành
phần từ ngữ đối với việc xây dựng thế giới nghệ thuật Truyện Kiều và sự thể hiện hệ
thống chủ đề tư tưởng tác phẩm.
6.4. Phương pháp tổng hợp, khái quát hoá
Bên cạnh các thao tác thống kê, phân loại, phân tích miêu tả, chúng tôi bước
đầu tìm hiểu những tiếp thu, kế thừa và khả năng sáng tạo vốn văn hoá bác học của
thi sĩ Tố Như trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Qua đó, chúng tôi sẽ đi vào khảo sát
những nét đặc sắc về phong cách, tâm thức văn hoá, quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ
như một phương cách tiếp cận đặc thù. Ngoài ra, chúng tôi đã đặt các hệ thống ngữ
liệu đã khảo cứu trong toàn bộ chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm như một yếu tố đặc
trưng, một thành phần cơ bản cấu thành “đặc chất văn hóa” của tác phẩm.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Trong những thập kỷ gần đây, việc nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá từ góc độ
liên ngành được mở rộng và đạt nhiều thành tựu khả quan. Ở những bước phát triển
này, sự quan tâm đến vấn đề tính dân tộc, giao lưu tiếp xúc hay tiếp biến trong ngôn
ngữ luôn được quan tâm. Và dĩ nhiên, sự quan tâm ấy luôn thể hiện trong quá trình
nghiên cứu văn hoá, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
Tiếp cận từ chiều sâu của một hoạt động không tách rời của tư duy, ngôn ngữ
được coi là một phương tiện duy nhất có khả năng giải mã cho các loại hình gắn
liền với phạm trù văn hoá. Nhờ vào tiềm năng này, ngôn ngữ có thể tạo nên những
tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, đánh dấu những bước trưởng thành về mặt văn
hoá của một cộng đồng. Những đặc sắc, giá trị văn hoá của ngôn ngữ nghệ thuật
truyện Nôm, Ngâm khúc và Hát nói - những thể loại nội sinh trong văn học cổ điển
20
Việt Nam là một ví dụ điển hình. Những giá trị ấy không chỉ thể hiện đặc trưng
nghệ thuật và tâm huyết của nhà thi sĩ mà còn đánh dấu một bước trưởng thành
trong tư duy nghệ thuật, một bước tiến trong tư tưởng và góp phần tạo nên sắc thái
trang trọng quý phái của văn chương cổ điển.
Có thể nói, mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ được xác lập trong biên
độ của quá trình tiếp nhận, thể hiện những đặc sắc về nghệ thuật, tư tưởng của tác
phẩm. Trong thực tế tồn tại, hệ thống từ ngữ, ngữ liệu khi đi vào tác phẩm, nó kiến
tạo nên những bức tranh sinh động về xã hội và tâm tưởng của tác giả.
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi nhận thấy, ngôn ngữ nghệ thuật
truyện thơ Nôm là một đối tượng hấp dẫn, có khả năng được phóng chiếu nghiên
cứu từ nhiều góc độ, nhất là từ hướng tiếp cận văn hoá. Do đó, việc tìm hiểu các
tầng nghĩa bề nổi, lớp trầm tích văn hoá ẩn giấu bên trong hệ thống ngôn ngữ thể
loại truyện Nôm là một hướng giải mã văn hoá khá mới mẻ, góp phần nâng cao
chất lượng nghiên cứu và giảng dạy truyện thơ Nôm trong nhà trường cũng như
trong giới học thuật. Bên cạnh đó, sự phân tích hệ thống ngữ liệu văn hoá trong
truyện Nôm dường như chưa thu hút được thật nhiều chú ý của giới nghiên cứu.
Một vài cuốn chuyên khảo gần đây mới gợi lên được cái ý niệm về một vùng đối
tượng mà trữ lượng dường như chưa lộ rõ, do vậy những sự mô tả và phân tích
chưa hẳn đã hoàn toàn hợp lý. Có lẽ, theo chúng tôi, đằng sau cả khối di sản này
còn có thể đọc ra nhiều thông số lý thú về văn hóa tinh thần người Việt.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
chia thành 03 chương như sau:
Chương 1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá nhìn từ quan niệm
thẩm mỹ trung đại
Đây là chương nghiên cứu lý luận, có tính chất tạo tiền đề khoa học cho quá
trình triển khai luận án. Do vậy, trong chương này, thông qua việc làm rõ mối quan
hệ hữu cơ, tác động giữa ngôn ngữ và văn hoá, chúng tôi tiếp tục lý giải những đặc
trưng nghệ thuật cơ bản về hàm nghĩa văn hoá của hệ thống ngữ liệu trong truyện
Nôm bác học. Bên cạnh đó, chúng tôi đi sâu khái quát những giá trị văn hoá của
21
ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du
qua thơ chữ Hán và Truyện Kiều.
Chương 2. Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Đây là chương nghiên cứu trọng tâm của luận án. Nhiệm vụ cơ bản của
chương này là tìm hiểu những ảnh hưởng của văn hoá bản địa và ngoại lai trong
ngôn ngữ Truyện Kiều. Bên cạnh đó, để có được một cái nhìn cụ thể về những giá
trị văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, chúng tôi đã tiến hành những
khảo sát, thống kê hệ thống ngữ liệu bình dân, bác học và khái quát một số nét đặc
trưng văn hoá của hai hệ thống từ ngữ văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều.
Đặc biệt, từ những số liệu cụ thể, chúng tôi sẽ nêu bật một số nét về nghệ
thuật sử dụng, tính linh hoạt, khả năng chuyển dịch, sự chuyển dẫn tự nhiên, hợp lý,
thích đáng cùng với những đóng góp cụ thể của hai hệ thống ngữ liệu trong việc
kiến tạo những giá trị văn hoá đặc sắc của Truyện Kiều.
Chương 3. Hiệu quả thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn
ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Với mục đích khẳng định giá trị văn hoá của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều, chúng tôi sẽ khảo sát những biểu hiện cụ thể của ngữ liệu văn hoá trong cách
tiếp cận, lý giải hiện thực qua nhãn quan văn hoá, tính triết lý của ngôn ngữ tác giả.
Ngoài ra, từ những trải nghiệm về văn hoá, những khái quát nhân sinh của Nguyễn
Du, chúng tôi đi sâu tìm hiểu sự chuyển hoá của những trải nghiệm ấy qua ngôn
ngữ của hai hệ thống nhân vật chính diện và phản diện trong Truyện Kiều.
Sức ảnh hưởng của những giá trị văn hoá của Nguyễn Du, ngôn ngữ Truyện
Kiều đến đời sống văn chương học thuật và xã hội Việt Nam cũng là một nội dung
cần tìm hiểu, soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau. Từ kết quả nghiên cứu này,
chúng ta có đủ cơ sở để khái quát những đóng góp của Nguyễn Du không chỉ về
mặt văn học mà còn là những dấu ấn văn hoá đối với đời sống xã hội Việt Nam.
22
Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NHÌN TỪ
QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI
1.1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hóa
1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hoá
Xét từ góc độ chức năng, các nhà nghiên cứu cho rằng, ngôn ngữ là công cụ
cơ bản để con người trao đổi giữa người với người trong cộng đồng, là âm thanh
của con người được dùng để thể hiện những nội dung, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm.
Trong đời sống thường nhật và quá trình hành chức của nó, ngôn ngữ đôi khi còn
được hiểu với một phạm vi khá rộng và bao quát hơn. Tuy nhiên, nhờ những điều
kiện nào mà ngôn ngữ, vốn là công cụ giao tiếp giữa người với người trong xã hội,
đồng thời lại là chất liệu cho một thứ nghệ thuật gọi là văn chương, nó đóng vai trò
là cầu nối thông linh giữa tác giả, người đọc và văn bản nghệ thuật? Theo Nguyễn
Phan Cảnh, “chính sự giống nhau giữa các đơn vị ngôn ngữ và sự gần nhau giữa
các đơn vị ngôn ngữ đã đảm nhiệm việc giải thích, thuyết minh cho các tín hiệu
ngôn ngữ… Hoạt động này làm nên nội dung cụ thể của điều mà chúng ta gọi là
“người thuyết minh” trong các văn bản nghệ thuật.” [10, tr.08 - 09]. Trong chuyên
luận Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Iu.M.Lotman cũng nhận định:
Bất kỳ một hệ thống phục vụ cho những mục đích giao tiếp giữa hai
hay nhiều cá thể đều có thể được xác định như là một ngôn ngữ (như chúng
tôi đã từng lưu ý, trường hợp tự giao tiếp hàm ý rằng một cá thể xuất hiện
với tư cách đúp). Điều chỉ dẫn thường gặp rằng ngôn ngữ ngụ ý giao tiếp
trong xã hội loài người, nói một cách chặt chẽ, thì không phải là nhất thiết,
bởi từ một phía, giao tiếp ngôn ngữ giữa con người và máy móc và giữa máy
móc với nhau vào thời điểm hiện nay đã trở thành một vấn đề không còn chỉ
mang tính lý thuyết mà đã trở nên là một thực tế kỹ thuật. Từ phía khác, sự
hiện diện của các thông báo bằng ngôn ngữ xác định trong thế giới động vật
không còn là điều phải nghi ngờ… [88, tr.23].
Và ông đã đi đến kết luận “chúng tôi sẽ hiểu ngôn ngữ là bất kỳ một hệ thống
có tính giao tiếp nào có sử dụng những ký hiệu được sắp đặt bằng một dạng thức
đặc biệt…” [88, tr.25].
23
Với tư cách là một chất liệu đặc biệt, là công cụ diễn giải nội dung, ngôn ngữ
được xem là yếu tố thứ nhất của văn chương, nó có vai trò tối quan trọng như màu
sắc, đường nét đối với hội họa, giai điệu, tiết tấu đối với âm nhạc và hình khối đối
với kiến trúc. Và ngược lại, văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Vì vậy, trong
lịch sử phát triển văn hoá của nhân loại, các nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ
trác tuyệt. Trong quá trình tư duy sáng tạo của nhà văn, những đột phá về ngôn ngữ
đóng vai trò hết sức quan trọng và có tầm ảnh hưởng đối với việc tạo nên vẻ đẹp,
chiều sâu triết mỹ của thế giới nghệ thuật tác phẩm văn chương. Trong lao động
nghệ thuật của nhà văn có một sự lao tâm khổ tứ về ngôn ngữ. Trên nền chung của
ngôn ngữ toàn dân, nhà văn đã tinh luyện thành lớp ngôn từ nghệ thuật để tạo tác
tác phẩm văn học. Quá trình sáng tạo ra ngôn ngữ văn học, dường như nhà nghệ sĩ
đã tạo nên những nét khu biệt giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học. Vì vậy,
có thể xem ngôn ngữ nhân dân là kho quặng nguyên liệu, còn ngôn ngữ văn học là
sản phẩm, tinh chất đã được những nghệ nhân ngôn từ ấy tinh xảo nhào luyện.
Từ góc độ so sánh, ngôn ngữ trong văn học có những đặc điểm riêng biệt
khác hẳn các loại hình nghệ thuật khác. Ở đây, trước tiên chúng ta phân biệt ngôn
ngữ và lời văn (lời nói), Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương [124], Ferdinand
de Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói
(parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ
trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi ký hiệu bao gồm hai phương diện gắn
liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy: Cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái
biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa
chúng có mối quan hệ võ đoán tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà
nhiều khi không thể giải thích một cách tường tận được. Lời nói là sản phẩm của cá
nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh cụ
thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà văn sáng
tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ thuật chính là
đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học. Do đó, việc kiểm định
những đặc tính vốn có của chất liệu ngôn ngữ và xem xét sự chi phối của chúng đến
24
nghệ thuật văn chương là yêu cầu cần thiết của một công trình phê bình văn học.
Điều ấy có thể xác định được một cách khái quát các cơ sở ngôn ngữ của việc phân
tích văn học, nhất là từ góc độ ngôn ngữ văn hoá.
Xét từ phương diện lịch sử, ngôn ngữ là công cụ phục vụ cho quá trình nhận
thức, tư duy và là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Nó mang những chức năng
rất cơ bản như giao tiếp, nhận thức, tư duy. Những chức năng đó đã hình thành từ
sớm ở mọi cộng đồng xã hội, mọi dân tộc. Diễn trình lịch sử phát triển của văn
chương qua các thời kỳ, giai đoạn của một dân tộc cụ thể là minh chứng rất rõ ràng.
Xét về mặt không gian, trên diện rộng có thể thấy, với tư cách chất liệu của nghệ
thuật, ngôn ngữ là loại chất liệu mang tính toàn dân, tính phổ thông tính phổ biến
nhất. Nhờ thứ chất liệu sẵn có ấy mà sáng tác văn chương mang tính toàn dân. Mỗi
người khi có cảm hứng đều có thể làm được một vài câu thơ, câu văn. Sau sáng tác
là việc truyền bá tác phẩm. Nhờ chất liệu ngôn ngữ mang tính toàn dân nên tác
phẩm văn chương có thể truyền bá dễ dàng và rộng rãi đến mọi người. Bùi Minh
Toán trong Ngôn ngữ với văn chương cho rằng “…ngôn ngữ là tài sản riêng của
từng dân tộc, mang đặc trưng dân tộc, hơn nữa chính ngôn ngữ là một trong những
đặc trưng cơ bản nhất của dân tộc…” [155, tr.37]. Nói cách khác, ngôn ngữ của
một dân tộc cụ thể chính là linh hồn của dân tộc đó và nghĩa của từ cũng chính là
linh hồn của từ. Chẳng hạn trong các câu ca dao sau:
“Trăng thanh anh mới hỏi nàng:
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?”
Hay
“Tưởng giếng sâu, anh nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn, anh tiếc hoài sợi dây.”
Từ chất liệu, hình ảnh quen thuộc trong tiếng Việt, cái vẻ hồn hậu, chân chất,
thuần phác đã được các tác giả dân gian sử dụng một cách nhuần nhị khiến cho câu
ca trở nên gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày mà không đánh mất đi vẻ đẹp bình
dị và chân tình của một lời tỏ tình đằm thắm hay sự tiếc nuối vô vàn của một chàng
trai nơi thôn dã. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã không ít lần sử dụng
25
những kiểu cấu trúc ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ để giãi bày những điệp khúc trữ
tình hay tâm trạng khác nhau của nhân vật. Đặc biệt là nghệ thuật lặp hư từ, các
kiểu cấu trúc ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ mà câu thơ vẫn không bị khô cứng, vẫn
có sự uyển chuyển, sức hấp dẫn, lôi cuốn và thuyết phục người đọc:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân”.
(Câu 1271 - 1272)
“Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió, càng mưa, càng nồng.”
(Câu 1283 - 1284)
“Làm cho, cho mệt, cho mê,
Làm cho đau đớn, ê chề cho coi.”
(Câu 1617 - 1618)
Ngôn ngữ với tư cách là một chất liệu mang nghĩa, nó chuyển tải toàn bộ nội
dung, tư tưởng, suy nghĩ tâm tư tình cảm của con người. Do đó, “nội dung ngữ
nghĩa mà ngôn ngữ biểu hiện rất đa dạng, phong phú, thuộc mọi lĩnh vực khác nhau
trong đời sống của con người…” [155, tr.38]. Nhờ thuộc tính này của ngôn ngữ,
nhà nghệ sỹ khi sáng tác văn chương có thể đi sâu khám phá, phân tích từng ngõ
ngách trong tâm hồn con người với những xúc cảm tế vi, nhuần nhị và có thể giãi
bày, thể hiện xúc cảm của mình trên từng con chữ. Điều đó cũng góp phần thể hiện
sự nhạy cảm, nỗi đau hay sự chiêm nghiệm của họ trước những biến thiên của cuộc
đời. Đặc tính nghĩa của chất liệu ngôn ngữ là một trong những ưu thế căn bản góp
phần kiến tạo nên tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương với tư cách là sản phẩm
văn hoá tinh thần. Đồng thời, nó cũng là một ưu thế đối với độc giả khi tiếp cận,
lĩnh hội tác phẩm văn chương. Bởi lẽ khi ấy, người đọc sẽ huy động toàn bộ năng
lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ và kể cả vốn văn hoá, vốn sống của cá nhân để cắt
nghĩa, lý giải và tái hiện hình tượng theo kinh nghiệm thẩm mỹ riêng biệt của mình.
Bên cạnh đó, với một kiểu tổ chức và cơ chế hoạt động cá nhân của mình, nghệ
thuật thơ văn sẽ có những nét đặc sắc, đậm cá tính trong cảm thụ và kiến tạo thế
26
giới hình tượng của tác phẩm văn chương. Do đó, để có thể tái hiện lại thế giới hình
tượng cụ thể, giúp chúng lần lượt xuất hiện trong dòng ý thức, trong quá trình chiếm
lĩnh của người tiếp nhận văn chương, có lẽ chúng ta cần phải duy trì sự ăn khớp cái biểu
đạt và nội dung biểu đạt với nội dung biểu đạt phái sinh.
Trên cơ sở của các lý thuyết tiếp cận văn hóa, ứng chiếu vào văn học và
ngôn ngữ, chúng ta sẽ nhận ra được nhiều chân giá trị được sáng tạo, tích hợp trong
các phông nền thẩm mỹ của các nhà nghệ sĩ ưu tú. Bởi lẽ, những tác phẩm văn học
tinh túy luôn tắm mình trong bản sắc văn hóa của dân tộc và được thể hiện một cách
sinh động qua lớp ngôn từ đặc sắc của nó. Do vậy, qua việc tiếp cận mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn chương nhìn từ góc độ văn hóa, tác giả sẽ đạt đến một trình
độ thẩm mỹ sáng tạo vô tư và mang đến cho đối tượng thưởng thức một một sự cảm
nhận đúng hướng, tạo nên những hiệu ứng, khoái cảm thẩm mỹ nhất định, góp phần
thúc đẩy quá trình tiếp nhận, đồng sáng tạo ở các thế hệ bạn đọc văn chương.
Nhìn chung, trong dòng chảy văn hoá của một dân tộc, với những chức năng
cơ bản của mình, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện, là công cụ tư duy, giao tiếp,
lưu trữ ký ức,… mà nó còn là chất liệu cơ bản để xây dựng nên thế giới nghệ thuật
ngôn từ thấm đẫm những sắc màu văn hoá của một dân tộc, một thời đại hay một cá
nhân văn hoá cụ thể - nhà nghệ sĩ. Ngoài ra, với tư cách là mạch ngầm văn hoá,
ngôn ngữ còn được xem là một trong những yếu tố cấu thành văn hoá, có sức lan
toả sâu rộng và làm sáng tỏ những tính chất trội bật của bản sắc văn hoá trong đời
sống xã hội của một dân tộc.
1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá
Trong những thập kỷ gần đây, hướng nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá từ góc
độ liên ngành được chú ý và đạt nhiều thành tựu khả quan. Từ những bước phát
triển này, những vấn đề liên quan đến tính dân tộc, sự giao lưu tiếp xúc hay quá
trình tiếp biến trong ngôn ngữ luôn được chú trọng. Và dĩ nhiên, sự quan tâm ấy
luôn thể hiện trong các kết quả nghiên cứu về văn hoá, mối quan hệ, tương tác giữa
ngôn ngữ, văn hoá của một dân tộc, một nền văn học cụ thể.
27
Khi bàn đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, các nhà nghiên cứu
thường băn khoăn nhiều vấn đề như: đối tượng và phạm vi của văn hoá, văn hoá và
ngôn ngữ cần khảo sát ở những phương diện nào, hoặc mối tương tác đặc thù giữa
ngôn ngữ và văn hoá cần xem xét trên hệ quy chiếu nào... Theo cách hiểu thông
thường nhất, ngôn ngữ được hàm chứa trong văn hoá, là một yếu tố cấu thành văn
hoá, nhưng thực tế, trong hoạt động hành chức của nó, ngôn ngữ đã có những chi
phối, tác động đến văn hoá trên nhiều phương diện, nhiều cấp độ, tầng bậc khá
nhau, rất phong phú, linh hoạt và đa dạng.
Khi nói đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hoá, điều đầu tiên cần khẳng
định rằng, ngôn ngữ chính là cửa sổ, cầu nối giúp cho quá trình mở rộng tầm hiểu
biết về văn hoá của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, nếu dừng ở
đây thì có lẽ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá sẽ tương đồng với mối quan hệ
giữa văn hoá với các ngành khoa học khác. Trong Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp
nhận văn học (1998), khi bàn về mối quan hệ giữa văn học và ngôn ngữ với văn
hoá, nhà nghiên cứu Ngữ học Nguyễn Lai cho rằng “ở đây có một vấn đề gì đó nằm
trong chiều sâu hơn cần đặt ra. Đó là: sự hình thành ngôn ngữ là tiền đề nhiều mặt
của sự hình thành văn hoá, mặc dù xếp theo hình thức thì ngôn ngữ nằm trong
phạm trù văn hoá” [78, tr.05]. Cũng giống như các ngành khoa học xã hội - nhân
văn khác, văn hoá, ngôn ngữ đều được xem là những “thiết chế trừu tượng” (F.de
Saussure) và cùng phát triển với “con người xã hội” (F.Engels). Và, trong tính hiện
thực của nó, ngôn ngữ là tiền đề cơ bản kích thích sự phát triển, tiến hoá của tư duy
con người, tác động đến quá trình hình thành “con người xã hội”. Như vậy, “theo
cách nhấn mạnh của F.Engels, rõ ràng ngôn ngữ không chỉ là tiền đề tạo nên đối
tượng văn hoá, mà hơn thế nữa - từ trong chiều sâu - trước hết nó là tiền đề tạo ra
con người.” [78, tr.06], đồng thời từ đó con người tiếp tục tạo ra những giá trị văn
hoá, tạo ra những tiền đề chủ quan và khách quan khác làm phong phú thêm đối
tượng của văn hoá. Đó là những chỗ phức tạp, là sự tác động có chiều sâu của ngôn
ngữ đối với văn hoá mà không phải ai cũng nhận thấy được. Tuy nhiên, “nhìn
chung những hoạt động thuộc về lĩnh vực ngôn ngữ hay văn hoá đều là những hoạt
28
động tinh thần, cả hai đều được xử lý và đều dựa vào quá trình ước lệ, thẩm mỹ hoá
gắn liền với yếu tố tâm lý xã hội.” [78, tr.07 - 08]. Hiểu được sự phức tạp này,
chúng ta mới có thêm những cơ sở khoa học để phân tích, biện giải cho mối quan hệ
tương tác qua lại giữa ngôn ngữ, văn hoá. Đặc biệt, nhận thức rõ sự ảnh hưởng đa
chiều ấy, người nghiên cứu luôn luôn nâng cao ý thức kết hợp giữa ý nghĩa nhân
văn với tiền đề tâm lý xã hội trong văn hoá được biểu hiện qua ngôn ngữ. Đó cũng
là lý thuyết, cơ sở lý luận góp phần cắt nghĩa, lý giải những nguyên nhân sâu xa,
những cơ sở khoa học, tiền đề nhân văn tạo nên bản sắc, cá tính và chiều sâu văn
hoá, ngôn ngữ của một dân tộc cụ thể.
Riêng đối với hệ thống ngữ liệu văn hoá trong văn học cổ điển, quá trình phát
triển ý nghĩa từ thực chỉ (nét nghĩa được dùng để chỉ một đối tượng cụ thể, rõ ràng
nào đó), đặc chỉ (nét nghĩa được dùng để nói về một đối tượng có tính chất đặc biệt
hoặc có ý nghĩa tổng quát nào đó) đến phiếm chỉ (nét nghĩa được dùng để chỉ riêng
một loại sự vật hiện tượng nào đó), hư chỉ (từ không mang nét nghĩa thực mà được
dụng để ngầm chỉ một đối tượng hay sự vật khác) đều có những nguyên nhân văn
hoá của nó. Với một đơn vị từ vựng cụ thể, nếu như vừa có thể chỉ tổng quát các
loại sự vật hiện tượng vừa có thể chỉ riêng một loại sự vật cụ thể nhất định trong
tổng loại đó thì loại trước là phiếm chỉ, hư chỉ, loại sau là đặc chỉ, thực chỉ. Đối với
một từ cụ thể, nghĩa thực chỉ là nghĩa có trước rồi trong quá trình hành chức và hoạt
động của nó mới sản sinh ra nghĩa hư chỉ, chẳng hạn như từ súc sinh 畜牲 là một từ
thực chỉ các loài cầm thú nói chung nhưng trong thực tế ngôn ngữ từ này còn được
dùng để chỉ cho hạng người tính cách không tốt, đó là nghĩa hư chỉ. Từ sơn hà 山
河 có ý nghĩa chỉ cụ thể về núi và sông, song trong quá trình phát triển ý nghĩa của
nó, từ này thường được dùng để chỉ cho toàn bộ đất đai của một dân tộc nhất định.
Có lẽ, theo lôgic này, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của hai câu thơ trong bài
Xuân vọng 春望 của nhà thơ Đỗ Phủ 杜甫 đời Đường:
“Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm...”
Tạm dịch: “Nước đã mất rồi nhưng núi sông hãy còn mãi
29
Toà thành đang đi vào mùa xuân, cây cỏ trở nên rậm rạp...”
Từ ý nghĩa hư chỉ toàn bộ đất đai của một dân tộc, chúng ta mới có thể nhận
thấy được tính dân chủ trong quan niệm về hiện thực của Đỗ Phủ, một triều đại cụ
thể dù có mất đi nhưng đất đai của nhân dân là còn mãi. Tính nhân dân trong thơ
của nhà thơ hiện thực bậc nhất này do đó trở thành một đặc điểm lớn về nội dung.
Trong mối quan hệ giữa đặc chỉ và phiếm chỉ thì tình hình có khác. Phiếm chỉ hay
đặc chỉ là cách nói tương đối. Không có phiếm chỉ thì không có đặc chỉ. Ý nghĩa
phiếm chỉ, hư chỉ và đặc chỉ, thực chỉ không xuất hiện cùng một lúc mà nó có quan
hệ văn hoá khá rõ. Chẳng hạn, hai từ Sĩ 士 và Nữ 女 là những từ phiếm chỉ con trai
con gái nói chung đã dần chuyển sang nghĩa đặc chỉ là nam nữ thanh niên chưa thành
gia lập thất. Quẻ Quy muội 歸妹 trong Dịch kinh 易經 có câu:
“Nữ thừa khuông, vô thực 女承筐無實
Sĩ khuê dương, vô huyết 士刲羊無血
(Người con gái xách giỏ, trong giỏ không có đồ;
Người con trai giết dê, không có huyết).
Học giả Lý Đạo Bình 李道平 đã chú sớ rằng: “Viết nữ viết sĩ, vị thành phu
phụ chi từ 曰女曰士未成夫婦之辭” (Nữ và sĩ là từ gọi con gái, con trai chưa thành
vợ thành chồng). Nhận định về sự thay đổi ngữ nghĩa trong ngôn ngữ văn học cổ
điển Trung Hoa, Dương Lâm 楊琳, nhà nghiên cứu văn học cổ điển Trung Hoa,
trong Hán ngữ từ hối dữ Hoa Hạ văn hoá 漢語詞匯與華夏文化 đã nhận định:
Việc phát sinh ra nghĩa phái sinh này không hoàn toàn chịu sự câu
thúc của các nhân tố văn hoá. Đối với một số từ cụ thể, chúng ta có thể tìm
hiểu những nguyên nhân văn hoá dẫn đến nghĩa phiếm chỉ và đặc chỉ của từ
trong quá trình phát triển và hành chức. Song, do mối quan hệ trước sau của
nghĩa phiếm chỉ và đặc chỉ không phải lúc nào cũng dễ xác định, cá biệt có
những lúc mối quan hệ dẫn đến và bị dẫn đến những đảo lộn nhưng không ảnh
hưởng đến sự tồn tại của các quy luật ngôn ngữ... [182, tr.210].
Tiếp cận từ chiều sâu của một hoạt động không tách rời sức sống của tư duy,
ngôn ngữ được coi là một phương tiện duy nhất có khả năng giải mã cho tất cả các
30
loại hình gắn liền với phạm trù văn hoá. Nhờ vào tiềm năng này, ngôn ngữ có thể
tạo nên những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, đánh dấu những bước trưởng
thành về mặt văn hoá của một cộng đồng. Những nét trội bật trong ngôn ngữ truyện
Nôm, ngâm khúc và hát nói trong văn học cổ điển Việt Nam là ví dụ điển hình. Hệ
thống ngôn ngữ biểu trưng, các hình tượng nghệ thuật ước lệ, cổ kính như các sáng
tác của Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn đã được đưa vào ngôn ngữ tác phẩm
uyển chuyển, sáng tạo đánh dấu quá trình lao động nghệ thuật tâm huyết của nhà
thơ. Điều này không chỉ thể hiện đặc trưng nghệ thuật, tâm huyết của nhà thi sĩ mà
hơn bất kỳ một sự phát triển nào hết, việc vận dụng hệ thống ngữ liệu văn hoá này
đã đánh dấu sự trưởng thành trong tư duy nghệ thuật, một bước tiến trong tư tưởng,
góp phần tạo nên sắc thái trang trọng quý phái của văn chương cổ điển. Như vậy,
mối quan hệ, tác động giữa văn hoá và ngôn ngữ ở đây được xác định trong biên độ
của sự hấp thụ và chuyển hoá, tạo nên chất lượng nghệ thuật, nội hàm tư tưởng của
ngôn từ tác phẩm. Khi hoá thân vào nghệ thuật, ngôn ngữ như được thăng hoa, vượt
qua chính bản thân nó để tạo nên bức tranh sinh động, đa diện, đa thanh của văn
chương và xã hội. Nếu bản thân tác phẩm không hề có mối liên hệ với mạch ngầm
văn hoá dân tộc thì tác phẩm ấy sẽ không còn là công trình nghệ thuật.
Ngoài những đặc tính trên, chúng ta có thể nhận thấy, ngôn ngữ đã góp phần
không nhỏ trong việc khúc xạ, thể hiện và phát triển những giá trị văn hoá - một
phạm trù có tính cốt lõi của văn hoá. Nó là thước đo nhân bản của xã hội, con
người. Theo một số nhà nghiên cứu, giá trị văn hoá được xem là một hình thái của
đời sống tinh thần, nó phản ánh, kết tinh đời sống văn hoá vật chất, văn hoá tinh
thần của con người. Đó còn là những đánh giá mang tính chủ quan của con người về
tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp...
được con người cho là chân, thiện, mỹ, là thước đo nhân văn của xã hội. Soi chiếu
ngôn ngữ từ góc độ văn hoá sẽ giúp cho con người dễ dàng thấu triệt khi tiếp nhận
các giá trị văn hoá như kết quả của quá trình tri nhận, tư biện, chuyển hoá, lựa chọn
của cá nhân. Ngôn ngữ - một hiện hữu vật chất - sẽ giúp cho văn hoá cùng với các
giá trị căn bản của nó sẽ khúc xạ, ngấm sâu và dần hình thành chiều sâu văn hoá,
phong cách văn hoá của từng cá nhân trong quá trình tồn tại của cá nhân mình.
31
Tóm lại, về mặt hình thức, ngôn ngữ và văn hoá đều mang tính biểu trưng,
ước định. Nó nằm trong quỹ đạo của hoạt động tinh thần, do đó, bản thân chúng
luôn thể hiện mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Tuy ngôn ngữ là một thành tố cấu
thành văn hoá nhưng trên thực tế ngôn ngữ luôn là tiền đề sâu xa chi phối, tác động
đến văn hoá. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ giải mã mà đồng thời cũng là công cụ
được sử dụng để mã hoá đối tượng của văn hoá. Nó là biểu hiện sinh động nhất cho
quá trình tác động của văn hoá đến đời sống vật chất và tinh thần của một cộng
đồng dân tộc riêng biệt.
1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hóa
Ngôn ngữ là một thành tố văn hoá được con người sáng tạo trong lịch sử xã
hội. “Sapir E, một trong những nhà ngôn ngữ hàng đầu của thế giới đã nhận định
ngôn ngữ là nghệ thuật lớn lao và phổ biến nhất mà chúng ta biết được, đó là một
công trình vĩ đại và vô danh của nhiều thế hệ vô tình.” [78, tr.100]. Cũng theo tác
giả này, ngôn ngữ là công trình nghệ thuật cổ xưa nhất, to lớn nhất và giá trị nhất
mà trí tuệ con người đạt được, ngôn ngữ tạo dựng nên văn hoá. Cùng với lao động,
ngôn ngữ cũng được xem là cội nguồn của văn hoá. Sự phát triển của văn hoá dân
tộc có thể được xem xét trên bình diện ngôn ngữ. Sự ra đời của ngôn ngữ đã đánh dấu
một bước phát triển mới trong tiến trình văn minh của xã hội loài người.
Từ góc nhìn văn hoá, thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta có thể
tìm hiểu được đặc trưng tâm lý văn hoá dân tộc. Điều đó được thể hiện qua các kết
quả khảo sát cụ thể về các phương thức sản sinh từ ngữ, các quy luật phát triển từ
ngữ, quy luật ngữ pháp, kết hợp từ, nhất là ở ngôn ngữ văn chương. Nếu không có
sự phân tích, giải thích từ góc độ văn hoá thì sự tìm hiểu các đặc tính nói trên trong
một ngôn ngữ cụ thể sẽ không được toàn diện, thậm chí sai lầm. Vì vậy, ở Trung
Quốc đại lục, nhà Ngữ văn học cổ điển Dương Lâm đã nêu rõ:
Sự lý giải, tìm hiểu của mọi người về ngôn ngữ học văn hoá không
hoàn toàn thống nhất. Ngôn ngữ học văn hoá được lý giải bao gồm hai mặt:
Một mặt là đem ngôn ngữ đặt vào trong bối cảnh văn hoá, nêu rõ tác dụng
của văn hoá trong quá trình hình thành, phát triển ở một số hiện tượng ngôn
32
ngữ, đi sâu vào sự lý giải chính xác của mọi người đối với ngôn ngữ. Mặt
khác, hiệu quả của việc nghiên cứu này sẽ cung cấp tri thức ngôn ngữ để
nghiên cứu, giải thích, nói rõ sự hình thành, phát triển của các hiện tượng
văn hoá cụ thể. [182, tr.10].
Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng nói và viết, được thể hiện qua hình thức vật
chất đặc thù, đó là âm thanh, văn tự. Khảo sát nguồn gốc của ngôn ngữ, văn tự ra
đời muộn hơn so với âm thanh. Ngôn ngữ văn tự đã thể hiện một trình độ tư duy
trừu tượng, năng lực khái quát hoá cao. Trước khi có chữ viết, con người muốn biểu
đạt tư tưởng tình cảm, truyền thụ kinh nghiệm đều phải thông qua lời nói, tức âm
thanh. Vì vậy, trong kho tàng văn hoá dân gian của mỗi dân tộc đã lưu giữ hàng vạn
câu ca, lời hát từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đó là một trong những đóng góp quan
trọng của ngôn ngữ đối với việc duy trì và bảo tồn vốn cổ dân tộc. Tuy nhiên, hạn
chế lớn nhất của phương thức lưu giữ này là hiện trạng “tam sao thất bổn”, thất
thoát qua thời gian, hạn chế về không gian địa lý và mức độ phổ biến... Vì thế, sự ra
đời của văn tự đã làm một cuộc cách mạng, tạo nên một bước ngoặt lịch sử kỳ diệu
thúc đẩy sự phát triển về tư duy và văn hoá. Nó đã trở thành một công cụ lưu trữ
văn hoá tốt nhất. Văn tự đã phần nào khắc phục được những khiếm khuyết của
phương thức lưu trữ âm thanh, truyền miệng. Mặt khác, nó còn là một động lực cơ
bản kích hoạt sự sáng tạo, phổ biến và lưu truyền những kinh nghiệm của đời sống,
phong tục tập quán của dân tộc qua các thế hệ kế tiếp nhau.
Ngôn ngữ và văn hoá đã tồn tại trong một mối liên hệ chặt chẽ, biện chứng,
hữu cơ, không thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện thể hiện văn hoá và văn hoá
được chứa đựng trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ - văn tự là kết tinh của văn hoá dân tộc,
văn hoá nhờ ngôn ngữ, văn tự để được lưu truyền và trong tương lai, nền văn hoá
cũng nhờ vào ngôn ngữ để duy trì và phát triển. Nhà nghiên cứu Trần Trí Dõi khi
bàn về vấn đề Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội [26] đã cho rằng hướng
tiếp cận ngôn ngữ đối với văn hoá, khảo sát mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ
sẽ góp phần đi sâu lý giải về bản chất xã hội và chức năng văn hoá đích thực của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ có chức năng lưu giữ, bảo tồn mà còn đóng vai trò
quan trọng trong quá trình sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển của văn hoá.
33
Ngoài ra, với tư cách là chất liệu lịch sử, ngôn ngữ đóng vai trò cốt tuỷ trong
sáng tạo văn chương, nghệ thuật. Là nguyên liệu, là phương tiện đầu tiên của văn
học, nghệ thuật, ngôn ngữ đã giúp cho nhà nghệ sĩ có thể phản ánh, thể hiện và cắt
nghĩa cuộc sống thông qua thế giới nghệ thuật một cách phong phú, sinh động. Với
tư cách là một công cụ giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ đã thể hiện chức năng cơ bản
trong sự phát triển tư tưởng, văn hoá tinh thần của con người. Bởi lẽ ngôn ngữ là
công cụ giao tiếp quan trọng nhất, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. “Mọi sản
phẩm văn hoá dù vật chất hay tinh thần đều có nguồn gốc từ ngôn ngữ” [26, tr.30].
Điều đó cho thấy, sự biến đổi, phát triển ngôn ngữ luôn luôn song hành với biến đổi
và phát triển văn hoá. Muốn nghiên cứu sâu về văn hoá, khảo sát hàm nghĩa văn hoá
trong lời ăn tiếng nói, tập quán giao tiếp và văn chương nghệ thuật của một dân tộc
phải thông qua ngôn ngữ và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến nội
dung văn hoá. Vì thế, ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò là chất liệu trực tiếp, cụ thể
kiến tạo nên giá trị tinh thần của con người mà còn là “Phương tiện bên trong của
quá trình sáng tạo ra các giá trị văn hoá vật chất” [26, tr.30].
Trong lịch sử phát triển tâm lý, các hoạt động nhận thức luôn được tổ chức
theo các nguyên lý có tính chất kế thừa và tiếp biến. Trong quá trình ấy, nếu không
có sự hỗ trợ của ngôn ngữ, con người khó lòng có thể đúc kết thành các khái quát,
kinh nghiệm, kế thừa thành tựu và lưu truyền chúng qua các thế hệ. Về phương diện
này, ngôn ngữ không chỉ phát huy chức năng nhận thức, tư duy hay giao tiếp đặc
trưng của mình, bản thân nó đã thực sự trở thành một công cụ quan trọng trong việc
tiếp tục kế thừa, bảo lưu, sáng tạo văn học, văn hoá dân tộc. Nó thúc đẩy quá trình
phát triển văn hoá một cách toàn diện. Nhìn lại hai hệ thống ngôn ngữ văn tự Hán
và Nôm trong lịch sử phát triển ngôn ngữ nghệ thuật của văn học cổ điển Việt Nam,
chúng ta có thể nhận thấy vai trò của những từ ngữ, ngữ liệu có nguồn gốc xuất xứ
văn hoá cụ thể đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên chiều sâu
thẩm mỹ của tác phẩm. Nếu hệ thống từ ngữ có nguồn gốc từ văn hoá, văn chương
bác học đã giúp cho các nhà thơ có thể nêu cao, khái quát, và thần thánh hoá các giá
trị đạo đức, chính trị, xã hội, trình bày và nêu bật các khái niệm Nho học, Đạo học,
34
Phật học... thì hệ thống ngữ liệu văn hoá bình dân lại có thể giúp các thi nhân giãi
bày tâm can qua những từ ngữ, khái niệm có tính cụ thể, dễ hiểu, chính xác, rõ ràng,
nặng về tính miêu tả và thể hiện được hồn cốt dân tộc một cách tinh tế nhất. Hai hệ
thống này đã tạo nên một diện mạo đặc sắc, phản ánh được một cách uyển chuyển
nhất sự hoà quyện chặt chẽ của hai hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học và bình dân
của văn chương cổ điển Việt Nam.
Có thể nói, ngôn ngữ đã đóng một sứ mạng lịch sử to lớn trong quá trình
chuyển biến, thay đổi, kế thừa của văn hoá, nó thúc đẩy văn hoá phát triển ở cả bề
nổi lẫn chiều sâu, là sự thể hiện rõ nét nhất của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc. Ở bề nổi, những thay đổi về phương diện ngôn ngữ theo đúng quy luật xã hội,
góp phần kiến tạo ra những đột phá đáng kể về mặt văn hoá.
1.2. Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học
1.2.1. Khái niệm ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm
bác học
Trong phạm vi tư liệu hiện có, theo chúng tôi, ngữ liệu văn hoá trong ngôn
ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam là hệ thống từ ngữ có nguồn gốc từ văn
hoá bác học, bình dân, có sự biểu hiện sinh động về ngữ nghĩa, góp phần hình
thành, phản ánh thế giới nghệ thuật của tác phẩm và đặc trưng tư tưởng, tư duy văn
hoá - nghệ thuật của nhà nghệ sĩ.
Truyện Nôm, còn gọi là truyện thơ Nôm, truyện Nôm, truyện thơ… là một
thể loại nội sinh trong văn học cổ Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, cùng với
những truyện được sáng tác bằng chữ Hán, truyện Nôm có thể đã xuất hiện từ thế kỉ
XVI và phát triển mạnh vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Là một thể loại
dân tộc, truyện Nôm đã bị chi phối bởi quan niệm đẳng cấp trong các thể loại văn
chương thời trung đại và nội dung có phần vượt ra ngoài quy củ, khuôn phép lễ giáo
đương thời, vì thế giai cấp thống trị đã có lúc ra lệnh cấm lưu hành thể loại này.
Xét từ góc độ nguồn gốc và tính chất, hệ thống truyện Nôm trong văn học cổ
điển Việt Nam được tạm thời được phân thành hai loại cơ bản: truyện Nôm bác học
và truyện Nôm bình dân. Tuy nhiên, về lực lượng sáng tác, tác giả của truyện Nôm
35
phần lớn là những trí thức xuất thân khoa bảng hoặc sĩ phu ẩn cư lánh đời. Chủ đề,
đề tài của truyện Nôm bình dân thường lấy sự tích từ trong truyện dân gian hoặc tự
sáng tác. Những truyện thơ này thường khuyết danh, có lẽ tác giả không nghĩ đến
lưu danh hoặc vì bị cấm mà giấu tên. Nhưng cũng có truyện hữu danh, tác giả là
những nhà trí thức có tên tuổi. Lại cũng có truyện Nôm chắc chắn do những văn
nhân, sĩ phu, những nho sĩ học cao hiểu rộng sáng tác, nhưng vì nhiều lý do khác
nhau mà trở thành khuyết danh. Phần lớn truyện Nôm bác học là những tác phẩm
được diễn quốc âm từ các tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc. Nhiều truyện
Nôm được các nghệ nhân hát rong kể truyện thơ như Hoa Tiên 花箋, Song Tinh Bất
dạ 雙星不夜, Lục Vân Tiên 陸雲僊, Sơ kính tân trang 梳鏡新妝… và đặc biệt là
Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲 (tục gọi là Truyện Kiều 傳翹). Cùng với một số
thể loại khác như thơ Nôm Đường luật, khúc ngâm song thất lục bát, thơ Hát nói…
truyện thơ Nôm đã góp phần làm giàu thêm cho di sản văn hoá tinh thần của người
Việt. Sử dụng văn tự, thể thơ của người Việt và đề cao quyền sống của con người,
truyện thơ Nôm thể hiện xu hướng dân tộc hoá, dân chủ hoá nhờ hình thức diễn đạt
độc đáo, có nội dung nhân văn, xã hội tiến bộ.
Cuộc sống quanh ta có bao điều kỳ diệu. Những sự vật, hiện tượng từ đơn
giản đến phức tạp đều có cái lý để tồn tại mà không phải ai cũng có thể giải thích
được, càng khó khăn hơn nếu đó là hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ. Có những lúc,
chúng ta phải võ đoán nhưng đôi khi cũng cần phải lý giải tường tận mới có thể
hiểu được sự phong phú của chúng trong văn hoá, văn chương cổ điển. Hàm nghĩa
của các ngữ liệu văn hoá mà chúng tôi đề cập đến ở đây là những nội dung, ý
nghĩa, dấu ấn văn hoá được phản ánh, thể hiện qua các mối quan hệ, sự tác động
của những nét nghĩa ấy đối với quá trình giao tiếp, sáng tạo ngôn ngữ văn học của
nhà văn trong tác phẩm của họ.
Như đã trình bày, xuất phát từ hoàn cảnh địa lý, lịch sử và điểm loại hình
ngôn ngữ, hai đất nước láng giềng Việt Nam – Trung Hoa đã có mối quan hệ, tiếp
xúc văn hoá rất lâu đời, những ảnh hưởng của văn hoá Hán trong văn hóa Việt là
một đặc điểm rất đáng lưu ý. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển những đặc điểm
36
mang tính đặc thù của văn hoá Việt cũng là một nhu cầu thiết yếu. Trong diễn trình
phát triển của văn hoá Việt Nam, việc tiếp nhận văn hoá ngoại lai và phát huy
những yếu tố tích cực của văn hoá bản địa, sáng tạo những yếu tố mới phù hợp với
đặc trưng của dân tộc luôn luôn được thể hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống
nhưng cụ thể nhất là ở ngôn ngữ, cụ thể hơn là ở lớp từ ngữ Hán Việt và thuần Việt.
Trong hệ thống từ Hán Việt, vấn đề giữ lại những nét nghĩa cơ bản trong Hán
ngữ (tức nghĩa gốc, nghĩa thực chỉ) là một sự phổ biến. Song, đó không chỉ là một
sự ảnh hưởng, tiếp thu hoàn toàn mà trong tập quán sử dụng ngôn ngữ của chúng ta
cũng đã có sự sáng tạo, thay đổi (tức là quá trình phái sinh ngữ nghĩa, hay còn gọi là
sự vay mượn hình thức biểu đạt để diễn tả những lớp nghĩa mới). Chẳng hạn, từ
phương phi 芳 菲 trong tiếng Hán có nghĩa là “thơm tho”, một từ dùng cho hoa, cỏ
nhưng khi gia nhập vào kho từ vựng Việt ngữ thì nó lại có nghĩa là “mập mạp, tốt
béo”, được dùng để chỉ cho sức khoẻ tốt. Từ tử tế 仔細 trong tiếng Hán có nghĩa là
“tỉ mỉ, kĩ lưỡng” nhưng được người Việt sử dụng với ý nghĩa là “đối xử tốt với
nhau”. Từ thủ đoạn 手段 trong Hán ngữ có nghĩa là “phương pháp, cách thức”
nhưng ngày nay người Việt lại tường dùng để chỉ cho “những cách thức hay mưu
tính không tốt để đạt được mục đích”. Người Việt sử dụng từ mã thượng 馬上 (anh
hùng mã thượng) để chỉ người có chí khí anh hùng, trong tiếng Hán hiện đại, nghĩa
của mã thượng là “tức thì”, “ngay lập tức” như bài thơ Lương Châu từ 涼州詞 của
Vương Hàn 王翰 (Thịnh Đường) có câu: “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ
bà mã thượng thôi”, Nguyễn Tuyết Hạnh đã tạm dịch thành: “Rượu ngon Bồ đào
trong chén dạ quang, toan uống thì tiếng tỳ bà giục lên ngựa” và dịch giả đã khẳng
định: “Từ “mã thượng” trong bài thơ này hầu như đều được dịch là lên ngựa. Lên
ngựa thì phải là “thượng mã” hay “thướng mã” chứ không thể là “mã thượng” là
lập tức như mã thượng tẩu 馬上走 (đi ngay lập tức)” [08, tr.91]. Tất nhiên, đây
cũng là cách hiểu cũng có tính hợp lý nhất định. Song, khi phân tích ngữ nghĩa của
câu thơ này, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với cách biện giải của Thế Anh:
“Mã thượng” không phải là lên ngựa, nhưng hiểu theo nghĩa bạch
thoại như tác giả Nguyễn Tuyết Hạnh thì cũng chưa ổn... Vấn đề ở đây thực
37
ra là có liên quan đến một nét văn hoá đặc trưng của người Hồ ở vùng Tây
Vực (nay thuộc khu tự trị Tân Cương) là “ngồi lên trên lưng ngựa để đánh
tỳ bà”. Do đó “mã thượng” phải hiểu là “ngồi trên lưng ngựa” và “tỳ bà
mã thượng” được coi như một cụm từ cố định để chỉ nét đặc trưng văn hoá
đó [08, tr.91].
Qua ví dụ trên chúng ta có thể nhận thấy, muốn hiểu rõ ngữ nghĩa của từ ngữ,
đặc biệt là từ ngữ trong thơ cổ đòi hỏi người đọc phải có một vốn văn hoá nhất định
và từ đó ảnh hưởng đến phong cách ứng xử, tiếp nhận các tác phẩm văn chương cổ
điển, nhất là ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Ngoài ra, độc giả cần phải hiểu rõ
mối tương quan giữa ngôn ngữ văn hoá bình dân, ngôn ngữ văn hoá bác học. Hai hệ
thống này luôn giữ một khoảng cách nhất định, luôn đứng thành một lớp riêng
mang phong vị cổ kính, trang trọng, uyên bác, tao nhã và cụ thể, chuẩn xác, giàu
sức biểu đạt sinh động.
Từ góc nhìn lịch sử, việc nghiên cứu về những nét nghĩa văn hoá và xác định
nội hàm khái niệm hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ là một việc làm có tính phương
pháp luận, giúp chúng ta có được những biện giải chuẩn xác hơn về ngữ nghĩa và
phong cách chức năng của từ ngữ. Đặc biệt, trong nghiên cứu tác phẩm văn học thời
trung đại, việc sử dụng ngữ liệu văn hoá như một khái niệm có tính công cụ đã mang
lại cho người đọc những phương thức tiếp cận có chiều sâu và góp phần gợi mở
những nét nghĩa văn hoá biểu trưng trong ngôn ngữ văn học cổ điển.
1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm
bác học
Như đã phân tích, trước sự đổi mới và mở rộng biên độ của đối tượng khảo
sát dựa trên các nguyên tắc liên ngành, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã quan tâm
đến những vấn đề thuộc về văn hoá, đối thoại văn hoá giữa các dân tộc thuộc các
vùng miền khác nhau, đặc biệt là ở lĩnh vực ngôn ngữ giao tiếp và văn chương.
Điều này đã dẫn đến sự ra đời của một ngành khoa học mới, có tính độc lập, đó là
ngành Ngôn ngữ học văn hoá, xuất hiện tại điểm giao giữa ngôn ngữ và văn hoá.
Từ trước đến nay, chúng ta vẫn thường sử dụng các khái niệm bản sắc văn
hoá, hành trình văn hoá, tiếp xúc văn hoá như những khái niệm công cụ để đánh giá
38
về tính văn hoá trong một tác phẩm cụ thể hoặc một giai đoạn văn học nhất định.
Ngôn ngữ là “vật dẫn” quan trọng của văn hoá, là một thành tố cấu thành văn hoá,
chẳng hạn nghiên cứu về thuật ngữ, quan điểm, tư tưởng triết học Phật giáo mà
không nghiên cứu văn hoá Phật giáo cũng giống như “sờ đuốc gõ mâm” (Môn chúc
khấu bàn 捫燭扣槃) khó mà nắm bắt được những ý nghĩa minh triết của hệ thống tư
tưởng này. Đây cũng là những khó khăn mà chúng tôi phải giải quyết khi thực hiện
đề tài này. Trên thực tế, chưa có một công trình nào định nghĩa về hàm nghĩa văn
hoá của từ ngữ một cách hệ thống và đầy đủ, song trong quá trình hành chức của
nó, ngữ liệu văn hoá đã đi vào văn học một cách tự nhiên, tạo nên những sắc thái
phong phú, đa nghĩa cho ngôn ngữ tác phẩm, đặc biệt là Truyện Kiều.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hệ thống ngữ liệu văn hoá trong tác phẩm
văn học cổ điển là những mã nghệ thuật cần có sự phân tích, biện giải. Nó bao gồm
một hệ thống những uyển từ, nhã ngữ hoặc hình thức ngôn ngữ ước lệ có nguồn gốc
từ trong các thể loại như: Thi từ và phú thời Hán - Nguỵ, Đường - Tống nói riêng và
văn học cổ điển Trung Quốc nói chung. Bên cạnh đó, nó còn là lớp từ ngữ thoát thai
từ văn hoá, văn học dân gian Việt Nam, từ vốn kinh nghiệm dân gian qua thành
ngữ, tục ngữ hay hệ thống hư từ, từ láy trong tiếng Việt. Nó có thể được thể hiện
qua những dạng thức, hình thái ngôn ngữ gián tiếp nhưng nó lại yếu tố trực tiếp
tham gia kiến tạo nên dáng vẻ đài các, dung dị, tiếng nói đa thanh và khả năng đa
nghĩa cho tác phẩm. Đặc biệt, lớp từ ngữ này đã thể hiện một trình độ am tường,
tiếp thu văn hoá Trung Hoa và Việt Nam cũng như bề dày của kinh nghiệm sống mà
nhà thơ muốn gửi gắm vào trong thi phẩm của mình. Khi thể hiện khả năng khái quát
hoá về cuộc sống và thân phận người phụ nữ tài hoa, bạc mệnh, Nguyễn Du đã hạ bút:
“Anh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa...”
(Câu 415 - 416)
Các ngữ liệu anh hoa, bạc mệnh, tài hoa... trong những câu thơ trên vừa
mang màu sắc trang nhã, điển phạm vừa mang tính triết lý khái quát đã giúp cho
nhà thơ có thể trình bày những suy ngẫm của bản thân về số phận con người, đặc
39
biệt là những con người tài hoa. Đó là những từ ngữ đã chịu ảnh hưởng của các học
thuyết Nho, Phật, Lão đậm chất siêu hình, phản ánh một số hạn chế về nhận thức về
nhân sinh, bản thể của thời đại và tác giả nhưng nó lại thể hiện một chiều kích ngữ
nghĩa sâu sắc, tâm thức văn hoá mà một tác gia trung đại cần được trang bị trên con
đường nghệ thuật của mình.
Bên cạnh đó, trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học, chức năng
biểu đạt của các ngữ liệu đã nêu trong đoạn trích có tính chuyên biệt, diễn tả những
khái niệm cụ thể về cuộc sống theo quan điểm của người xưa và những nỗi đau cay
đắng mà con người phải chịu trong cuộc sống của mình. Nó không chỉ là những
khái quát về văn hoá mà còn là một thủ pháp từ chương làm gia tăng tính hàm súc,
trang nhã và thể hiện sự uyên bác của tác giả trước những vấn đề của cuộc sống và
nghệ thuật, đảm bảo đúng theo nguyên tắc thi pháp cổ điển. Hay đó cũng có thể là
những lời lẽ mang tính bình dân nhưng cũng rất văn hoa của nhà nghệ sĩ, chẳng hạn
như trong một số sáng tác của cụ Đồ Chiểu. Đi sâu vào thế giới ngôn từ nghệ thuật
của Nguyễn Đình Chiểu nói chung và Lục Vân Tiên nói riêng, chúng ta có thể thấy
vốn từ ngữ dân gian của ông rất phong phú. Nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao được
vận dụng một cách khéo léo, tài tình làm cho từ ngữ Đồ Chiểu gần gũi với lời ăn
tiếng nói của quần chúng nhân dân. Xen vào những vần thơ Đồ Chiểu là những
thành ngữ quen thuộc: phận bạc như vôi, sớm còn tối mất, sống sao thác vậy, đàn
gảy tai trâu, nước xao đầu vịt, ếch ngồi đáy giếng, thịt cá ê hề, bảng lảng bơ lơ, bá
vơ bá vất, tham đó bỏ đăng, vạch lá tìm sâu, treo dê bán chó, gió thảm mưa sầu…
Hoặc có những kiểu định danh được dùng theo cách nói ví của dân gian: nổi như
cồn, đau như dần, súng nổ như bắp rang, đạn bắn như mưa vãi, ghét thói mọi như
nhà nông ghét cỏ, liến hơn cha khỉ, hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng…
đều là cách nói rất riêng, rất độc đáo của người dân Nam bộ. Điều này chứng tỏ nhà
thơ đã tỏ rõ bản lĩnh văn hoá và tinh thần yêu nước khi sử dụng lối nói rất quen
thuộc của quần chúng khu vực văn hoá Nam bộ trong sáng tác của mình.
Đọc thơ văn Đồ Chiểu, ta còn bắt gặp những câu thơ được sáng tạo từ ca dao:
Ai ai cũng ở trong đời, Chính chuyên trắc nết chết thời cũng ma (Lục Vân Tiên) rất
40
giống với ca dao truyền thống: Chính chuyên chết cũng ra ma, Lẳng lơ chết cũng đem
ra ngoài đồng. Âm hưởng của làn điệu dân ca như phảng phất trong thơ văn Đồ
Chiểu: Sen hỡi là sen tiếng chẳng hèn, Thấy sen lỡ vận tiếc cho sen (Dương Từ Hà
Mậu 楊徐 - 荷茂) hình ảnh sen tiếng chẳng hèn gợi sự liên tưởng đến câu ca dao
quen thuộc của nhân dân về loài hoa cao quý: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Rất nhiều câu thơ Đồ Chiểu: Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều, Cám cảnh giang
sơn biết bấy nhiêu (Tự thuật 自述 II), Ví dầu có nhớ tích xưa (Lục Vân Tiên) rất
giống với những lời hát ru quen thuộc của quần chúng trong Nam: Chiều chiều chim
vịt kêu chiều; Ví dầu cầu ván đóng đinh; Ví dầu tình bậu muốn thôi… Qua những ví
dụ kê dẫn trên, chúng ta có thể cảm nhận được cái phong vị bình dị mộc mạc của ca
dao nhưng đồng thời cũng bị lôi cuốn bởi những nét tinh tế đầy hấp dẫn, sâu sắc về
câu chữ, lý tưởng thẩm mỹ của hàn nho Nguyễn Đình Chiểu.
Hoặc trong quá trình khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm Sơ kính tân trang
梳鏡新妝 của Phạm Thái 范彩, chúng tôi nhận thấy có 86 điển cố được lồng vào
trong lời kể, lời tả của tác giả. Điển cố trong lời kể của tác giả rất đa dạng về nội
dung, thích hợp với diễn biến của tình tiết. Có thể nói, đa số nội dung điển cố trong
lời kể của tác giả nói về gia thế, sự nghiệp, tài năng, tình yêu lứa đôi, kết duyên vợ
chồng… Điển cố nguyên dạng Hán Việt và điển cố đã bị Việt hóa (chuyển dịch)
chiếm phần lớn. Chẳng hạn:
“Thềm Trương lan huệ nở chen,
Sắt cầm đã biết mấy phen hài hoà.
Phạm đường cũng mộng hủy xà,
Năm ba thơ ngợi, đào hoa nghi kỳ.
Muộn màng thay giấc điềm bi,
Tinh thành ắt cũng có khi cảm thần.
Sửa sang một cuộc âm phần,
Hàm Thư đan phượng lắm phần tinh hoa…”
(Sơ kính tân trang, câu 53-60)
41
Trong đoạn trích trên tác giả dùng các điển như sắt cầm: đàn cầm và đàn sắt
là hai thứ đàn thường đánh hòa âm với nhau, chỉ cảnh vợ chồng êm ấm, hòa hợp;
mộng hủy xà: chiêm bao thấy rắn, chỉ điềm sinh con gái; đào hoa nghi kỳ: chỉ người
con gái đẹp về nhà chồng. Thơ Đào yêu trong kinh Thi khen người con gái đẹp đã
đến tuổi lấy chồng; giấc điềm bi: mộng thấy sinh con trai. Đây đều là các điển cố
Hán Việt có nguồn gốc từ kinh Thi tác giả cho biết gia đình họ Trương sinh con gái,
gia đình họ Phạm sinh con trai tuy hơi muộn, nhưng việc hứa hôn của hai gia đình
được như ý. Hầu như điển cố, thi liệu trong lời kể của tác giả đều là những điển khá
quen thuộc. Tuy nhiên, vẫn còn một số điển cố, thi liệu trong lời kể của tác giả
không hoàn toàn dễ hiểu và ít xuất hiện. Và như thế, việc sử dụng điển cố hay các
mỹ từ trong ngôn ngữ văn học cổ điển được xem là không thành công.
Như vậy, ngữ liệu văn hoá trong tác phẩm văn học cổ điển, ở một góc độ nào
đấy đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật của tác
phẩm. Trong quá trình hành chức, nó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình sáng tạo
và tiếp nhận văn học. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian, giới hạn của đề tài, hệ
thống ngôn ngữ văn hoá khảo sát ở đây được chúng tôi thu hẹp trong phạm vi ảnh
hưởng và tiếp xúc với văn hoá bác học và bình dân.
1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn chương cổ
điển Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá
Ngôn ngữ nghệ thuật là dạng thức ngôn ngữ được dùng để biểu đạt nội dung
hình tượng của các tác phẩm nghệ thuật. Xét từ phương diện chất liệu, lớp ngôn ngữ
được sử dụng trong các tác phẩm văn chương được bắt nguồn từ kho “quặng chất
liệu” của ngôn ngữ toàn dân, nhưng khả năng tái tạo hình tượng là nét nổi bật của
ngôn ngữ nghệ thuật, do đó những nét tương phản của lớp ngôn từ này chỉ bộc lộ ở
phương diện thẩm mỹ. Đồng thời, bản thân ngôn từ nghệ thuật cũng dung chứa
những ý nghĩa, giá trị văn hoá sâu sắc, thể hiện những tính chất văn hoá đặc thù của
một dân tộc, thời đại trong quá trình hiện thực hoá cảm xúc, tư duy thẩm mỹ nghệ
thuật của nhà nghệ sỹ.
Nếu ngôn ngữ là “công cụ giao tiếp quan trọng nhất” thì ngôn ngữ nghệ
thuật không chỉ là phương tiện miêu tả cái thực tại ngoài ngôn ngữ mà nó còn là đối
42
tượng của sự miêu tả, cần được phân tích và soi rọi. Nó được xem là đối tượng đã
được định danh bậc hai, là những biểu tượng của nội giới mà nhà nghệ sỹ đã hun
đúc được trong hành trình tiếp xúc văn hoá và đi tìm ý nghĩa đích thực của nghệ
thuật. Tuy nhiên, trong giao tiếp nghệ thuật, hệ thống này không chỉ biểu thị một
khái niệm hay một ý nghĩa đơn trị, đơn thuần nào đấy, tức là không tồn tại sự đơn
nghĩa, vì nếu thế sẽ rất lãng phí hình thức. Mỗi một câu, chữ trong tác phẩm đã
dung chứa những giá trị thẩm mỹ của môi trường văn hoá nơi tác phẩm đã ra đời và
lưu truyền, hành thế.
Khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, nhất là
truyện thơ Nôm bác học, hệ thống thi liệu, điển cố luôn không chỉ là những yếu tố
tạo nên sự hấp dẫn mà còn là những rào cản nghệ thuật đối với người đọc. Sự trang
bị cũng như những hiểu biết về văn hoá cổ điển truyền thống Đông phương luôn là
những điều kiện cần thiết. Đó không chỉ là chìa khoá giải mã tác phẩm mà còn thể
hiện bản lĩnh văn hoá, chiều sâu văn hoá trong phong cách của người sáng tác và người
tiếp nhận. Ví dụ:
“Vườn tây uyển khúc trùng thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngả Đình Hoa.”
(Cung oán ngâm khúc 宮怨吟曲)
“Khách đà về chốn tây trai,
Một mình, một bóng đứng ngồi sao yên.”
(Bích Câu kỳ ngộ 碧溝奇遇)
Nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa thực chỉ của những từ như tây uyển, tây trai, Lâm
Xuân, Đình Hoa thì ngôn ngữ tác phẩm trở nên thô cứng, tức là nó chỉ cung cấp cho
người đọc lớp nghĩa bề mặt mà không đi vào lớp nghĩa bề sâu để người đọc có thể
hiểu tác phẩm một cách sâu sắc hơn. Song khi tiếp cận văn hoá với những ngữ liệu
này, người đọc sẽ giải thích được tính hợp lý vốn có để những ngữ liệu này có thể
tồn tại được, tức là người đọc có thể phân tích và nêu bật được nét nghĩa hư chỉ,
nghĩa bóng của ngữ liệu.
Nhà nghiên cứu Ngữ văn học cổ điển Trung Hoa Dương Lâm trong công
trình khảo cứu nổi tiếng Hán ngữ từ hối dữ Hoa Hạ văn hóa đã nhận định: “Tây là
43
nơi mặt trời lặn, cũng là nơi sản sinh ra tối tăm lạnh lẽo, mang ý nghĩa tử vong,
không tốt lành...” [182, tr.57]. Trong thế đối lập tương đối giữa Đông và Tây,
Nam và Bắc nếu những ý nghĩa, hàm nghĩa văn hoá của Đông, Nam thường mang
sắc thái dương tính thì ngược lại Tây, Bắc cũng phái sinh nhiều nét nghĩa mới
nhưng thường mang sắc thái âm tính và do đó nó thường gắn liền với phụ nữ như
Tây Thi 西施 (nhân danh, chỉ người con gái đẹp), Tây tử 西子 (chỉ người con gái
đẹp), Tây trai 西齋 (căn phòng ở phía Tây, nơi con gái ở), Tây Vương Mẫu
西王母 (bà chúa của các tiên nữ), hoặc sự chết chóc, suy vong, yếm thế như Bắc
mang 北邙 (tên địa danh, hàm chỉ nơi chôn người chết), Bắc thủ 北首 (sự phản
bội), Bắc vọng 北望 (sự ngóng mong về cõi Bắc, nỗi nhớ quê hương), Bắc song
北窗 (cửa sổ ở chái Bắc, nơi ở của mẹ)...
Trở lại với hai ngữ liệu tây uyển và tây trai đã dẫn trên, đây là hai ngữ liệu
gắn liền với nữ nhân và nhờ có nó Nguyễn Gia Thiều mới có thể bộc bạch nỗi
lòng của người cung nữ khi nhớ về khúc điệu Đình Hoa của Trần Hậu Chủ, ấy
cũng là một sự hồi tưởng về một quá khứ huy hoàng của những ngày được quân
vương sủng ái hay tác giả truyện Nôm Bích câu kỳ ngộ sử dụng ngữ liệu Tây trai
không chỉ nói về phương hướng của trai phòng mà thực chất là đề cập đến chỗ ở
của người con gái, để từ đó diễn tả nỗi nhớ nhung, tương tư của chàng thư sinh Tú
Uyên đối với Giáng Kiều.
Ở một ví dụ khác, chữ Bắc 北 cũng đã đi vào trong tác phẩm văn thơ cổ Việt
Nam như một ngữ liệu quan trọng giúp cho thi nhân có thể phản ánh không gian
nghệ thuật của thi phẩm. Trong quan niệm của người xưa, Bắc gắn liền với sự u tối,
lạnh lẽo, vì thế những câu thơ xuất hiện chữ Bắc thường tạo nên một âm hưởng
hoang vắng, tàn tạ, nhạt nhoà, phai phôi. Trong tâm trạng nhớ nhung người chồng
nơi chiến tuyến, người chinh phụ đã dõi mắt về hướng Bắc ngóng trông bóng hình
của chinh phu. Thế nhưng, nàng chỉ thấy ở phương đó toàn là những cảnh hoang
vắng, lẻ tẻ vài ba quán khách, giữa muôn trùng núi non, nghe tiếng địch trên lầu cao
tê tái, nỉ non:
“Bắc lai hoà thử bán hoang thành,
44
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh...”
(Chinh phụ ngâm khúc 征婦吟曲)
Hồng Hà nữ sĩ 紅河女士 đã chuyển Nôm rất tài tình như sau:
Trông đường Bắc đòi chòm quán khách,
Mây rà cây xanh ngất núi non.
Lúa thành thoi thót bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Nam Trung tạp ngâm 南中雜吟 là một tập thơ chất chứa những tiếng thở
dài, một tâm trạng, u uất, bế tắc, một trái tim luôn tha thiết với nhân dân, với quê
hương của Tố Như Tử 素如子, trong Tân thu ngẫu hứng 新秋偶興, ông đã viết:
“Giang Thành nhất ngoạ duyệt tam chu,
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.”
(Giang Thành nằm mãi ba năm rồi,
Ngóng Bắc quê nhà cuối tận trời.)
Ngữ liệu bắc vọng 北望 trong hai câu thơ trên hàm chỉ tâm sự mong ngóng, nhớ
nhung về quê nhà trong nỗi cô đơn, u hoài. Đó cũng là tâm sự của chuỗi ngày làm quan ở
Huế nhưng lòng vẫn luôn đau đáu nhớ quê nhà.
Từ góc độ văn hoá bình dân, qua khảo sát một số tác phẩm của cụ Đồ Chiểu,
chúng tôi nhận thấy từ ngữ trong thơ văn Nôm của cụ Đồ luôn có những nét mộc
mạc, bình dị của ca dao và thấm đẫm bản chất chân thật, hồn nhiên, táo bạo và bộc
trực như chính tính cách hào sảng của con người Nam bộ. Có lẽ vì thế những nhân
vật trong thơ văn cụ Đồ, dẫu là những người anh hùng văn võ song toàn nhưng vẫn
đơn sơ bình dị trong hành động cũng như trong giao tiếp. Một nho sinh Lục Vân
Tiên kinh sử làu thông nhưng hành động, cử chỉ quê mùa, lúng túng khi hỏi chuyện
khách qua đường: Cả kêu: “Bớ chú cõng con, Việc chi gấp gáp bon bon chạy hoài”.
Đặc trưng văn hoá Nam bộ càng rõ hơn qua lời đáp trả, tạ từ của anh chàng họ Lục
này, không một chút văn hoa nhưng lại rất rắn rỏi: “Vân Tiên nghe nói rằng ừ! Làm
thư cho kịp chừ chừ chớ lâu”. Những từ ngữ ấy có phần thô cộc, đậm chất khẩu ngữ
và thiếu sự lãng mạn tình tứ cần thiết như bao mối tình tài tử giai nhân trong văn
45
học cổ điển Việt Nam nhưng nó chân chất, bình dị và quen thuộc với văn hoá ứng
xử của người dân Nam bộ nghĩ sao nói vậy! Câu nói của ông Quán: “Quán rằng
ghét việc tầm phào, Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”, tuy có vẻ thô kệch
nhưng lại chất chứa biết bao tình cảm yêu thương, căm ghét rất phân minh, cụ thể.
Đó cũng là cách nghĩ suy rất đặc trưng của nhân dân Nam bộ: Bởi chưng hay ghét
cũng là hay thương.
Vẻ đẹp của những từ ngữ văn hoá bình dân trong các sáng tác Nôm không chỉ
được toát lên từ nghệ thuật sử dụng từ ngữ bình dân mà còn bộc lộ quan điểm của
nhân dân về các vấn đề xã hội. Nguyễn Đình Chiểu đã nói lên được tiếng nói của
người bình dân, thay mặt người dân để bày tỏ lòng ghét thương, nỗi căm giận.
Tiếng chửi trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc rất nôm na dân dã nhưng lại chứa đựng
bao sức mạnh: Bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó. Có những chân lí
hoặc những suy ngẫm về đạo lí ở đời cũng được nhà thơ đúc kết dưới dạng rất giản
dị mà hết sức rắn rỏi:
“Dù đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn nhơ tanh rình.
Dù đui mà đặng trọn mình
Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu”
(Ngư tiều y thuật vấn đáp 漁樵醫術問答)
Từ ngữ được dẫn dụng trong mấy câu thơ tuy đơn sơ nhưng toát lên vẻ sắc
cạnh độc đáo, ông không chỉ bộc bạch quan niệm cá nhân mà còn lột tả được phác
thảo được vẻ đẹp văn hoá của bức chân dung, diện mạo, tính cách của người dân
Nam bộ một cách rõ nét. Nét đẹp của Kiều Nguyệt Nga được miêu tả không giống
như nét đẹp của Thúy Kiều, nhưng Kiều Nguyệt Nga vẫn trội bật lên với vẻ đẹp
quen thuộc, giản dị đời thường: Nguyệt Nga đứng dậy mỉm cười có duyên. Dù là
nho sĩ nhưng diện mạo và tính cách của Hớn Minh chẳng khác gì người vẻ bề ngoài
của nông dân Nam bộ thứ thiệt, chân chất, dám làm dám chịu:
46
“Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nạp cho huyện đường.”
(Lục Vân Tiên 陸雲僊)
Tuy không có ngoại hình hùng dũng như Từ Hải, nhưng Hớn Minh, Lục Vân
Tiên vẫn có được phong độ của một trang hảo hán, một người anh hùng nông dân.
Có lẽ, qua các ngữ liệu văn hoá bình dân được Nguyễn Đình Chiểu sử dụng, người
nông dân côi cút nghèo khó bỗng vụt sáng ngời về tinh thần cứu quốc, xả thân vì
nghĩa cả, họ hiên ngang bước vào văn học Việt Nam như một biểu tượng văn hoá
cao đẹp, một tượng đài vĩ đại của tinh thần yêu nước.
Có thể nói, tham chiếu từ góc độ văn hoá, chúng ta dễ dàng nhận thấy Ngôn
ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam không chỉ là một
công cụ giao tiếp của nhà văn đối với bạn đọc mà nó đã trở thành một hình thức
giao tiếp có tính văn hoá. Tính chất này được thể hiện không chỉ qua tính đa nghĩa
của câu chữ, ngôn từ mà còn được phản ánh qua những nét nghĩa văn hóa được ẩn
hàm bên trong hệ thống ngữ liệu nghệ thuật ấy. Nhà văn giao tiếp với độc giả trong
một môi trường văn hoá trung đại và qua quá trình này, nhà nghệ sỹ có điều kiện
bộc lộ, thể hiện chiều sâu văn hoá đối với quá trình cắt nghĩa cuộc sống theo cách
riêng của mình.
1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm - Tấm gương phản chiếu văn hóa
1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao tiếp đặc thù
của văn học cổ điển Việt Nam
Khi tiếp cận ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam nhất là truyện thơ Nôm bác
học, độc giả phải tiếp xúc với một hệ thống ngữ liệu cổ văn rất phong phú về nội
dung và phức tạp về nguồn gốc. Do đó, để hiểu và thưởng thức vẻ đẹp, xúc cảm với
những ý nghĩa nội tại hàm ẩn trong ngôn ngữ tác phẩm văn chương thời kỳ trung
đại, người thưởng thức phải được trang bị một vốn kiến thức về lịch sử, văn hoá,
đặc điểm xã hội, đặc điểm thi pháp cổ điển... mà cần thiết hơn cả là sự hiểu biết về
47
nguồn gốc, xuất xứ văn hoá của hệ thống điển cố, thi văn liệu. Bởi lẽ đây là lớp từ
ngữ đa nghĩa, được sử dụng thường xuyên và phổ biến trong thi pháp văn học cổ.
Những ngữ liệu đã được trừu tượng hoá, khái quát hoá và đúc rút từ những mẩu
chuyện lịch sử, văn chương, cách đối nhân xử thế, kinh nghiệm sống... của tiền nhân
được ghi chép và lưu giữ trong kho thư tịch cổ của Trung Hoa và Việt Nam.
Những dấu ấn văn hoá, quan niệm nhân sinh, văn chương, xã hội đã ảnh
hưởng rất lớn đến hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm. Đặc biệt, trong
quá trình hành chức của nó, hệ thống ngữ liệu này đã góp phần hình thành tính đa
nghĩa của ngôn ngữ tác phẩm. Chẳng hạn, khi gặp các ngữ liệu như đông sàng,
đông quân, thanh đế, xuân phong, thu phong, tàn lạp, sương diệp, tây phong, tây
lầu, tây sương, tây trai, tây uyển... trong các thi phẩm trung đại, chắc hẳn người
đọc sẽ không khỏi băn khoăn vì lớp ngữ nghĩa rất phức tạp của nó. Tuy nhiên, khi
mã văn hoá của các ngữ liệu này đã được biện giải thì quá trình tìm hiểu tác phẩm
sẽ trở nên hấp dẫn và thú vị hơn.
Sau khi ra đời và bước vào đời sống văn học dân tộc, Truyện Kiều đã thực sự
trở thành món ăn tinh thần cho bao thế hệ người đọc Việt Nam. Cùng với Lục Vân
Tiên ở Nam Bộ, tác phẩm này đã trở thành song đại tuyệt phẩm của thể loại truyện
Nôm bác học. Sự ra đời của Truyện Kiều đã góp phần to lớn làm phong phú đời
sống văn hóa dân tộc. “Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà Chính Thái, xem nôm
Thúy Kiều” đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt. Ngôn ngữ
Truyện Kiều đã đạt đến độ tinh xảo, chính xác, là điển hình tiêu biểu cho sự phát
triển toàn thịnh của ngôn ngữ văn học dân tộc và những tác động của nó, đặc biệt là
lớp từ ngữ văn hóa Truyện Kiều đã đi vào ca dao dân ca như những ngữ liệu, chất
liệu là tô đậm thêm vẻ đẹp duyên dáng của văn hoá, văn học dân gian Việt Nam.
Nguyễn Du miêu tả khung cảnh tài tử giai nhân tao ngộ qua sự xuất hiện của
Kim Trọng trong buổi Thanh minh:
“Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha mầu áo nhuộm non da trời.”
(Câu 0139 - 0140)
48
“Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”
(Câu 0143 - 0144)
Một bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội được nhà thơ phác thảo qua
những hình ảnh văn hoá rất đặc trưng của Trung Hoa, Việt Nam. Con người trong tiết
Thanh minh đi sửa phần mộ và tìm đến những bóng hình quá khứ tạo nên một dạng
thức của không gian hồi cố trong tâm cảm. Đặng Thanh Lê đã phân tích bức tranh
Thanh minh ấy một cách khéo léo và hấp dẫn như sau:
Nguyễn Du đã chứng tỏ bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn
gọn về một sinh hoạt thông thường: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nghi lễ
và hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhưng đó vẫn là hai hình thức
sinh hoạt văn hoá có điểm khác biệt: Hội đạp thanh là cuộc vui chơi trên dặm
cỏ xanh của lứa tuổi thanh xuân... Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và
có thể tìm thấy sợi tơ hồng cho mai sau... trong tiết Thanh minh, có hồi ức, có
tưởng niệm (lễ là tảo mộ) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía
trước của cuộc đời (hội là đạp thanh)... [82, tr.33].
Khung cảnh thiên nhiên diễm lệ ấy cũng chính là cái cớ để nhà thơ miêu tả một
bức chân dung hoàn chỉnh về người nho sỹ tài hoa theo quan niệm Nho gia. Có lẽ, ở
đoạn thơ này, Nguyễn Du đã chọn bức tranh thanh minh làm nền cho bức truyền thần
của Kim Trọng như một sự tương tác nghịch chiều. Vẻ đẹp thiên nhiên trở nên thơ
mộng hơn nhờ có hình ảnh con người và hình ảnh con người trở nên sinh động hơn
nhờ có thiên nhiên vậy. Thiên nhiên là chuẩn mực, con người là điểm son. Tất cả
những ngữ liệu miêu tả Kim Trọng đều gắn liền với màu xanh: hài văn lần bước dặm
xanh, cỏ pha màu áo nhuộm non da trời, một vùng như thể cây quỳnh cành dao...
Đông - Xuân - Thanh - Tuổi trẻ - Tình yêu là những từ mang tâm thức văn hoá, dễ
liên tưởng qua lại, chính điều đó đã mang lại cho đoạn thơ và ngôn ngữ tự sự tác giả
đậm chất trữ tình, nhẹ nhàng, có chiều sâu triết lý, văn hoá. Đồng thời, cách thức liên
tưởng ấy cũng tạo nên chuỗi thanh âm phức điệu, những hoà điệu mang tính ngữ
cảnh của thể loại truyện Nôm, xu hướng cao nhã và cảm thức văn hoá cá nhân tác giả.
49
Bản thân nó (tức thanh âm phức điệu) có thể tạo nên một tiềm năng ngữ nghĩa mà
mỗi độc giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo cho mình những mô thức tái hiện riêng biệt, tuỳ
thuộc vào “tầm đón nhận” và chiều sâu văn hoá của mỗi cá nhân.
Như vậy, hơn bất kỳ một phương tiện nào khác, ngôn ngữ nghệ thuật không
chỉ thể hiện đặc trưng thẩm mỹ của thể loại và tác giả mà còn góp phần phát triển
quá trình tư duy và đặc điểm nghệ thuật của một mô hình phản ánh cuộc sống, giúp
nhà văn có thể triển khai ý đồ nghệ thuật theo thủ pháp mỹ học đặc trưng của thơ ca
trung đại: Ý tại ngôn ngoại 意在言外 (ý ở ngoài lời), huyền ngoại chi âm 絃外之音
(âm thanh ở ngoài tiếng đàn) và cam dư chi vị 甘餘之味 (vị ngọt ở ngoài vị ngọt).
Hơn thế nữa, nó còn thể hiện sự lịch lãm, trình độ văn hoá, chiều sâu văn hoá, chiều
sâu tư tưởng của tác giả văn học, kể cả sự trang nhã, uyên bác của Ngôn ngữ nghệ
thuật văn học cổ điển.
1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ nghệ
thuật truyện Nôm
Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ văn chương cổ điển từ lâu đã được
các nhà khoa học Ngữ văn quan tâm khảo sát, song sự thống nhất trong quan điểm
nghiên cứu về nội hàm và ngoại diên của các khái niệm này vẫn chưa được minh
định cụ thể, chi tiết hoá, đây cũng chính là những vấn đề cốt lõi của việc nghiên cứu
ngôn ngữ văn hoá trong một đối tượng cụ thể. Trong bối cảnh chung đó, việc đề
xuất một cách hiểu sơ khởi về khái niệm này của tác giả luận án đã góp phần xây
dựng nên hệ quy chiếu để phân loại và biện giải về hệ thống ngữ liệu bác học và
bình dân trong ngôn ngữ truyện Nôm nói chung. Khi trở thành một yếu tố quan
trọng của ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, hệ
thống ngữ liệu này đã phát huy tối đa tiềm năng vốn có, giúp cho nhà nghệ sỹ có thể
diễn đạt uyển chuyển, hấp dẫn những khái quát nghệ thuật ở cấp độ cao. Việc sử
dụng thành thạo, hợp lý các ngữ liệu văn hoá này trong các thể loại, tác phẩm văn
chương đã trở thành tiêu chí đánh giá về sự uyên bác, độ thâm thuý và khả năng
chiếm lĩnh đời sống thông qua những nguyên tắc thi pháp và các phương thức biểu
hiện đặc thù.
50
Tiếp xúc với nghệ thuật, nhất là nghệ thuật văn chương cổ điển, ấn tượng
đầu tiên là ở tính thẩm mỹ, sự cách điệu, khả năng đăng đối trong hình thức.
Không chấp nhận điều này, người thưởng thức khó có thể đặt chân vào thánh
đường nghệ thuật. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong văn chương, đặc biệt văn học
cổ điển Việt Nam cũng có đặc trưng như vậy. Nghệ thuật lựa chọn, kết hợp và sử
dụng các ngữ liệu văn hoá đã kiến tạo cấu trúc thẩm mỹ, độ sâu sắc và sự thâm
thuý cho ngôn ngữ tác phẩm văn học trung đại ở Việt Nam. Khảo sát ngôn ngữ
văn học cổ điển từ góc nhìn văn hoá, có lẽ chúng ta cần xem xét đặc trưng của hệ
thống này trên hai phương diện nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật, qua đó
phân tích, biện giải và cắt nghĩa những tác động của nó, nhất là sự tương tác thẩm
mỹ của sự sáng tạo và tiếp nhận trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn chương
trung đại Việt Nam.
Về phương diện nội dung, nếu như ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp khẩu
ngữ, tính cộng đồng (cũng là một đặc trưng của văn hoá) được thể hiện rất cao, nó
đảm bảo cho quá trình luân chuyển ngữ nghĩa trong chuỗi lời nói không bị đứt
quãng thì khi đi vào tác phẩm nghệ thuật, do được trau chuốt, gọt dũa, đặc biệt dưới
áp lực của môi trường, bối cảnh và đặc trưng văn hoá của thời đại và thể loại, sự gia
tăng các nội hàm ngữ nghĩa mới trong các từ ngữ nghệ thuật được nâng lên rất cao
và trở thành lớp ngôn từ được tổ chức ở trình độ cao. Ý nghĩa khái quát cao và đậm
nét tượng trưng của lớp từ ngữ này đã tạo nên sự cô đọng cho câu thơ, lời văn và
hơn thế nữa, nó còn góp phần diễn đạt cấu trúc của hệ thống cảm xúc, tứ thơ đặc sắc
của thi nhân. Đặc điểm ngôn ngữ này được các nhà nghiên cứu văn học cổ gọi là
tính hàm súc, cô đọng và tiết giản. Đặc tính này đã hỗ trợ đắc lực cho các tác giả tổ
chức hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm theo thi pháp văn học cổ trung đại:
tính tượng trưng ước lệ, cao nhã và quy phạm, đồng thời phản ánh phong cách thời
đại, quan niệm về nhân sinh, dấu ấn văn hoá của một giai đoạn lịch sử. Có lẽ, những
yếu tố này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn hay sức sống bền lâu cho những tác
phẩm văn học cổ trung đại và có thể đây cũng là những điều kiện tiên quyết đảm
bảo cho sự thành công của ngôn ngữ các tác phẩm như Hoa tiên, Lục Vân Tiên, Sơ
51
kính tân trang, Song Tinh Bất Dạ... Và đó cũng chính một nguyên nhân góp phần
tạo nên sự điêu luyện, sâu sắc, dung dị, bình dân, cổ kính bác học của Truyện Kiều
hay chiều sâu văn hoá trong tâm thức nghệ thuật và tư duy, chiêm nghiệm, lý giải
về cuộc sống của văn thi sĩ tiêu biểu trong văn hoá, văn chương cổ điển Việt Nam.
Hệ thống từ ngữ nguyên dạng Hán Việt và chuyển dịch thuần Việt trong tác
phẩm văn học cổ trung đại là những từ ngữ mang những nét nghĩa văn hoá, nó có
sức khái quát cao đã giúp cho tác giả có khả năng miêu tả hiện thực theo một bút
pháp cực tả, tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá. Nói cụ thể hơn, đây cũng chính là biểu
hiện cao độ của tính hàm súc, cô đọng, tính biểu trưng trong nội dung tác phẩm. Nó
thể hiện ở xu hướng khái quát hoá, ước lệ hoá với những cấu trúc cân đối hài hoà,
đăng đối trong nội dung thi liệu mà chúng ta đã phân tích trên. Ngoài ra, hệ thống
từ ngữ này góp phần thể hiện lối tư duy cầu tính, sùng cổ, có tính trật tự thứ bậc của
văn hoá Việt, từ đó chi phối đến xu hướng trọng sự cân đối hài hoà, hàm súc, cô
đọng trong ngôn từ nghệ thuật.
Xét về phương diện hình thức nghệ thuật, tính hàm súc, cân đối hài hoà trong
hình thức, ý tượng đã tạo nên tính biểu trưng cho những thi từ đặc sắc. Những đặc
tính này không chỉ đơn thuần là những biểu hiện đặc trưng cho ngôn từ thi ca, mà
sâu xa hơn là nó đã được sản sinh ra từ nhu cầu thể hiện, biểu đạt một cách khái
quát nhất những nội dung cụ thể, đó là sự dồn nén những thông tin. Đây là những
biểu tượng về vẻ đẹp chuẩn mực hài hoà mà ông cha ta đã học tập và sáng tạo trong
tiến trình phát triển của lịch sử văn chương nước nhà. Bắt nguồn từ tính đăng đối
trong hình thức thể hiện, ngôn ngữ nghệ thuật đã phản ánh những quan niệm văn
hoá về mỹ học cổ điển, đó là quan niệm tôn trọng sự hài hoà giữa nội dung và hình
thức (xét ở góc độ nào đấy). Nếu chất liệu tươi rói của phong cách khẩu ngữ đã tạo
cho các ngữ liệu văn hoá một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, đầy sức sống thì những giá
trị văn hoá bác học góp phần giúp cho ngữ liệu có thể lột tả được những nét đẹp
uyển chuyển, sắc thái uyên bác, cao nhã cho các ngữ cảnh được miêu tả. Nếu xem
xét từ góc độ từ chương học, ngữ liệu văn hoá còn có khả năng mang lại sắc thái tu
từ, góp phần tạo nên trường liên tưởng sâu rộng, tạo nên sự hô ứng, hài hoà, mang
màu sắc bác học, quý phái, vương giả, kiêu kỳ.
52
Như vậy, xét ở phương diện nghệ thuật, các ngữ liệu văn hoá trong ngôn từ
nghệ thuật đã phát huy được tính năng động vốn có của nó: tính thẩm mỹ và đăng
đối. Yếu tố thẩm mỹ khách quan của các thi liệu văn hoá thích hợp với việc nhấn
mạnh các sắc thái mơ hồ, trang trọng... và nó “không thích hợp với việc cụ thể hoá
đối tượng phản ánh nhưng nó lại vô cùng thích hợp khi ta muốn vĩnh viễn hoá sự
việc, đẩy lùi nó về thế giới ý niệm. Nó cấp cho ngôn ngữ cái vẻ dứt khoát, đanh thép
của những chân lý vĩnh viễn...” [100, tr.54].
1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều
1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du
Quan niệm thẩm mỹ là một thuật ngữ thuộc bộ môn Mỹ học và Lý luận văn
học. Thuật ngữ này, ở Việt Nam, có người gọi là thẩm mỹ quan, nhưng phổ biến
hơn cả vẫn là quan niệm thẩm mỹ. Trong giáo trình Nhập môn Lý luận văn học
(2014), Huỳnh Như Phương đã định nghĩa như sau: “Quan niệm thẩm mỹ là sự tự ý
thức của đời sống thẩm mỹ, trong đó có đời sống nghệ thuật, của một thời đại và
được phát ngôn qua những cá nhân kiệt xuất, bằng những khái niệm và mệnh đề
suy lý” [108, tr.81].
Có thể nói, nội hàm thuật ngữ này luôn có sự co giãn, nhưng nhìn chung,
quan niệm thẩm mỹ qua nhiều thời đại được hiểu là sự tự ý thức, cách cảm thụ,
đánh giá của chủ thể về đời sống thẩm mỹ, trong đó có đời sống nghệ thuật. Trong
Tâm lí văn nghệ, Chu Quang Tiềm đã phân chia cái đẹp làm hai dạng thức cơ bản
khác nhau: cái đẹp nhu tính và cái đẹp cương tính. Theo ông, cái đẹp cương tính chủ
về động, cái đẹp nhu tính chủ về tĩnh, động như say, tĩnh như mộng, ông cho rằng:
Quan niệm âm, dương có thể nói đã in sâu vào tâm tưởng mọi người,
cho nên hai cái đẹp thuộc loại “cương, nhu” đã được các nghệ thuật gia phân
chia rành mạch. Về phương diện thơ thì có sự khác biệt giữa họ Lý và họ Đỗ,
họ Vi, họ Mạnh, về phương diện từ thì có sự khác biệt giữa họ Tô, họ
Tân... [150, tr.356].
Lưu Cương Kỷ 劉綱紀 và Phạm Minh Hoa 范明華 trong Chu Dịch dữ mỹ
học 周易與美學 cho biết, trong lịch sử nghiên cứu mỹ học Trung Quốc, vấn đề cái
53
đẹp và vấn đề sinh mệnh có quan hệ mật thiết với nhau và “Cái đẹp được nảy sinh là
lấy sự biến hoá, phát triển lành mạnh, bình thường của sinh mệnh tự nhiên làm tiền
đề” [187, tr.13].
Có thể nói, mỹ học cổ điển Việt Nam đã được hình thành trên nền tảng của
quan điểm triết mỹ phương Đông và văn hoá cổ truyền dân tộc. Trong văn chương,
các tác phẩm tập trung thể hiện theo định hướng cơ bản là Thi dĩ ngôn chí 詩以言志
và Văn dĩ tải đạo 文以載道, Văn dĩ minh đạo 文以明道. Dưới ảnh hưởng của triết
học, mỹ học Nho giáo, loại văn chương được đề cao là văn chương chở đạo, phụng
sự con người. Trong suốt gần mười thế kỷ phát triển văn học Hán Nôm Việt Nam,
hệ thống mỹ học cổ điển phong kiến dành quyền cho chủ thể được phép bày tỏ chí
lớn của mình trong phạm vi quan niệm xử thế của Nho giáo: Tu 修, Tề 齊, Trị 治,
Bình 平. Về hình thức biểu hiện của cái đẹp, người xưa thường hướng đến tính hài
hoà, đăng đối, cao quý, thanh nhã. Trong chuyên luận Mấy vấn đề về phương pháp
dạy thơ văn cổ Việt Nam (1984), nhà nghiên cứu văn học cổ điển Nguyễn Sĩ Cẩn có
lí khi nhận xét: “Đối với người xưa, thế giới là một chỉnh thể tĩnh tại. Cân đối, hài
hòa là ý niệm của cái đẹp (...). Cao quý, thanh nhã là những phạm trù của văn học
cổ” [13, tr.32]. Ông còn khẳng nhận rằng: “Người nghệ sĩ xưa quan tâm đến cái gợi
hơn cái tả (...). Giá trị thẩm mỹ của câu văn, lời thơ toát lên từ nội dung hàm súc và
tính không xác định của nó” [13, tr.33].
Sự hình thành quan niệm thẩm mỹ ở mỗi người nghệ sĩ luôn gắn với nhiều
yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Ý thức hệ tư tưởng, môi trường thẩm
mỹ, lịch sử văn hoá, xã hội, gia đình, dòng họ... là những điều kiện khách quan đã
chi phối mạnh mẽ đến quá trình hình thành quan niệm và ý thức mỹ học của người
nghệ sĩ. Thi sĩ Nguyễn Du cũng không ngoài quy luật chung đó. Quan niệm thẩm
mỹ của ông được hình thành trên những cơ sở có tính khách quan và chủ quan.
Nguyễn Du chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những điều kiện văn hoá, tư tưởng xã hội,
nhưng cá nhân ông đã thẩm thấu những vấn đề của thời đại, tiếp thu và vận dụng cải
biến để xây dựng thành quan niệm của riêng mình. Về cơ sở hình thành quan niệm
thẩm mỹ ở Nguyễn Du, chúng ta có hình dung qua mấy căn cứ sau:
54
Thứ nhất, Nguyễn Du đã sinh trưởng trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ
phong kiến Việt Nam và một giai đoạn đầy bi kịch của lịch sử dân tộc. Trong sáng
tác của Nguyễn Du, dưới những tác động của một môi trường lịch sử, văn hoá đặc
biệt ấy, nét nổi bật chính là sự dâng trào cao độ của xúc cảm và một cảm quan hiện
thực sâu sắc. Vì thế, ta luôn cảm thấy trong thơ Nguyễn Du luôn vang lên những
thanh âm, ánh lên sắc màu của cuộc sống trần thế. Không những vậy, thế giới trữ
tình của nhà thơ khắc hoạ rõ những nét sắc cạnh, chân thực không khoan nhượng về
một bức tranh hiện thực phong phú, đa dạng. Đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp, sự chân thực
của bức tranh đa thanh sắc ấy, chúng ta sẽ nhận thấy Nguyễn Du hiện ra với tư cách
của một nhà nhân đạo vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Có lẽ,
trong số những yếu tố trội bật của thế giới nghệ thuật Tố Như tử, đây dường như là
điểm đặc sắc, tích cực nhất và đáng chú ý nhất của ông. Nó tạo nên cái sức sống kỳ
lạ, bền bỉ ở hầu hết tác phẩm của ông, nhất là thơ chữ Hán và Truyện Kiều.
Thứ hai, Nguyễn Du sinh ra ở phường Bích Câu 碧溝 thuộc kinh thành
Thăng Long 昇龍, một vườn địa đàng nghệ thuật thời bấy giờ. Những năm tháng
sống ở chốn lầu son gác tía tuy cổ kính nhưng đầy rẫy những chướng ngại và bất
trắc vô hình. Những sắc màu của cuộc sống, các địa danh văn hoá tiêu biểu cổ thành
Thăng Long, Bích Câu đã tạo nên câu thơ đẹp, những ý tưởng thẩm mỹ sâu sắc
trong thế giới nghệ thuật thơ của ông. Và Nguyễn Du dù đã trải qua những ngày
tháng tha hương trên đất Bắc nhưng trong tâm trí ông, những ký ức, hình ảnh về quê
hương xứ Nghệ luôn hiển hiện, đi về. Với quê hương, ông là người để lại nhiều dấu
ấn đáng nhớ trong các sinh hoạt văn hoá làng xã. Nguyễn Du đã viết bài Thác lời
trai phường nón trả lời bài Thác lời trai phường vải của Nguyễn Huy Quýnh
阮輝炯, một tuyệt phẩm chan chứa những rung cảm tế vi, trong sáng của tuổi đôi
mươi hồn nhiên, trong sáng.
Bên cạnh những ảnh hưởng của quê hương xứ Nghệ giàu truyền thống thi ca,
sự tác động của một văn phái lừng lẫy ở mảnh đất Hồng lĩnh 鴻嶺 cũng là điều
đáng nói. Từ năm 1943, Hoàng Xuân Hãn đã định danh và nghiên cứu về Hồng Sơn
văn phái 鴻山文派. Có thể nói, đây là một danh xưng khá thi vị, dụ chỉ cho một
55
nguồn di sản văn hoá truyền thống của 99 ngọn hùng phong thuộc dải Hồng Sơn hùng
vĩ. Trần Ngọc Anh trong Hồng Sơn văn phái - Nguồn thi ca Nôm một vùng quê (1999)
đã tiếp tục khẳng định:
“Vùng đất địa linh nhân kiệt ấy đã hun đúc nên bao danh nhân kiệt
xuất, những thần bút kỳ tài làm rạng danh nền văn học nước nhà như Phan
Kính, Nguyễn Huy Oánh, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Quýnh,
Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ…” [07, tr.12].
Như vậy, về mặt lịch sử và văn học, đất Hồng Sơn đã sản sinh ra một nguồn thi
ca Nôm đặc biệt và phát triển liên tục với sức sống bền bỉ, không ngừng.
Thứ ba, từ mạch nguồn văn hoá gia đình, phẩm chất tài hoa của người cha và
thiên tính nghệ sĩ của người mẹ đã ảnh hưởng không ít đến tư tưởng thẩm mỹ của
ông. Họ Nguyễn ở Tiên Điền lại có mối quan hệ thông gia, gắn bó văn học với họ
Nguyễn Huy ở Trường Lưu nổi tiếng về văn học ở vùng Nghệ - Tĩnh. Sống trong
môi trường văn nghệ đó, năng khiếu nghệ thuật của Nguyễn Du có điều kiện nảy
nở, phát triển từ sớm và điều ấy cũng tác động mạnh mẽ tới quan niệm thẩm mỹ của
ông về sáng tạo văn chương nghệ thuật. Có thể nói, những năm tháng tuổi thơ ở đất
kinh kỳ, những ảnh hưởng của vùng văn mạch nghìn năm cùng với bản tính tài tử
của nghiêm phụ và ưu chất nghệ sĩ của thân mẫu - người con của vùng đất quan họ
Bắc Ninh đã hun đúc nên một Nguyễn Du tài hoa bậc nhất thời bấy giờ. Cùng với
“mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần 十載風塵) và những năm tháng về quê
sống “dưới chân Hồng Lĩnh”, thi sĩ có dịp hiểu biết, sống gần gũi quần chúng, ngọn
nguồn của mọi giá trị tinh thần cao quý nhất của dân tộc. Thiên tài lỗi lạc của
Nguyễn Du, những gì là của hồn thơ bất diệt ấy đã được ấp ủ và nảy nở có lẽ chủ
yếu trong những năm tháng buồn vui lẫn lộn này.
Thứ tư, Tiên Phong Mộng Liên đường chủ nhân 僊峰夢蓮堂主人 khi đề tự
Truyện Kiều đã nhận xét về tài năng của Nguyễn Du, ông cho rằng nhà thơ là người
có “đôi mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời”. Người xưa đã hết lòng
vì kẻ tri âm nên đã thốt lên những lời tri kỷ ấy vậy. Mộng Liên Đường quả là người
thấu hiểu tâm sự của Nguyễn Du và phong cách triết nhân của thi nhân. Có lẽ điều
56
ấy xuất phát từ một định mệnh, Nguyễn Du không phải là con người hành động mà
là con người tư tưởng, của sự u uất. Cái cõi đời với bao thăng trầm và cõi người với
bao buồn vui không chỉ là nỗi niềm trăn trở của ông mà còn là chỗ tìm về của tư
tưởng Nguyễn Du với Truyện Kiều, là một tuyệt phẩm đã đi đến chỗ diệu vợi.
Dường như, Nguyễn Du được sinh ra để suy tư, ông đã tự nhận điều ấy: “Phong vận
kỳ oan ngã tự cư” (Độc Tiểu Thanh ký). Một thể chất yếu đuối, nhạy cảm, một cá
tính trầm lặng, ít nói với một tâm hồn tế vi, khiến Nguyễn Du thuộc về mẫu người
nghĩ hơn là làm, suy tư nhiều hơn là hành động. Trong chuyên luận Văn hoá Việt
Nam nhìn từ mẫu người văn hoá, Đỗ Lai Thuý đã gọi “Nguyễn Du là con người
đang đi trên đường tìm kiếm sự hài hoà” [148, tr.330], là nhà thơ của những niềm
tâm sự, là con người của những miền ký ức.
Theo thống kê của chúng tôi, qua 203 bài trong Nguyễn Du toàn tập [31] - từ
Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 qua Nam Trung tạp ngâm 南中雜吟 đến Bắc hành
tạp lục 北行雜錄, hơn 100 lần xuất hiện các hình thức nghi vấn, tự vấn, cật vấn…
Có lẽ, ngoài Cao Chu Thần 高周臣 - người trí thức chưa học được phép ngủ - chưa
có nhà thơ trung đại nào lại đặt ra khá nhiều câu hỏi như Tố Như vậy. Đi qua những
trải nghiệm, những xót xa của thời cuộc, những tang thương của chính bản thân, sau
khi bị trục xuất khỏi toà lâu đài quý tộc, phiêu dạt trong cõi nhân gian và tha hương
ngay trên chính quê hương của mình, Nguyễn Du dường đã tự xây dựng cho mình
một cô đài thi ca với những hình ảnh đau thương, những vong hồn u mê lạc lối trên
đường hoá sinh. Đối tượng hướng đến của Nguyễn Du là cuộc đời, con người trong
những dằn vặt đau thương và dường như là chính bản thân mình nữa. Khi ông nói
đến cổ nhân, các bậc danh sĩ, kỳ nữ tài tình, hương sắc thì không gì khác là ông
đang tự thú về bản thân mình, là tinh thần Ngã tự cư 我自居 - một cảm thức tự thú,
hướng ngã mà ông đã từng khẳng định. Vì thế, trong quá trình vận động, tự thân nó
đã hình thành nên một hệ thống quan niệm thẩm mỹ, quan niệm của nghệ thuật rất
riêng tây của một người làm thơ đã đạt đến trình độ có mã thơ riêng của mình và vì
lẽ ấy ông cũng là phong cách văn hoá của một nhà tư tưởng đầy cá tính.
57
Tóm lại, Nguyễn Du là một con người đa cảm, đầy ưu tư, một nhà nghệ sĩ cá
tính. Với một cảm quan hiện thực và tấm lòng nhân văn đặc biệt, trong sáng tác của
mình, ông muốn hoá giải những mặc cảm bị tước đoạt bằng một hành trình đi tìm
những hoà hợp giữa tư tưởng và nghệ thuật. Nguyễn Du đã tìm sự hài hoà giữa ý
thức tôn giáo và ý thức thẩm mỹ. Điều ấy đã làm nên một hệ thống chủ đề tư tưởng
thẩm mỹ lý thú trong sáng tác của ông vậy. Trên bước đường sáng tạo ấy, dù ở bất
kỳ phương diện nào, chúng ta cũng cảm nhận được ở Nguyễn Du một nhãn quan tư
tưởng, một tấm lòng vang vọng đến ngàn đời. Ông xứng đáng được tôn vinh là thi sĩ
của nhân văn và thi phẩm Truyện Kiều của ông là những thanh âm trong trẻo của nhà
hiền triết thiên tuế trường ưu 千歲長憂, là khúc bi ca đoạn trường mang tính nhân
văn của một thời đại đầy những bất công và khủng hoảng.
1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và
Truyện Kiều
Về quan niệm thẩm mỹ của một tác gia văn học cụ thể, các nhà nghiên cứu
nhận thấy có hai hình thức thể hiện, đó là những phát biểu trực tiếp bằng những
mệnh đề lí thuyết duy lí, hoặc gián tiếp thông qua hệ thống đề tài, ngôn ngữ, hình
ảnh... Trong Văn chương, thẩm mỹ và văn hóa, Lê Ngọc Trà đã khẳng định: “Hình
tượng nghệ thuật không chỉ mang bóng dáng của hình ảnh đời sống mà còn chứa
đựng cả quan niệm của nhà văn về nó” [163, tr.298]. Các tác giả của Từ điển thuật
ngữ văn học cũng khẳng định: “Đề tài của tác phẩm là một phương diện trong nội
dung của nó, là đối tượng đã được nhận thức, lựa chọn gắn liền với dụng ý, thế giới
quan, lập trường tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ của nhà văn” [54, tr.98].
Theo khảo sát của chúng tôi, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du đã được
tác giả thể hiện khá rõ trong hai mảng sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Với từng
đối tượng, ông có cách nhìn nhận, đánh giá cụ thể, chi tiết và khách quan. Chúng ta
có thể khái quát thành các phương diện sau:
Một là, quan niệm thẩm mỹ của ông được bộc lộ rõ nét qua cái nhìn về cuộc
đời và con người. Trong thẩm mỹ quan, nhân sinh quan của Nguyễn Du, chúng ta
không chỉ thấy có sự hiện diện của tư tưởng Thiên mệnh luận 天命論 của Nho giáo
mà nó còn chịu nhiều ảnh hưởng, tác động của thế giới quan, nhân sinh quan Phật
58
giáo và Lão giáo. Ông nhìn cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ nghĩa,
yêu thương, xót xa cho thân phận con người, trong bài Giang đình hữu cảm
江亭有感, ông viết: “Bách niên đa thiểu thương tâm sự” (Cuộc đời trăm năm biết
bao nhiêu chuyện thương tâm). Một tâm tư trĩu nặng những nỗi đau dường đã dồn
chứa trên đầu ngọn bút và tâm can của nhà thơ. Xúc cảm trong mạch văn ấy biểu lộ
nỗi đau đời khôn nguôi, nỗi thương đời vô hạn do chính cảm nhận chân thực của
nhà thơ về cuộc đời, nên có sức mạnh truyền cảm, lan toả đến muôn đời sau và có lẽ
đó cũng chính là tâm sư của ông trong bài Tái thứ nguyên vận 再次原韻: “Phù thế
kỷ kinh tang lỗ biến, Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn” (Cuộc đời phù sinh đã trải qua
bao phen ruộng dâu biết thành ruộng muối, đầu giường luôn có nậm rượu đầy như
cũ). Và xuất phát từ nền tảng văn hoá, tư tưởng triết học phương Đông, Nguyễn Du
đã tự mình tạo dựng nên những cơ sở triết học, mỹ học để có thể triển khai một hệ
thống tư tưởng nhân sinh của mình theo hướng kết hợp Nho, Phật và Lão trên nền
tảng tâm thế Việt: lấy sự cảm thương, đồng điệu làm điểm tựa cho những nhận định
về nhân thế.
Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du nhận định luật Tài mệnh tương đố
才命相妒 là một quy luật đắng cay của cuộc đời mà con người phải gánh chịu:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
(Câu 01 - 04)
Cái nhìn bi quan về cuộc đời như vậy đã đẩy Nguyễn Du đi tới những quan
niệm có tính yếm thế. Trong thơ chữ Hán, ông đã từng thốt lên: “Bách niên thân thế
uỷ phong trần, Lữ thực giang tân hựu hải tân” (Mạn hứng 漫興) (Cuộc thế trăm năm
phó mặc gió bụi, hết ăn nhờ ở miền sông lại ăn nhờ ở miền biển). Trong Truyện Kiều,
thông qua phương thức xử lý diễn biến số phận nàng Kiều, chúng ta thấy rõ một
Nguyễn Du đau đời, thương đời khi đưa ra thông điệp về nỗ lực tu tâm, hành thiện
con người sẽ cải hoá được số phận, từ đó có thể thay đổi được thiên mệnh.
59
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
(Câu 3251 - 3252)
Phải chăng trong quá trình nhận thức đó, yếu tố tâm linh trong văn hoá Việt
Nam hay tình cảm, sự duy tình, yêu thương con người đã chi phối và hướng dẫn
chiều hướng tư duy của Nguyễn Du, đưa tư tưởng ông đạt tới sự nhận thức và phản
ánh chân thực tâm nguyện, hy vọng của dân chúng. Đó là thành công lớn của
Nguyễn Du và đã khiến ông trở thành nhà thơ của nhân dân, được nhân dân tôn vinh.
Bên cạnh đó, theo quan niệm triết mỹ Đông phương, muôn vật trong giới tự
nhiên đều có thiên chân. Chính vì vậy, con người và tự nhiên có mối quan hệ tương
thông với nhau. Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là cả một thế
giới u uẩn. Ông phát hiện ra nó vừa tĩnh vừa động và có tính triết mỹ. Đặc biệt,
trong mối quan hệ với thiên nhiên và con người với nghệ thuật, nhà thơ luôn đề cao
đặc tính tự nhiên, “thiên chân” của vạn vật, nhà thơ luôn tự nhắc nhở bản mình:
“Thương tàn vật tính bi phù hĩnh,
Khắc lạc thiên chân thất mã đề.”
(Ngẫu hứng 偶興)
(Làm hại tính tự nhiên của vật, ái ngại chân con le bị nối dài ra,
Xuyên tạc chân tính thiên nhiên làm mất ý nghĩa thiên “mã đề”)
Thiên chân 天真, mã đề 馬蹄 là những ẩn dụ mà cổ nhân thường dùng để
nêu bật tinh thần vô vi, thuận theo tự nhiên của Lão Trang. Ở đây, có lẽ nhà thơ cảm
thấy bức rứt không yên vì bản thân mình đã xuất sĩ, ra làm quan với nhà Nguyễn.
Ông hoài niệm về những tháng ngày ẩn cư nơi thôn dã, sinh hoạt cùng phường săn
của thời kỳ làm Hồng sơn liệp hộ 鴻山獵戶. Dường như nhà thơ cảm nhận rằng
ông đã làm những điều trái với tính tự nhiên của mình, giống như câu chuyện “cắt
ngắn chân con hạc dài”. Bản tính tự nhiên ấy, một lần nữa được nhà thơ đề cao
trong bài Thành hạ khí mã 城下棄馬:
“Cơ lai bất tác cầu nhân thái,
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm.
60
Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính,
Mạc giao ky trấp tái tương xâm”
(Bụng đói nhưng không tỏ ý xin người,
Già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nợ nước.
Chịu được gió sương để giữ trọn tính chất tự nhiên của mày,
Chớ để cho dàm và bịt móng lại phạm vào thân.)
Người đẹp không mong tuổi già, sợ người đời lạnh nhạt. Con ngựa hay bao
năm rong ruổi, đi qua bao dặm đường lẽ nào chịu bó thân chết già nơi góc thành.
Nhĩ tính 爾性 là bản chất tự nhiên, là vẻ đẹp tâm hồn dù có trải mấy phong sương
vẫn không hề nao núng, không sợ những tác động của ngoại cảnh, ngoại vật. Tinh
thần ấy phải chăng cũng là một tâm sự mãnh liệt của một kẻ sĩ không sợ cường quyền,
không luỵ phiền, không gò bó trong khuôn khổ nhất định.
Hai là, trong quan niệm của mình, Nguyễn Du đã xem thiên nhiên như một
cõi thiêng, một chốn đi về của tâm hồn. Có thể khẳng định, thiên nhiên được nói
đến rất nhiều trong thơ Nguyễn Du. Thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Du không
chỉ là bức tranh sơn thuỷ kỳ vĩ như các nhà thơ cổ điển khác, ông đã hướng tầm mắt
của mình đến những chốn thâm sơn, những nơi thôn dã u tịch, lặng lẽ và có vẻ bình
dân. Trong thơ Nguyễn Du có một số bài thơ viết về thiên nhiên với một vẻ đẹp
“không chỉ mơ hồ như sương khói, không chỉ bàng bạc, mông lung như mây chiều”
[07, tr.25]. Hầu hết những sáng tác đó đều là những bài thơ viết bằng chữ Hán như:
Quỳnh Hải nguyên tiêu 瓊海元宵, Sơ nguyệt 初月, Sơ thu cảm hứng 初秋感興,
Sơn trung tức sự 山中即事, Biệt Nguyễn Đại Lang II 別阮大郎 (二)... Ở những
chùm thơ này, Nguyễn Du cho thấy khuynh hướng đi tìm cái đẹp thiên nhiên hiện
hữu trong cõi đời thực, không mơ màng đến chốn thần tiên, kỳ ảo. Đúng như nhà
nghiên cứu Lê Thu Yến đã nhận xét:
Nguyễn Du cũng một vài lần đăng cao nhưng không phải để hoà nhập
vào vũ trụ mà để thấy rõ hơn con người mình. Lên lầu Nhạc Dương, ông thấy
cảnh vật hùng tráng nhưng đó chưa phải là cảm hứng chủ đạo. Nhà thơ đăng
cao chính là để mở tầm mắt nhìn về quê hương, về một góc trống không phía
61
trước để đau buồn, để than thở cho thân phận mình đang phải làm một kiếp
người xa xứ... [177, tr.25].
Với nhà thơ, thiên nhiên là tri âm, tri kỷ. Nhà thơ đến với thiên nhiên như một
sự giãi bày những u uất, tâm sự của mình. Cảm thức tha hương, nỗi buồn viễn xứ,
hay những tâm cảm về thời đại mãi hằn sâu qua những khung cảnh thiên nhiên trong
thơ chữ Hán và Nôm của ông:
“Bình sa tận xứ thuỷ thiên phù,
Hạo hạo yên ba cổ độ thu.
Nhất vọng tân nhai thông cự hải,
Lịch triều cương giới tại trung lưu.”
(Độ Linh Giang 渡 靈江)
(Cuối bãi cát phẳng là chỗ trời và nước nổi bập bềnh,
Khói sóng mênh mang, vẻ thu trên bến đò xưa.
Ngước trông bến sông thông ra biển lớn,
Cương giới các triều đại phân chia ở giữa dòng.)
(Qua đò sông Gianh)
Là vậy, dù có miêu tả đến từng chi tiết những đổi thay mà mắt ông đã nhìn
thấy về thiên nhiên nhưng nhà thơ vẫn luôn gắn bức tranh ấy với những tâm sự cố
hữu của mình. Qua bến sông Gianh, nhà thơ lại hoài niệm về tiền triều, về quá khứ -
một nỗi niềm đau đớn vẫn từng ngày chảy trong huyết quản của ông. Do vậy, thiên
nhiên dù đẹp, dù mỹ lệ đến đâu, với Thanh Hiên tiên sinh, nó vẫn mãi là một người
bạn, là một lăng kính đã khúc xạ những nỗi niềm của thi nhân.
Ba là, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du được thể hiện qua sự minh triết
của con người thanh cao, u uẩn. Cùng với thiên nhiên, con người cũng là một đối
tượng thẩm mỹ của thơ ca Nguyễn Du. Trong Bắc hành tạp lục, hình tượng con
người cũng được Nguyễn Du thường hay nhắc đến. Bên cạnh những nhân vật anh
hùng Trung Hoa tên tuổi như Tỉ Can 比干, Sở Bá Vương 楚霸王, Phạm Tăng 范曾,
Hoài Âm Hầu 淮陰候, Dự Nhượng 豫讓, Văn Thừa tướng 文丞相... những danh sĩ
tài hoa như Tam Lư đại phu 三閭大夫, Liễu Hạ Huệ 柳下惠, Âu Dương Văn Trung
62
歐陽文忠… mỹ nhân nổi tiếng như Dương Quý Phi 楊貴妃, Tiểu Thanh 小青…
người đọc cũng gặp trong thơ Nguyễn Du những khách tục hay “láng giềng mấy sĩ
nho” của ông. Nhưng, nguồn cảm hứng trung tâm của thơ Nguyễn Du không ai
khác hơn là chính bản thân ông. Bởi vậy, sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ về
phương diện con người, ở Nguyễn Du gắn với việc xét đoán, khẳng định về bản
thân của chủ thể sáng tạo và ông cho rằng, thân phận mỗi người là sự tồn tại theo
duyên cảnh, là tất nhiên và mang tính tiền định.
Khi thưởng lãm các vần thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Mai Quốc Liên viết:
“Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa
một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ
chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung
Quốc nữa” [31, tr.07]. Xét từ góc độ triết mỹ, tìm hiểu vẻ đẹp nhân bản trong thơ
chữ Hán của Nguyễn Du cũng chính là tìm hiểu nỗi lòng của một kẻ sĩ, là ý thức
thẩm mỹ của một nhà nghệ sĩ trước cảnh ngộ và những số phận người, đồng thời
cũng chính là ước mơ của ông đối với những con người ấy. Và có lẽ, mối quan tâm
này dã trở thành những trăn trở thường trực trong ông, được thể hiện qua “mái đầu
bạc, mái tóc bạc”, hình ảnh đã trở đi trở lại trong thơ chữ Hán của thi sĩ họ Nguyễn
này. Đó là hình ảnh mái đầu bạc trong bài Đối Tửu 對酒: “Niên quang ám trục bạch
đầu lai”(Tháng năm âm thầm đưa mái đầu bạc trở lại), mái tóc bạc trong bài Thu
Chí 秋至: “Trù trướng lưu quang thôi bạch phát” (Buồn rầu vì ngày tháng trôi giục
mái tóc bạc thêm). Tất cả những mối ưu tư ấy dường như xuất phát từ một tâm sự u
uất trong ông, trong Tự Thán 自嘆 ông tâm sự:
“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mô phong xuy”
(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu,
Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi)
Đọc di cảo còn sót lại của một cô gái tài hoa bạc mệnh, Nguyễn Du tự cảm
cho thân phận con người rồi liên hệ đến những dự cảm của bản thân và thầm nhủ
“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Thiên hạ còn có người khóc Tố Như chăng?”. Trong
63
nhãn quan thẩm mỹ và ý thức nhân sinh ấy, Nguyễn Du đặc biệt chú ý tới hai loại
người: người tài và phụ nữ. Chính ở hai đối tượng này, quan niệm nghệ thuật, thẩm
mỹ và nhân sinh của ông về con người chứa đựng những nét đặc sắc nhất. Đồng
thời, sắc thái tư duy Việt trong tư tưởng và ý thức thẩm mỹ của Nguyễn Du về con
người cũng bộc lộ rõ nhất khi ông thể hiện các quan niệm này. Nguyễn Du đã tôn
vinh người phụ nữ như những tinh hoa, anh tài của xã hội. Trong Truyện Kiều, ông đã
gửi gắm tất cả niềm yêu thương, xót xa và kỳ vọng vào người phụ nữ khi xây dựng
hình tượng Thuý Kiều, một người phụ nữ thanh cao, tài sắc và hiếu thuận, nghĩa
tình. Lý tưởng thẩm mỹ về đạo đức và con người của Nguyễn Du được ông gửi gắm
vào nhân vật này. Đó là hình tượng người phụ nữ đẹp nhất mà văn học Việt Nam cổ
điển đã đạt được.
Khi đề cập đến người tài, Nguyễn Du đã thừa nhận quy luật Tài mệnh tương
đố. Với Nguyễn Du, người tài không chỉ là các văn nhân, trí thức Nho giáo, mà bao
gồm cả phụ nữ; cái tài không chỉ thể hiện trong thơ phú, chính trị, cử nghiệp, mà
cả trong các năng lực nghệ thuật khác như đàn hát, hội hoạ. Theo ông, người có
tài luôn là tinh hoa của trời đất, được đồng loại coi trọng, xót thương và ca ngợi,
bởi họ đã làm cho cuộc đời ngày càng đẹp hơn, nhân ái hơn:
“Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh”
(Câu 0115 - 0116)
Những con người tài hoa khi sống phải cam chịu phận long đong như một sự
cứu chuộc cho nhân quần, bởi họ cũng chính là những con người có tình nhất, yêu
thương đồng loại nhất và là những người cảm biết được trách nhiệm của mình trước
đồng loại. Dù có phải đi vào tử địa, họ vẫn tự nguyện chấp nhận như một tất yếu,
cũng giống như nàng Kiều coi việc bán mình chuộc cha là nghĩa vụ đương nhiên
của người con thực hiện đạo hiếu. Những người tài hoa ấy, dù thể xác đã trở về với
cát bụi, nhưng tinh thần, tài năng của họ vẫn tồn tại như những hiện hữu tất yếu.
Nguyễn Du đã dùng minh triết của sự giác ngộ về thiện tâm, phương tiện căn bản
làm chìa khoá giải mã những bất công của cuộc đời. Tuân thủ những nguyên lý minh
64
triết của Phật giáo và những sắc thái duy tình của người Việt, Nguyễn Du đã đưa ra
lời giải của ông cho vấn nạn nhân sinh.
Bốn là, ngoài ý thức về thân phận con người, thiên nhiên… nhà thơ còn quan
tâm đến bản chất, chức năng của văn chương. Nếu Độc Tiểu Thanh ký là tiếng khóc
cho số phận của những văn nhân, kỳ nữ tài hoa bạc mệnh thì Điệp tử thư trung là
triết lý về chức năng giáo hoá của văn chương, thi ca, nghệ thuật. Nhà thơ tự ví văn
nhân như những con mọt sách như lại là “Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn
hoa”. Từ tinh thần của Khổng Tử “triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ 朝聞道夕死可矣”
(Sớm nghe được đạo lý, chiều chết cũng là được), nhà thơ đã đề cao tính đạo lý,
giáo hoá của văn chương, để bản thân mình vì có duyên nên được như một cánh
bướm được chết trong sách vậy:
“Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,
Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.
…
Văn đạo dã ưng cam nhất tử,
Dâm thư do thắng vị hoa mang.”
(Điệp tử thư trung 蝶死書中)
(Mệnh bạc nhưng có duyên nên được lưu lại trong sách,
Hồn tàn không nước mắt để khóc văn chương.
…Nghe đạo lý cũng đành cam một chết,
Mê sách còn hơn là bận lòng vì hoa)
Bên cạnh những quan niệm ấy, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta
còn thấy ông chú trọng đến vấn đề liên quan đến nội dung mà dường như rất xem
nhẹ về hình thức. Đọc bài thơ Khổng Tước vũ 孔雀舞 (Con chim công múa), chúng
ta sẽ cảm nhận được điều đó.
“Ngoại lộ văn chương thể,
Trung tàng sát phạt ky.
Nhân khoa dung chỉ thiện,
Ngã tích vũ mao kì.”
65
(Vẻ bên ngoài vui mắt,
Bên trong độc chết người.
Người khen cái dáng đẹp,
Ta lại tiếc bộ lông ngời.)
Nhà thơ lấy hình ảnh chim công, một con vật đẹp để ám dụ vẻ đẹp của loại
văn chương chuộng hình thức đầy sáo rỗng. Nhưng nghịch lý thay, vẻ kiều diễm ấy
lại được người đời đua khen, tán tụng. Nhà thơ thở dài tiếc nuối cho vẻ đẹp nhưng
chẳng hề có giá trị, lợi ích gì cho con người, để từ đó ông ngậm ngùi thốt lên:
“Hải hạc diệc hội vũ,
Bất dữ thế nhân tri.”
(Chim hạc biển cũng biết múa,
Nhưng không cho người đời biết)
Có lẽ, từ một quan niệm cực lực lên án thứ văn chương sáo rỗng, loè loẹt,
nhà thơ đã ngầm khẳng định những chân giá trị của văn chương phụng sự nhân
sinh, văn chương viết về con người, vì con người. Ông ví thứ văn chương ấy như
một con chim hạc thanh cao và không hề nao núng bởi những lời lẽ khen chê của
người đời. Xác nhận mối quan giữa nội dung và hình thức, đề cao, khẳng định nội
dung nhân văn, văn chương đạo lý, dường như Nguyễn Du là một trong những
người đi tiên phong trong vấn đề quan niệm về chức năng, giá trị văn hoá của văn
chương trong văn học cổ điển Việt Nam.
Trong Truyện Kiều, hai câu thơ cuối và đoạn thơ 1404 - 1466 nằm trong
Truyện Kiều là những suy nghiệm hiếm hoi mà thi nhân bộc lộ về thơ ca cũng như
chức năng của nó trong toàn bộ gia tài sáng tác của ông. Theo học giả Thái Kim Lan:
Lời quê là sự lựa chọn khiêm tốn được là quê, đối nghịch với hào
nhoáng khoe khoang ồn ào, đánh bóng. Một sự nhún mình của người cầm
bút, không dán bích chương, đẩy lùi cá nhân ra phía sau, nhường cho cảm
nhận thực chứng thơ ra đàng trước, chỉ có thơ đến với người, đến với nhân
gian…Chúng chưa phải là cơ sở căn bản của thi ca mà lời quê muốn bày tỏ.
Chúng mới chỉ là sự phủ định từ bỏ mọi giả tạo bề ngoài. Tự thân của lời quê
cần được hiểu trên bình diện chân mỹ của thi ca [79, tr.41].
66
Nhận định này đã một lần nữa làm rõ hơn quan niệm mỹ học thơ ca của
Nguyễn Du. Với ông, thơ không phải là sự hào nhoáng mà là sự tỏ lời, là sự chân
chất, là một “điệu nói”, “điệu ngâm” của tâm hồn. Thông qua tuyệt phẩm này, phải
chăng một mặt Nguyễn Du ngợi ca những hồn quê chân chất trong thiên tính của
con người mà Kiều là một biểu tượng, mặt khác dường như ông muốn chối bỏ lối
sáng tác theo kiểu từ chương, không gắn kết với thực tiễn, lương tri.
Trong sáng tạo, Nguyễn Du cũng đề cao chức năng diệu dụng về thẩm mỹ và
giải trí của văn chương. Ông cho rằng “mua vui cũng được một vài trống canh”.
Thơ ca có thực sự để mua vui không? Tâm huyết một đời, sau 3.254 câu thơ lục bát,
Truyện Kiều không chỉ là một sự giải trí mà nó còn là một sự giãi bày. Người đọc
hẳn ngạc nhiên sau những lần tiếp xúc với nội dung Truyện Kiều, đổ bao nước mắt,
tổn bao tâm tư để khiến “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” mà Nguyễn Du
bảo rằng mua vui kể cũng lạ. Có thể nói, Nguyễn Du dường như là một trong những
nhà thơ đi đầu trong việc xác định và nêu bật chức năng thẩm mỹ của văn chương,
xem văn chương không chỉ là gánh nợ mà còn là cứu cánh, là cõi thiên thai để thả
hồn mộng tưởng thi sĩ vậy.
Với Tố Như, văn chương là lẽ sống, cái duyên được chết trong sách là sự hoá
thân, là sự ly khai khỏi cõi tạm, là sự khai phóng để vươn đến chân trời của năng
lực và tự do sáng tạo. Đó phải chăng là những niềm vui vi diệu của thi ca, là viễn
tượng của sự cứu rỗi, là cánh gió vượt lên mái đầu bạc của sầu muộn, là những ẩn
ức tâm tư của một cựu thần, vượt lên nỗi sầu vạn kiếp của Tố Như Tử và những nỗi
niềm ấy lặng lẽ trở thành một thứ hồn quê lặng lẽ trong cõi mộng của thi nhân. Qua
những sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, ông đã bộc bạch một cách khá rõ quan
niệm thẩm mỹ về mỹ học thi ca và khả năng sáng tạo của nhà thơ trong lãnh địa tinh
thần này. Điều đó là tạo nên niềm tin vững chãi và được ông giãi bày trong toàn bộ
gia tài nghệ thuật của mình.
Tiểu kết Chương 1.
Mối quan hệ vận động tương tác giữa ngôn ngữ và văn hoá trong lịch sử văn
minh Việt Nam là một trong những hệ quả của quá trình hình thành phát triển của
67
văn hoá bản địa và sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá Việt - Hán, là nguyên nhân trực
tiếp tác động đến sự hình thành các nét nghĩa, sắc thái văn hoá bác học, bình dân
của từ vựng, ngữ liệu văn hoá trong các tác phấm văn học, nhất là truyện Nôm bác
học. Bản thân các nét nghĩa này, từ khi mới ra đời nó đã trở thành một đối tượng
nghiên cứu của nhiều chuyên ngành khác nhau của khoa nghiên cứu Ngữ văn, Văn
hoá học. Dù tiếp cận ở phương diện nào, lớp từ ngữ này vẫn đóng góp làm phong
phú cho kho từ vựng tiếng Việt và hệ thống ngữ liệu văn học cổ điển Việt Nam.
Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ truyện Nôm là một vấn đề không chỉ được
soi rọi từ góc độ ngôn ngữ mà cần phải đặt chúng trong môi trường cụ thể là ngôn
ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam. Trong quá trình hành chức của nó, vấn đề
được đặt ra ở đây là người tiếp nhận, nghiên cứu cần phải quan tâm đến nghệ thuật
sử dụng từ ngữ, lý giải những ngữ liệu có nguồn gốc văn hoá Trung Hoa và Việt
Nam, cốt làm sao giúp cho người thưởng thức thuộc mọi thế hệ khác nhau có thể
hiểu và sử dụng đúng lớp từ này chuẩn xác và linh hoạt.
68
Chương 2. NGỮ LIỆU VĂN HÓA TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRUYỆN KIỀU
2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa Hán, bác học và văn hoá Việt,
bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
2.1.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học đối với hệ
thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Thuật ngữ ảnh hưởng văn hoá được sử dụng khá phổ biến trong lĩnh vực khoa
học xã hội và nhân văn. Nó xuất phát từ nhu cầu đối thoại văn hoá giữa các dân tộc
khác nhau. Đó là sự vận động thường xuyên và mang tính phổ biến của nhân loại, gắn
bó với tiến bộ xã hội nhưng đồng thời cũng quan hệ hữu cơ biện chứng với sự phát
triển của văn hoá, là sự chuyển hóa thường xuyên của văn hoá trong cơ chế tồn tại của
nó. Trong tiến trình phát triển văn hoá Việt Nam, việc tiếp thu và ảnh hưởng từ văn hoá
cổ điển Trung Quốc (hay còn gọi là văn hoá Hán, bác học) vào văn hoá Việt Nam là
hiện tượng mang tính lịch sử. Điều đó được thể hiện qua quá trình Hán hoá và chống
Hán hoá trong lịch sử nước ta. Đúng như nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã nhận xét: “Sự
tiếp thu văn hoá Trung Quốc, người Việt Nam chỉ tiếp thu cái cần thiết của văn hoá
Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thôi, chứ không phải là bắt chước một
cách nô lệ, dù cho nhìn bên ngoài khó lòng bảo là không máy móc...” [100, tr.43].
Sự giao lưu và tiếp xúc văn hoá, ngôn ngữ Việt - Hán, nếu trong giai đoạn đầu
tuy mang tính cưỡng chế, áp đặt, nằm trong âm mưu đồng hoá văn hoá thì ở những
giai đoạn sau lại mang tính chủ động, tích cực. Các triều đại của Việt Nam ở thời kỳ
tự chủ đã xây dựng hệ thống chính trị, giáo dục, học thuật, thi cử... theo mô hình của
phong kiến phương Bắc. Do đó, về văn hoá, Việt Nam đã tích lũy được những kinh
nghiệm từ trong văn hoá Trung Hoa.
Lịch sử văn học trung đại Việt Nam đã phát triển trong một hoàn cảnh đặc
biệt, vừa ly tâm, vừa hướng tâm đối với văn học, văn hoá cổ điển Trung Hoa. Đó là
quá trình vừa tiếp thu học tập nhưng cũng đồng thời sáng tạo, Việt hoá và bồi đắp
những đặc điểm mang tính dân tộc ngày càng rõ nét hơn. Quá trình giao lưu tiếp xúc
văn hoá - ngôn ngữ giữa hai dân tộc đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài. Giao lưu
69
văn hoá, ngôn ngữ Việt - Hán và đặc biệt là quá trình hình thành ngôn ngữ văn
chương thời trung đại đã để lại một dấu ấn đậm nét trong các tác phẩm văn học cổ
điển Việt Nam. Đó là hai hệ thống ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong ngôn ngữ
nghệ thuật truyện thơ Nôm và Ngâm khúc của văn học cổ điển Việt Nam. Dấu ấn
thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là những dẫn chứng, dẫn liệu ngôn ngữ, nó có thể
được trích dẫn, khai thác phục vụ cho quá trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật
của một tác phẩm) có nguồn gốc từ văn hoá bác học, văn hoá, văn chương cổ điển
Trung Hoa đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngôn ngữ nghệ thuật truyện thơ Nôm bác học.
Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy (2010)
gọi đó các ngữ liệu ấy là “những hiện tượng văn hoá đặc tồn” [156, tr.215] hay “các
đơn vị đặc văn hoá” [156, tr.267]. Do đó, không chỉ các nhà Ngữ học quan tâm và
hứng thú mà các nhà Ngữ văn học cổ điển những cũng rất chú ý đến hệ thống các
đơn vị mang hàm lượng văn hoá, độc đáo này. Những ngữ liệu ấy được xem như là
một dạng tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, nó được sử dụng trong các thi phẩm như một
phương thức đặc trưng biểu đạt những tình cảm trữ tình của cá nhân, tạo nên một thế
giới mở đặc thù theo thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng hệ
thống ngữ liệu này vừa đảm bảo tính quy phạm, chuẩn mực có tính ước lệ, phản ánh
đặc trưng thể loại, vừa thể hiện chiều kích sâu rộng của văn hoá cổ điển, độ uyên
thâm và khả năng khái quát đời sống của các tác giả văn học cổ Việt Nam.
Thời trung đại, do quan niệm sáng tác chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo,
văn học được sáng tác với mục đích chính trị và giáo huấn về cách ứng xử trong cuộc
sống, nên ngôn ngữ văn chương thường mang âm hưởng trang trọng để tránh sự dung
tục bình thường. Do đó, việc sử dụng những hình thức đặc thù của ngữ liệu văn hoá
đã tạo nên một trường thẩm mỹ đặc trưng của các tác phẩm văn học cổ. Đó là hệ
thống từ ngữ đã được dẫn dụng một cách khá công phu, linh hoạt và đa dạng trong
các tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu như Hoa tiên 花箋, Sơ kính tân trang 梳鏡新妝,
Nhị độ mai 二度梅, Phan Trần 潘陳, Bích câu kỳ ngộ 璧溝奇遇... và đặc biệt là
Truyện Kiều 傳翹. Bàn về vấn đề này, Đoàn Ánh Loan trong Điển cố và nghệ thuật
sử dụng điển cố đã khẳng định, hệ thống ngữ liệu (cụ thể ở đây là điển cố, thi văn liệu
70
Hán học) trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm đã “được các tác giả truyện thơ xếp
đặt ở câu bát nhiều hơn câu lục, tuy không quá chênh lệch, nhưng cũng cần được ghi
nhận như một đặc điểm... nhưng bao giờ giữa chúng cũng có một sự kết nối chặt chẽ
nhằm thể hiện cao nhất ý nghĩa của nó” [87, tr.56].
Những tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá bác học, văn hoá Hán đã góp
phần hình thành nên tính chất quan phương, uyên bác - một đặc trưng thẩm mỹ của
ngữ liệu văn hoá. Đặc trưng này làm nảy sinh những hình tượng, biểu tượng, cách
diễn đạt cố định và mang tính truyền thống, phân định thứ bậc, tạo nên vẻ lộng lẫy
và đậm tính nghi thức. Chẳng hạn, nhà thơ đã vận dụng một chuỗi các thuật ngữ,
ngữ liệu có nguồn gốc từ binh gia, chính trị, có tính nguyên tắc cao để diễn tả các
biến cố, sự kiện có tính nghiêm trang. Đoạn thơ “báo ân báo oán” của Thuý Kiều là
một ví dụ tiêu biểu, tác giả đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ miêu tả đặc thù của
Quân lễ 軍禮 [190, tr.224], một trong Ngũ lễ 五禮 được quy định trong Thượng thư
尚書 và Chu lễ 周禮, cụ thể là Cát lễ 吉禮 (bao gồm quán 冠, hôn 婚), hung lễ
凶禮 (bao gồm tang 喪, tế 祭), quân lễ 軍禮, tân lễ 賓禮 (lễ tiếp khách) và gia lễ
嘉禮 (lễ mừng). Đó là những từ ngữ thường dùng trong quân sự như hiệu duyệt, sưu
thú, xuất sư:
“Quân trung gươm lớn giáo dài
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân
Trướng hùm mở giữa trung quân
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.”
(Câu 2311 - 2318)
Vệ 衛, cơ 鞿 là những đơn vị quân chính được quy định trong quân ngũ thời
phong kiến. Bác đồng 鎛銅 (hay còn gọi là đồng bác, đồng lao, đây là những bộ gõ,
được dùng để tạo âm thành hùng tráng khi xuất binh), tinh kỳ 旌旗 là hệ thống cờ
71
phướn được dùng trong đi sứ, nghi vệ thiên tử xuất hành hoặc nghi thức xuất binh
của nguyên soái hoặc đại tướng. Trướng hùm (hay còn gọi là hổ trướng 虎帳), cửa
viên (viên môn 圓門) là địa điểm bản doanh của chủ soái, có bố trí hổ ỷ 虎椅 (ghế
da hổ), trung quân 中軍 là một trong ba cánh quân (tiền, trung, hậu hoặc tả, trung,
hữu). Với những ngữ liệu đặc trưng ấy, tác giả vừa khắc hoạ thành công khung cảnh
nghiêm cẩn, hào tráng, uy nghi của “phiên toà tình đời”, vừa đáp ứng được nhu cầu
nghệ thuật chuẩn quy phạm.
Khảo sát hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật của một số
truyện Nôm bác học và Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, các dạng thức ngữ liệu
văn hoá được các tác giả sử dụng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, xét từ
phương diện nguồn gốc, các ngữ liệu văn hoá được sử dụng trong ngôn ngữ nghệ
thuật truyện Nôm bao gồm ngữ liệu nguyên dạng (ngữ liệu âm Hán Việt) và ngữ
liệu chuyển dịch (bao gồm ngữ liệu âm bán Hán Việt (là những ngữ liệu được cấu
thành bởi một yếu tố là Hán Việt, một yếu tố thuần Việt) và ngữ liệu thuần Việt).
Xuất phát từ quan điểm từ vựng học, chúng ta có thể tìm hiểu những nét nghĩa văn
hoá của từ ngữ trong ngôn ngữ truyện Nôm và Truyện Kiều, qua đó có thể phác thảo
được quá trình thâm nhập, chuyển hoá, ảnh hưởng của văn hoá bác học Trung Hoa
trong ngôn ngữ Truyện Kiều.
2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng văn hoá Việt, bình dân đối với hệ thống
ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Một số nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu đặc tính bình dị, chân chất, mộc
mạc, hấp dẫn, chuẩn xác, cụ thể của hệ thống từ ngữ bình dân (bao gồm lớp từ cổ, từ
địa phương, từ láy thuần Việt hay ngữ liệu âm Hán Việt đã được chuyển dịch và tái
cấu trúc lại theo mô hình từ pháp tiếng Việt) và những giá trị văn hoá cũng như sự
vận dụng sáng tạo và cách tân của hệ thống này trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều. Nó không chỉ phản ánh một cách khách quan nội dung, chủ đề tác phẩm mà còn
góp phần phác hoạ rõ nét một bức tranh hiện thực đa dạng, phức tạp. Ngoài ra, thông
qua các ngữ liệu văn hoá bình dân, ngôn ngữ Truyện Kiều còn được khẳng định ở
phương diện văn hoá thẩm mỹ, nó có tính chất bình dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn
72
tiếng nói nôm na, gần gũi của dân tộc nên có sức hấp dẫn đối với đông đảo bạn đọc.
Đặc biệt, đối với lối khai thác thế mạnh về tính biểu trưng của các ngữ liệu, nhà thơ
tạo nên những “tập mờ” ngữ nghĩa, góp phần phản ánh những “suy tư duy lý của các
nhân vật về những mâu thuẫn trong cuộc sống và vận mệnh con người” [42, tr.83].
Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, ngoài hệ thống từ cổ, từ địa phương, từ láy...
thì lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ quần chúng và từ thuần Việt cũng được xem
là những ngữ liệu văn hoá bình dân. Đúng như Phạm Đan Quế đã khẳng định,
“khẩu ngữ quần chúng là lời ăn tiếng nói nôm na, mộc mạc hàng ngày của cuộc
sống vô cùng phức tạp và đầy biến động của nhân dân thuộc đủ mọi tầng lớp” [122,
tr.345]. So với lớp từ ngữ Hán Việt, lớp từ ngữ này vô cùng sinh động, nhiều dáng
vẻ và luôn được bổ sung không ngừng qua các thế hệ, thời đại. Nó bao hàm cả
những lời nói dung tục, dân dã. Bằng tài năng sáng tạo ngôn từ của mình, Nguyễn
Du đã dịch chuyển lớp từ khẩu ngữ có tính chất “quặng thô ngôn ngữ” này vào kho
ngữ liệu văn hoá bình dân của Truyện Kiều, góp phần tạo nên sự đặc sắc nhiều mặt
cho Ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. Hệ thống ngữ liệu này vừa chính xác vừa gợi
cảm, hấp dẫn. Kho tàng vô tận và quý giá của khẩu ngữ quần chúng được Nguyễn
Du sử dụng để góp phần khắc hoạ đến từng chi tiết bức tranh xã hội đa sắc, nhiều
góc cạnh và thế giới nhân vật sống động, tiêu biểu trong tác phẩm. Nó được sử dụng
để thể hiện những ý nghĩ của Mã Giám Sinh, những toan tính dự phòng của hắn để
được gần gũi với Thuý Kiều trong đêm đầu tiên ở trú phường:
“Nước vỏ lựu, máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.”
(Câu 0837 - 0838)
Nước vỏ lựu, máu mào gà, còn nguyên... là những “biệt ngữ”, từ ngữ có
tính chất nghề nghiệp của lớp người chuyên làm nghề dắt mối, buôn hương đã
khiến người đọc nhận diện cái vẻ bất lương của gã họ Mã. Nếu lời chửi bới của Tú
Bà là lời của bọn chủ chứa đã ghê thì chúng ta còn thấy lời mắng nhiếc của Hoạn
Bà còn có phần “kinh khủng” hơn:
73
“Bất tình nổi trận mây mưa,
Dức rằng: Những giống bơ thờ quen thân.
Con này chẳng phải thiện nhân,
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mẻo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.”
(Câu 1727 - 1736)
Qua 09 câu thơ được trích dẫn trên, ta những tưởng đó không thể nào là
ngôn ngữ của một mệnh phụ phu nhân, vợ quan Lại bộ thượng thư, một lão nhân
gia của nhà họ Hoạn. Trong lời mắng chưởi của mình, mụ dùng toàn là từ ngữ có
tính chất khẩu ngữ đậm đặc, đó là những biệt ngữ của bọn ưng khuyển giang hồ
như: Giống bơ thờ, phường trốn chúa, quân lộn chồng... gọi Kiều là con này, bản
thân mụ thì xưng là tao. Mụ còn dùng thành ngữ như mèo mả gà đồng, khủng
khỉnh làm cao... hay những từ có nguồn gốc từ thành ngữ như quen thân (quen
thân mất nết, một biến thể của thành ngữ hư thân mất nết). Nguyễn Du sử dụng
ngữ liệu mây mưa ở đây thật sáng tạo, nó không phải là chuyện gái trai mà được
dùng để ám chỉ con giận lôi đình của Hoạn lão phu nhân. Trong Truyện Kiều, các
từ ngữ có phong cách khẩu ngữ chiếm một tỷ lệ tương đối (331 ngữ liệu) so với
toàn bộ từ vựng của thi phẩm. Điều này chứng tỏ, khi viết Truyện Kiều, Nguyễn
Du đã tự trang bị cho bản thân mình một vốn từ ngữ cực kỳ phong phú và đa dạng,
ông biết tìm kiếm những nội dung ngữ nghĩa mới cho những hình thức quen thuộc
(từ mây mưa là một ví dụ). Trong những trường hợp cụ thể khác, nhà thơ đã sử
dụng cách nói, kiểu nói rất bình dân, nôm na như “có sá chi”, “cơn cớ gì”, “dơ
tuồng”, “chẳng văng vào mặt”, “giống bơ thờ” để diễn tả những dáng vẻ ngổn
ngang, đa diện cuộc sống muôn mặt, một bức tranh phức hợp, những lối nói dân
74
dã, có phần bặm trợn, hèn yếu, kém thế của các nhân vật và sự chiêm nghiệm của
chính bản thân nhà thơ trong Truyện Kiều.
Trong ngôn ngữ Thuý Kiều, ông viết:
“Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?”
(Câu 1145 - 1146)
Để thể hiện cái bặm trợn của ngôn ngữ của Tú Bà, ông viết:
“Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mầy lại nghe!”
(Câu 974 - 975)
Hoặc giả, để thể hiện sự hèn kém của Thúc Sinh, nhà thơ cũng hạ bút:
“Nhân làm sao đến thế này,
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!”
(Câu 1825 - 1826)
Ngay cả khi thể hiện những đánh giá, suy nghĩ của mình, tác giả cũng thường
sử dụng những từ ngữ đậm phong cách khẩu ngữ:
“Đời người đến thế thì thôi,
Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay!”
(Câu 2645 - 2646)
“Ông tơ thực nhé đa đoan,
Xe tơ sao khéo vơ càn, vơ xiên?”
(Câu 2599 - 2560)
Có thể nói, hệ thống ngữ liệu văn hoá này vẫn luôn có tính xác thực, cụ thể
và hấp dẫn người đọc. Nó phản ánh được tính cách, ngôn ngữ của các nhân vật
trong những hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, nó đã giúp cho nhà thơ có được sự miêu tả
sống động một số môi trường xã hội có tính thông tục, khắc hoạ những rung động
tinh tế, diễn biến nội tâm phức tạp của một số nhân vật và kể cả những xót xa trong
tâm tư của chính tác giả.
Như đã nói, hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều là cả một thế giới
phong phú, đa dạng, sâu sắc, là một phức thể đa chiều kích, đa nghĩa và giàu giá trị
75
văn hoá. Càng đi sâu tìm hiểu, chúng ta càng phát hiện thêm nhiều điều mới lạ, độc
đáo. Do đó, một trong những nguyên nhân tạo nên sự sinh động, hấp dẫn ấy là nhờ
có sự kết hợp tuyệt diệu, nhịp nhàng, hợp lý, logic giữa hai khuynh hướng văn hoá
bình dân và văn hoá bác học trong ngôn ngữ tác phẩm. Sự tôn vinh những giá trị
văn hoá trong ngôn ngữ bình dị, dân dã của thơ ca dân gian Việt Nam đã góp phần
khẳng định Nguyễn Du là một trong những thi nhân đã đóng góp rất nhiều vào quá
trình phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc. Bởi lẽ, khi miêu tả thế giới nội tâm nhân
vật, ông thường khai thác những chân giá trị của các ngữ liệu văn hoá bình dân.
Chính sự khai thác đó đã giúp ông khái quát được những khía cạnh độc đáo, cụ thể,
chi tiết trong tâm lý nhân vật – một phương diện nghệ thuật độc đáo mà nhà thơ đã
tạo dựng được trong quá trình sáng tạo của mình. Bên cạnh đó, công lao của ông
được thể hiện qua việc ảnh hưởng, tiếp nhận một cách sáng tạo lớp ngôn ngữ dân
gian và trong việc sử dụng tài tình lớp từ ngữ có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc.
Thành tựu tuyệt vời mà tác phẩm của ông mang lại không chỉ làm phong phú, trong
sáng ngôn ngữ văn học Nôm nói riêng, mà còn có những ảnh hưởng văn hoá sâu xa
và lâu dài đến sự phát triển ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam nói chung.
Khi khảo cứu về nguồn gốc bình dân của ngôn ngữ Truyện Kiều, một số nhà
nghiên cứu đã có những nhận xét khái quát về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn
Du, họ cho rằng lời thơ của ông gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Nhà thơ đã có
sự tiếp thu và ảnh hưởng tiếng nói của dân tộc, ngôn ngữ văn chương dân gian. Đó
cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát
triển văn học dân tộc. Vì thế, văn hoá bình dân và bác học được xem là hệ quy
chiếu, xuất phát điểm của các hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ của Truyện Kiều.
Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là những nét,
yếu tố thẩm mỹ được gợi lên thông qua hệ thống những thành ngữ, tục ngữ, ca dao,
hệ thống từ ngữ thuần Việt, hoặc có yếu tố Hán Việt với một lối diễn đạt bình dị,
đơn giản đậm chất khẩu ngữ trong sinh hoạt của người Việt. Hệ thống ngữ liệu văn
hoá bình dân đã thực sự là ngôn ngữ văn học với khả năng biểu đạt, biểu cảm cực
kỳ phong phú. Nó được Nguyễn Du sử dụng, chuyển dẫn và khái quát một cách
76
thần tình, đích đáng và nhuần nhuyễn trong hệ thống Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với kết luận của Lê Đình Kỵ, “tính dân tộc của
ngôn ngữ có gốc rễ chủ yếu ở thành phần bình dân... những yếu tố bác học như điển
cố, tượng trưng, ước lệ đã được Nguyễn Du nhào nặn tái tạo và đưa vào một âm
hưởng mới, chứa chan tình điệu dân tộc...” [76, tr.428]. Và hơn thế nữa, “Truyện Kiều
là một truyện thơ Nôm có quy mô từ ngữ dân tộc khá phong phú kết hợp với chất thơ
trữ tình của ngôn ngữ văn học dân gian đã xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu có tính
dân tộc sâu sắc trong văn học cổ điển Việt Nam…” [65, tr.74].
Tóm lại, những từ ngữ mang sắc thái văn hoá bình dân trong ngôn ngữ nghệ
thuật của một tác phẩm cụ thể là một trong những nét biểu hiện những giá trị văn
hoá riêng biệt của nó so với những tác phẩm khác cùng thể loại, loại hình. Nó phản
ánh quá trình chia cắt, khái quát thực tại theo một nếp tư duy riêng biệt có nguồn
gốc sâu xa từ trong đặc tính bản địa của dân tộc cụ thể. Đó là nếp nghĩ, kiểu tư duy,
đặc trưng văn hoá. Vì thế tiềm năng sáng tạo nên các giá trị văn hoá của hệ thống từ
ngữ này là rất lớn. Và có lẽ, nhờ vào con đường này, tác phẩm đã đi vào lòng dân
tộc, được cộng đồng tiếp nhận một cách nhanh chóng và hiệu quả, chẳng hạn như
trường hợp Lục Vân Tiên với văn hoá Nam bộ. Mặt khác, hệ thống từ ngữ chịu ảnh
hưởng của văn hoá bình dân luôn có ý nghĩa xã hội, giàu hình ảnh biểu trưng và
tính biểu cảm. Nó góp phần giúp nhà thơ chuyển tải những thông điệp nhân sinh,
giãi bày những tâm tư, trăn trở, băn khoăn của mọi tầng lớp trong xã hội cũ, của
những trí thức bình dân hay những kẻ tha hương, người lạc loài với thời cuộc mong
muốn tìm một chốn bình yên hay sự đồng cảm với nhân dân, dân tộc mình.
2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều
2.1.3.1. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Hán, bác học
trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Môi trường văn hóa cổ điển thời trung đại đã được định chế trong khuôn khổ
của hệ thống lễ tục, nghi thức cụ thể. Nói cách khác, xã hội phong kiến Việt Nam là
xã hội được vận hành theo nguyên tắc các phạm trù đạo đức như Lễ, Trung, Hiếu,
77
Tiết, Nghĩa, Nhân... Đây là những đặc điểm, biểu hiện văn hoá, tư tưởng, xã hội của
các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc. Không gian và bối cảnh đời sống
văn hoá trong Truyện Kiều đã có sự gần gũi với khung cảnh lầu son gác tía, thế giới
quan chính thống, quan phương. Do đó, hệ thống ngôn ngữ mang tính nghi thức
được tác giả sử dụng trong ngôn ngữ tác phẩm phải đảm bảo những tính quy phạm,
chặt chẽ, phản ánh một cách chính xác các biểu hiện tôn nghiêm, cao quý, thanh nhã
của xã hội và con người thời bấy giờ. Điều này đã ảnh hưởng một cách cụ thể đến thế
giới nghệ thuật Truyện Kiều. Trong ngôn ngữ và tư duy của một số nhân vật, nhà thơ
cũng đã sử dụng các từ ngữ văn hoá chỉ đạo đức, chính trị, xã hội. Chẳng hạn như
những suy tư của Thuý Kiều về công danh, tư quyền cá nhân:
“Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thang đường cái thanh vân hẹp gì...”.
(Câu 2477 - 2478)
“Cũng ngôi mệnh phụ đường đường...”
(Câu 2481)
“Một là đắc hiếu, hai là đắc trung...”
(Câu 1831)
Vương thần 王臣 là bậc đại khanh, hoàng thân quốc thích, thanh vân 青雲 là
hoạn lộ, mệnh phụ 命婦 là vợ quan đại thần (từ chánh tam phẩm trở lên), hiếu 孝 là
cung thuận với cha mẹ, trung 忠 là hết lòng với vua... những từ ngữ này không chỉ
thể hiện rõ quan điểm của nhân vật về thành bại của con người trên con đường hoạn
lộ, mà nó còn phản ánh thói quen sử dụng ngôn ngữ nặng về từ chương khá phổ
biến trong giao tế của các tầng lớp sĩ, khanh, đại phu trong xã hội Nho giáo. Và
dường như, tác giả muốn vươn đến những ước mơ đẹp về số phận con người và một
xã hội đại đồng trên nguyên tắc của tình thương yêu, tinh thần nhân đạo người trí
thức phong kiến.
Có thể nói, bức tranh nghệ thuật về nỗi đau đoạn trường, về số phận của
Vương Thuý Kiều 王翠翹 đã được Nguyễn Du chấm phá, phác hoạ bằng ngòi bút
thần của một thi sĩ - triết nhân, một con người cũng đã từng chạy đua với số mệnh,
78
mười năm dãi gió nằm sương và cũng từng bôn ba trong khổ hải ba đào. Tác giả
không chỉ tâm lý hoá ngoại hình mà ông còn đi đến xu hướng thân phận hoá phẩm
cách. Với Thúy Kiều, tác giả không sử dụng lối đặc tả mà nhà thơ đã tiến xa hơn:
khắc họa Thúy kiều bằng những đường nét đầy ấn tượng thông qua những ý nghĩa
mang tính biểu tượng của các ngữ liệu văn hoá được dẫn dụng. Không dừng lại với
những chi tiết cụ thể như đã làm, ở đây nhà thơ đã vẽ đến phần gợi cảm nhất trên
khuôn mặt là đôi mắt của giai nhân nhưng với một thủ pháp hoàn toàn khác:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh.”
(Câu 25 - 26)
Với Thúy Vân, tác giả sử dụng thủ pháp đối xứng nghệ thuật, bộ phận này
được nêu ra thông qua bộ phận kia, còn đối với Thúy Kiều, Nguyễn Du muốn tạo
nên một ấn tượng hài hòa, xinh xắn: khóe mắt long lanh như nước hồ thu, đôi mày
thanh tú như nét xuân sơn đầy quyến rũ. Và tác giả đã sử dụng các từ ngữ như thu
thuỷ, xuân sơn (những ngữ liệu có xuất xứ từ Tây Sương Ký 西廂記 của Vương
Thực Phủ 王實甫) để nhấn mạnh đến những ý nghĩa tượng trưng về vẻ đẹp của
người thiếu nữ một cách khái quát như một sự vĩnh cửu hóa cái đẹp. Nhận xét về
điểm này, Phạm Đan Quế đã viết: “Trên nói thua, nhường, sắc trung chi hiền, đến
chữ ghen, chữ hờn thì rõ là sắc trung chi thánh. Trong sắc giới mà có phân bực
thánh hiền thì mấy chữ đó chính là tác giả đã khổ tâm chọn lựa, nung nấu hun đúc
để tả ra không lẫn được với nhau” [122, tr.18].
Thúy Kiều không chỉ là một nhân vật tuyệt sắc mà còn là một kỳ nữ tuyệt tài,
nàng thành thạo về: Cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt là âm nhạc, nàng sử dụng thành thạo
cây Hồ cầm, có thể tự sáng tác Bạc mệnh khúc 薄命曲 làm não lòng người:
“Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”
(Câu 029 - 032)
79
Qua những câu thơ tả Thúy Kiều, tác giả đã kết hợp tả cả tài lẫn sắc và xen
trong đó là cái tình. Thúy Kiều không chỉ đẹp ở sắc mà trội về tài, giàu về tình. Dường
như những điều này đã dự báo một tiền đồ ảm đạm, tương lai bất hạnh của nàng. Qua
những thủ pháp, kiểu chọn lựa và trường liên tưởng cụ thể, tác giả đã dựng nên một
điển hình nghệ thuật độc đáo, gợi cảm, cá tính và có sức khái quát cao trong thiên
truyện li kỳ này.
Tư tưởng triết học phương Đông đã ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống ngữ
liệu văn hoá trong Truyện Kiều, đó là nguyên lý Nhất dĩ quán chi 一以貫之 mà
Khổng phu tử đã nhiều lần nhắc đến trong Luận ngữ 論語 (chương Lý Nhân 里仁,
Vệ Linh Công 衛靈公) [192, tr.616]. “Một mối mà thông suốt tất cả” (nhất dĩ quán
chi) là nguyên tắc từ chỗ gần mà xem xét chỗ xa, từ chỗ rõ ràng đến chỗ sâu kín,
từ một mối mà suy luận ra, từ gốc mà đi đến ngọn và ngược lại. Vì vậy, xem xét từ
chiều hướng ấy, sự hiểu biết và chiếm lĩnh nội hàm của ngữ liệu văn hoá trong
ngôn ngữ Truyện Kiều cần phải bắt đầu từ hình thức từ ngữ đi đến bản chất văn
chương và triết học của nó, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của mỗi sự kiện, nhân vật,
tính cách, triết lý mà ngữ liệu ấy khái quát. Với đặc tính ấy, ngữ liệu văn hoá tồn
tại không chỉ với tư cách là tín hiệu thẩm mỹ mà còn là công cụ diễn đạt cái lý của
văn chương một cách hoàn bị nhất. Nó mở ra cho người đọc, người tiếp nhận một
tầm đón đợi phong phú, những khả năng chiêm nghiệm, liên tưởng, người đọc
phải suy niệm thật sâu sắc mới có thể cắt nghĩa trọn vẹn câu thơ. Có lẽ đó cũng là
cái lý nghệ thuật trong miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Với nhân vật chính diện,
ông đã thống nhất và sự dụng một loạt những mỹ từ có tính văn hoa, đẹp đẽ góp
phần tôn thêm dáng vẻ phong tư hào sảng hay tài tử của nhân vật. Qua một lớp từ
ngữ như hài văn, dặm xanh, phú hậu... Nguyễn Du đã khắc hoạ nên bức truyền
thần về một Kim Trọng tác phong nho nhã: “Hài văn lần bước dặm xanh”; tài
năng chính trực: “Nền phú hậu, bậc tài danh, văn chương nết đất, thông minh tính
trời” (Câu 150 - 151).
Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, nghệ thuật sử dụng và bố trí ngữ liệu văn hoá
của Nguyễn Du vừa hấp dẫn, vừa chuẩn mực đồng thời biểu hiện một cách cụ thể cá
80
tính sáng tạo của nhà thơ. Thông qua các ngữ liệu văn hoá đã được vận dụng,
chuyển dẫn một cách khéo léo, người thưởng thức có thể tìm thấy được vẻ đẹp của
thế giới hình tượng phong phú, sinh động được diễn đạt bằng nghệ thuật ẩn dụ, biểu
trưng, uyển ngữ của văn cách trung cổ. Từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương
thảo liên thiên bích, lê chi sổ điểm hoa 芳 草 連 天 碧 梨 枝 數 點 花”, Nguyễn Du
đã để lại cho chúng ta một cặp lục bát tuyệt tác, nó không chỉ là sự chuyển dịch giản
đơn mà đã trở thành hai câu thơ rất Việt Nam:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
(Câu 041 - 042)
Hoặc như hai câu thơ Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông
phong 人 面 不 知 何 處 去 桃 花 依 舊 笑 東 風 trong bài Đề tích sở kiến xứ 題
昔 所 見 處 của Thôi Hộ 崔 護 (Đường) năm xưa đã được phỏng dịch thành:
“Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.”
(Câu 2747 - 2748)
Những mỹ từ như cỏ non (phương thảo 芳草), cành lê (lê chi 梨枝), bóng
người (nhân diện 人面), gió đông (đông phong 東風) đã được chuyển dịch rất
thành công. Nghệ thuật dịch thơ cổ của Nguyễn Du không chỉ sao phỏng từ những
ngữ liệu cổ văn trong cổ thi, Đường thi dường nhưng tác giả đã tái tạo ý thơ trên cơ
sở vốn từ ngữ và cảm quan thẩm mỹ ngôn từ của người Việt mà vẫn không đánh
mất vẻ đẹp kiêu kỳ, quý phái và có tính khái quát của ngữ liệu gốc. Chẳng hạn, từ
mấy câu cổ thi: “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu 梧 桐 一 葉 落 天 下
共 知 秋” (Một lá cây ngô đồng rụng, thiên hạ biết thu về), nhà thơ đã chuyển dịch
thành một câu thơ rất dung dị, rất Việt Nam: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”
(1594). Hoặc ở câu thơ 225 - 226:
“Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?”
81
Câu thơ này đã phỏng dịch lại hai câu thơ nổi tiếng của Bạch Cư Dị 白居易
trong tuyệt phẩm Trường hận ca 長恨歌: “Ngọc dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa
nhất chi xuân đới vũ 玉容寂寞淚闌干梨花一枝春帶雨” (Mặt ngọc ủ ê, nước mắt
dầm dề như cái hoa lê mùa xuân có bám mấy giọt nước mưa). Tác giả đã sử dụng
câu thơ trên để miêu tả dáng vẻ u sầu của Thuý Kiều trong canh khuya, những giọt
lệ sầu bi ấy được ví như những giọt sương hãy còn vương đọng trên cánh hoa lê,
nghệ thuật diễn đạt theo kiểu tượng trưng đã được nhà thơ khai thác triệt để nhằm
tôn vinh vẻ đẹp của nàng Kiều vậy.
Theo Nguyễn Thuý Hồng, trong toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Du đã có 36 lần
chuyển dịch thành công các câu Đường thi tuyệt tác như vậy [65, tr.252]. Điều đó
không chỉ thể hiện sự ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá từ chương Trung Hoa đối với
nhà thơ mà còn thể hiện tài năng, bản lĩnh văn hoá Việt trong hồn cốt, phong cách
và tư duy của một thi nhân nặng tình dân tộc.
Việc sử dụng các ngữ liệu văn hoá trong các tác phẩm là một trong những
nét đặc thù của ngôn ngữ văn chương cổ điển phương Đông. Sự hình thành và vận
động của hệ thống ngữ liệu này ngoài các nhân tố mang tính lịch sử, nó còn chịu sự
chi phối của các tâm thức văn hóa truyền thống phương Đông và đặc trưng thẩm mỹ
cổ truyền Trung Hoa, Việt Nam. Quan niệm thẩm mỹ đầu tiên đã tác động đến ngữ
liệu văn hoá là tinh thần sùng cổ, thượng cổ. Khổng Tử đã phát biểu về những công
trình do mình san định chỉ là “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ 述而不作信而好古”
(Chỉ thuật người xưa lại không sáng tạo, tin tưởng và ưa chuộng cái cũ). Quan niệm
này đã được phản ánh qua ý thức hoài cổ, tập cổ của người xưa, đó là xu hướng
quay về với quá khứ, xem quá khứ là điển chương, là những bài học tinh thần sâu
sắc nhất đối với con người. Có lẽ, một ý thức nhân sinh như vậy đã dẫn đến một
quan niệm về thẩm mỹ tương ứng, thích hợp. Đó là sáng tác văn học được đánh giá
qua các điển cố, phong thái, cổ ngữ của các hiền nhân... do đó thủ pháp lặp lại ý
tưởng của người xưa được xem là đúng đắn, là hay, là đẹp. Đó là nội dung cơ bản
của nguyên lý Ôn cố nhi tri tân 溫故而知新. Điều này cũng đã tác động trực tiếp
đến phương thức hình thành, chuyển hoá của hệ thống ngữ liệu văn hoá như điển
cố, thi văn liệu, cổ ngữ, ý tượng... trong văn học cổ điển Trung Hoa và Việt Nam.
82
Như trên đã phân tích, bên cạnh tính điển phạm, tập cổ, đăng đối... hệ thống
ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng và tác phẩm văn
học trung đại nói chung còn thể hiện tính trang nhã, uyên bác phù hợp với tính chất
bác học trong quan niệm của người xưa. Đây cũng là luận cứ giải thích tại sao văn
chương bác học luôn dụng điển, dẫn sự, kê cổ. Khảo sát các ngữ liệu văn hoá trong
ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, nếu tác giả sử dụng những ngữ liệu văn
hoá bác học thì những sự việc, nhân vật, không gian thường thiếu yếu tố tả thực, đời
sống thực... mà chỉ thiên về miêu tả cái cao quý, để ngợi ca, lý tưởng hoá hay giáo
huấn hậu nhân và do đó họ tránh lối diễn đạt trực diện, thường đi vòng, sử dụng
những hình ảnh biểu trưng. Đúng như Lê Hữu Kiều (thế kỷ XVIII) đã bàn “làm
thơ... luyện cách điệu không trang nhã sẽ mắc vào bệnh quê mùa, đặt câu không sắc
sảo sẽ mắc vào bệnh quê mùa, kém cỏi...” [130, tr.51] và văn chương được quan
niệm là “để bày tỏ tình cảm, nên lời lẽ phải đẹp, trau chuốt” [130, tr.51]. Chẳng
hạn, trong văn hoá Trung Quốc và Việt Nam, hướng Đông chủ về sinh, thuộc
dương, cho nên Đông và nam giới có mối liên hệ với nhau. Trong bài Mạch thượng
tang 陌上桑 có câu: “Đông phương thiên dư kỵ, phu tế cư thượng đầu 東方千余騎,
夫婿居上頭” (Trong đám người theo hầu kia có chàng rể ở hàng đầu). Căn cứ vào
quan niệm đó, ta thấy trong văn học cổ Việt Nam, các tác giả cũng sử dụng các từ
như Đông cung, Đông sàng hay sàng Đông. Đông cung được dùng để phiếm chỉ
ngôi vị thái tử. Theo nghi lễ cổ xưa, cung thất của hoàng tử được chọn nối ngôi đều
xây dựng ở phía đông của cung vua. Hai từ Đông sàng hay sàng Đông đều có liên
quan đến điển cố Đông sàng thản phúc 東床坦腹 và dùng để phiếm chỉ chàng rể
quý. Vì sao có hiện tượng như thế? Truy nguồn gốc, xuất xứ của chữ Đông, thứ
nhất Đông thuộc dương, thứ hai Đông chủ về sinh nên có liên quan đến tư thế nằm
ngủ của con người. Thiên Ký Tịch Lễ 既夕禮 trong sách Nghi lễ 儀禮 có viết: “Sĩ
xứ thích tẩm, tẩm đông thủ vu bắc dung hạ 士處適寢寢東首于北墉下” (Phòng ngủ
của kẻ sĩ, giường được đặt ở phía Bắc, đầu quay về phía Đông) [182, tr.127]. Trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dùng Đông để chỉ nam giới:
83
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
(Câu 035 - 038)
Tường đông có thể thực chỉ, đó là bức tường ở phía đông, nhưng nếu dừng
lại ở đây thì khó thấy được dụng ý của tác giả khi nói về tính cách đoan trinh hiền
thục của chị em Thuý Kiều. Bởi lẽ, hai nàng là thục nữ khuê môn, những chuyện
bướm ong lại qua đều bỏ ngoài tai nên Nguyễn Du mới hạ bút viết “Tường đông
ong bướm đi về mặc ai”. Do đó, tường đông còn mang nghĩa hư chỉ, nói về nơi ở
của đàn ông. Như vậy, ngữ liệu tường đông đã kết hợp một cách nhuần nhị với các
ngữ liệu như phong lưu, hồng quần, cập kê và điều đó càng tăng mỹ cảm cho ngữ
cảnh được miêu tả, vừa chuẩn thi pháp đồng thời tạo nên sự hấp dẫn cho đoạn trích.
Nhìn chung, hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều đã chịu sự tác động của bối cảnh, tư duy, tâm thức, đặc trưng thẩm mỹ của văn
hoá Trung Hoa và Việt Nam. Dưới áp lực của những tác động ấy, ngữ liệu đã trở
thành những tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, là những uyển ngữ, mỹ từ, giai cú giàu sức
khái quát và đậm tính triết học. Hệ thống ấy đã trở thành công cụ thẩm mỹ của văn
nhân thi sĩ trung đại, nó không chỉ chuyển tải những nội dung thẩm mỹ, suy tưởng về
nghệ thuật, về cuộc sống mà còn thể hiện một cách sâu sắc về tầm văn hoá, độ thâm
thuý và sở học của các tác gia văn học.
2.1.3.2. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Việt, bình dân
trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Văn hoá không phải là quá trình biểu lộ sự hơn kém mà luôn thể hiện qua
những đặc trưng đa dạng, phong phú và khu biệt. Ở ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du
đã sử dụng một hệ thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa
những tính cách, tái tạo không gian hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Nhà thơ đã
phác thảo nên một không gian thẩm mỹ đặc thù khiến cho người đọc có thể mở ra
những trường liên tưởng, những chân trời nghệ thuật mới và có thể thẩm thấu tuỳ
vào kinh nghiệm sống, sở học của mình. Song đối với ngôn ngữ bình dân, cụ thể ở
đây là hệ thống từ láy, hư từ, từ cổ, từ địa phương tiếng Việt... đã được ông sử dụng
84
để góp phần miêu tả bức tranh đa diện của hiện thực, miêu tả nhân vật, ngôn ngữ
nhân vật (đặc biệt là những nhân vật phản diện), thể hiện tính triết mỹ, văn hoá của
nghệ thuật tác phẩm...
Với hệ thống từ ngữ bình dân, tác giả dường như lách nhẹ, đi sâu phân tích
từng đặc điểm nhỏ, từng chân tơ kẽ tóc của những phẩm cách, ngoại hình của các
nhân vật phản diện. Nếu từ ngữ bác học có đặc tính biểu tượng, khái quát, hàm súc
thì với ngôn ngữ bình dân, tính cụ thể, chi tiết, rõ ràng, nặng về miêu tả là những
đặc tính khá quan trọng. Vẻ tiêu biểu, phổ biến của một lối miêu tả “sát sàn sạt” của
giới bình dân, của lối nói khẩu ngữ đã được Nguyễn Du chuyển dẫn một cách khá
thành công. Qua các trích đoạn miêu tả về Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn tham quan ô
lại... trong tác phẩm đã chứng thực điều ấy. Sở dĩ Truyện Kiều được lưu truyền và
phổ biến rộng rãi trong dân gian là vì Tố Như Tử đã sử dụng tiếng Việt một cách
linh động, thần kỳ, nhuần nhuyễn, đa dạng, thích đáng và hợp lý. Trong quá trình
sáng tạo, tác giả Truyện Kiều đã tổng hợp, điều hoà những ảnh hưởng của hai
khuynh hướng cơ bản trong ngôn ngữ tác phẩm: Ngôn ngữ văn hoá bình dân và
ngôn ngữ văn hoá bác học.
Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi thống kê được 332 thành ngữ được
sử dụng nguyên mẫu và 113 thành ngữ tách xen và được vận dụng một cách sáng
tạo. Tuy nhiên, tác giả đã sử dụng chúng như những phương tiện để khái quát hình
tượng mà không mất đi vẻ bóng bẩy, chất tu từ của một câu thơ. Nếu ở văn học dân
gian, tác giả dân gian diễn đạt sự khó khăn, tốn công vô ích của sự việc nhất định
nào đó qua thành ngữ “đáy bể mò kim” thì ở Truyện Kiều, Nguyễn Du mượn thành
ngữ này thể hiện sự chung tình, sự khó khăn của hành trình tìm kiếm những ý nghĩa
đích thực của tình yêu. Ở đây ngoài ý nghĩa chân thực của thành ngữ, nhà thơ đã cải
biến, nâng cấp nó thành những thủ pháp nghệ thuật góp phần thể hiện một cách
chân thật tâm trạng của nhân vật:
“Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa.”
(Câu 3175 - 3176)
85
Sự sáng tạo của Nguyễn Du được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng linh hoạt
các ngữ liệu sẵn có. Khả năng am hiểu về những đặc thù của tiếng nói dân tộc đã giúp
nhà thơ có được cách sử dụng linh hoạt, dưới ngòi bút của mình, ngôn ngữ dân tộc trở
nên trong sáng kỳ lạ và trở thành lớp từ đặc biệt mà chúng tôi tạm gọi đó là hệ thống
từ ngữ văn hoá bình dân. Ở Truyện Kiều, nhà thơ không chỉ dừng lại ở sự vận dụng
có tính sáng tạo và kế thừa kho tàng ngôn ngữ dân tộc mà ông còn đưa vào trong tác
phẩm những từ ngữ Hán Việt đã được Việt hoá, giúp chúng gia nhập vào kho từ vựng
tiếng Việt. Bằng chứng là có khá nhiều thành ngữ điển cố, tập cú Đường thi đã được
Nguyễn Du chuyển dịch chuẩn xác, không cầu kỳ khó hiểu, như các cụm “Thiên nhai
hải giác" đã được tác giả Việt hoá thành “góc bể chân trời” hay “Hồng diệp xích
thằng” thành “lá thắm chỉ hồng”, “Đông ôn hạ sảnh” thành “quạt nồng ấp lạnh”…
Từ những chất liệu thô sơ của ngôn ngữ đời thường, những từ ngữ cầu kỳ khó hiểu
đối với đại đa số quần chúng (từ ngữ Hán Việt) đã được Nguyễn Du chuyển dịch và
sử dụng thành thục như một công cụ đắc lực, góp phần miêu tả tâm trạng và khắc hoạ
những thành công, bi kịch hay những mâu thuẫn cơ bản của các tuyến nhân vật.
Những thành công của ngôn ngữ nghệ thuật trong Truyện Kiều đã đánh dấu
một bước phát triển mới về chất, có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập thơ ca dân
gian và ngôn ngữ quần chúng của nhà thơ. Nguyễn Du vận dụng khẩu ngữ, ngoa
ngữ, thành ngữ, trong đó thành ngữ được vận dụng nhiều nhất. Thi nhân sử dụng cả
thành ngữ thuần Việt lẫn thành ngữ Hán Việt. Về thành ngữ Hán Việt, Nguyễn Du
thường căn cứ vào đặc điểm về âm thanh và ngữ điệu của tiếng Việt để dịch những
thành ngữ Hán ra thành ngữ Việt. Cũng có không ít trường hợp, Nguyễn Du giữ
nguyên thành ngữ Hán Việt nhằm tạo màu sắc cổ kính, uy nghiêm như “Thanh thiên
bạch nhật” trong câu “Ba quân đông mặt pháp trường/ Thanh thiên bạch nhật rõ
ràng cho coi” (câu 2395 - 2396); “Bình địa ba đào” trong câu “Gặp cơn bình địa ba
đào/ Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em”(câu 3065 - 3066). Những thành tựu
này đã đưa Nguyễn Du lên địa vị bậc thầy sử dụng ngôn ngữ, đưa ngôn ngữ thi ca
cổ điển Việt Nam đến một trình độ phát triển mới, hoàn thiện hơn và có tính bứt phá
so với giai đoạn trước đó.
86
Khác với các tác gia cùng thời, Nguyễn Du đã đưa vào tác phẩm của mình
những lời nói khẩu ngữ, có quê mùa, thô kệch, qua bàn tay đẽo gọt của thi nhân lớp từ ấy
vẫn không mất đi cái vẻ đay nghiệt của cuộc đời. Ví dụ, lời Tú Bà đay nghiến Thuý Kiều:
“Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.”
(Câu 0971 - 0972)
Thông qua cách sử dụng ngôn ngữ hội thoại, mang tính “chợ búa”, tác giả đã
tạo dựng nên những hình tượng chân thực với những góc cạnh trái phải của cá tính
nhân vật. Vì thế, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều trở thành điển hình nghệ thuật
của văn chương cổ điển Việt Nam.
Xưa nay, khi nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều, người ta
thường hay chú ý trước hết đến những chỗ dùng từ đắt, từ tinh tế, cũng như nghệ
thuật sử dụng hư từ, lớp từ đồng nghĩa, từ có phong cách khẩu ngữ, từ đa phong
cách, từ ngữ mang phong vị ca dao, có nguồn gốc từ thành ngữ, tục ngữ… Đào
Nguyên Phổ trong lời tựa của Đoạn trường tân thanh (1898) đánh giá tác phẩm
này là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”, Mai Thọ Truyền trong Phật giáo Việt
Nam đã khẳng định Truyện Kiều là “một quyển Việt ngữ bách khoa hay như một
kinh văn tôn quý...” [166, tr.42]. Ca dao trong Truyện Kiều được nhà thơ sử dụng
như một chất liệu nghệ thuật, ông sắp đặt, cấu tạo sao cho phù hợp với văn cảnh
trong tác phẩm. Qua lời ca, tiếng ngâm ở hội hát phường vải và Truyện Kiều, ông
đã sắp đặt những lời ăn, tiếng nói của tầng lớp bình dân bên cạnh các điển cố bác
học một cách nhuần nhị, giản dị nhưng không hề lạc điệu. Trong Truyện Kiều,
không ít câu thơ, ý thơ, nhịp thơ đã ảnh hưởng trực tiếp từ ca dao của người như:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.”
(Câu 1525 - 1526)
Là lấy ý từ câu ca dao:
“Tiễn đưa một chén rượu nồng
Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi.”
87
Hoặc ở câu thơ:
“Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.”
(Câu 2735 - 2736)
Lấy ý từ câu ca dao:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông.”
Hoặc ở câu thơ:
“Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa, đã dễ mấy người biết hoa.”
(Câu 835 - 836)
Lấy ý từ câu ca dao:
“Trách người quân từ bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.”
Ở một số trường hợp khác, sự vận dụng ca dào trong ngôn ngữ văn hoá bình
dân Truyện Kiều đã được tác giả thể hiện một cách sáng tạo. Đó không chỉ là sự mô
phỏng ý tứ, lấy ý mà còn là sự diễn đạt khéo léo, hợp tình hợp cảnh. Chẳng hạn ông
viết: “Đỉnh chung ai nỡ ăn ngồi cho an” (Câu 2937) đã thể hiện khá trọn vẹn ý
nghĩa của câu ca dao xưa: “Đói no có thiếp có chàng, Còn hơn chung đỉnh giàu
sang một mình”; hoặc ở ví dụ: “Nàng rằng khoảng vắng đêm trường, Vì hoa nên
phải đánh đường tìm hoa” (Câu 441 - 442) đã học tập một cách sáng tạo lối diễn đạt
của câu ca dao sau: “Vì thuyền, vì bến, vì sông, Vì hoa nên bận cánh ong đi về”.
Trong toàn bộ 3.254 câu thơ lục bát của tác phẩm, Nguyễn Du đã 83 lần dẫn dụng ý
tứ của ca dao vào câu thơ Truyện Kiều. Sự ảnh hưởng này đã góp phần đưa ngôn
ngữ bình dân trong thi phẩm này vươn đến một tầm vóc khái quát, có khả năng bao
quát, đúc kết những vấn đề trong từng trạng huống cụ thể, xác thực của cuộc sống.
Có lẽ vì thế, trong quá trình hành thế, một số câu thơ Kiều đã có thể tác ra và tham
gia vào ngôn ngữ dân gian, ca dao, dân ca, khẩu ngữ rất tự nhiên, tồn tại như những
phương ngôn, châm ngôn thế sự, răn đời trong đời sống nhân dân. Có thể nói,
88
Nguyễn Du có đóng góp to lớn, cụ thể đối với lịch sử phát triển ngôn ngữ dân tộc.
Truyện Kiều đã đem lại cho mọi người những nhận thức về khả năng phong phú của
tiếng việt, phương diện sử dụng ngôn ngữ bình dân trong sáng tác văn chương.
Lớp từ vựng khẩu ngữ của quần chúng đã đi vào thơ Nguyễn Du một cách
chan hoà, dung dị và nhẹ nhàng, giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, trước hết là sự
gia tăng liều lượng sử dụng và sau đó là ở thành tựu nghệ thuật, phát huy tối đa tính
năng thẩm mỹ của nó bên cạnh thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca. Trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã mượn những lời nói có tính triết lý và mang phong cách văn
hoá của văn học dân gian. Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy những lời đối thoại cũng
như những lời chì chiết, đay nghiến của nhân vật hết sức sống động, gần gũi. Phong
cách ngôn ngữ Nguyễn Du trong Truyện Kiều là sự súc tích, tính chính xác, là sự
giàu hình ảnh, nhạc điệu. Nguyễn Du có thể dùng một từ hoặc một vài từ bộc lộ tất
cả thái độ của tác giả. Hoàng Hữu Yên [179] đã khái quát một cách chân thực về giá
trị thẩm mỹ của lớp từ này trong Truyện Kiều. Theo nhà nghiên cứu, khẩu ngữ quần
chúng là lời ăn tiếng nói có tính chất nôm na, mộc mạc mà dồi dào sức sống động,
đa dạng, muôn vẻ và không ngừng được tăng bổ qua các thế hệ. Nó bao gồm những
lời nói thường và tục, nó như tinh chất của hàng tấn quặng thô đã qua xử lý kỹ
thuật, nó bước vào ngôn ngữ văn học từ lăng kính và bàn tay thiên tài của nhà nghệ
sĩ. Cùng với các thành phần ngôn ngữ khác, qua góc nhìn thẩm mỹ và văn hoá của
Nguyễn Du, lớp từ vựng này cũng góp phần phục dựng những bức tranh xã hội hiện
thực và thế giới nhân vật đầy rẫy những phức tạp. Đơn cử từ “mụ” trong những câu sau:
“Lầu xanh có mụ tú bà…” (Câu 809)
“Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay…” (Câu 940)
Nếu ở hai câu trên tác giả thay từ mụ bằng bà thì nhân vật Tú bà ở địa vị
được đề cao và cấu trúc của câu thơ bị phá vỡ. Thay từ như thế trong câu sẽ bị trùng
lặp từ câu thơ trở lên nhàm chán và không có tính nhấn mạnh. Như vậy từ mụ tiếng
địa phương mà Nguyễn Du ở đây vừa có nét nghĩa trung hoà chỉ người phụ nữ ở độ
tuổi trung niên trở lên, lại vừa có nét nghĩa chỉ những người đàn bà bạc ác hoặc
thiếu nhân cách với ý nghĩa xem thường. Hoàng Hữu Yên đã có lý khi xác nhận:
89
Đọc Truyện Kiều ai mà nén nổi xúc động trước mọi chặng đường khổ
ải của nạn nhân Thuý Kiều…, ai mà không thấy hiện lên trước mắt là cái
“lờn lợt màu da”, với những lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà
không ghê rợn về sự tính toán bỉ ổi của tên ma cô họ Mã! Cũng chẳng ai
quên được cái “lẻn”, cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên lừa đảo
đốn mạt Sở Khanh…” [173, tr.47].
Điểm lại các đoạn thơ sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ quần chúng,
chúng tôi nhận thấy lớp từ ấy đã tạo bức tranh chạm nổi tiêu biểu cho ngôn ngữ
nhân vật Truyện Kiều. Chẳng hạn, hai từ “này này” trong lời nói của Tú Bà đã
chứng thực rằng, nhưng từ ấy không còn là những từ mở đầu cho những câu mệnh
lệnh hay đe doạ mà nó đã trở thành những từ đay nghiến, kết tội thoát ra từ sự sụp
đổ của mọi dự tính mà Tú Bà đã sắp xếp cho Kiều nhi:
“Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chông min đi rồi!”
(Câu 0963 - 0964)
Tiếp đến là những lời mắng nhiếc, chửi rủa, thô bỉ và in đậm dấu ấn của
những biệt ngữ nghề nghiệp: đi dạo lấy người, rước khách kiếm lời, vốn liếng đi đời
nhà ma… quả là không còn lời lẽ nào thích hợp hơn cho những kẻ chuyên làm nghề
buôn hương bán phấn, đầu trộm đuôi cướp.
Về hư từ (lớp từ chỉ có ý nghĩa ngữ pháp mà không có ý nghĩa từ vựng)
trong Truyện Kiều, Phạm Đan Quế trong công trình Thế giới nghệ thuật Truyện
Kiều đã đưa ra con số thống kê là 105 từ [122, tr.181]. Dựa trên sự thống kê cụ thể
đó, chúng tôi khảo sát và ghi nhận được số lượt xuất hiện của 105 hư từ trong 3254
câu thơ Kiều là 1.736 lần. Khi khảo sát hệ thống ngôn ngữ bình dân, chúng tôi cũng
nhận thấy có một số lượng lớn hư từ được tác giả dẫn dụng. Vấn đề được đặt ra ở
đây là, nghệ thuật vận dụng khá linh hoạt, hợp lý của tác giả đã biến các hư từ, các
quan hệ từ trong ngôn ngữ lời nói thành các từ có chức năng nghệ thuật thực sự
trong ngôn ngữ văn hoá bình dân Truyện Kiều. Các hư từ như thì, rằng, mà, là…
ngay trong lời nói khẩu ngữ nếu không được sử dụng hợp lý cũng tạo nên sự rườm
90
rà không đáng có, không thông thoát, không diễn đạt được sự liên tiến, chuyển tiếp,
kế thừa các ý tưởng của phát ngôn. Song trong các đoạn hội thoại của các nhân vật
trong Truyện Kiều, hệ thống từ này đã được chuyển dẫn một cách khá tự nhiên, hợp
lý thể hiện được mạch tư duy logic của lời nói và nội dung phát ngôn.
Trong số 105 hư từ đã được Phạm Đan Quế khảo sát và kiểm chứng của
chúng tôi, hư từ “đã” xuất hiện 136 lần, “cũng” xuất hiện 69 lần, “mà” xuất hiện 27
lần, “bấy chầy” được lặp đi lặp lại 12 lần, “những là” lặp lại 06 lần… và ít nhất là
những hư từ “chi đây”, “nữa đâu”… chỉ xuất hiện 01 lần. Với 1.736 lượt xuất hiện
như vây, hệ thống này không chỉ thể hiện sự linh hoạt trong việc thể hiện cách sử
dụng hư từ mà còn góp phần làm đa dạng hoá các lớp từ trong ngôn ngữ nghệ thuật
tác phẩm, thể hiện tính chất dân dã, khẩu ngữ - một yếu tố khiến cho tác phẩm này
rất gần gũi với đai đa số người lao động. Ví dụ, hư từ “thì cũng” biểu thị ý phủ định
đối với điều sắp nêu ra ở người đối thoại, dưới hình thức gần như thừa nhận một
điều gì đó và đem điều ấy so sánh với điều ngược lại nhằm biểu bộ sự không đồng
tình. Đó là khi Kiều bị Sở Khanh vu vạ và nàng đã thốt lên:
“Nàng rằng: Thôi thế thì thôi,
Rằng không, thì cũng vâng lời rằng không.”
(Câu 1175 - 1176)
Hư từ này đã được Nguyễn Du vận dụng trong lời van xin của Hoạn Thư:
“Rằng tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”
(Câu 2365 - 2366)
Và trong lời kể tội của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã hai lần dùng từ này trong
một cặp lục bát để biểu lộ vẻ đắn đo suy tính trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng:
“Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.”
(Câu 2375 - 2376)
Nguyễn Du không chỉ là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ mà còn là một nhà
văn hoá lớn với những phương thức ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ
dân tộc và hiệu quả của nó. Đồng thời, trong quá trình tạo tác, cái khéo léo của
nhà văn là đã chuyển hoá một cách linh hoạt vốn quý bình dân ấy, đưa lời ăn
91
tiếng nói của nhân dân vào hàng ngũ những từ ngữ đẹp và đắc dụng nhất. Bao lời
ăn tiếng nói của quần chúng đã được Nguyễn Du sử dụng rất nghệ thuật, đều có
vị trí xứng đáng trong ngôn ngữ Truyện Kiều và đều phát huy tác dụng thẩm mỹ
của nó. Qua hệ thống ngôn từ của mình, Nguyễn Du đã tạo nên những câu thơ
chân thực khắc hoạ sống động hiện thực tâm trạng và hiện thực khác quan của xã
hội. Đây có lẽ là những truyền thống văn hoá mà nhà thơ đã kế thừa được từ thơ
Nôm Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và các nghệ nhân dân gian Việt Nam.
2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều
2.2.1. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học
Cho đến nay, theo sự khảo sát của chúng tôi, vấn đề phân loại hệ thống ngữ
liệu trong Truyện Kiều và một số truyện Nôm khác đã được khá nhiều nhà nghiên
cứu khoa học Ngữ văn cổ điển quan tâm, lưu ý đến. Từ góc độ lịch sử tiếng Việt,
chúng tôi nhận thấy việc xây dựng tiêu chí phân loại từ hình thức ngữ âm của ngữ
liệu là một trong những phương cách có thể khái quát được quá trình dịch chuyển từ
các ngữ liệu Hán Việt, có nguồn gốc từ ngôn ngữ văn học cổ điển Trung Hoa sang
các ngữ liệu thuần Việt hoặc ngữ liệu bán Hán Việt (chỉ những ngữ liệu có một
thành tố là Hán Việt, một thành tố là thuần Việt). Với tiêu chí này, chúng ta có thể
tìm hiểu được sự chuyển hoá, vận động ngôn ngữ văn học dân tộc từ việc tiếp nhận,
ảnh hưởng đến Việt hoá, sáng tạo.
Những tác phẩm được sử dụng để thống kê, so sánh trong mục này thuộc hai
nhóm truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Hệ thống từ ngữ được thống kê
trong bảng thống kê dưới đây đã phản ánh một cách khách quan về tình hình sử
dụng điển cố, thi liệu, nhân danh, địa danh và hệ thống từ ngữ văn hoá xã hội trong
Ngôn ngữ nghệ thuật của một thể loại nội sinh của văn học dân tộc. Việc sử dụng hệ
thống từ ngữ này là một trong những thủ pháp văn chương nhằm đảm bảo tính quy
phạm, tính cao nhã theo đặc trưng thi pháp văn học cổ điển. Sự gia giảm về ý nghĩa
văn hoá, số lượng của các ngữ liệu âm Hán Việt, âm bán Hán Việt, thuần Việt
không chỉ tuỳ thuộc vào hệ thống đề tài, chủ đề hay nội dung tác phẩm mà nó còn
có mối quan hệ mật thiết với quá trình chống Hán hoá, dân tộc hoá, tiếp thu, kế thừa
92
văn hoá dân tộc. Đó là những cách tân, sáng tạo của tác giả đối với vốn từ ngữ có
nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa và sự linh hoạt của nó trong ngôn ngữ văn học cổ
điển Việt Nam.
Để có được một cái nhìn toàn diện, khoa học về vấn đề sử dụng từ ngữ trong
truyện Nôm, theo kết quả khảo sát của Đoàn Ánh Loan [87], Nguyễn Thuý Hồng
[75], Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần [160] và kết quả thống kê của
chúng tôi, sơ bộ có thể nhận diện và phân loại các dạng thức của ngữ liệu trong
ngôn ngữ của một số truyện Nôm từ góc độ hình thức âm đọc của ngữ liệu như sau:
Bảng 2.1. Ngữ liệu văn hóa bác học trong một số truyện Nôm
Số câu Ngữ liệu âm Ngữ liệu âm Ngữ liệu âm Tác phẩm thơ Hán Việt bán Việt hoá thuần Việt
Hoa tiên 1766 37 (19,7%) 83 (44,3%) 67 (35,8%)
Bích Câu kỳ ngộ 23 (24,2%) 38 (39,1%) 33 (34%) 608
Nhị độ mai 33 (36,6%) 42 (46,6%) 15 (16,6%) 2826
Sơ kính tân trang 63 (45%) 42 (30%) 23 (16,4%) 1484
Phan Trần 34 (49,2%) 27 (39%) 08 (11,5%) 940
Quan âm thị Kính 38 (36,8%) 49 (47,5%) 14 (14,2%) 788
Thạch Sanh 11 (57,8%) 07 (36,8%) 01 (5,2%) 347
Qua khảo sát, tìm hiểu và phân tích bước đầu, chúng tôi nhận thấy, ngữ liệu
âm bán Hán Việt (hay còn gọi là âm bán Việt hoá, là những ngữ liệu được cấu tạo
từ hai thành tố, trong đó có một thành tố là Hán Việt, một thành tố là Việt, đây là
một minh chứng cho quá trình dịch chuyển từ Hán Việt sang thuần Việt) được các
tác giả sử dụng tương đối phổ biến, chẳng hạn ở Quan Âm Thị Kính là 49 ngữ liệu
trên tổng số 788 câu thơ, Hoa Tiên là 83 ngữ liệu trên tổng số 1766 câu thơ hay Sơ
kính tân trang là 42 ngữ liệu trên tổng số 1484 câu thơ. Điều đó cho thấy sự chuyển
dịch từ âm Hán Việt sang âm thuần Việt cần phải có một bước chuyển trung gian là
âm bán Hán Việt.
Bên cạnh đó, sự phân bố không đồng đều giữa các thành phần ngữ liệu trong
các truyện Nôm đã thể hiện quá trình dân tộc hoá các điển cố, thi liệu, thuật ngữ văn
93
hoá Trung Hoa, phản ánh một cách trung thực quan điểm tập cổ nhưng vẫn đảm bảo
được tính thẩm mỹ và nghệ thuật trong bối cảnh giao lưu đặc thù của văn hoá, văn học
và ngôn ngữ Việt Nam, Trung Hoa.
Khảo sát trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, từ quan điểm và nội hàm
khái niệm ngữ liệu văn hoá đã được thống nhất, trong tổng số 972 từ ngữ Hán Việt
thống kê được [65, tr.230], chúng tôi đã thống kê được 626 ngữ liệu văn hoá
nguyên dạng chiếm khoảng 67,3% từ ngữ Hán Việt xuất hiện trong Truyện Kiều và
169 ngữ liệu chuyển dịch, mô phỏng, chiếm tỷ lệ 39,5 % so với số lượng 440 từ ngữ
Việt được chuyển dẫn từ văn hoá bình dân và bác học mà tác giả Nguyễn Thuý
Hồng đã khảo sát. Sự khác biệt này là do quan niệm về từ ngữ Hán Việt.
Theo chúng tôi, từ góc độ hình thức âm đọc của ngữ liệu, những từ ngữ có
nguồn gốc trong ngôn ngữ văn chương cổ điển Trung Hoa, được đọc theo âm Hán
Việt và không thay đổi ngữ nghĩa so với từ gốc, được gọi là ngữ liệu Hán Việt. Các
trường hợp khác còn lại, chúng tôi tạm gọi đó là ngữ liệu có yếu tố Hán Việt.
Về ngữ liệu văn hoá bác học, kế thừa quan điểm nghiên cứu của một số tác
giả đi trước, chúng tôi tiến hành các bước thẩm định, phân loại thành hai thành phần
cơ bản: Ngữ liệu nguyên dạng (hay nguyên dạng Hán Việt, là những từ ngữ có
nguồn gốc từ ngôn ngữ văn học Trung Hoa và được thể hiện qua hình thức là từ
Hán Việt) và ngữ liệu chuyển dịch (hay còn gọi là ngữ liệu chuyển dịch bán Hán
Việt, thuần Việt, là những từ ngữ có nguồn gốc từ văn học cổ điển Trung Hoa, được
dịch sang tiếng Việt và thể hiện qua hình thức là những từ có yếu tố Hán Việt và
thuần Việt).
Việc phân chia ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
thành hai hệ thống bác học, bình dân là kết quả của một quá trình khảo sát văn bản
dựa vào tiêu chí kết hợp giữa nguồn gốc, xuất xứ và các dạng thức thể hiện, âm đọc
của từ ngữ. Tiêu chí phân loại được chúng tôi sử dụng trong quá trình tìm hiểu hệ
thống ngữ liệu văn hoá này là một trong những hệ quy chiếu được nhiều nhà nghiên
cứu Kiều học quan tâm. Để thấy được tiến trình phát triển và sử dụng ngôn ngữ dân
tộc, quá trình Việt hoá của các ngữ liệu văn hoá trong truyện thơ Nôm, ngoài Truyện
94
Kiều, chúng tôi chọn Hoa Tiên và Lục Vân Tiên. Đây là hai tác phẩm đại diện cho hai
giai đoạn trước và sau Truyện Kiều. Kết quả thu hoạch được như sau:
Bảng 2.2. Ngữ liệu văn hoá trong Hoa Tiên, Truyện Kiều và Lục Vân Tiên
Ngữ liệu văn hóa Số Tác phẩm Nguyên dạng Chuyển dịch lượng Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Hoa Tiên 392 288 71,4% 103 28,6%
Truyện Kiều 795 626 87,2% 169 22,8%
Lục Vân Tiên 691 212 30,01% 479 69,99%
Căn cứ vào kết quả thống kê ta thấy, nếu ở giai đoạn 1 (tạm gọi là giai đoạn sơ
khởi), số lượng từ ngữ văn hoá nguyên dạng được sử dụng khá phổ biến (288 ngữ
liệu, chiếm tỷ lệ 71,4 %) thì ở Truyện Kiều (tạm gọi là giai đoạn cao trào) với số
lượng ngữ liệu nguyên dạng và chuyển dịch đều chiếm một tỷ lệ lớn (626 ngữ liệu
nguyên dạng, chiếm 87,2 %; 169 ngữ liệu chuyển dịch, chiếm 22,8 %) và đến Lục
Vân Tiên, hệ thống ngữ liệu này có chiều hướng giảm dần. Đó là sự thể hiện một cách
khách quan nhất của quá trình dân tộc hoá ngôn ngữ văn chương. Do đó, ngữ liệu văn
hoá bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều không chỉ được thừa nhận là đỉnh cao của
ngôn ngữ dân tộc mà nó còn là đại diện tiêu biểu cho quá trình chuyển đổi từ ngữ liệu
nguyên dạng sang ngữ liệu chuyển dịch. Có thể nói, qua số liệu thống kê, chúng ta có
thể nhận thấy một đặc điểm khá quan trọng trong hành trình dân tộc hoá ngôn ngữ văn
học dân tộc, hệ thống ngữ liệu chuyển dịch dần được thay thế cho hệ thống ngữ liệu
nguyên dạng ở giai đoạn tiếp nhận ban đầu.
Từ Hoa Tiên, qua Truyện Kiều đến Lục Vân Tiên, vốn từ vựng văn hoá trong
kho tàng ngôn ngữ văn chương Việt Nam dần trở nên phong phú, tuy chưa thoát khỏi
“bóng cả” của văn hoá cổ Trung Hoa nhưng ngôn ngữ trong những truyện Nôm bác
học càng về sau càng có ý thức dân tộc hơn trong vấn đề biểu đạt những tâm tư, tình
cảm của người Việt.
Về ngữ liệu chuyển dịch, từ 103 ngữ liệu trong Hoa Tiên đến 479 ngữ liệu trong
Lục Vân Tiên là một bước tiến của ngôn ngữ văn học dân tộc. Sự tăng trưởng về số
95
lượng ấy đã minh chứng cho quá trình Việt hoá những từ ngữ gốc Hán trong ngôn ngữ
nghệ thuật truyện Nôm bác học nói chung và Truyện Kiều nói riêng.
Trong quá trình khảo sát, thông qua các tiêu chí phân loại, khảo sát và chú giải
ngữ liệu trong ngôn ngữ Truyện Nôm, nhận thấy cần phải xây dựng những cứ liệu cụ
thể chứng minh cho sự tồn tại khách quan của các ngữ liệu văn hóa, chúng tôi đã tiến
hành phân loại, cụ thể như sau:
Bảng 2.3. Ngữ liệu văn hóa bác học trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Nguồn gốc, xuất xứ Thành phần Số lượng Thi liệu, Nhân danh, Từ ngữ văn ngữ liệu Kinh sử văn liệu địa danh hóa, xã hội...
Nguyên dạng 626 145 28 69 384
Chuyển dịch 169 61 40 8 60
Từ bảng thống kê trên, chúng ta có thể nhận thấy, dù ở dạng thức nào, ngữ
liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đều phong phú, đa dạng.
Trong hệ thống này, các từ ngữ thuộc về lĩnh vực văn hoá, tôn giáo, chính trị, quân
sự... đặc trưng của xã hội phong kiến chiếm một tỷ lệ tương đối lớn (384 ngữ liệu
nguyên dạng Hán Việt; 60 ngữ liệu chuyển dịch, bao gồm bán Hán Việt, thuần
Việt). Trong khi đó, các ngữ liệu có nguồn gốc từ kinh truyện (145 nguyên dạng, 61
chuyển dịch), điển cố, thi liệu, nhân danh, địa danh cũng chiếm một số lượng tương
đối (69 nguyên dạng, 08 chuyển dịch).
Sự có mặt của hệ thống ngữ liệu này đã góp phần khẳng định những yếu
tố văn hóa bác học đã ảnh hưởng một cách sâu sắc trong Ngôn ngữ nghệ thuật
tác phẩm. Tuy sự phân chia nguồn gốc theo các thành phần đã nêu tuy chỉ là một
sự quy ước tương đối, nhưng nó cũng có thể đảm bảo cho việc nhận thức ngữ
liệu được dẫn dụng thêm rõ ràng, phản ánh trình độ Hán học uyên bác và kế
thừa, học tập cổ nhân của Nguyễn Du trong quá trình sáng tạo trong tác phẩm.
Nó góp phần làm đa dạng hoá thành phần kiến tạo vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều.
96
2.2.2. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân
Là một tín hiệu ngôn ngữ mang tính thẩm mỹ cao, trong ngôn ngữ bình dân
Hoa Tiên, Truyện Kiều và Lục Vân Tiên, hệ thống thành ngữ, ca dao, hư từ, khẩu
ngữ, từ địa phương, từ cổ… là những thành phần tương đối linh hoạt và có tính sáng
tạo. Có thể nói, so với lớp ngữ liệu bác học, những đơn vị này có chức năng như
hoạt động như một từ cụ thể, được sử dụng trong đời sống và đi vào văn chương tạo
nên một lớp từ có sắc thái biểu cảm cao, góp phần diễn đạt thành công những cung
bậc tình cảm hay suy nghĩ, đắn đo của từng nhân vật, mô tả những không gian, tâm
cảnh khác nhau. Đặc biệt, với hệ thống này, ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn
học Nôm đã góp phần thể hiện dấu ấn văn hoá bình dân của dân tộc Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát, số lượng cũng như thành phần nguồn gốc, xuất xứ của
hệ thống ngữ liệu trong các truyện Nôm là tương đối phong phú, đa dạng. Tuy
nhiên, theo khảo sát của chúng tôi trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm Hoa Tiên
của Nguyễn Huy Tự và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, kết quả như sau:
Bảng 2.4. Ngữ liệu văn hoá bình dân trong Hoa Tiên, Truyện Kiều và
Lục Vân Tiên
Nguồn gốc thành phần ngữ liệu
Tác phẩm Số lượng Ca Thành Từ địa phương, Khẩu Hư
dao ngữ từ cổ ngữ từ
Hoa Tiên 509 51 215 48 127 68
Truyện Kiều 1102 83 445 139 331 105
Lục Vân Tiên 614 48 244 75 126 121
Qua bảng thông kê trên, chúng ta có thể nhận thấy, số lượng ngữ liệu văn
hoá chịu ảnh hưởng của văn hoá bình dân không đồng đều trong ba tác phẩm được
khảo sát. Với 509 ngữ liệu thu thập được, số lượng từ ngữ chịu ảnh hưởng hoặc
mang phong cách của ca dao (51 ngữ liệu), thành ngữ (215 ngữ liệu), từ địa
phương, từ cổ (48 ngữ liệu) và ngữ liệu có phong cách khẩu ngữ (127) và 68 hư từ
đã tham gia vào việc xây dựng nên những nét đặc sắc của Ngôn ngữ nghệ thuật
truyện Hoa Tiên - một tác phẩm có sức ảnh hưởng khá lớn đến Truyện Kiều của
97
Nguyễn Du. Ở tác phẩm này, số lượng ngữ liệu văn hoá bình dân tuy chưa thật
phong phú nhưng hệ thống này đã đặt tiền đề quan trọng cho quá trình phát triển
ngôn ngữ bình dân trong Truyện Kiều.
Khi khảo sát truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, chúng tôi nhận
thấy, số lượng từ ngữ có sắc thái bình dân trong tác phẩm này cũng khá phong phú,
đặc biệt, các ngữ liệu chịu ảnh hưởng của văn hoá Nam bộ, cụ thể ảnh hưởng văn
hoá giao tiếp, khẩu ngữ là 75 ngữ liệu, ảnh hưởng của ca dao dân gian Nam bộ là 48
ngữ liệu. Số ngữ liệu này có ý nghĩa lớn và có tần số xuất hiện cao trong toàn bộ tác
phẩm. Nó góp phần thể hiện bản sắc văn hoá Nam bộ và cá tính bộc trực của một
nhà nho ưu thời mẫn thế. Đồng thời, hệ thống ngữ liệu đó cũng góp phần thể hiện
những yếu tố tự thuật – một đặc tính khu biệt của truyện Nôm Lục Vân Tiên so với
Hoa Tiên và Truyện Kiều.
Riêng Truyện Kiều, trong tổng số 1.102 ngữ liệu được khảo sát, số lượng 445
thành ngữ được sử dụng là một con số khá lớn. Tât nhiên trong số này, 332 thành
ngữ được sử dụng nguyên dạng và 113 thành ngữ được tác giả sáng tạo, tái tạo, vận
dụng tách xen, lắp ghép như một phương tiện tu từ mà không mất đi vẻ cân đối,
bóng bẩy của câu thơ. Chẳng hạn thành ngữ “gió táp mưa sa” được Nguyễn Du
dùng trong câu 403 và 3.099 đều không hề có ý trùng lặp:
“Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.”
(Câu 403 - 404)
Ở câu thơ này, câu thành ngữ được sử dụng trong lời khen của Kim Trọng,
dụng ý của Nguyễn Du khen tài thơ, bút lực và khả năng ứng đối nhanh của Thuý
Kiều, hai ông Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim đã dẫn câu thơ cổ Phong vũ thôi thi tứ
風雨推詩思 (Cái thi tứ xuất hiện nhanh như thể là có gió mưa đun đẩy) để nói về ý
nghĩa của thành ngữ đã nêu. Tuy nhiên đến câu:
“Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.”
(Câu 3099 - 3100)
98
Qua tìm hiểu, tiếp cận từ góc độ xuất xứ, ở thành ngữ “gió táp mưa sa” là
một sự chuyển dịch rất thành công và rút gọn Phong vũ thôi thi tứ. Theo sách Cổ
đại thi tứ cố sự 古代詩思故事, Lý Thương Ẩn 李商隱 (Đường 唐), Viên Mai 袁枚
(Thanh 清) và một số nhà thơ khác đã sử dụng mỹ từ phong vũ này để diễn đạt
những khái quát về cuộc đời cũng như quá trình xây dựng tứ thơ trong sáng tác
những bài thơ viết về hiện thực xã hội. Ở câu thơ 3099 - 3100 này, nhà thơ vận
dụng thành ngữ đã nêu trong ngôn ngữ của Kiều nhằm dụng ý miêu tả cuộc đời đau
khổ của nàng, dụng ý khái quát về cuộc đời phong trần “ong qua bướm lại đã thừa
xấu xa” mà Kiều đã nếm trải. Có thể nói, ở nhiều trường hợp khác, tài nghệ khéo
léo vận dụng linh hoạt thành ngữ của Nguyễn Du đã được thể hiện một cách thuần
thục. Điều đó chứng tỏ nhà thơ không chỉ nắm rõ ý nghĩa gốc của thành ngữ mà còn
có khả năng gia tăng những nét nghĩa mới, góp phần làm cho ngữ cảnh được miêu
tả thêm phần hấp dẫn. Về hệ thống thành ngữ tách xen, vận dụng sáng tạo, Nguyễn
Du không chỉ sáng tạo ra những thành ngữ mới, lần đầu tiên xuât hiện trong ngôn
ngữ văn chương cổ điển Việt Nam. Ví dụ như ở câu thơ sau:
“Não người cữ gió, tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.”
(Câu 567 - 568)
Thành ngữ “cữ gió tuần mưa” được Nguyễn Du sáng tạo và sử dụng trong
ngữ cảnh này nhằm làm tăng thêm dáng vẻ tình cảm, nỗi tương tư của Kim và Kiều
sau những lần hạnh ngộ. Sau Nguyễn Du, có lẽ chưa có một thi nhân nào sử dụng
những hình ảnh này để bộc lộ nỗi đau chia cách của những tài tử giai nhân vừa gặp
gỡ đã chia phôi. Trong một trường hợp khác, nhà thơ chỉ sử dụng một phần của
thành ngữ, hoặc tách rời các thành tố của thành ngữ nhằm diễn đạt những nghĩ suy
của nhân vật:
“Vả đây đường sá xa xôi,
Mà ta bất động, nữa người sinh nghi.”
(Câu 844 – 845)
99
Hai từ “bất động” trong thơ trên, nhà thơ đã mượn ý của câu thành ngữ “Án
binh bất động”. Nhà thơ chỉ lấy ý, dẫn từ mà không dùng trọn vẹn thành ngữ trong
suy tính của Mã Giám Sinh, để đặc tả tính cách bất lương, háo sắc, đểu giả của gã họ
Mã này. Trong quá trình sử dụng thành ngữ trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã rất chú
ý đến nguồn gốc xuất xứ của nó. Trong tổng số 445 thành ngữ được khảo sát, chúng tôi
nhận thấy có 170 ngữ cố định là những thành ngữ thường được sử dụng trong văn học
dân gian, 162 cụm từ có hình thức là thành ngữ những nội dung ý nghĩa là của văn học
từ chương như: trong nguyệt trên mây, nghiêng nước nghiêng thành, cây quỳnh cành
dao, trên Bộc trong dâu, nhả ngọc phun châu… và 113 thành ngữ được nhà thơ vận
dụng sáng tạo, có khi ông tạo ra những thành ngữ mới trên nền tảng của thành ngữ
nguyên mẫu, có khi chỉ dẫn ý, hoặc sử dụng một phần. Chẳng hạn như câu: “Tình sâu
mong trả nghĩa dày” vốn là lấy từ thành ngữ gốc là tình sâu nghĩa nặng, song có lẽ do
áp lực về gieo vần của câu thơ lục bát nên ông đã thay đổi từ nghĩa nặng thành nghĩa
dày cho hợp với vần “ay” ở chữ thứ 8 của câu bát trên và chữ thứ 6 của câu bát dưới.
Hoặc nhà thơ không viết các thành ngữ theo kiểu phổ thông như: Đau như dần, rối như
tơ vò, xấu chàng hổ thiếp…, ông chuyển thành câu thơ 8 âm tiết như sau:
“Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau.” (Câu 1252)
“Xấu chàng mà ai có khen chi mình.” (Câu 1610)
Ông cũng không viết trọn vẹn câu thành ngữ Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm, ông
đã diễn đạt thành một cặp lục bát đầy triết lý:
“Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.”
(Câu 1815 - 1816)
Có lúc nhà thơ không dùng nguyên vẹn câu thành ngữ Hán Việt như Thủ khẩu
như bình hoặc thành ngữ thuần Việt Ai khảo mà xưng, ông đã linh hoạt hoá thành một
câu lục bát diễn tả những toan tính của Thúc Sinh khi về nhà:
“Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?”
(Câu 1577 - 1578)
100
Ở một số trường hợp khác, khi cần nhấn mạnh nội dung ý nghĩa của thành ngữ,
Nguyễn Du đã tận dụng một cách hợp lý kết cấu tiểu đối của thành ngữ, tạo nên những
thành ngữ tách xen và thêm vào đó một số từ nhấn mạnh, ví dụ như ông không dùng
hẳn thành ngữ Trong ấm ngoài êm, tình sâu nghĩa dày, hoa kia cành này mà viết:
“Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.” (Câu 1506)
“Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa.”
(Câu 1263 - 1264)
Bên cạnh đó, khác với một số nhà thơ đương thời, Nguyễn Du đã đưa vào
tác phẩm của mình những từ ngữ có tính chất phong cách khẩu ngữ đậm nét. Với
331 ngữ liệu văn hoá bình dân được dẫn dụng, nhà thơ đã rất táo bạo, chấp nhận đổi
mới phong vị ngôn ngữ của thơ ca đương thời. Ông thổi vào những câu thơ lục bát
đầy tính chất tự sự của mình bằng những giai điệu rất trữ tình, ngọt ngào của ca dao,
dân ca Việt Nam (83 ngữ liệu). Bên cạnh đó dường như trong vốn ngôn ngữ của
mình, ông đã không cố tình thoát ly khỏi những ảnh hưởng của phương ngữ xứ
Nghệ, của từ ngữ cổ xưa vẫn còn lưu dấu trong ngôn ngữ thường nhật, thôn quê,
ông đã sử dụng 139 ngữ liệu có nguồn gốc từ phương ngữ xứ Nghệ và hệ thống từ
cổ trong thi phẩm của mình. Sự phong phú của hệ thống từ cổ và từ địa phương
trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã không làm giảm đi giá trị phong cách, chiều sâu
nhân văn của một nhà văn hoá lớn - Nguyễn Du. Ngoài ra, đối chiếu với số liệu
thống kê của Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Khắc Thuần trong Từ điển Truyện
Lục Vân Tiên [160], so với Lục Vân Tiên, số lượng 434 thuần Việt đã được sử dụng
trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, trong đó chúng tôi nhận thấy, 351 từ láy
thuần Việt đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên những giá trị phong cách đặc
biệt qua nghệ thuật miêu tả, khắc hoạ và tạo dựng những khung cảnh, không gian
đặc sắc được thể hiện trong tác phẩm.
Trong ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm, dường như mỗi khẩu ngữ thường
chỉ được Nguyễn Du đưa vào tác phẩm một vài lần, trong đối thoại của một nhân
vật nhất định nào đấy. Có lẽ với ông, mỗi khẩu ngữ khi xuất hiện đều có những lý
do nghệ thuật của nó. Nguyễn Thuý Hồng cho rằng: “Thường trong Truyện Kiều,
101
các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ được Nguyễn Du đặt nhiều trong ngôn ngữ
nhân vật ở các hoàn cảnh có kịch tính của các nhân vật” [65, tr.35]. Qua khảo sát
cụ thể, chúng tôi nhận thấy, qua tác phẩm, nhà thơ đã để lại những câu thơ sắc sảo
mà cách dùng từ đặt câu mang hơi hướng của câu thơ hiện đại. Ví dụ như những
câu kết luận bản án cuối cùng Kiều đã phán quyết cho Sở Khanh trong một nghịch
cảnh mà Kiều là nạn nhân, Sở Khanh đã rủ nàng bỏ trốn rồi lại bỏ rơi nàng khiến
cho Kiều phải rơi vào một trạng huống mà không bao giờ nàng nghĩ đến, một tình
thế đầy bi kịch, xót xa.
“Nàng rằng: Trời nhé có hay,
Quyến anh rủ yến sự này tại ai?
Đem người giẩy xuống giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
Còn tiên “tích việt” ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mày này chứ ai?”
(Câu 1179 - 1184)
Dường như nỗi căm phẫn và uất giận đã lên đến tột độ, Thuý Kiều cũng
buông những lời mà sự ghê gớm, quyết liệt của nó cũng chẳng hề kém cạnh bất kỳ
một nhân vật nào trong tác phẩm. Hay lời tâm sự của Thuý Kiều với Thuý Vân
trong màn trao duyên và thở than về hoàn cảnh trớ trêu của mình, Kiều cũng rào
trước đón sau một cách khéo léo và hợp tình lý:
“Rằng: Lòng rỗn rã thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng, thì phụ tấm lòng với ai!”
(Câu 719 - 722)
Nếu phân chia nhân vật Truyện Kiều thành hai tuyến theo sắc thái nghệ
thuật: ước lệ và hiện thực, chúng ta có thể nhận thấy các nhân vật có tính ước lệ có
số lượt sử dụng những từ ngữ có phong cách khẩu ngữ trong các đoạn đối thoại, hội
thoại ít hơn các nhân vật hiện thực. Chẳng hạn, Thuý Kiều đã sử dụng 114 từ khẩu
ngữ trong tổng số 85 lượt thoại, Tú Bà sử dụng 20 từ khẩu ngữ trong 06 lượt
102
thoại… nhưng Kim Trọng thì chỉ sử dụng 19 từ khẩu ngữ trong 19 lần lượt thoại,
Từ Hải cũng chỉ sử dụng 08 từ trong tổng số 08 lần đối thoại. Với một thế giới nhân
vật phong phú, đa dạng như vậy, việc sử dụng từ ngữ có phong cách khẩu ngữ có
vai trò to lớn đối với việc cá thể hoá các nhân vật. Có lẽ, với Nguyễn Du nguyên
tắc, nhân vật nào ngôn ngữ ấy đã được ông vận dụng triệt để và hữu lý. Thuý Kiều,
một nhân vật giàu trả nghiệm nên không lạ gì khi nàng dùng khá nhiều khẩu ngữ
như: dầu vậy cũng dầu…, thôi còn chi nữa…, thôi thế thì thôi…, đã đành…, thôi thế
là xong…, đành vậy cũng vầy… Tuy cùng là từ ngữ khẩu ngữ nhưng lớp từ này
hoàn toàn khác với những từ ngữ vô học mà Tú Bà luôn đặt ở cửa mồm của mình:
con kia, lão này, chẳng văng vào mặt, đi đời nhà ma… Có thể nói, ở những trường
hợp cụ thể này, ngôn từ của Nguyễn Du đã vươn tới một trình độ mới so với ngôn
ngữ văn học thời bấy giờ. Nghệ thuật vận dụng lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ
của Nguyễn Du đúng lúc, đúng nơi, hợp tình, hợp lý đã góp phần kiến tạo cho câu
thơ Kiều chất hiện thực, làm tăng khả năng biểu đạt, biểu cảm, khiến cho câu thơ
thêm phần cụ thể, chân thực, chính xác.
Các số liệu về từ ngữ được so sánh và phân tích trên đã góp phần thể hiện
một bức tranh ngôn ngữ đa dạng với nhiều thành phần khác nhau trong ngôn ngữ
Truyện Kiều (qua so sánh đối chiếu với Hoa Tiên, Lục Vân Tiên). Có thể nói, trong
lịch sử phát triển của tiếng Việt nói chung và ngôn ngữ thơ ca cổ điển Việt Nam nói
riêng, chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ, nhất là ngôn ngữ khẩu ngữ
mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật và có sức sống tràn trề, mãnh liệt.
Ngoài ra, cùng với sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố văn hoá bác học và bình dân
trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, sự trội bật của ngôn ngữ văn hoá bình dân
đã nâng cao giá trị, hiệu quả thẩm mỹ của ngôn ngữ tác phẩm.
2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ Truyện Kiều
2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên, biến hoá và
thích hợp với nội dung ngữ cảnh
Như đã nói, trong văn học cổ điển Việt Nam tính chất, nguyên tắc quan
phương dường như đã trở thành một đặc điểm thẩm mỹ của ngữ liệu văn hoá. Đối
103
với ngôn ngữ tác phẩm văn chương cổ điển, việc sử dụng các ngữ liệu mang tính văn
hoá là một thủ pháp, đặc trưng quan trọng. Trong kiệt tác Truyện Kiều, ngoài sự ảnh
hưởng, tác động từ văn hoá, văn học dân gian, Nguyễn Du đã vận dụng rất thiết thực,
tự nhiên, ý nhị, đa dạng và nhuần nhuyễn những từ ngữ có nguồn gốc từ văn hoá bác
học, từ ngôn ngữ văn học, triết học cổ điển Trung Hoa. Miêu tả sự xuất hiện của Kim
Trọng, tác giả đã viết:
“Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”
(Câu 0143 - 0144)
Hài văn là giày có thêu hoa vân nổi, cây quỳnh cành dao là ngữ liệu được
chuyển dẫn dụng từ sách Thế Thuyết 世說: “Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm
dao thụ phong trần ngoại vật 王衍神采如瓊林瑤樹風塵外物” (Thần thái của
Vương Diễn đẹp như cây ngọc dao trong rừng ngọc quỳnh, như ngoại vật ở cõi đời
gió bụi) [192, tr 798]. Chúng ta có thể hiểu, quỳnh và dao (còn gọi là cây xương hô)
là hai loại cây có đặc tính sinh trưởng khá kỳ lạ, nó thường nương tựa quấn quít với
nhau, tồn tại gắn bó với nhau, tạo nên một sự hài hoà, tương hỗ nên người đời
thường hay ví tình cảm vợ chồng gắn bó như cây quỳnh cành dao. Song, trong câu
thơ đang đề cập trên, có thể Nguyễn Du cũng sử dụng ngữ liệu có nguồn gốc trong
văn hoá dân gian đó. Cũng cần nói thêm rằng, ở trường hợp này, giữa Kim - Kiều
chỉ là buổi sơ giao chưa kết thành phu phụ. Do đó, hình ảnh “cây quỳnh cành dao”
chúng ta cũng có thể hiểu đó là hai thứ ngọc quý và đẹp, dùng để chỉ cho những
người có phong thái nho nhã, khiến cho nét tạo hình và sắc thái miêu tả của ngữ
cảnh được gợi tả. Có lẽ, hình ảnh có tính biểu trưng đó, không gian, phong thái của
Kim Trọng khi xuất hiện sẽ thêm phần văn hoa, thống nhất với những già mà
Nguyễn Du đã miêu tả về nhân vật này trong toàn thiên truyện. Dù không nắm vững
về ngữ liệu, nhưng qua đoạn trích người ta vẫn có thể hình dung được phong thái
trang nhã, đĩnh đạc của bậc tài tử văn nhân. Dường như, qua ngữ liệu văn hoá này,
Nguyễn Du không chỉ tạo nên một kết hợp hoàn chỉnh giữa ánh sáng, màu sắc, tạo
thành một nét thần trên một nền của một bức chân dung đẹp nhất về Kim Trọng mà
104
tác giả còn hướng người đọc đến một sự cảm nhận hài hoà về một vùng không gian
văn hoá nên thơ, trang nhã và hấp dẫn. Đặc biệt, thông qua các ngữ liệu văn hoá
trên, nhà thơ muốn lý tưởng hoá, cực tả hoá hình tượng những nhân vật có tính chất
biểu trưng cho các mệnh đề luận lý của tác giả, vĩnh viễn hoá một không gian uy
nghi cổ điển, tái tạo một xã hội luân lý được vận hành theo nguyên tắc của Lễ pháp
禮 法. Xét riêng trong lĩnh vực nghệ thuật, đó là những nguyên tắc có tính ước lệ,
tức là mọi sự miêu tả, giới thiệu đều được tổ chức theo những quy định có tính nghi
thức, câu thúc. Nếu miêu tả về người quân tử thì tướng mạo đĩnh đạc, kẻ anh hùng
vóc dáng vạm vỡ, người cơ trí thì tướng mạo nho nhã, hài hoà. Miêu tả về nữ nhân
thì chủ về đoan trang, hiền thục, cử chỉ ngôn hành đều tuân theo tứ đức, suy nghĩ,
hành động và lối sống thì luôn gắn bó với tam tòng. Điều này được ghi nhận trong
sách Ma Y tướng pháp (dành cho nam) và Liễu Trang diện tướng (dành cho nữ).
Hệ thống ngữ liệu trong Truyện Kiều phần lớn là những mỹ từ có chiều
hướng thiên về quá khứ. Đó là những hình ảnh, tư tưởng của cổ nhân, nó phải thể
hiện sự tôn sùng cái cũ, kinh nghiệm của quá khứ, suy tôn kinh, sử, thuật cổ, luận
kim. Nó được thể hiện qua hàng loạt các từ ngữ thi ca, dẫn ngữ, thi liệu, điển cố...
mà chúng tôi gọi chung là ngữ liệu văn hoá. Mở đầu cho thiên truyện, Tố Như tiên
sinh đã sử dụng khá nhiều từ ngữ thi ca, ngữ liệu thường được sử dụng trong thơ
văn cổ điển Việt Nam:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng,
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.”
(Câu 01 - 06)
Những từ ngữ như trăm năm (bách niên 百年), bể dâu (thương hải tang điền
滄海桑田), trời xanh (thanh thiên 青天), má hồng (hồng nhan 紅顏) là những từ
ngữ có nguồn gốc trong Hán ngữ, ý nghĩa của nó biểu thị kỳ hạn của đời người, sự
105
biến thiên, thói đời ấm lạnh của cuộc sống trong quan niệm của các thi nhân. Trăm
năm là một cứ liệu ngôn ngữ xuất phát từ thực tế đời sống. Thơ chữ Hán của
Nguyễn Du cũng có câu: “Bách tuế vi nhân bi thuấn tức, mộ niên hành lạc tích du
du” (Mạn hứng 漫興) (cuộc đời trăm năm buồn thay chỉ là chốc lát, tuổi già mua
vui tiếc quá ngắn). Trăm năm cũng là một cách nói đại thể diễn tả cuộc đời, ở đây
Nguyễn Du dường như muốn nói về cuộc đời của một con người cụ thể: Vương
Thuý Kiều và qua đó cũng chính là những tâm sự của đời mình. Tương tự như vậy,
các cứ liệu như bể dâu, trời xanh, má hồng cũng đã phát huy những ý nghĩa nội tại,
góp phần làm tăng thêm sự trang trọng, hấp dẫn cho câu thơ, đồng thời giúp cho
những khái quát của nhà thơ thêm sâu sắc.
Với ngôn ngữ bác học trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng một hệ
thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa những tính cách, tái
tạo không gian hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Nhà thơ đã phác thảo nên một
không gian thẩm mỹ đặc thù khiến cho người đọc có thể chiêm nghiệm hay cảm
nhận theo kinh nghiệm sống, vốn văn hoá của mình.Trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều, mỗi ngữ liệu đều phát huy chức năng nghệ thuật của nó. Tác giả đã sử
dụng hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học một cách hết sức tự nhiên, không câu thúc,
rất linh hoạt và thích hợp với giọng điệu trữ tình. Chẳng hạn, khi tác giả miêu tả
việc Kim Trọng đã từng nghe biết về hai chị em Thuý Kiều bằng những ngữ liệu rất
chuẩn mực, đúng phong cách:
“Nguyên người quanh quất đâu xa
Họ Kim tên Trọng, vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh
Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà
Với Vương Quan trước vốn là đồng thân
Trộm nghe thơm nức hương lân
106
Một nền Đồng Tước, khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm dấu thầm yêu chốc mồng.”
(Câu 0155 - 0158)
Với những ngữ liệu nguyên dạng Hán Việt như trâm anh, phú hậu, tài danh,
phong nhã, hào hoa, hương lân, Đồng Tước và chuyển dịch như hai Kiều, buồng
thêu, tác giả đã giới thiệu rõ danh tính, lai lịch, hành trạng, phong độ, phẩm chất của
trang tài tử hào hoa. Những ngữ liệu như trâm anh 簪 纓 vốn là cái trâm và dải mũ,
nay được linh hoạt sử dụng để chỉ nhà quyền quý, khoa bảng, có gia phong nền nếp
và truyền thống khoa cử, Đồng Tước và hai kiều là những mỹ từ được đúc rút từ câu
thơ của Đỗ Mục 杜牧 (Đường 唐): Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều 銅 雀 春 深
鎖 二 嬌 và từ buồng thêu được chuyển dịch từ ngữ liệu gốc là tú phòng 繡 房, tức
buồng riêng của con gái theo quy định của lễ giáo phong kiến. Với sự kết hợp xen
kẽ giữa điển cố và những từ ngữ bác học, Nguyễn Du không chỉ khắc hoạ chân
dung nho sĩ Kim Trọng theo tiêu chuẩn ước lệ của văn học cổ điển, mà nhà thơ còn
thể hiện dáng vẻ đa tình, đã từng ấp ủ khát vọng tình yêu đối với Thuý kiều từ
trước. Trong đoạn trích này, qua những tín hiệu thẩm mỹ cụ thể như đã phân tích,
Nguyễn Du đã miêu tả thành công những rung động tinh tế, sôi nổi ban đầu trong
trái tim tràn ngập yêu đương của chàng khi được gặp bóng dáng giai nhân.
Số lượng từ ngữ được tác giả sử dụng để diễn đạt một ngữ liệu nguyên dạng
nhất định nào đấy rất linh hoạt và thần tình, tuỳ theo yêu cầu của văn cảnh mà định
vị cho các điển, ngữ phù hợp thích đáng. Có khi đơn giản chỉ vài chữ cũng đủ nêu
lên hàm nghĩa sâu xa của một ngữ liệu văn hoá, có khi phải vận dụng hàng loạt từ
khác nhau để giải thích biện minh. Song, điều quan trọng là sức gợi của những ngữ
liệu ấy mang lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mỹ gì, giúp người đọc hiểu
thêm những vấn đề gì, nội dung nào của thi phẩm. Có nghĩa là, người đọc phải nắm
được chìa khoá về nét nghĩa phái sinh của điển ngữ. Sau khúc đàn Bạc mệnh, lại
thấy chàng Kim “xem trong âu yếm có chiều lả lơi…”, Thuý Kiều đã lên tiếng để
nhắc nhở về sự “hơi quá trớn” của tình quân:
107
“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi lại phải đẹp tày Thôi Trương.
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Trong khi chắp cánh liền cành.”
(Câu 0511 - 0516)
Thông qua việc nhắc lại câu chuyện tình sử Thôi - Trương (tức Thôi Oanh Oanh 崔鶯鶯 và Trương Quân Thuỵ 張君瑞) trong Tây Sương Ký 西廂記 của
Vương Thực Phủ 王實甫 (Nguyên 元), Thuý Kiều có ý nhắn nhủ với Kim Trọng,
tình ý đôi ta như thể cây quỳnh cành dao, đẹp tựa mây trời, có phải đâu là chuyện
ham thú mây mưa, yêu thích việc trêu hoa ghẹo nguyệt của bọn dâm bôn trên bãi
dâu ở nước Vệ. Tuy vậy, trường liên tưởng của những câu thơ trên như được mở
rộng thêm bởi một lớp từ văn hoá được tác giả sử dụng rất sắc sảo, thông qua một
trường nghĩa của những từ ngữ như mây mưa, chắp cánh, liền cành… khiến cho lý
luận lôgic của Thuý Kiều được tăng thêm bội phần. Những hình ảnh biểu trưng ấy
đã tạo nên tính mạch lạc và thấm đẫm nỗi lòng chan chứa yêu thương, tất cả không
ngoài vòng lễ giáo, đức tính đoan trinh hiền thục của nàng một lần nữa lại được
khẳng định. Cách bố trí linh hoạt tạo trường liên tưởng ngữ nghĩa của các ngữ liệu
đề cập trên đã mang lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mỹ, tình điệu thẩm
mỹ, giúp cho trường liên tưởng văn hoá của độc giả trong quá trình tiếp nhận thêm
phong phú. Chẳng hạn, qua lời thề của Mã Giám Sinh, người đọc ngỡ hắn là một
sinh viên thực thụ của trường Quốc tử giám:
“Cạn lời khách mới thưa rằng:
Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
Mai sau dầu đến thế nào,
Kìa gương nhật nguyệt, nọ đao quỷ thần!”
(Câu 903 - 906)
Trong lời thề ấy, Mã Bất Tiến đã sử dụng những từ ngữ rất văn hoa có tính
chất điển cố như xích thằng 赤繩 (điển cố có xuất xứ từ trong Tục u quái lục 續 幽
怪 錄), từ ngữ xã hội như gương nhật nguyệt, đao quỷ thần. Lời thề ấy nghe có vẻ rất
108
nghiêm cẩn nhưng lại chính là chứng lý cụ thể vạch trần bản chất đểu cáng của hắn.
So với những hành động mà hắn sẽ làm tiếp sau đó, người đọc không khỏi bật cười vì
những hành vi vô luân, vô sỉ được bao bọc, nguỵ trang bằng những từ hoa mỹ.
Với ngữ liệu văn hoá bình dân, ông đã sử dụng hệ thống này với các nhân vật
phản diện, mang tính chất phê phán. Thông qua ngôn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã
sử dụng một lớp từ ngữ có sắc tái miêu tả cụ thể, chi tiết về nhân vật. Chẳng hạn:
“Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
Dù khi gió kép mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng can cớ gì.”
(Câu 1109 - 1112)
Một từ lẻn cũng đủ bóc trần bộ mặt trâng tráo, xấc xược, đểu giả của một kẻ
chuyên lừa gạt những cô gái nhẹ dạ, cả tin. Qua lối nói đặc phong cách khẩu ngữ
nhưng có vẻ anh hùng, kiêu dũng kiểu giang hồ “có ta đây cũng chẳng can cớ gì”,
chúng ta có thể phần nào hình dung ra được dáng vẻ điển hình của một gã điếm
đàng nói riêng và sự “na ná” giống nhau của những kẻ đưa hương dắt phấn. Với hệ
thống từ ngữ bình dân, tác giả dường như lách nhẹ, đi sâu vào bản chất thực, dè bỉu
phẩm cách, ngoại hình của các nhân vật phản diện. Nếu từ ngữ bác học có đặc tính
biểu tượng, giàu tính ước lệ thì với ngôn ngữ bình dân, tính chính xác, rõ ràng, cụ
thể là đặc tính khá quan trọng. Vẻ tiêu biểu, phổ biến của một lối miêu tả “sát sàn
sạt” của giới bình dân, của lối nói khẩu ngữ đã được Nguyễn Du dẫn dụng một cách
khá thành công. Qua các trích đoạn miêu tả về Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn tham
quan ô lại ... trong tác phẩm đã chứng thực những điều đã khái quát trên.
Với khả năng gợi cảm, thiên về miêu tả và gợi hình chi tiết, cụ thể, chúng
tôi cho rằng, từ láy thuần Việt đã được Nguyễn Du sử dụng một cách khá đắc
dụng và có vai trò quan trọng trong nghệ thuật miêu tả cảnh, thể hiện tâm trạng
nhân vật. Qua các tình huống miêu tả khác nhau, hệ thống từ láy thuần Việt đã tạo
thành một thế giới nghệ thuật ngôn từ phong phú. Từ láy thuần Việt không chỉ góp
phần tạo ra những hình ảnh cụ thể khi miêu tả mà còn thể hiện những nét tinh tế
109
trong tâm trạng của nhân vật. Cảnh vật đìu hiu, buồn bã, hoang sơ, các từ láy đầy
tâm trạng trong đoạn thơ nói về Kiều gặp mộ Đạm Tiên 淡仙 đã diễn tả một cách
thích đáng tâm trạng của nàng Kiều với một cảm giác nhân văn và tràn ngập
những nỗi niềm trăn trở:
“Tà tà bóng ngả về Tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đường,
Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh.”
(Câu 051 - 058)
Một đoạn thơ chỉ có 8 câu thì đã có đến 7 câu đã sử dụng từ láy tượng hình.
Đoạn thơ đã diễn tả tâm trạng khá thoải mái, vui vẻ của hai chị em Thuý Kiều khi
chia tay với ngày xuân vào thời khắc hoàng hôn đang dần sụp xuống. Các từ láy tạo
hình như tà tà, thơ thẩn, nao nao, nho nhỏ đã phần nào gợi nên một nỗi buồn man
mác, nhẹ nhàng của thời khắc cuối ngày. Những từ láy như sè sè, dàu dàu đã giúp
người đọc như cảm nhận được sự hiu hắt của nấm mồ vô chủ Đạm Tiên qua con
mắt nhân văn của Kiều. Vị trí nằm đầu câu thơ của các từ tà tà, sè sè, dàu dàu đã
gây một ấn tượng khá mạnh cho bút pháp từ chấm phá đến phục dựng bức tranh
thanh minh vào cuối ngày xuân. Đoạn thơ như toát lên một sự dự báo về số phận
tương lai của nàng Kiều – lênh lênh, khúc khuỷu và uốn quanh. Trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã đặt từ láy vào vị trí trung tâm của phát ngôn vừa tạo cảm giác
chuyển động của bánh xe lúc đăng trình nhưng đồng thời cũng mang tính tạo hình,
dường như ông đã vẽ được lộ trình phía trước của Kiều với nỗi đau đoạn trường:
“Đoạn trường thay lúc phân kỳ,
Vó câu khấp khiểng, bánh xe gập ghềnh.”
(Câu 0869 - 0870)
110
Trong câu thơ trên, các từ Hán Việt như đoạn trường 斷腸 (nỗi đau đứt
ruột), phân kỳ 分岐 (rẽ sang ngả khác, chia rẽ) đã khiến người đọc cảm nhận một
cách sâu sắc về nỗi đau cốt nhục phân ly, không hẹn ngày tái hội. Trong khi đó, các
từ láy khấp khiểng, gập ghềnh… đã biểu lộ cảm giác xót xa một cách cụ thể về nỗi
đau của Kiều và gia đình Vương ông khi Mã Giám sinh rước Kiều về Lâm Truy. Phải
chăng đến câu thơ này, người đọc dường như nghe thấy được tiếng chân ngựa bước,
tiếng bánh xe chuyển động trên con đường thiên lý xa xăm? Buồn bã, thê lương đến
nỗi cỏ cây cũng nhuốm màu tâm trạng, giọt sương cũng sa trong nỗi u hoài. Cuộc đời
Kiều cũng gập ghềnh như vó câu trong ngày đưa dâu. Trần Trọng Kim trong lời
Tựa của quyển Truyện Thuý Kiều (1925, Tân Việt tái bản năm 1960), có nhận xét
rất xác đáng về nghệ thuật sử dụng từ láy (ông gọi là tiếng đôi) trong câu thơ Kiều.
Ông cho rằng Nguyễn Du “lại khéo dùng những chữ đôi: dập dìu, lơ thơ, êm đềm,
nao nao… mà khiến cái điệu câu thơ lúc mau, lúc khoan, lúc thương nhớ, lúc buồn
rầu, nó hình dung ra được. Lắm câu thoe chỉ hay vì cái âm hưởng những tiếng của
tiên sinh (tức Nguyễn Du) dùng như:
“Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai”
Đọc lên thật nhẹ nhàng êm ái, nghe như tiếng đàn cầm văng vẳng bên tai
vậy.” [30, tr.22]. Miêu tả cái phong khí êm đềm ngày thu là vậy mà đến khi tả cái
cảnh vội vàng, lật đật thì ông cũng dồn dập:
“Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.”
(Câu 907 - 908)
Vì vậy, bên cạnh việc sử dụng từ láy để tả tình, vịnh cảnh, Nguyễn Du còn sử
dụng lớp từ này để miêu tả và khắc hoạ tính các nhân vật, nhất là các nhân vật phản
diện. Đối với bọn sai nha, ông miêu tả:
“Hàn huyên chưa kịp dãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước kẻ tay dao,
111
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.”
(Câu 0575 - 0578)
Với Mã giám sinh, ông đặc tả:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”
(Câu 0627 - 0628)
Với gã Sở khanh, ông châm biếm:
“Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng.”
(Câu 1059 - 1060)
Có thể nói, với Nguyễn Du, những từ láy thuần Việt không chỉ có tính tạo
hình mà còn có khả năng đặc tả. Nhờ những từ láy đó mà ở mỗi nhân vật, nghệ
thuật miêu tả của ông đều đạt đến mức điển hình. Ông sử dụng những uyển từ miêu
tả làm nền để chấm phá các từ láy tạo hình cụ thể, chi tiết, góp phần bộc lộ bức
truyền thần chân thật nhất của nhân vật. Trong 3.254 câu thơ lục bát của thiên
truyện, Nguyễn Du đã sử dụng các từ láy rất khéo léo, tinh tế và đúng mực ở những
vị trí khác nhau đã tạo nên một khả năng phối kết khá nhịp nhàng với nhịp điệu thơ
lục bát, giúp người đọc có thể khắc hoạ ấn tượng về sự chuyển đổi nhạc điệu cho
câu thơ thông qua khả năng hài âm của từ láy. Hệ thống từ láy mà Nguyễn Du sử
dụng trong tác phẩm của mình cho đến nay vẫn còn tươi nguyên những giá trị của
nó. Việc sử dụng nhiều từ láy trong Truyện Kiều là một hệ quả tất yếu của một quan
niệm nghệ thuật của Nguyễn Du mà chúng tôi đã trình bày: coi trọng lời quê, tránh
lạm dụng những từ ngữ văn chương bác học. Nhờ đó, câu thơ của Truyện Kiều có âm
hưởng linh hoạt, nhẹ nhàng, bay bổng và tạo nên ấn tượng sâu sắc đối với người đọc.
Nó không chỉ bó hẹp trong bề mặt con chữ mà ẩn sau nó cả một tấm lòng, một tài
năng và một nỗi niềm luôn thường trực trong tâm hồn thi nhân. Đúng như Lê Nhật
Ký đã nhận xét: “Trong nhiều trường hợp, Nguyễn Du chú trọng sử dụng các từ láy
đảm nhiều chức năng khác nhau…. Và các từ láy có sự dịch chuyển từ miêu tả bên
trong, nới rộng diện tích nghĩa của hình tượng thơ…” [97, tr.208].
112
2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một cách
sáng tạo
Trong kiệt tác Truyện Kiều, bên cạnh sự vận dụng sáng tạo các ngữ liệu từ
văn hoá dân gian, Nguyễn Du đã khéo léo chuyển hoá, định vị cho các ngữ liệu văn
hoá bác học một cách tài tình và sáng tạo. Ông không chỉ sử dụng lối kê cổ, dụng
điển mang phong cách từ chương của văn học cổ điển mà nhà thơ học tập, ảnh
hưởng và tạo nên những ngữ liệu đậm tính văn hoá mộc mạc, nhuần nhị. Được sinh
ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc, phong cách sinh hoạt, lề lối tư duy, các
khái niệm văn hoá lễ nghi mang tính quan phương, đẳng cấp dường như đã thấm
vào máu thịt của ông, do đó bóng dáng uy nghi của những mỹ từ kiêu sa, quý phái,
những ý tưởng mang nặng tính chất ước lệ, câu thúc của quan niệm xã hội không
thể không ảnh hưởng đến tư duy nghệ thuật và sáng tác của nhà thơ. Đó là điều kiện
cơ bản để nhà thơ hiểu đúng và vận dụng một cách đầy sáng tạo, nghệ thuật lớp
ngôn từ đặc trưng ấy.
Hệ thống ngữ liệu chuyển dịch được nhà thơ diễn nôm, chuyển dịch từ hệ thống
điển cố, thi liệu Hán học trong Truyện Kiều rất phong phú về số lượng, đa dạng, sáng
tạo về hình thức. Tất cả những ngữ liệu ấy đã được nhà thơ vận dụng trong những ngữ
cảnh rất thích đáng và thần tình. Để nói về mặt trăng với hàm ý chỉ người con gái đẹp,
người ta có thể dùng các mỹ từ như cung thiềm, cung quế, ngọc thố…, và đặc biệt là
Hằng Nga 恆 娥, Thường Nga 嫦 娥. Theo sách Hoài Nam Tử 淮南子, Hằng Nga là
vợ Hậu Nghệ 后羿, một nhân vật truyền thuyết thời đế Nghiêu, đã lấy trộm thuốc
trường sinh bất tử của chồng để được thành tiên và bỏ trốn lên cung Quảng Hàn 廣寒.
Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, ngữ liệu nguyên dạng Hằng Nga hầu như không được
nhà thơ sử dụng lần nào, khi dẫn điển này, nhà thơ đã chuyển đổi cấu trúc từ Hán sang
Việt, tạo nên một ngữ liệu chuyển dịch và sử dụng đúng vị trí của nó, chẳng hạn:
“Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao…” (Câu 1636)
“Chủ trương đành đã, chị Hằng ở trong…” (Câu 1340)
Ngoài ra, để diễn đạt ngữ liệu này, tác giả còn sử dụng rất linh hoạt các từ
ngữ khác như bóng nga, thềm quế, cung hàn... Nhận xét về tài nghệ sử dụng các
113
ngữ liệu, thi liệu, điển cố một cách nhuần nhị, nhẹ nhàng, trong sáng và ý vị, học
giả Vệ Thạch Đào Duy Anh trong Khảo luận về Kim Vân Kiều đã viết:
…Chúng ta đều hiểu rằng dùng từ thích đáng tức là dùng chữ nào
đúng nghĩa chữ ấy theo nghĩa đen của nó. Nhà thi sỹ lại vận dụng linh động
nghĩa phái sinh bổ túc không theo con mắt mộc mạc của người thường, mà
cũng không có những cảm giác thiển cận như bọn phàm phu tục tử chúng ta.
Nhà nhạc sỹ ở cái gì cũng thấy thanh âm, nhà hoạ sỹ ở cái gì cũng nhìn thấy
hình sắc, nhà thi sỹ thì thấy cả thanh âm, hình sắc, cùng những điều huyền bí
kín ngầm. Cho nên, nhiều khi thi sỹ không biểu diễn tư tưởng tình cảm một
cách giản đơn thô lỗ, mà lại dùng những lời, những chữ mà ta cảm thấy
bóng bẩy, thâm trầm... [02; tr.223].
Trong Truyện Kiều, mỗi chữ, mỗi câu đều in đậm dấu ấn của sự sáng tạo của
nhà thơ. Một hình ảnh thơ không phải tự nhiên xuất hiện mà nó luôn là sự kết tinh
của tri thức và tài năng của nhà nghệ sỹ. Chẳng hạn:
“Đêm thu, gió lọt song đào…” (Câu 1637)
“Nàng thì chiếc bóng song mai ...” (Câu 2231)
Các ngữ liệu như song đào là cửa sổ có trang trí sắc đỏ của hoa đào, song
mai là cửa sổ có vẽ hoa mai, lấy ý từ cổ thi “độc lập vô tình tự, ỷ song điểm mai
hoa” (Đứng một mình buồn bã, dựa song đếm hoa mai), song trăng là cửa sổ tròn
hình nguyệt, nó còn có thể hiểu là ban đêm. Các từ như song đào (cửa sổ có vẻ hình
hoa đào), song mai (cửa sổ có vẻ hình hoa mai), song the (cửa sổ làm bằng vải the),
song mây (cửa sổ làm bằng dây mây) đều phiếm chỉ cửa sổ. Có thể nói, Nguyễn Du
đã linh hoạt hoá việc phác hoạ những không gian văn hoá truyền thống phương
Đông trong Truyện Kiều. Với ông, khuê phòng của tú nữ Kiều nhi là không gian cá
nhân, là nơi hạn chế ra vào theo quan niệm của lễ giáo phong kiến, đồng thời cũng
là nơi mà nhân vật trữ tình của thiên truyện có thể bộc bạch những tâm sự, trút bỏ
những nỗi niềm cay đắng trong cuộc đời, hoặc suy nghiệm những lý lẽ, nghiệm
chứng những việc đã xảy ra. Đó cũng là nơi mà nỗi nhớ luôn tràn về trong ký ức
của nàng. Có lẽ, tác giả sáng tạo nên những lối diễn đạt mới nhằm làm phong phú
hoá những lối diễn đạt về một đối tượng cụ thể một cách bóng bẩy, giàu hình ảnh,
114
làm tôn thêm vẻ đẹp văn hoá cho ngữ cảnh được miêu tả, khắc hoạ. Nhưng trong
câu “Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời…” (Câu 2746), hình ảnh “song trăng
quạnh quẽ” lại “gợi lên khung cảnh đêm trường cô đơn, không gian trống rỗng,
buồn bã của ngôi nhà, của sổ mặc để trăng quạnh soi vào...” [02, tr. 480].
Hoặc ở một ví dụ khác, Nguyễn Du cũng rất sáng tạo trong việc dẫn dụng các
ngữ liệu bác học có liên quan đến hình ảnh trăng, cụ thể như trong các câu thơ sau:
“Sắn bìm chút phận con con,
Khuôn viên biết có vuông tròn cho chăng?
Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng, nghĩ nau…”
(Câu 1633 - 1636)
Trong đoạn thơ này, tác giả đã chuyển dẫn một cách linh hoạt các ngữ liệu
văn hoá bác học trong văn chương cổ điển Trung Hoa khiến cho câu chuyện tâm
tình của nàng Kiều về thân phận lẻ mọn của mình khi gá nghĩa với Thúc Sinh. Ngữ
liệu sắn bìm đã được nhà thơ Việt hoá từ các điển cố Hán học như Cát luỹ 葛藟 có
xuất xứ từ câu Nam hữu cù mộc, cát luỹ oanh chi 南有欋木葛藟縈之 (Bên Nam có
cây to, dây cát luỹ leo lên) trong kinh Thi, phiếm chỉ thân phận của người vợ lẽ.
Cung Quảng ả Hằng là thi liệu xuất phát từ trong bài thơ cổ Thất tịch ca 七夕歌:
Do thắng Hằng nga bất giá nhân, dạ dạ cô miên Quảng hàn điện 猶勝恆娥
不嫁人, 夜夜孤眠廣寒殿 (Bởi nàng Hằng Nga không lấy chồng, đêm đêm ngủ một
mình trong cung Quảng Hàn), chỉ sự cô đơn, sầu lẻ bóng. Hai ngữ liệu bác học này
kết hợp với khuôn viên (có bản chép là khuôn duyên), một ngữ liệu do Nguyễn Du
đã sáng tạo ra, phiếm chỉ sự sắp đặt duyên phận của tạo hoá. Đặc biệt, ở câu thơ
1633, Nguyễn Du đã kết hợp ngữ liệu sắn bìm (chỉ thân phận lẻ mọn) với từ láy con
con tạo nên một cảm giác tự ti của một người vợ lẻ khiến cho người đọc càng thêm
chua xót. Hơn ai hết, Thuý Kiều đã thực sự đánh đổi số phận của mình trong một
canh bạc này. Với tổ hợp phận con con ấy, người đọc dường như cảm nhận được sự
cam chịu, chấp nhận mọi chuyện của Kiều nhi. Có lẽ trong thẳm sâu ý thức của
mình, nàng cũng thực sự cảm nhận một viễn cảnh bất hạnh lại đến với bản thân
mình. Tương tự ở một ngữ cảnh khác, Nguyễn Du cũng sử dụng ngữ liệu này để
115
bộc bạch nỗi nhớ nhung của Kiều với Từ Hải, một nỗi nhớ nhung rất mực sâu đậm
của người vợ xa chồng.
“Nàng rằng: “Chút phận ngây thơ,
Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.”
(Câu 2279 - 2280)
Hình ảnh dây cát ở đây là một sự sử dụng có tính linh hoạt, một sự chuyển
dịch rất hay. Nhà thơ cũng mượn những nét nghĩa văn hoá của ngữ liệu để diễn đạt
nỗi nhớ nhung sầu muộn của người đàn bàn chờ chồng, trong mong chồng. Hình
ảnh bóng cây cũng là một lối mượn ý từ ngữ liệu Tùng quân 松筠 (tùng là loại cây
họ thông, quân là cật tre già), một ngữ liệu phiếm chỉ tính cách, khí phách, hành
động quang minh của người quân tử, bậc trượng phu và người chồng. Như vậy,
trong ngữ cảnh nảy, Nguyễn Du đã chuyển dẫn và vận dụng một cách linh hoạt các
ngữ liệu văn hoá trong văn học cổ điển Trung Hoa để diễn đạt tình và ý của Kiều
một cách văn hoá, hợp lý nhất.
Với lối sử dụng hình ảnh vừa tả thực, vừa giàu khả năng gợi tả, không gây
tâm lý nhàm chán, tác giả đã góp phần làm phong phú thêm những hình ảnh thơ,
đậm tính biểu trưng và làm phong phú cho sự liên tưởng, đó là sự sáng tạo độc đáo
và cũng chính là đóng góp lớn của Nguyễn Du vào kho tàng ngôn ngữ Việt Nam.
Bên cạnh việc sử dụng những hình ảnh có tính chất đặc tả ấy, nhà thơ còn vận dụng
một cách tối đa những hiểu biết của mình về nhân tình thế thái trong những năm
tháng sinh sống ở phủ đệ của cha anh, hơn mười năm gió bụi nơi viễn xứ (thập tải
phong trần) và cả kinh nghiệm sống của cả một đời người. Sự từng trải ấy đã khiến
cho các dữ liệu văn hoá đã được sử dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều thêm sâu sắc và
mang tầm triết học, ví dụ như ngữ liệu trăm năm:
“Trăm năm trong cõi người ta...” (Câu 01)
“Trăm năm biết có duyên gì hay không...” (Câu 0182)
“Trăm năm để một tấm lòng từ đây...” (Câu 0880)
Như một tín hiệu thẩm mỹ đã được mã hoá, ông đã 8 lần dẫn dụng ngữ liệu
có tính triết luận trên, dường như tác giả đã chiêm nghiệm từ chính cuộc đời của
116
bản thân mình. Hơn một lần, Tố Như Tử đã đọc bản kinh Kim Cương mà chưa thật
hiểu rõ về nó, đến với Nho học và thuyết Tài mệnh tương đố, nhà thơ vẫn chưa thật
thấu triệt những ý nghĩa uyên áo của nó… thế nhưng chỉ trong “thập tải phong
trần”, dường như tác giả Truyện Kiều đã ngộ ra tất cả. Vì vậy, đoạn thơ được trích
dẫn trên đã ẩn chứa trong nó những nội hàm văn hoá đặc sắc của cả một thời đại, ẩn
tàng những “giác ngộ” của nhà thơ về thân phận con người. Có lẽ vì thế, nhà thơ
Đinh Hùng đã tôn vinh ông là thi sỹ của đau thương, kẻ lạc loài tha hương.
Bên cạnh hệ thống từ ngữ có tính định danh, miêu tả, Nguyễn Du còn sử
dụng một cách thần tình và khéo léo liên kết trường ngữ nghĩa của các từ ngữ để tạo
ra những nét nghĩa phái sinh, nhằm tạo nên tính đa nghĩa cho những ngữ cảnh đang
miêu tả, vừa chuẩn về thi pháp, vừa tích hợp được vốn văn hoá cổ truyền bác học
dân tộc, vừa làm phong phú thêm về tính chất thẩm mỹ cho ngôn từ. Chẳng hạn,
trong cuộc đối thoại giữa hồn ma Đạm Tiên và Thuý Kiều, Đạm Tiên đã giới thiệu
về nguyên cớ của cuộc hội ngộ là do thanh khí, tức tình ý hợp nhau mà tìm gặp
nhau, cảm ứng với nhau:
“Thưa rằng: “Thanh, khí xưa nay
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
Hàn gia ở mé tây thiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu…”
(Câu 0193 - 0196)
Ngữ liệu Thanh khí 聲汽 được dẫn từ Dịch kinh 易經: “đồng thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu 同聲相應同汽相求”. Hàn gia 寒家 có nghĩa là nhà lạnh,
nhà mọn, là cách nói khiêm xưng trong nghi thức giao tiếp của người phương Đông.
Trong một số ngữ liệu, Thanh Hiên tiên sinh đã sử dụng một số phương vị từ như
Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng lại hàm chứa những hàm nghĩa văn hoá khác nhau. Nó
có thể thực chỉ, nhưng có thể hư chỉ. Khảo sát trong đoạn trích trên ta thấy, Hàn gia
lại ở mé tây thiên, thiên 阡 ở đây là con hẻm nhỏ hoặc đường bờ ruộng. Tây thiên
西阡 là con đường nhỏ ở phía Tây. Nhưng vì sao lại dùng Tây mà không dùng
Đông? Có thể Tây là thực chỉ, nhưng cũng có thể là hư chỉ. Vì lẽ Đạm Tiên lúc bấy
117
giờ là một hồn ma, ma quỷ thuộc cõi âm, vả lại Đạm Tiên cũng là một nữ nhi, phụ
nữ cũng thuộc âm tính, nên Tây đi với âm là hợp lý. Và do đó, hàn gia trong ngữ
cảnh này có thể hiểu đó là nấm mồ hoang mà Kiều đã gặp và mé Tây thiên cũng
chính là bãi tha ma, nơi đã chứng kiến cuộc gặp gỡ định mệnh ấy. Đối lập với chữ
Tây, chữ Đông thuộc Dương, chủ về sinh, thường chỉ nam giới, do đó chữ Đông đi
vào ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều nó còn mang những nét nghĩa hư chỉ. Chẳng
hạn trong câu thơ sau:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
(Câu 038 - 039)
Nguyễn Du dùng từ tường đông có lẽ vì có câu văn trong sách Mạnh Tử
孟子: “Du đông lân nhi lâu kỳ xử tử 踰東鄰而摟其處子” [267, tr 267] (trèo tường
nhà hàng xóm phía Đông mà chọc ghẹo con gái người ta), Đường thi cũng có câu
“Đông lân Tống Ngọc tường 東鄰宋玉牆” ám chỉ chàng Tống Ngọc nước Sở,
người thanh tú, tài hoa, tính tình trăng hoa, ong bướm khiến cho bao người đẹp phải
ôm mối hận tình với anh ta. Thi nhân Lý Bạch 李白 cũng có câu: “Tự cổ hữu tư sắc,
Tây Thi do Đông lân 自古有斯色西施猶東鄰” (Từ xưa đã có người có nhan sắc
ấy, đó là nàng Tây Thi ở xóm Đông). Tuy nhiên, nhìn lại đoạn trích, ở đầu tác
phẩm, nhà thơ đã giới thiệu đây là hai chị em nhà lễ giáo, yểu điệu thục nữ khuê
môn, tuy đến tuổi cập kê nhưng vẫn chưa có ý trung nhân nên để mặc “tường đông
ong bướm đi về mặc ai”, tường đông có thể là thực chỉ bức tường ở phía đông,
nhưng đoạn trích này lại đề cập đến đức hạnh của Thuý Kiều nên tường đông có thể
ám chỉ nơi ở của nam nhân. Thế nhưng, sau hội Thanh Minh, trai tài gái sắc, cá
nước sum vầy gặp gỡ, thi sỹ Tố Như đã diễn tả một cách rất tài hoa tình cảm, cảm
xúc của Kiều khi bắt đầu bước vào chốn yêu:
“Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà.”
(Câu 0175 - 0176)
118
Đông lân như đã phân tích, nó có thể thực chỉ nhà hàng xóm phía đông,
nhưng cũng có thể hiểu là chỗ ở của nam giới, từ đặc chỉ cho nam giới. Bàn về
đoạn trích này, trong cuốn Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện [35], Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu có dẫn lời hai ông Hồ Đắc Đàm và Bùi Khánh Diễn như sau,
hai ông cho rằng cái bóng của cây hoa Hải đường đã lả ngọn sang tường. Vì lẽ,
trăng đã xế về tây nên đã chiếu ngọn cây lả bóng sang đông. Song e rằng, nếu nối
tiếp hai câu dưới, một hư một thực không được, liền nghĩa, mà ở đây thi nhân đã
dùng theo lối ước lệ, tượng trưng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, ở câu thơ này, bằng
những tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt, người đọc có thể cảm nhận được những xúc cảm
đầu đời của Kiều. Nếu ví Thuý Kiều như đoá hoa Hải đường 海棠 trong trắng,
tinh khôi và đông lân (người hàng xóm phía đông) àm ý chỉ Kim Trọng thì câu thơ
trở nên thanh thoát, ý vị hơn. Bởi cái tình ý quấn quít cả hai, nên ngọn Hải đường
có ý ngả sang mái đông lân và gieo nặng cả cành xuân tình tứ. Đôi khi, nhà thơ
còn sử dụng ngữ liệu này để chỉ đích danh, hay miêu tả những nhân vật nam giới
cụ thể trong tác phẩm:
“Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông nghé mắt, ngày ngày hằng mong…”
(Câu 0240 - 0241)
Tường đông ở đây thực sự chính là Kim Trọng. Tương tự như vậy, ông cũng
dùng chữ tường đông để ám chỉ Sở Khanh:
“Tường đông lay động bóng cành,
Dẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào…”
(Câu 1308 - 1309)
Tương tự theo chiều hướng ấy, ta cũng có các ngữ liệu đặc chỉ nữ giới như
tây hiên, mái tây, tây phòng, cung tây. Thông qua kiểu hệ thống ngữ liệu này, tác
giả đã hình thành một dạng thức tư duy mang tính biểu tượng sâu sắc và có tính
khái quát cao trong thơ văn cổ điển.
Ngoài ra, trong hệ thống mỹ từ văn hoá được dẫn dụng, Nguyễn Du đã đưa
vào tác phẩm của mình những lời nói thông tục, quê mùa đến thô kệch, qua bàn tay
119
đẽo gọt của thi nhân lớp từ ấy vẫn không mất đi cái vẻ đay nghiệt của cuộc đời,
chẳng hạn như lời Thuý Kiều nói "mát" với Hoạn Thư :
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan.
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”
(Câu 2358 - 2361)
Thông qua cách sử dụng ngôn ngữ hội thoại, tác giả đã tạo dựng nên những
hình tượng chân thực với những góc cạnh của cá tính. Vì thế, mỗi nhân vật trong tác
phẩm đều trở thành điển hình nghệ thuật của văn chương cổ điển Việt Nam.
Về thành ngữ thuần Việt, chúng tôi nhận thấy có nhiều loại thành ngữ đã được
Nguyễn Du dẫn dụng. Cụ thể như thành ngữ ba âm tiết: Nói như ru trong câu “Lặng
nghe lời nói như ru/ Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng” (câu 347-348); Bạc như
vôi trong câu “Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”(câu
753-754). Thành ngữ 4 âm tiết: Nửa ở nửa về trong câu “Dùng dằng nửa ở nửa về/
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần” (câu 133-134); Đội trời đạp đất trong câu
“Đội trời đạp đất ở đời/ Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông” (câu 2171- 2172).
Về mặt nghệ thuật, kết cấu của thành ngữ, tục ngữ chặt chẽ, điều đó qui
định cách sử dụng nó khi đưa vào tác phẩm thường là liền một khối. Trong Truyện
Kiều, không ít trường hợp, Nguyễn Du giữ nguyên thành ngữ mà câu thơ vẫn uyển
chuyển, hấp dẫn:
“Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.”
(Câu 1731 - 1732)
“Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao”
(Câu 1815 - 1816)
120
Điều dễ nhận thấy là ngôn ngữ trong Truyện Kiều hết sức phong phú và điêu
luyện. Bắt nguồn từ vốn sống dân gian trực tiếp và kế thừa tinh hoa văn hoá của dân
tộc, Nguyễn Du có ý thức sử dụng giá trị biểu đạt của vốn từ địa phương Nghệ
Tĩnh. Theo kết quả thống kê của chúng tôi, trong 3.254 câu thơ lục bát, ông đã sử
dụng 135 từ địa phương xuất hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Có những
từ tần số xuất hiện nhiều lần như từ chi (gì) tới 64 lần; mụ (bà) 17 lần; ả (chị) 5
lần… Hệ thống từ cổ, từ địa phương trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã được tác giả
lựa chọn rất sáng tạo, linh hoạt trong cách sử dụng. Chẳng hạn, với ngữ liệu “vắt
nóc” (tư thế ngồi vắt chân chữ ngũ) trong câu thơ: “Lễ xong hương hoả gia đường,
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” (Câu 0949 - 0950), tác giả đã bóc trần vẻ trịch
thượng, cao ngạo của mụ chủ chứa, của những kẻ chuyên ăn bám trên thân xác của
những cô gái trong các thanh lâu ngày xưa. Hoặc với từ “dan”, một từ cổ có nghĩa
là nắm tay nhau trong câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây, chị em thơ thẩn dan tay ra
về.” (Câu 051 - 052), người đọc có thể cảm nhận tình cảm trong sáng, vô tư của hai cô
gái trẻ trong buổi chiều tà của ngày Thanh minh.
Như vậy, bên cạnh từ thuần Việt, hư từ, từ láy… những tiểu hệ thống từ ngữ
mang sắc thái bình dân, vốn từ cổ, từ địa phương là một trong những phương tiện
nghệ thuật giúp Nguyễn Du thể hiện tối ưu nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều.
Sau khi về Liêu Dương hộ tang chú, đúng hẹn chàng Kim qua lại tìm Thuý Kiều,
nhưng cảnh cũ còn đây, người xưa giờ đã không còn nữa. Ở ngữ cảnh này, Nguyễn
Du đã tạo nên cái không khí bất an, gấp gáp, ông viết:
“Hỏi ông, ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà, nhà đã dời xa,
Hỏi chàng Vương, với cùng là Thuý Vân.”
(Câu 2757 - 2760)
Cũng trong khung cảnh ấy, có lúc Nguyễn Du đã thay chữ hỏi bằng chữ han
(một từ cổ cũng có nghĩa là hỏi thăm):
“Vội han di trú nơi nao?
121
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.”
(Câu 2765 - 2766)
Từ han xuất hiện trong ngữ cảnh này vừa tránh được sự lặp từ ở những câu
trên, đồng thời cũng phần nào phản ánh được sự vận dụng vốn từ cổ trong câu thơ
của Truyện Kiều. Từ han kết hợp với lối nói “đánh đường…” (tìm đường, dò lối) -
một cách nói bình dân trong tiếng Việt chúng ta đã tạo nên sắc thái khẩu ngữ, dân
dã nhưng không quê mùa luộm thuộm. Điều đó cũng là một cứ liệu chứng tỏ ông là
bậc thầy về ngôn ngữ khẩu ngữ đời thường và đầy sức sáng tạo trong việc gắn kết
một cách nhuần nhuyễn văn phạm từ pháp Hán và Nôm. Tài năng của ông đã đưa
tiếng nói bình dân lên tầm bác học, rất tinh nhạy trong việc khám phá ra bao điều kỳ
diệu trong tiếng mẹ đẻ của mình. Phải có một tầm văn hoá cao, ý thức dân tộc mạnh
mẽ và tài năng nghệ thuật tuyệt vời, Nguyễn Du mới làm được điều đó. Nhờ vai trò
của ngôn ngữ và văn hoá mà Nguyễn Du đã chuyển được từ một cốt truyện giản
đơn - Kim Vân Kiều truyện 金雲翹傳 của Trung Quốc thành một truyện thơ đặc
sắc, phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam. Từ đó nhân dân ta, đặc
biệt dân xứ Nghệ dường như không ai không biết và thuộc Truyện Kiều.
Khảo sát giá trị biểu đạt và sắc thái ngữ nghĩa của những từ địa phương Nghệ
Tĩnh được sử dụng trong tác phẩm chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Ví dụ, từ “ả”
trong câu: Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này (Câu 0406). Từ ả tiếng địa phương
Nghệ Tĩnh được Nguyễn Du sử dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều với nhiều sắc
thái ngữ nghĩa khác nhau. Có lúc mang ý nghĩa xem thường: Bên thì mấy ả mày
ngài (câu 0927) nhưng chủ yếu mang giá trị đề cao: ả nghĩa là bậc chị ở bề trên:
“Đầu lòng hai ả tố nga” (câu 014); “Lại thua ả Lý bán mình hay sao” (câu 0672).
Từ ả lại vừa có khả năng tạo nên tính gần gũi, khi đã tin nhau mới xưng hô như vậy:
“Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này” (câu 0406). Những từ địa phương này phải đặt
trong ngữ cảnh mới thấy được cái hay của nó. Ngay ở câu: Đầu lòng hai ả tố nga,
từ ả rất hợp với cách kể chuyện của người Nghệ Tĩnh. Hai ả nghĩa là hai cô gái
nhưng đồng thời chỉ sự tương xứng giữa hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân. Từ ả sẽ
tránh được sự lặp lại từ chị ở câu sau: “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân” (câu
122
015). Trước đây một số người coi thường những từ địa phương, từ cổ nhưng với
nhà thơ nhân dân tài hoa như cụ Tiên Điền, vốn từ ấy đã góp phần không nhỏ trong
việc chuyển một cốt truyện có nguồn gốc từ nước ngoài thành một câu chuyện bằng
thơ tràn đầy sức sống mới, trở nên gần gũi với tâm tư, tình cảm, cách ứng xử văn
hoá của con người Việt Nam.
Ngữ liệu văn hoá bình dân, bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã Nguyễn
Du dùng một cách hết sức hợp lý. Ở đó cái giá trị cá thể hoá độc đáo nhất của nó
được sử dụng và thể hiện rõ. Cũng cần phải thấy rằng sự xuất hiện của những từ ngữ
văn hoá ấy được hợp với cấu trúc của câu thơ lục bát, hợp cả về nội dung lẫn hình
thức và âm hưởng của nó. Qua một vài cứ liệu vừa nêu dẫn trên, chúng ta có thể nhận
thấy Nguyễn Du đã khai thác khả năng biểu đạt và biểu cảm độc đáo của vốn từ ngữ
văn hoá, đồng thời vẫn giữ được âm hưởng, giọng điệu của câu thơ lục bát. Nhờ tính
chất khái quát, triết lý, cô đọng của lớp ngôn ngữ bác học và dáng vẻ dung dị, gần gũi
với lới ăn tiếng nói của nhân dân đã góp phần làm phong phú thế giới tâm trạng, khắc
hoạ tính cách nhân vật, nâng Truyện Kiều lên tầm tiểu thuyết tâm lí hiện đại. Điều đó
chứng tỏ Truỵện Kiều là một tác phẩm giàu bản sắc văn hoá dân tộc chắc chắn sẽ
sống mãi với non sông đất nước tươi đẹp, sống mãi với muôn đời.
2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ liệu bác
học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ Truyện Kiều, người ta thường hay chú ý trước
hết đến những chỗ dùng từ chính xác, từ hay, tinh tế thường được gọi là lối dùng từ
đắt của Nguyễn Du, cũng như cách dùng hư từ, khối lượng từ đồng nghĩa, từ có
phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao, thành ngữ, tục ngữ… Đào Nguyên
Phổ 陶元溥 trong lời tựa của Đoạn trường tân thanh (1898) đánh giá tác phẩm này
là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”. Về phương diện ngôn ngữ, công đóng góp của
Nguyễn Du có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với lịch sử. Truyện Kiều đã đem lại
cho mọi người về khả năng phong phú của tiếng việt, phương diện sử dụng ngôn
ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương. Cũng giống như tất cả những tác phẩm văn
học đương thời, ngôn ngữ trong Truyện Kiều gồm hai thành phần ngữ liệu thuần
123
Việt và Hán Việt, bình dân và bác học. Dùng hệ thống ngữ liệu Hán Việt trong tác
phẩm giai đoạn này là một phong cách có tính thời đại, văn học thời kì này phát
triển chữ Hán, chữ Nôm. Theo thống kê của tổ Tư liệu Viện Ngôn ngữ thì Truyện
Kiều có 1310 từ Hán Việt, tức là từ Hán Việt chiếm tỷ lệ 35% trong số tổng số từ
của tác phẩm. Trong số 35% từ Hán Việt của Truyện Kiều không tránh khỏi những
từ, những điển cố khó hiểu nhưng tác giả đã Việt hoá bằng cách dựa vào từ Hán để
tạo ra từ mới cho tiếng Việt [135]. Để tạo ra những từ ngữ mới đôi khi chúng ta vay
mượn tiếng nước ngoài những cấu trúc về từ pháp, cú pháp, một sự vay mượn như
thế có khả năng làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc tạo ra những từ mới cho tiếng Việt
có tính nhạy cảm, có tính chất ngôn ngữ học. Cách tạo từ mới của Nguyễn Du là
căn cứ vào đặc điểm, âm thanh, ngữ điệu của từ tiếng việt, ông đã dịch những từ
ghép và thành ngữ tiếng Hán ra thành những từ thuần Việt. Chẳng hạn: Bạch nhật là
ngày bạc; thiên nhai hải giác: chân trời góc bể; hồng diệp xích thằng: lá thắm chỉ
hồng. Và cũng có khi ông không dịch cả câu, cũng có khi ông dịch một từ và giữ
nguyên một từ gốc Hán, chẳng hạn: Hiên sau treo sẵn cầm trăng thì nguyệt cầm là
cầm trăng; hà bôi: chén hà; xuân miên: giấc xuân… trong trường hợp này từ Hán
được giữ lại thường là một từ dễ hiểu. Như vậy nhà thơ đã tránh được bệnh trùng
lặp, đơn điệu, có thể gieo vần một cách uyển chuyển, có thể làm cho âm hưởng của
câu thơ được dồi dào sinh động. Đọc Truyện Kiều, ta còn bắt gặp được nhiều câu
thơ, nhiều từ ngữ đặc sắc. Nhìn chung, từ ngữ của tác phẩm này không chỉ hay mà
còn rất đắt và độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với
một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân,
59 lần dùng từ xuân, 70 lần dùng hư từ cũng, 60 lần dùng hư từ này. Ngay như hư
từ đã là một từ rất khó dùng, thế mà Nguyễn Du sử dụng được 140 lần như thế.
Điều đó cho thấy, trong quá trình sáng tạo của mình, Nguyễn Du đã vận dụng một
cách tối đa các khái niệm, hệ thống từ ngữ đơn giản nhưng hợp lý và khó thay thế.
Chẳng hạn, từ đã trong các câu sau là những hư từ kết hợp, có tính ngữ pháp khó có
thể thay thế bằng những phó từ khác:
124
“Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa.” (Câu 336)
“Ngày xuân đã dễ mấy khi tình cờ.” (Câu 338)
“Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời, vâng tạc đá vàng thỉ chung.”
(Câu 351 - 352)
Các thủ pháp chọn lựa ấy đã phần nào minh chứng thêm về thiên tài ngôn
ngữ của Nguyễn Du. Dưới ngòi bút của của mình, ngôn ngữ dân tộc trở nên trong sáng
lạ kỳ và trở thành một lớp từ đặc biệt, thể hiện rõ phong cách văn hoá của đại thi hào
Nguyễn Du. Ví dụ ở trường hợp ông đã kết hợp hài hoà từ thuần Việt “chi” với những
từ ngữ Hán Việt, thuần Việt khác tạo nên những tổ hợp, cấu trúc cú pháp có ý nghĩa
nghi vấn, hay phủ định tu từ đặc sắc. Từ “chi” xuất hiện 64 lần, nó có những từ đồng
nghĩa như: gì, không, đâu…Nguyễn Du đã không tuỳ tiện trong việc dùng từ địa
phương. Chẳng hạn câu thơ: Phũ phàng chi bấy hoá công. Nếu thay từ chi bấy bằng
từ gì bấy: Phũ phàng gì bấy hoá công thì câu thơ nghe có vẻ không hay và có gì đó
không được lôgic. Khi tác giả dùng từ chi, câu thơ trở nên đúng nhịp điệu, đúng
giọng điệu riêng của nhân vật. Đây là tấm lòng cảm thương chân thành của Thuý
Kiều trước nấm mộ Đạm Tiên - người con gái nổi tiếng tài sắc mà bạc mệnh. Đó là
sự đồng cảm quá lớn khiến nàng phải thốt lên tự đáy lòng. Chi bấy là một cảm thán
từ, có cái gì đó nghe xót xa, thổn thức, lại vừa có cái gì đó trách móc sự bất công
của cuộc đời. Qua nội dung của câu thơ cho thấy, Thuý Kiều là người con gái giàu
cảm xúc, sống rất nội tâm. Để chứng tỏ Thuý Kiều là người con gái đoan trang, hiền
thục, Nguyễn Du đã cho Thuý Kiều trả lời chàng Kim khi chàng có chiều đắm đuối, lả
lơi bằng văn cảnh sau:
“Vẻ chi một đoá yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh…
(Câu 0503 - 0504)
“Ra tuồng trên bộc, trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi!”
(Câu 0507 - 0508)
125
Trong văn cảnh này từ chi xuất hiện khá nhiều, âu cũng có lý do của nó. Nếu
thay từ “chi” bằng từ “gì” thì âm điệu của nó không phù hợp với câu thơ lục bát và
nhất là không phù hợp với văn cảnh. Từ “chi” tiếng địa phương ngoài nghĩa “gì”
còn có khả năng biểu hiện rõ rệt tính chất khiêm tốn, thành thật và cũng hết sức
duyên dáng trong lời ăn tiếng nói của Thuý Kiều, càng khẳng định nàng là người
con gái biết cư xử, biết giữ gìn phẩm chất của mình.
Có thể nói, cách dùng từ Hán việt của Nguyễn Du vẫn là một bài học sinh
động và sáng tạo về cách sử dụng ngôn từ trong tiếng Việt, làm phong phú thêm thế
giới ngôn từ. Tuy xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng nhà thơ lại rất chú ý đến vốn
ca dao, dân ca trong ngôn ngữ của quần chúng. Qua năm tháng của tuổi thơ, có thể
ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ tài hoa với những khúc hát ru đầy
những ân tình. Về sau, ông lăn lộn trong cuộc sống dân dã với mọi tầng lớp người
trong xã hội và càng chịu ảnh hưởng của văn học dân gian. Nguyễn Du cũng sử
dụng rất nhiều tục ngữ, thành ngữ trong tác phẩm đôi khi chúng ta cũng khó nhận ra
đâu là tục ngữ, thành ngữ dân gian, đâu là những cụm từ có phong cách thành ngữ
do ông sáng tạo trong thi phẩm. Chẳng hạn như những câu sau:
“Dùng dằng nửa ở nửa về…” (Câu 133)
“Quản chi lên thác xuống ghềnh…” (Câu 1951)
“Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu…” (Câu 656)
Những cụm từ như Nửa ở nửa về, lên thác xuống ghềnh, máu sa ruột dàu…
là những thành ngữ do Nguyễn Du sáng tạo, đặt vào trong những ngữ cảnh ấy.
Những câu thành ngữ này đã tạo nên những giá trị thẩm mỹ cao độ trong ngôn ngữ
tác giả. Với nhà thơ, giá trị của ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt là ngôn ngữ địa phương
có đủ sức biểu đạt hình tượng nghệ thuật, cảm xúc dồi dào, tự nhiên, tinh tế và có độ
chính xác cao.
Trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, khẩu ngữ đã giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng. Biểu hiện cụ thể của nó được thể hiện trước hết là ở sự gia tăng liều lượng
sử dụng so với các tác phẩm khác như Hoa Tiên, Lục Vân Tiên và sau đó là ở thành tựu
nghệ thuật và phát huy hiệu quả thẩm mỹ của hệ thống thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân
ca... Trong Truyện Kiều, ngữ liệu văn hoá bình dân được sử dụng một cách hữu hiệu
126
khi tác giả mượn cách nói giàu triết lý, mang phong cách dân dã của văn học dân gian,
đời sống bình dân. Chẳng hạn, nếu ở ca dao, tác giả dân gian muốn diễn đạt sự tốn
công vô ích của một sự việc cụ thể nào đó qua thành ngữ “đáy bể mò kim”, “mò kim
đáy bể”, nhưng với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vay mượn thành ngữ này để thể hiện
sự chung tình, sự khó khăn trong hành trình tìm kiến những ý nghĩa đích thực của một
tình yêu chân thành. Ở đây ngoài ý nghĩa thực chỉ của thành ngữ, Tố Như đã nâng cao,
cải biến và mở rộng trường nghĩa của nó thành những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, thể
hiện tâm trạng nhân vật:
“Bấy lâu đáy bể mò kim,
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa.”
(Câu 3175 - 3176)
Cùng với thành ngữ “đáy bể mò kim”, từ trăng hoa cũng được nhà thơ vận dụng
một cách linh hoạt, không thể hiểu theo lẽ thường vậy. Sáng tạo của Nguyễn Du là ở
chỗ đó. Khả năng nắm bắt, am hiểu về những nét đặc thù, khả năng mở rộng trường
nghĩa và nắm vững những nét khu biệt về nghĩa của các từ ngữ trong vốn sống dân
gian đã được nhà thơ thể hiện quan nghệ thuật sử dụng rất linh hoạt, theo một trật tự
hợp lý. Tổng số 162 thành ngữ có nguồn gốc văn hoá bác học, từ chương Hán học đã
được nhà thơ Việt hoá cao độ và hợp lý, chẳng hạn như: Nàng Ban ả Tạ, hàm én mày
ngài, chắp cánh liền cành, nhả ngọc phun châu, thưa hồng rậm lục…, đây là những
thành ngữ có xuất xứ từ trong thư tịch cổ Trung Hoa. Nó là những điển cố có dạng
thành ngữ nhưng hình thức được tổ chức theo khuôn hình thành ngữ Việt và mang ý
nghĩa biểu trưng cao, ý tứ cao sâu. Để ngợi khen tài thơ của Kiều, Kim Trọng đã dùng
để hai thành ngữ có nguồn gốc bác học nhưng đã được tác giả Việt hoá rất hay và hấp
dẫn, hợp lý:
“Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế vầy!”
(Câu 405 - 406)
Nguyễn Du đã phú cho ngôn ngữ chàng Kim một sự nhã nhặn, uyên bác. Lối
diễn đạt ấy hoàn toàn có thể chấp nhận được trong phong cách giao tiếp của người
Việt, vừa dung dị, vừa gần gũi. Nó giúp cho chàng Kim có thể bộc bạch được lời yêu
127
thương đồng thời cũng thể hiện sự đề cao tài năng của Kiều một cách tế nhị, nhẹ
nhàng. Ở điểm này, chúng ta có thể khẳng định sự hoà quyện giữa hai nguồn gốc văn
hoá, ngôn ngữ bác học, bình dân trong ngôn từ nghệ thuật của nhà thơ, một nội dung
kiến thức uyên nhã, bác học được thể hiện qua một hình thức dân tộc, bình dị và phù
hợp với tư duy ngôn ngữ của người Việt Nam.
Hai hệ thống từ ngữ văn hoá được sử dụng trong Ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều chủ yếu thuộc vào các lĩnh vực văn hoá, xã hội thời trung đại. Bên
cạnh các điển cố thi liệu, nhân danh địa danh hay từ ngữ có nguồn gốc từ kinh điển
Nho gia (tức Tứ thư, Ngũ kinh, Chư tử), các thuật ngữ văn hoá xã hội trong ngữ liệu
văn hoá Truyện Kiều là những từ phổ thông, dễ hiểu, đó là những cứ liệu, chỉ dẫn
nghệ thuật giúp tác giả có thể tái hiện một cách hoàn chỉnh bức tranh về đời sống
văn hoá cổ điển phương Đông, tạo nên những giá trị thẩm mỹ vừa uyên bác, trang
nhã, vừa gọn gàng và giàu tính dân tộc. Trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã tận dụng khả năng phản ánh, dung chứa và hàm nghĩa sâu sắc của từ
ngữ để tạo nên bối cảnh văn hoá đặc sắc qua những không gian sinh hoạt văn hoá
đặc thù như tiết thanh minh, hội đạp thanh. Nó không chỉ mô tả thiên nhiên cụ thể
mà nó còn là những bức tranh tâm trạng lưu luyến, da diết thiết tha.
Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều như đã nói, không chỉ khắc hoạ
những khung cảnh hay thể hiện chiều sâu triết mỹ trong tâm hồn, phong thái của thi
nhân, mà còn là những cơ sở thể hiện những tính cách, dòng suy tưởng của nhân
vật, là căn cứ để khái quát văn hoá về phong cách, ngoại hình của nhân vật, tạo nên
những tuyến nhân vật đại diện cho tư tưởng sùng cổ, trọng mỹ góp phần thể hiện tư
tưởng, tình cảm về nhân tình thế thái, cuộc tang thương dâu bể của cuộc đời. Cũng
như Hoa Tiên trước đó và Lục Vân Tiên sau này, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã
vận dụng chúng để biểu đạt những suy nghĩ của nhân vật. Chẳng hạn, để bộc bạch
lý tưởng về chủ nghĩa anh hùng và phẩm cách nhân văn của người anh hùng Từ Hải,
nhà thơ đã sử dụng một lớp từ vựng “biệt ngữ” của tầng lớp nho học như quốc sĩ, tri
kỷ, anh hùng… trong lời phân trần của nhân vật này:
“Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,
128
Chọn người tri kỷ, một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!...”
(Câu 2427 - 2430)
Trong văn chương bác học, ngữ liệu quốc sĩ 國士 được dùng để chỉ người trí
thức có tầm cỡ quốc gia. Trong Sử ký 史記, Tư Mã Thiên 司馬遷 dẫn lời Tiêu Hà
蕭何 nói với Hán Vương 漢王 Lưu Bang 劉邦 để nói về vai trò của Hàn Tín trong
cuộc chiến Hán Sở: “nhược Hàn Tín giả, quốc sĩ vô song 若韓信者國士無雙”
[189, tr.389] (Như Hàn Tín là bậc quốc sĩ có một không hai trong nước). Ngoài ra,
nhà thơ đã dành riêng cho Từ Hải, con người có tài thao lược danh hiệu cao quý
nhất: văn võ toàn tài, quốc sĩ vô song. Tiếp theo đó là những mỹ từ ngợi ca về lý
tưởng anh hùng của Từ:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.”
(Câu 2429 - 2430)
Ngữ liệu anh hùng là từ tôn xưng kính trọng những người có “chí tại tứ
phương”, thiên Học Nhi 學而, sách Luận ngữ 論語 có câu: “Kiến nghĩa bất vi vô
dũng dã 見義不為無勇也” [192, tr.422] và phương châm “kiến nghĩa bất vi vô
dũng dã, kiến nguy bất cứu mạc anh hùng 見義不為 無勇也見危不救莫英雄” của
chủ nghĩa anh hùng phong kiến Trung Hoa. Trong Thuỷ Hử truyện 水滸傳, nhà văn
Thi Nại Am 施耐庵 (đời Minh 明) cũng viết: “Lộ kiến bất bình thành khả nộ, bạt
đao tương trợ thị anh hùng 路見不平成可怒 拔刀相助是英雄” (giữa đường thấy
nỗi bất bình nên giận dữ, giơ đao trợ giúp ấy mới là người anh hùng vậy) [192,
tr.882]. Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Du không chỉ kế thừa từ quan
điểm của cổ nhân mà ông còn bàn rộng thêm ấy là người phải có tấm lòng nhân
đạo, trân trọng cái đẹp, nghĩa cử và tấm lòng đón nhận Thuý Kiều của Từ Hải là
minh chứng cao đẹp nhất cho tinh thần nhân văn của quan niệm về người anh hùng
trong tư tưởng của Tố Như. Sự kết hợp ngữ liệu anh hùng và bất bằng trong câu thơ
trên đã thể hiện rõ những điều vừa phân tích trên.
129
Bên cạnh hệ thống ngữ liệu nguyên dạng, trong ngôn ngữ tác phẩm, những ngữ
liệu chuyển dịch cũng đóng một vai trò quan trọng, không chỉ làm giàu cho từ vựng
văn hoá của tác phẩm về số lượng, khả năng biểu đạt, biểu cảm mà còn tạo nên một ý
nghĩa xã hội rộng lớn. Nhà thơ đã đưa các ý niệm triết học, khái niệm luân lý, bài học
đạo lý trong sách vở bác học đến với quảng đại quần chúng độc giả, góp phần nâng cao
chất lượng tiếp nhận của bạn đọc mà không đánh mất vẻ đẹp cổ điển của Đường thi,
Tống Từ… Đồng thời, nó cũng đánh dấu sự trưởng thành về chất của ngôn ngữ văn
học dân tộc trên phương diện tiếp thu sáng tạo vốn liếng văn hoá, văn học Trung Quốc.
Là một người uyên thâm về nho học, thấy rõ sự thăng hoa và ảnh hưởng mạn mẽ của
chữ Hán và văn hoá từ chương Hán học, nhưng Nguyễn Du lại sử dụng chữ Nôm, thể
thơ lục bát truyền thống để viết nên thiên truyện đặc sắc này.
Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi trong dân gian là vì Nguyễn Du đã đã
sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sinh động, đa dạng, kết hợp một cách thuần thục
hai hệ thống từ ngữ Việt và Hán Việt. Với chữ Nôm - một sáng tạo độc đáo của
người Việt, đó là thứ văn tự giúp cho nhà thơ dễ dàng tiếp cận với vốn từ ngữ có
nguồn gốc từ lời ăn tiếng nói của tầng lớp bình dân và ngôn ngữ đời sống. Trong
quá trình sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật, tác giả đã tổng hợp, điều hoà những ảnh
hưởng của cả hai khuynh hướng bình dân và bác học. Trong những từ chỉ chung
khái niệm phụ nữ của nhà thơ dùng với một dụng ý tu từ học rất rõ, đặc biệt là hai
từ thuần Việt là đàn bà và gái tơ:
“Đau đớn thay, thân phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
(Câu 083 - 084)
“Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Phải làm cho biết phép tao!
Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay.”
(Câu 975 - 978)
Rõ ràng nhà thơ phải nói là phận đàn bà mới diễn tả thấm thía cái số phận
chua cay, cực nhục của người phụ nữ trong xã hội cũ trong nửa đầu thế kỉ VIII- XIX.
130
Con người không có quyền được tự do, được khao khát hạnh phúc, khao khát quyền
lợi cho mình. Nguyễn Du dùng gái tơ, phép tao và động tác rắp sấn trong lời nói và
hành động của Tú bà đối với Thuý Kiều. Gái tơ chỉ người phụ nữ còn trẻ vì bản thân
cái ngôn ngữ ấy đã tố cáo tính chất con người Tú bà một cách hết sức cụ thể và sinh
động. Tương tự, từ rắp sấn cũng cho thấy hành động côn đồ độc ác của bọn chủ
chứa. Tác giả đã sử dụng đúng từ thuần Việt nôm na như thế mới diễn tả đúng ngữ
cảnh, hành động, lời nói của nhân vật mà không thể thay thế bằng một từ nào khác.
Ở một trường hợp khác, sắc thái bình dân của những từ ngữ màu sắc đã được
nhà thơ thể hiện qua một thao tác chuyển dịch khá chuẩn xác. Tuy vẫn giữ được nét
từ chương, uyển nhã vốn có của ngôn ngữ bác học nhưng nó vẫn thể hiện được sự
mộc mạc, gần gũi và bình dị của lớp ngôn ngữ quần chúng. Bên cạnh đó, sự sáng
tạo của Nguyễn Du còn được hiện lên ở phương diện sử dụng từ ngữ chuyển dịch
một cách chính xác, thần tình, linh động để khắc hoạ, miêu tả ngoại vật, ngoại cảnh
và nhân vật trong Truyện Kiều. Những từ ngữ ấy không hề xa lạ mà còn phần thân
thuộc với người đọc. Khi tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây;
làn da trắng mịn hơn cả tuyết (mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da). Tả nàng
Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt
khiến liễu phải hờn (hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh). Ngoài những từ ngữ
chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà thiên nặng về tính biểu trưng. Dường như, tác
giả đã sử dụng những từ ngữ chỉ màu sắc, hoặc kiểu định danh sự vật để miêu tả
cảnh vật, khơi gợi tình cảm của con người. Trong Truyện Kiều, chúng ta thấy có cái
“nhờn nhợt màu da” của mụ Tú bà, có cái mặt ngây dại như đổ “chàm xám xịt” của
Thúc Sinh, có những vẻ hình dong chải chuốt của những anh chàng họ Sở hay dáng
vẻ sỗ sàng, vô phép của những tay trí thức rởm đời làm nghề đưa mối bán hương.
Có lẽ với Nguyễn Du, màu sắc là cầu nối giữa tâm và cảnh, giữa vật và người. Màu
cỏ non xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh thanh tân của cuộc đời.
Nguyễn Du không chỉ nắm bắt cái thần thái, ý nghĩa màu sắc của sự vật mà còn
nắm bắt và diễn tả sắc màu tình cảm nhuộm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho
phong cảnh trở lên sinh động, có hồn. Đặc biệt, những từ ngữ chỉ màu sắc ấy, ngày
nay đã trở thành những kiểu định danh khá đặc biệt và điển hình cho những hạng
131
người trong xã hội, cho những ngữ cảnh và gợi tứ cho các văn thi sĩ đời sau trong
quá trình sáng tác.
Cùng với ngôn ngữ bác học, lớp từ ngữ bình dân đã tồn tại trong Truyện
Kiều với tư cách là một phương diện cơ bản của ngôn ngữ tác phẩm. Nguyễn Du đã
vận dụng và sáng tạo chúng một cách tự nhiên, biến hoá, ý vị, linh động, gọn gàng,
đa dạng và phù hợp từng ngữ cảnh, nhân vật. Đó là sự hoà quyện giữa các yếu tố
chủ quan và khách quan theo nguyên tắc của mỹ học cổ điển. Dường như nhà thơ đã
phát hiện được dáng vẻ thần kỳ, hấp dẫn của các quy luật di chuyển từ ngữ văn hoá
vào ngôn ngữ tác phẩm và lý giải, tái cấu trúc ngôn ngữ bình dân trong một dáng vẻ
mới để chúng tự toát lên những ý nghĩa biểu đạt mới mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa
ban sơ và nhạc điệu cơ bản của nó.
Tiểu kết Chương 2.
Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều không chỉ mang tính điển
phạm, quy chuẩn, lôgíc mà nó còn phải đảm bảo tính đăng đối, khái quát, mang tính
biểu trưng sâu sắc và giàu khả năng sáng tạo. Khả năng đăng đối về ngữ nghĩa của
các cứ liệu gốc và chuyển dịch được sử dụng trong ngôn ngữ vẫn đảm bảo được
những đặc tính về thẩm mỹ của ngữ liệu, đặc biệt nó cũng phản ánh một đặc trưng
tư duy, quan niệm thẩm mỹ của thi nhân, góp phần xây dựng những hình tượng
không thời gian định tính mang màu sắc đông phương, hình tượng nhân vật với
những tính cách đa dạng, có đời sống, diễn biến tâm lý nổi bật. Nguyễn Du sử dụng
một hệ thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa những tính
cách, tái tạo không gian hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Hệ thống đó đã góp phần
giúp nhà thơ phác thảo một không gian văn hoá, thẩm mỹ đặc thù khiến cho người
đọc có thể mở ra những trường liên tưởng, những chân trời nghệ thuật mới và có thể
thẩm thấu theo kinh nghiệm, sở học của mình.
Bằng tài hoa và chiều sâu văn hóa, nhà thơ đã làm cho các ngữ liệu văn hóa
trong tác phẩm đảm trách tốt vai trò diễn đạt, biểu hiện những sắc thái, cung bậc
tình cảm của con người. Nguyễn Du đã làm toát lên những sắc thái ý nghĩa của các
ngữ liệu ấy và đặt nó vào đúng vị trí, chức năng thẩm mỹ của nó. Do đó, dù duy lý
132
hay hình tượng, hệ thống ngữ liệu này vẫn đóng một vai trò quan trọng đối với khả
năng tự sự, trữ tình của tác phẩm, góp phần tăng thêm tố chất hàm súc, tinh tế cho
thi pháp ngôn ngữ Truyện Kiều, đưa nghệ thuật thơ ca cổ điển và tiếng Việt văn học
lên một đỉnh cao chưa từng có, trở thành những mẫu mực cho mọi thế hệ bạn đọc và
sáng tác văn chương.
133
Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HOÁ
TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện nhãn quan và bức tranh thời đại
qua ngôn ngữ tác giả
3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hóa qua ngôn ngữ trữ tình
Như đã nói, ngôn ngữ là một trong những yếu tố cấu thành văn hoá, nó có
sức lan toả sâu rộng không chỉ trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt của cộng đồng
mà còn ảnh hưởng đến quá trình tư duy của từng cá nhân cụ thể. Từ góc độ văn hoá,
Nguyễn Đức Tồn đã nhận định “ngôn ngữ là yếu tố văn hoá hàng đầu và rõ ràng
nhất.” [156, tr.49]. Để có thể tìm hiểu về nhân sinh quan, phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Du, thiết nghĩ chúng ta không thể không tìm hiểu về vai trò của tính triết luận
và trầm tích văn hoá trong các ngữ liệu văn hoá được khảo sát cũng như sự thể hiện nó
trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
Tính triết luận ở đây được hiểu như là chiều sâu văn hoá, những tác động văn
hoá đến sự lựa chọn, sử dụng các ngữ liệu bình dân, bác học trong ngôn ngữ trữ tình
hay tự sự của tác phẩm, tác giả. Hệ thống ngữ liệu này là một sự kết tinh văn hoá
trong quá trình phát triển của ngôn ngữ văn chương trung đại. Về hiệu quả thẩm
mỹ, chiều sâu văn hoá còn được thể hiện qua nghệ thuật hoà phối vốn từ và các từ
ngữ tương đương, khai thác và sử dụng vốn từ ngữ thuần Việt, Hán Việt và các đơn
vị tương đương như thành ngữ, quán ngữ… để phát huy một cách tối đa các hàm
nghĩa văn hoá của ngữ liệu. Do đó, theo chúng tôi, tính triết luận của lớp từ ngữ văn
hoá trong một tác phẩm văn học cổ điển đã góp phần không nhỏ giúp tác giả phản
ánh, nghiền ngẫm về hiện thực, cuộc sống, quan niệm nhân sinh, miêu tả nhân vật,
biểu đạt tình cảm trữ tình cá nhân qua thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng, đặc
biệt là khắc hoạ các bức tranh thiên nhiên đa thanh sắc. Với Nguyễn Du, trong thế
giới ngôn ngữ trữ tình của mình, hình ảnh thiên nhiên như được hiện lện với bao sự
ngổn ngang của tâm trạng nhân vật. Đỗ Minh Tuấn trong Nghệ thuật trữ tình của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1995) đã có lý khi cho rằng:
134
Thiên nhiên trong Truyện Kiều được nhuốm một màu cảm xúc đặc
biệt của nhân vật, một cảm xúc đã được trái tim nhà thơ nhận thức lại, đánh
giá lại tâm trạng của nhân vật truyện trước khi nghiễm nhiên vào thiên nhiên
để trở thành trạng thái của cảnh vật được nhà thơ đồng cảm và bình luận.
[161, tr.160].
Người đọc có thể sẻ chia với tâm tư của chàng Kim khi trở lại vườn thuý sau
những tháng ngày về Liêu Dương hộ tang chú:
“Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở chốn Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thuý dò la,
Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xoè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về, này những lối này năm xưa.”
(Câu 2741 - 2752)
Trong đoạn trích trên, chúng ta có thể nhận thấy tác giả đã sử dụng khá nhiều
ngữ liệu thuần Việt để miêu tả một bức tranh tâm trang đầy những ngỡ ngàng của
chàng Kim. Ngữ liệu phù tang kết hợp với từ muôn dặm được sử dụng như một cái
cớ để tác giả phác thảo bức tranh tâm cảm ấy. Động từ dò la, kết hợp với những từ
láy thuần Việt như quanh quẽ, rã rời, xập xoè trong trường miêu tả đã khiến cho
khung cảnh đang được miêu tả, thêm phần trống trải, thê lương và buồn bã. Đặc
biệt, cũng cần nói thêm rằng, nghệ thuật dịch thơ Đường của tác giả đã được phát
huy một cách tối đa khi ông chuyển dịch rất chuẩn xác và có phong cách rất Việt
hoá một bài thơ nổi tiếng của Thôi Hộ, đó là thi phẩm Đề tích sở kiến xứ (còn có tên
135
là Đề đô thành nam trang). Đọc câu thơ “Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào
năm ngoái còn cười gió đông.”, người đọc vẫn không hề cảm thấy băn khoăn, khó
hiểu hay có một rào cản nào đó khiến cho quá cảm nhận những ngữ liệu Đường thi
bị hạn chế. Bởi lẽ ngữ liệu ấy đã được Việt hoá cao độ, hoà lẫn vào ngôn ngữ trữ
tình của nhà thơ. Và có lẽ, đỉnh cao của sự đớn đau mà Kim Trọng đã phải chịu
đựng là một nghịch cảnh nghiệt ngã đã bày ra trước mắt. Cảnh vẫn đấy nhưng
người đã mất hút, tình vẫn còn sâu đậm nhưng người xưa giờ đã không còn. Qua hai
lần sử dụng đại từ chỉ định này, có lẽ tác giả muốn thay nhân vật thốt lên những lời
thống thiết nhất. Dường như kỷ niệm xưa đã tràn về trong ký ức của một kẻ tình si,
luôn mong mỏi được gặp người yêu của mình: “Đi về, này những lối này năm xưa”.
Hoặc đọc một số câu thơ sau, chúng ta cứ ngỡ như đang đọc những câu thơ hoàn toàn
thuần Việt nhưng thực chất tứ thơ, ý thơ đều được đúc rút từ trong cổ thi Trung Hoa.
“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng.”
(Câu 2241 - 2242)
Lấy tứ từ bài Khứ phụ 去婦 của Mạnh Giao 孟郊 đời Đường: “Thiếp tâm ngẫu
trung ti, Tuy đoạn do khiên liên.” (Lòng thiếp như tơ trong ngó, dẫu đã đứt đoạn nhưng
hãy còn vương trên cành). Hoặc như câu:
“Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung rày đã sợ làn cây cong.”
(Câu 2117 - 2118)
Lấy tứ từ trong Nhạc phủ 樂府 đời Hán 漢: Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc
nhi cao phi (con chim bị trúng tên, thấy cành cong vội bay đi). Việc lựa chọn những
ngữ liệu có nguồn gốc từ văn học tư chương của Trung Hoa và Việt hoá nó trên tinh
thần dân tộc không chỉ tạo nên sự phong phú trong sự miêu tả, khắc hoạ không gian
mà còn giúp cho tác giả có thể khái quát các luận đề triết học tạo nên tính khái quát
cho thi phẩm, tạo nên chiều sâu văn hóa cho ngôn ngữ của các nhân vật trong
Truyện Kiều. Ngoài ra, trong một số trường hợp nhà thơ đã sử dụng các ngữ liệu
bình dân như tục ngữ, thành ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ để
136
nhấn mạnh ý nghĩa của tục ngữ, thành ngữ hoặc để cho phù hợp với vần điệu của
câu thơ hay phát ngôn trữ tình của nhân vật. Những thành ngữ trong ấm ngoài êm,
tình sông nghĩa bể, khổ tận cam lai, đau như dần, ai khảo mà xưng, rút dây động
rừng được bẻ vụn đan cài vào câu thơ sau:
“Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng”
(Câu 1577 - 1578)
“Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi”
(Câu 2241 - 2242)
Các ngữ liệu bình dân có nguồn gốc từ tục ngữ, thành ngữ và lời ăn tiếng nói
hàng ngày đi vào thơ Nguyễn Du, chan hoà, tan biến trong phong cách của nhà thơ.
Vì vậy, trong Truyện Kiều có nhiều trường hợp khó phân biệt đâu là tục ngữ, thành
ngữ Nguyễn Du học tập quần chúng, đâu là thành ngữ, tục ngữ do nhà thơ sáng tạo
ra. Đối với việc học tập thơ ca dân gian và ngôn ngữ sinh hoạt khẩu ngữ, chúng ta
thấy Nguyễn Du thường lấy chất liệu từ ca dao hoặc chịu ảnh hưởng của ca dao
không chỉ là miêu tả thiên nhiên và tâm trạng nhân vật còn khi cá thể hoá nhân vật
qua ngôn ngữ trữ tình của nó, chủ yếu là nhân vật có tính cách hiện thực chủ nghĩa.
Hoặc có lúc, ông dường như đã sử dụng những từ ngữ rất đỗi quê mùa nhưng thật
sự đã nói lên nỗi long của con người, chẳng hạn ở câu thơ: “Khách đà lên ngựa
người còn nghé theo” (Câu 168). Nghé là một động từ, có nghĩa là nhìn theo nhưng
nhìn một cách kín đáo, lưu luyến có ý trông mong. Từ nghé hay hơn, đặc sắc hơn từ
nhìn vì nó có tính tạo hình, diễn đạt được những cung bậc tình cảm ấn tượng, mến
mộ của Thuý Kiều đối với chàng Kim sau phút đầu gặp gỡ. Nếu Nguyễn Du dùng
từ nhìn không những không bộc lộ hết những diễn biến phức tạp trong thế giới nội
tâm của Thuý Kiều, mà còn phá vỡ cấu trúc câu thơ lục bát.
Khi đi vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong Truyện Kiều, Phan Ngọc đã
cảm nhận “đối với Nguyễn Du, bản thân sự việc không có giá trị nghệ thuật. Giá trị
của nó là cách đánh giá sự việc” [100, tr.80]. Giá trị đích thực của hệ thống hình
137
tượng nghệ thuật, của bức tranh sống động của cuộc sống trở nên phong phú và đa
dạng hơn thông qua hệ thống ngôn ngữ triết lý, trữ tình của nhà thơ. Với cái nhìn
tinh tế, tư duy nhạy bén và lăng kính thẩm mỹ độc đáo, Nguyễn Du đã phác thảo
chiều kích văn hoá phức hợp qua một hệ thống ngôn ngữ trữ tình đặc sắc giàu tính
triết mỹ. Và có lẽ, thiên tài Nguyễn Du được hình thành không chỉ từ học vấn, gia
đình, thời đại hay bối cảnh xã hội mà còn được hun đúc từ một khoảnh khắc nào đó
của vũ trụ, một “sát na” ưu tư bất chợt của tạo hoá. Mỗi câu thơ của ông chẳng
những nhuốm một vẻ đẹp u tịch, bình đạm, thanh khiết và triết mỹ của thơ ca
phương Đông mà còn hiển hiện những đường nét lung linh, sâu sắc của văn hoá Á
Đông nhẹ nhàng và sâu sắc. Và dường như, trong bức tranh thuỷ mặc trầm mặc ấy
của thơ ca cổ điển, ngôn ngữ nghệ thuật trong Truyện Kiều đã rực rỡ lên những ánh
mày tươi sáng, sống động trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Nếu lời thơ trong
Kiều là “lời lời châu ngọc, hàng hành gấm thêu” thì những từ ngữ chỉ màu sắc
trong lời thơ là nghìn hồng vạn tía, là quần trân hiến thuỵ đa thanh sắc. Những câu
thơ sử dụng những từ ngữ chỉ màu sắc như những bông hoa thêu kim tuyến đính cài
trên những đường nét sắc sảo của một bộ y phục hoàn hảo. Bức tranh xuân trong
màu xanh tươi nõn, tinh khôi:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
(Câu 041 - 042)
Không gian đằng đẵng của tâm trạng hoặc hiện thực quá ư tàn nhẫn lại được
hiện rõ qua các sắc màu vàng, hồng, thắm, lục...:
“Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
(Câu 1035 - 1036)
“Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời, chẳng đau.”
(Câu 1137 - 1138)
138
Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc tượng tương cho ngoại hình, tính cách của nhân
vật, màu không gian, cuộc đời đầy tính ước lệ trong Truyện Kiều cũng là một biểu
hiện của tính triết mỹ trong ngôn ngữ thi phẩm. Đó là những màu sen, màu hoa lê
tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ:
“Hương càng đượm, lửa càng nồng
Càng xôi vẻ ngọc, càng hồng màu sen.”
(Câu 1383 - 1384)
“ Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?”
(Câu 226)
Ngoài ra trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng màu sắc để định danh tính
cách của một số nhân vật, ta có cái mặt sắt đèn sì của viên quan xử án, mặt như
chàm đổ của anh Thúc sợ vợ nhưng lại thích ăn vụng, có cái lờn lợt màu da của mụ
chủ chứa Tú Bà... Hoặc có những sắc màu ước lệ dụng ý chỉ không gian như màu
bao la:
“Cửa bồng vội mở rèm châu,
Trời cao sông rộng một màu bao la.”
(Câu 2627 - 2628)
Hay đó còn là những mảng màu của cuộc chia ly tê tái đầy trớ trêu của Thúc
Sinh và Thuý Kiều:
“Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”
(Câu 1519 - 1520)
Bên cạnh những dạng thức ngôn ngữ đã nêu rõ ở trên, trong Truyện Kiều, vẻ
đẹp của màu sắc trữ tình vẫn sáng lên cùng với những khái quát triết lý nhưng giàu
tính thẩm mỹ qua ngôn ngữ tác giả đã mang đến cho thi phẩm chiều sâu văn hoá,
cái mà các nhà nghiên cứu gọi là lớp trầm tích văn hoá trong Truyện Kiều. Về vấn
đề này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với cách hiểu và biện giải của nhà nghiên cứu
Hoàng Kim Ngọc. Trong chuyên luận So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình của
người Việt (dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học) (2011), tác giả đã đưa ra cách
139
hiểu về trầm tích văn hoá, đó là “những dấu ấn, những chứng tích văn hoá được lưu
giữ, tàng ẩn sâu kín, bị che lấp bởi lớp bui thời gian trong những câu, những chữ
mà mới xem qua không dễ gì phát hiện được.” [98, tr.213]. Lớp ngôn ngữ ẩm hàm
những giá trị văn hoá ấy rất đắc dụng, tạo chiều sâu cho việc khắc hoạ bức tranh
phong cảnh hay tâm lý, những trải nghiệm hiện sinh và nói lên tiếng nói nhân văn,
nhân đạo sâu sắc.
Có thể hình dung cuộc đời Thuý Kiều là một bài thơ trữ tình đầy xúc cảm
đoạn trường, trầm luân mà tác giả là người chứng kiến và cùng chung một chuyến
đò số phận đầy oan trái. Dường như, ngôn ngữ của tác giả dành cho Kiều là những
lời tâm huyết nhất mà ngay cả trong những thi phẩm Hán văn ông cũng chưa bao
giờ nhắc đến. Bởi đó là nỗi đau, cũng là nỗi uất hận muôn đời mà người phụ nữ
phải gánh chịu. Nguyễn Du đã đi hết hành trình của một nhà xã hội học và ông đã
đến lãnh địa của nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Ông viết về kiếp đoạn trường của kẻ
hồng nhan nhưng cũng chính là chép nhật ký của một cõi thăng trầm nơi “hoạn
hải ba đào”, “sóng bể trầm luân” của kiếp người du ca, kẻ lạc loài, tha hương trên
chính quê hương mình. Những câu thơ mở đầu tác phẩm Nguyễn Du đã khái quát
cả một hành trình đo đoan dài đằng đẵng như một sự dự đoán, tiên nghiệm về
thiên mệnh:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.”
(Câu 01 - 06)
Trăm năm là từ chỉ thời gian, là chu kỳ sống của đời người, và cũng là một
kiếp người. Cõi người ta (nhân gian) là không gian. Câu thơ mở đầu như gói trọn cả
vũ trụ (không gian - thời gian), dồn nén trong sự vĩnh cửu của cõi người. Chữ Tài
才là tài năng, là năng lực cá nhân, là ước nguyện của muôn người, Mệnh 命 là điều
140
kiện khách quan, mà khách quan thì có đáp ứng, có hạn chế. Tài mệnh theo quan
niệm nho gia thì cụ thể, ấy là kinh bang tế thế (tài), là thuận thiên mệnh, phụng quân
vương, trạch ân huệ cho muôn dân (mệnh). Song đối với bậc tài hoa, xã hội và điều
kiện cá nhân đã là một sự hạn chế lớn rồi, bởi tư tưởng, tấm lòng, sự khát vọng đã
vượt qua tầm thời đại. “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn
lòng” là thế sự, là toàn bộ chuyện đời. Do đó, Truyện Kiều không chỉ là chuyện tình
mà là một luận đề về cuộc sống, triết lý tồn sinh, sự vô thường của hiện hữu. Hai câu
thơ như một chiếc cầu tâm trạng dẫn xuống hai câu sau: “Lạ gì bỉ sắc tư phong, trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen...”. “Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương
古來才命兩相妨” (Lý Thương Ẩn 李商隱) không chỉ là quan niệm theo chủ trương
của Nho gia mà còn là một “niềm tin bình dân” và rất người.. Ấy là lẽ đời, là cuộc chơi
của tạo hoá vậy. Qua triết lý đó, tinh thần nhân văn, nhân đạo của tác giả cũng được
bộc lộ một cách rõ ràng nhất, giọng điệu cảm thương giàu tính trữ tình và khái quát của
ông đã làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc, chan chứa tình người hơn. Ông không chỉ
chịu ảnh hưởng của tôn giáo hay học thuyết về đạo của người quân tử trong cõi tang
bồng, ông đã đứng trước bờ vĩnh cửu, trong cõi trăm năm, dùng tâm để đối đãi, một
triết lý sâu xa không chỉ nhuốm màu tôn giáo mà là những tinh hoa, tư tưởng Nguyễn
Du đã tiếp thu được cộng hưởng với trải nghiệm cá nhân. Tiếng nói ấy, giọng điệu ấy
trở nên cảm thương, đa thanh, giàu sắc thái, khắc hoạ và chỉ rõ những vết loang lổ
của số phận, của đời người như chính tác giả đã từng thốt lên: “phũ phàng chi bấy
hoá công, ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha...” Do đó, khi đọc Nguyễn Du,
Xuân Diệu có cảm giác như đang ở trong một buổi chiều thu rất dài và tê tái. Quả
thực khó tìm thấy một sắc màu tươi sáng, một tâm trạng tươi vui, một ý nghĩ nhẹ
nhỏm. Bóng hình, nét mặt, mái tóc bạc, tâm tình khôn tả xiết, suy nghĩ của Nguyễn
Du dường như đều ẩn chứa nỗi buồn đau. Không chỉ buồn đau cho số phận của bản
thân, cho thời cuộc, gia đình, Nguyễn Du còn là người tự chuốc lấy cho mình nỗi
đau của bao kiếp người trong xã hội với cảm quan thường trực: Cuộc đời trăm năm
có biết bao chuyện thương tâm.
141
Nhà thơ như nhận thức được nỗi đau về thân phận con người trong xã hội,
ông xót xa trước nỗi đau thất cơ lỡ phận: “Xót nàng chút phận thuyền quyên, cành
hoa đem bán vào thuyền lái buôn”. Thuyền (thiền) quyên 嬋娟 là từ văn hoá được
dùng để phiếm chỉ những khuê nữ tiết hạnh của các gia đình có nền nếp gia phong.
Ở trong ngữ cảnh này, Kiều nhi là hiếu tử, tiết trinh thục nữ nhưng lại rơi vào chốn
thanh lâu, đó là cái đáng thương và cũng là sự đáng trọng. Ngữ liệu thuyền quyên
như một lời xót xa trước số phận dâu bể của Kiều. Nghịch cảnh ấy của Kiều dường
như đè nặng trên ngòi bút của nhà thơ và có lẽ nguyên nhân sâu xa hơn là “trong thế
giới nghệ thuật ấy, tư duy siêu hình của nhà tư tưởng Nguyễn Du không kể đến thế
giới hiện tượng và thế giới này nhờ ngòi bút thiên tài của nhà thơ đã làm lu mờ
chân lý của thế giới siêu hình” [100, tr.349]. Nhà thơ đã suy nghĩ bằng trái tim phúc
hậu, bằng nỗi lòng cảm thương. Ông đã giải thích cuộc đời bằng số mệnh, nhưng
đồng thời ông lại đứng về phía con người để cưỡng thiên, đoạt mệnh. Ông đã thi vị
hoá số mệnh con người bằng những ngữ liệu văn hoá như trời xanh, hoá nhi, hoá
công, trăng già... Nhưng trên hết, nhà thơ vẫn đến với các nhân vật trữ tình của mình,
đặc biệt là Thuý Kiều bằng tấm lòng sẻ chia, cảm thương, bằng một trái tim vĩ đại của
bậc triết nhân. Cùng với những nỗi niềm ấy là những nghịch cảnh, những mảnh ghép
của số phận mà ông đã chứng kiến, tiếng nói của ông là tiếng nói của trái tim nhận
thức. Phía cuối của đoạn đường là bến bờ của ảo vọng nhưng dù thế nào đi chăng
nữa nhà thơ cũng tạo nên những bức tranh vui tươi để làm đẹp cho cuộc sống.
Những ảo ảnh của cuộc đời có thể làm tăng thêm những nỗi đau nhân thế và do đó
những lời trữ tình, triết lý của nhà thơ không chỉ tạo nên sắc thái mới mẻ của cuộc
biến thiên, những khái quát đậm tính triết học, mà còn là sắc diện cụ thể của mỗi
nhân vật, âm thanh của mỗi ngoại cảnh, sự sắc sảo của mỗi tính cách. Nhưng vượt
lên trên tất cả vẫn là một bề dày vững chắc, độ thâm thuý và uyên áo văn hoá của
một tâm hồn đa cảm, giàu nghị lực, học thức và dạt dào của một trái tim nhân ái
đậm tính hồn hậu, thâm trầm của văn hoá Việt Nam.
Theo Doãn Quốc Sĩ, Việt Tử trong Khảo luận về Đoạn trường tân thanh
(1964), dường như bóng dáng của Nguyễn Du trong các sáng tác của ông là sự “tồn
142
tại của con người là một trạng huống đau thương” [126, tr.45], những biểu hiện của
thể của nó vừa bi quan yếm thế, vừa xót xa đầy thương cảm. Nhà thơ của chúng ta
đã đi đến tận cùng của nỗi đau của nhân thế, đã thấm hết nỗi ấm lạnh của nhân tình
thế thái, nỗi hờn ghen của hoá nhi qua bức tranh tâm lý của hệ thống nhân vật trong
thế giới nghệ thuật khá phức tạp nhưng vô cùng hấp dẫn của mình. Sự kết hợp, hoà
lẫn hai yếu tố triết luận và trầm tích văn hoá trong ngôn ngữ trữ tình của Nguyễn Du
không chỉ góp phần làm sáng rõ cơ sở tư tưởng, là phong phú hoá khả năng tiếp
cận, khái quát hiện thực, miêu tả không gian nghệ thuật, tâm trạng nhân vật trong
Truyện Kiều. Ngoài ra, nếu tính triết luận làm cho vấn đề được trình bày được mạch
lạc, có luận đề và khái quát thì trầm tích văn hoá khiến cho những nội dung được
nhà thơ khái quát đó thêm sự hấp dẫn, thẩm mỹ và sâu sắc. Trong tư duy nghệ thuật
và quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ, hai đặc trưng này chuyển hoá, tác động qua lại
một cách thần tình khiến cho ngôn ngữ trữ tình của nhà thơ luôn sinh động, có tính
triết mỹ, không có sự lặp lại, điều đó đã tạo nên sự trong sáng, hài hoà cho ngôn
ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong thiên truyện.
3.1.2. Bức tranh văn hóa thời đại qua ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ tự sự (hay còn gọi là ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện) là
ngôn ngữ của tác giả, góp phần bổ sung những quan điển của mình đối với những
hiện tượng được miêu tả. Bên cạnh chiều sâu triết mỹ của ngôn ngữ triết lý, trữ tình,
sự có mặt của ngôn ngữ tự sự đã cố kết và làm cho tác phẩm trở thành một chỉnh thể
trọn vẹn, chặt chẽ, hợp lôgíc. Trong truyện thơ Nôm nói chung và Truyện Kiều nói
riêng, hệ thống này không chỉ đóng vai trò then chốt trong mô tả diễn biến cốt
truyện, thể hiện tài năng và sự sáng tạo của tác giả mà còn biểu lộ chiều sâu thẩm
mỹ của ý thức văn hoá trong quá trình phản ánh đời sống văn hoá một thời đại.
Qua ngôn ngữ tự sự, tác giả thể hiện một cái nhìn, một giọng điệu, một
phông văn hoá riêng của mình trước những vấn đề của cuộc sống và nghệ thuật.
Ngôn ngữ tự sự của tác giả, xét ở bình diện hẹp, nó có thể mang đến cho nhân vật,
không gian, thời gian nghệ thuật của tác phẩm những nét đẹp riêng, qua đó bộc lộ
một cách khái quát nhất tư duy thẩm mỹ và khả năng khái quát đời sống của tác giả.
143
Ngôn ngữ tự sự, nếu xét từ phương diện trần thuật, được hiểu là những lời kể
của tác giả nhằm nêu lên một vấn đề nào đấy. Để mở đầu cho tác phẩm của mình,
Nguyễn Du đã khai mở một không - thời gian văn hoá đặc trưng của những tác
phẩm trung đại, ấy là không - thời gian của triều đại, gia cảnh hay bất kỳ một khung
cảnh nên thơ, nơi gặp gỡ, đoàn viên, là phát đoan của những nỗi đoạn trường.
Chẳng hạn, Nguyễn Du đã giới thiệu:
“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.”
(Câu 09 - 012)
Ở đoạn thơ trên, nhà thơ đã cung cấp cho người đọc những thông tin về nội
dung câu chuyện đang được kể. Căn cứ vào nguyên tác Kim Vân Kiều truyện
金雲翹傳 của Thanh Tâm tài nhân 青心才人, thời gian diễn ra câu chuyện được
Nguyễn Du giới thiệu là vào niên hiệu Gia Tĩnh 嘉靖 của Minh Thế Tông 明世宗 ở
Trung Hoa. Qua hai từ láy phẳng lặng, vững vàng trong ngôn ngữ kể của tác giả,
người đọc có thể hình dung đây là một thời kì thịnh trị “Bốn phương phẳng lặng,
hai kinh vững vàng”. Tiếp đến, nhà thơ đã giới thiệu về gia cảnh của Kiều nhi. Một
gia đình trung lưu có nền nếp “thường thường bậc trung”. Nhà thơ không chỉ nêu
bật những nội dung cần thông báo bằng một lối tự sự đơn thuần mà tác giả còn bộc
lộ những điểm nhìn của mình về sự vật, hiện tượng, qua đó đánh giá những yếu tố
cần miêu tả trong thi phẩm. Lời giới thiệu tưởng chừng như có vẻ khuôn cách
nhưng cũng đủ khiến cho độc giả có thể hiểu được phần nào về gia thế và thời đại
của Kiều. Tiếp đến, Nguyễn Du miêu tả khung cảnh tài tử giai nhân tao ngộ qua sự
xuất hiện của Kim Trọng trong buổi Thanh minh:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm, một vài bông hoa
144
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.”
(Câu 039 - 044)
“Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha mầu áo nhuộm non da trời.”
(Câu 0139 - 0140)
“Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”
(Câu 0143 - 0144)
Một bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội được nhà thơ phác thảo qua
những hình ảnh rất đặc trưng của văn hoá Trung Hoa, Việt Nam. Con người trong tiết
thanh minh đi sửa phần mộ và tìm đến những bóng hình quá khứ tạo nên một dạng
thức của không gian hồi cố trong tâm cảm. Khung cảnh thiên nhiên diễm lệ ấy cũng
chính là cái cớ để nhà thơ miêu tả một bức chân dung hoàn chỉnh về người nho sĩ tài
hoa theo quan niệm nho gia. Có lẽ, ở đoạn thơ này, Nguyễn Du đã chọn bức tranh
thanh minh làm nền cho chân dung của nhân vật Kim Trọng trở nên nổi bật và sinh
động hơn. Trong bức tranh ấy, vẻ đẹp thiên nhiên trở nên thơ mộng hơn nhờ có hình
ảnh con người và hình ảnh con người trở nên cụ thể hơn nhờ có thiên nhiên vậy.
Thiên nhiên là chuẩn mực, con người là điểm son. Tất cả những ngữ liệu miêu tả Kim
Trọng đều gắn liền với thanh sắc (màu xanh): hài văn lần bước dặm xanh, cỏ pha
màu áo nhuộm non da trời, một vùng như thể cây quỳnh cành dao... những ngữ liệu
như hài văn, dặm xanh, cây quỳnh , cành dao... đều mang tâm thức văn hoá, dễ liên
tưởng qua lại và chính điều đó đã mang lại cho đoạn thơ và ngôn ngữ tự sự tác giả
chất trữ tình, nhẹ nhàng và có chiều sâu văn hoá. Đồng thời, cách thức liên tưởng và
sử dụng ấy cũng tạo nên chuỗi thanh âm phức điệu, những hoà điệu mang tính ngữ
cảnh của thể loại truyện Nôm, của xu hướng cao nhã, của cảm thức văn hoá cá nhân
tác giả. Bản thân nó (tức thanh âm phức điệu) có thể tạo nên một tiềm năng văn hoá
mà mỗi độc giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo cho mình những mô thức riêng, tuỳ thuộc
vào “tầm đón nhận”, vốn học, vốn đọc, vốn sống và phông văn hoá cá nhân.
145
Truyện Kiều là một tác phẩm có cốt truyện đa chủ đề, có cấu trúc mạch tự sự
đa dạng. Nguyễn Du đã viết thiên truyện này bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, đó là
những luận lý mà ông đã rút ra được từ triết thuyết đầy tính siêu hình, bí ẩn của Nho
giáo, từ cái nhìn nhận cuộc đời theo quan niệm chữ Nghiệp, luật Nhân quả của Phật
giáo và có chút lãng mạn trong quan niệm về nhân sinh của Lão Trang. Đó cũng là
bức tranh văn hoá chung cho tất cả các tác phẩm ở giai đoạn này. Nhìn từ góc độ
ngôn ngữ tự sự và văn hoá, đặc biệt là văn hoá tâm linh, chúng ta có thể nhận thấy,
những cách nhìn nhận, cắt nghĩa đó của Nguyễn Du đó đều có tính định hướng cho
tác phẩm, tạo nên những ấn tượng, ám ảnh lớn đối với người đọc, tiếp nhận. Mạch
kể chuyện của tác giả đi theo mạch song hành theo từng cặp của thế giới mơ - thực,
hiện hữu - hư vô, chập chờn hoang tưởng - đắng cay hiện thực, và ánh sáng - bóng
tối. Câu chuyện gặp gỡ giữa Thuý Kiều và Đạm Tiên, một cuộc gặp gỡ có tính tiền
định của những con người tài hoa, giữa thực - hư, giữa thực tại - mộng mị, đã được
tác giả kết hợp, lồng ghép kiểu tự sự theo trật tự tuyến tính và cấu trúc trùng điệp.
Quan điểm của Nguyễn Du về thân phận của những con người tài hoa đã được ông
phát biểu qua nhận định của Thuý Kiều:
“Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh.”
(Câu 0115 - 0116)
Dường như ở lời nhận định này, với những ngữ liệu tài hoa, thể phách, tinh
anh, nhà thơ đã thể hiện quan điểm cụ thể của mình về vấn đề con người nói chung
và người tài hoa nói riêng. Trong mạch tư duy đó, ông đã tỏ bày nhận định của
mình về cuộc sống, về hiện thực phũ phàng lúc bấy giờ. Khi bàn về số phận của
người phụ nữ, nhà thơ đã thốt lên:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
(Câu 083 - 084)
Nếu ở những nhận định về thân phận của những con người tài hoa bạc mệnh,
nhà thơ đã khái quát thành một định đề bằng những ngữ liệu văn hoá có tính trang
146
trọng thì ở tấm lòng thương cảm cho số phận cụ thể của người phụ nữ, nhà thơ như
chua xót thốt lên những lời cay đắng qua một số ngữ liệu bình dân, thuần Việt rất
gần gũi, bình dị, dễ khơi gợi sự xúc động ở người đọc. Đó là từ láy đau đớn, là từ
thuần Việt đàn bà và cách diễn đạt cũng rất khẩu ngữ, gần với lối nói của người
bình dân như đau đớn thay, lời rằng, cũng là. Trong câu thơ trên, một ngữ liệu Hán
Việt duy nhất là bạc mệnh được đặt ở câu bát như một lý lẽ cao nhất mà nhà thơ
muốn dẫn dụng để chứng minh cho một triết thuyết phổ biến lúc bấy giờ tài hoa
hoa bạc mệnh.
Như vậy, về mô hình tự sự và vai trò của ngôn ngữ tác giả trong Truyện
Kiều, chúng ta nhận thấy dường như Nguyễn Du đã viện dẫn đến yếu tố tâm linh để
tạo tính linh hoạt cho câu chuyện được kể, tạo sự hợp lý nhất quán khi lý giải về số
phận của nàng Kiều. Đặc biệt, nhà thơ đã đan xen, lồng ghép ngôn ngữ tác giả và
ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện một cách khéo léo, tinh thế khiến cho
người đọc cảm thấy sự vô tư, chân tình và trăn trở của tác giả đối với những con
người tài hoa bạc mệnh, đối với thân phận người phụ nữ mà chính tác giả và nàng
Kiều của ông là hiện thân cho những điều ấy.
Bên cạnh tính phức điệu, ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể hiện một khả
năng đối chiếu và tương phản đặc biệt. Để có được những chân dung nhân vật sắc
nét, hai tuyến nhân vật tương phản nhau trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng
tối đa những ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ tự sự, thuật truyện, tái hiện các khuôn
hình khác nhau của một không gian văn hoá trung đại. Dưới lăng kính mỹ học cổ
điển, ngòi bút nhân đạo cảm thương, tuyến nhân vật chính diện được nhà thơ xây
dựng theo quan điểm tích cực hoá, đạo đức hoá và thẩm mỹ hoá theo những công
thức điển phạm, quy củ và chịu sự ràng buộc của thi pháp văn học cổ. Trong bức
tranh văn hoá ấy, các nhân vật của Truyện Kiều được phác thảo qua những nét ký hoạ
thuỷ mặc của quốc hoạ Trung Hoa. Kim Trọng “phong tư tài mạo”, Thuý Vân như
“hoa cười, ngọc thốt”, Thuý Kiều tựa “làn thu thuỷ, nét xuân sơn” và tướng mạo uy
nghi, dũng mãnh của bậc hổ tướng “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” - Từ
Hải. Những ngữ liệu gắn liền với hệ thống nhân vật này cũng là những mỹ từ ước lệ,
147
mang tính biểu trưng. Giọt nước mắt của Kiều là “hạt châu”, “giọt hồng” hay “màu
hoa lê đã dầm dề hạt mưa”. Những ngữ liệu ấy khiến người đọc liên tưởng đến hình
ảnh thiếu nữ Lâm Đại Ngọc 林黛玉 nhỏ từng giọt châu khóc thương cho hoa lê đã
sớm lìa cành trong Hồng Lâu Mộng 紅樓夢 của Tào Tuyết Cần 曹雪芹 (Thanh 清).
Những từ ngữ giàu tính biểu đạt, tượng trưng và mang sắc thái thẩm mỹ cao độ ấy
hoàn toàn phù hợp với những nhân vật mang tầm tư tưởng, khát vọng và ý nguyện
của nhà thơ. Đối với những nhân vật phản diện, đối lập, phản đề, nhà thơ sử dụng
hàng loạt những từ ngữ thuần Việt (ngữ liệu chuyển dịch) một cách đắc địa. Mã Giám
Sinh trong cuộc mua bán oan nghiệt của Thuý Kiều, hắn tỏ ra biết người biết của
nhưng với bản chất con buôn, hắn luôn thận trọng đắn đo, thương lượng. Mọi cử
chỉ, ngôn ngữ vẫn hết sức từ tốn, thể hiện sự cân nhắc tính toán chi li, chặt chẽ. Tuy
nhiên, Mã Giám Sinh biết rõ đây là một “món hời” nên hắn tỏ ra lịch thiệp với
những từ ngữ cực kỳ hoa mỹ:
“Rằng: Mua ngọc đến Lam kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường...”
(Câu 0643 - 0644)
Sự đề cao Thuý Kiều (ngọc đến Lam Kiều), coi đây là việc cưới sinh hợp lễ,
nghiêm túc (sinh nghí) và thái độ nhũn nhặn (xin dạy...cho tường) vẫn không giấu
được bản chất con buôn của hắn khi chạm đến mùi tiền:
“Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”
(Câu 0647 - 0648)
Qua những mỹ từ văn hoá như Lam kiều, sính nghi, các biệt ngữ thể hiện các
mánh khoé, chiêu thức, mánh lới buôn bán như cò kè, bớt một thêm hai, ngã giá…
của gã họ Mã, ngòi bút trực tả của Nguyễn Du đã kịp lật tẩy mối quan hệ mập mờ,
vẻ ngoài chải chuốt, cử chỉ vô học, ngôn ngữ tiểu nhân, đặc biệt là bản chất con
buôn của Mã Giám sinh và kịp đưa hắn lên màn diễn của sân khấu cuộc đời, một
lớp, một màn nhỏ của vở kịch đoạn trường mà Thuý Kiều sẽ phải lặn ngụp suốt
mười lăm năm đằng đẵng. Có thể nói, ngôn ngữ tự sự của tác giả tuy không đi sâu
148
vào thế giới nội tâm của nhân vật, nhưng qua lớp ngôn ngữ đặc trưng ấy, nhà thơ
như muốn giới thiệu một cách trang trọng những bức chân dung, những biểu tượng
về những đức tính, số phận và hình tượng con người theo quan điểm triết học đông
phương. Đồng thời, Nguyễn Du cũng khắc họa thành công những bức truyền thần
cụ thể bằng những nét vẽ và chất liệu từ chính bản thân cuộc đời tác giả.
Có thể thấy, qua lời kể của tác giả và trực tiếp đọc Truyện Kiều, dường như
như bất kỳ độc giả nào cũng đồng ý với nhận định của Hoàng Hữu Yên:
Ai mà nén nổi xúc động trước mọi chặng đường khổ ải của nạn nhân
Thuý Kiều…, ai mà không thấy hiện lên trước mắt là cái “lờn lợt màu da”,
với những lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà không ghê rợn về
sự tính toán bỉ ổi của tên ma cô họ Mã! Cũng chẳng ai quên được cái
“lẻn”, cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên lừa đảo đốn mạt Sở
Khanh…” [173, tr.47].
Đến như Từ Hải một tay gây dựng nên một góc giang sơn, khi đáp lời Thuý
Kiều cũng sử dụng những từ ngữ rất đỗi quen thuộc như:
“Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ, mới là tri ân.”
(Câu 2431 - 2432)
“Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt, là ta cam lòng.”
(Câu 2435 - 2436)
Điểm lại trong tác phẩm, các đoạn thơ sử dụng các ngữ liệu mang tính khẩu
ngữ quần chúng tuy rất tục nhưng rất hợp lý và chuẩn mực. Qua lớp từ ấy, Nguyễn
Du đã miêu tả thành công một bức tranh điêu khắc chạm nổi tiêu biểu cho ngôn ngữ
nhân vật Truyện Kiều.
Ngoài ra, khi bàn đến ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du, nhà thơ ít sử dụng
bạch miêu, tức là cách kể mộc, miêu tả trực diện, trực tiếp, miêu tả rõ ràng. Ông
thường tuân thủ theo lối vẽ mây nẩy trăng, kiểu vẽ bóng đầy những dụng ý sâu xa.
Chẳng hạn ở đoạn thơ sau:
149
“Hàn huyên chưa kịp dãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao:
Người nách thước, kẻ tay dao
Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.”
(Câu 0575 - 0584)
Bình luận về đoạn này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhận định của tác giả
Thi pháp Truyện Kiều, ông cho rằng: “Mọi sự vật đi vào Truyện Kiều đều mang
theo một cái bóng mờ của sự cảm thụ chủ quan trong tương quan của các sự vật.
Cách gọi gọi tên sự vật ở đây là cách gọi tên của hoán dụ, ẩn dụ theo kiểu thơ.”
[132, tr.191]. Đoạn thơ miêu tả cảnh sai nha đến nhà bắt Vương ông và Vương
Quan, tuy không có cái chất thời sự, trực tiếp nhưng có lẽ người đọc cũng khó lòng
cảm nhận được cái gấp gáp, nhốn nháo của một khung cảnh bất thường của gia đình
qua các thành ngữ, từ ngữ thuần Việt, từ láy như đầu trâu mặt ngựa, ào ào, sạch
sành sanh, hoặc lối dùng từ có những định ngữ trang sức kẻ nách thước, kẻ tay dao,
tiếng ruồi xanh, rụng rời khung dệt, tan tành gối mai…Nhìn từ góc độ văn hoá, qua
các ngữ liệu bình dân, bác học, chúng ta có thể nhận thấy tài năng cũng như sự đa
dạng trong cách tiếp cận, thuật chuyện của nhà thơ rất đa dạng, linh động. Điều ấy
không chỉ thể hiện tài năng và phong cách nghệ sĩ mà còn thể hiện phông văn hoá sâu
sắc của Tố Như. Đó là sự tích hợp, lắng đọng những “vỉa văn hoá” mà nhà thơ đã ảnh
hưởng, thu thập được trong hành trình sống và chiêm nghiệm của mình. Ông thể hiện
nó một cách tài nghệ, điêu luyện, súc tích trong tác phẩm của mình.
Sáng tạo của Nguyễn Du trong ngôn ngữ tự sự của thi phẩm mày được thể
hiện ở chỗ ông đã tái tạo lại các cấu trúc, mô hình ngữ liệu có nguồn gốc từ văn
150
hoá, cốt truyện Trung Hoa, ông thổi hồn Việt, nhân văn Việt vào các lớp từ ngữ ấy
qua cách cách diễn đạt, ngữ nghĩa hoặc sắc thái phong cách của nó. Không có ở đâu
mà tiếng Việt trở nên trong sáng, linh hoạt, tinh vi và xác thực như trong ngôn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều. Sự xuất hiện của các ngữ liệu văn hoá bình dân như tục
ngữ, ca dao, thành ngữ thuần Việt, các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ Việt là một
sự biểu hiện cao độ của quá trình dân chủ, dân tộc hoá ngôn ngữ văn chương cổ
điển Việt Nam. Việc linh hoạt hoá, Việt hoá các hình thức biểu hiện của các ngữ
liệu văn hoá bác học, Hán Việt đã giúp cho các ngữ liệu bác học này có khả năng
biểu đạt phù hợp, gần gũi và thống nhất với tâm hồn, văn hoá Việt. Trong thực tế,
ông đã sử dụng một lớp từ đồng nghĩa thay thế theo cấu trúc kết hợp Việt - Hán rất
hấp dẫn khiến cho câu thơ không hề có sự nhàm chán, tẻ nhạt. Để nói về những giọt
nước mắt, có lúc ông dùng từ lệ hoa (Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng - câu
634), giọt lệ (Tưới xin giọt lệ cho người thác oan - Câu 748), giọt châu (Giọt châu
lã chã khôn cầm - câu 1857), giọt hồng (Nhìn càng lã chã giọt hồng - câu 875)...
hoặc để nói về giấc ngủ, ông cũng dùng khá nhiều từ đồng nghĩa thay thế như giấc
hoè (Tiếng sen sẽ động giấc hoè - câu 437), giấc hương quan (Giấc hương quan
luống lần mơ canh dài - Câu 1266), giấc nồng (Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng -
câu 759), giấc xuân (Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân - câu 713), giấc mai (Giật mình
thoắt tỉnh giấc mai - câu 2727)... Hầu hết những từ thay thế đồng nghĩa này đều là
những điển cố hoặc là những từ ngữ văn hoá được nhà thơ tạo ra. Tất cả được ông
tổ hợp xây dựng theo nguyên tắc mỹ học nhất định chứ không phải là một sự lắp
ghép thông thường. Lối sử dụng này cũng có tính trau chuốt, có nguồn gốc xuất xứ
phong phú, có chức năng gợi cảm khác nhau nhưng căn bản vẫn giữ được hồn cốt
dân tộc. Đó là một đóng góp lớn của Tố Như tiên sinh.
Tựu trung, trong lịch sử phát triển của tiếng Việt và thơ ca cổ điển Việt Nam,
chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ, đặc biệt là lớp từ ngữ mang phong
cách khẩu ngữ mới thực sự được xem là lớp ngôn từ nghệ thuật đặc sắc, có sức sống
tràn trề, mãnh liệt. Xét từ góc độ văn hoá nhân văn, Nguyễn Du không chỉ là nhà
151
nghệ sĩ lớn về ngôn từ mà còn là một nhà văn hoá lớn với những phương thức ứng
xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca mà Nguyễn Du là một tấm
gương tiêu biểu. Đồng thời, trong quá trình tạo tác, cái khéo léo của nhà thơ là đã
đồng hoá một cách cao độ cái vốn quý bình dân ấy, đưa lời ăn tiếng nói của nhân
dân vào lớp từ ngữ đẹp, đắc dụng nhất. Bao lời ăn tiếng nói của quần chúng được
nhà thơ sử dụng rất điêu luyện, đều có vị trí xứng đáng trong ngôn ngữ Truyện Kiều
và phát huy tác dụng một cách sắc sảo.
3.2. Ngữ liệu văn hóa với sự thể hiện chiều sâu triết mỹ qua ngôn ngữ nhân
vật trong Truyện Kiều
3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn và
Hải hạc văn
Đặc tính của tư duy phương Đông nói chung là lối tư duy cầu tính, mang tính
chủ toàn, thiên về cảm xúc, trọng sự đăng đối, nặng về thẩm mỹ và đề cao cái đẹp
hài hoà. Đặc tính này đã tạo nên một bức tranh ý niệm mang tính biểu tượng về thế
giới, hiện thực khách quan và được thể hiện một cách sâu sắc trong ngôn ngữ văn tự
Hán và Việt. Người xưa lấy cái lý về thái cực, tính đối xứng, khả năng đối trọng
giữa ngữ nghĩa và hình thức của câu chữ để diễn đạt những ý tưởng thẩm mỹ, phác
hoạ thế giới hình tượng đặc trưng của văn chương cổ điển. Do đó, các ngữ liệu văn
hoá trong Truyện Kiều, không đơn thuần là sự so sánh, đăng đối tạo nên những thần
cú nhãn tự mà đằng sau nó là những bài học triết lý, giáo huấn sâu xa, nó giúp cho ý
nghĩa câu thơ thêm phong phú. Một trong những đặc trưng cơ bản của văn chương
trung đại là tính chất cao quý, thanh nhã, giàu khả năng tượng trưng, linh hoạt và đa
nghĩa, từ ít ý nhiều, thi ảnh mang tính biểu trưng, khái quát cao độ. Ở thời trung đại,
người cầm bút hầu hết đều là những bậc trí thức nho học có trình độ học vấn uyên
thâm. Mỹ học trung đại quy định khuôn khổ diễn đạt chung, phải tuân thủ theo
hướng thanh nhã, quý tộc, cao sang, từ đề tài, hình tượng nhân vật, hình ảnh đến
giọng điệu, ngôn ngữ, từ các biện pháp tu từ học như ẩn dụ, tượng trưng đến điển
cố, mỹ từ văn hoá, thi văn liệu được dẫn dụng... Thái độ thẩm mỹ này đã ảnh hưởng
rất lớn tới hoạt động sáng tạo của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều.
152
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về đặc trưng thẩm mỹ của ngôn ngữ nhân vật
Truyện Kiều, Nguyễn Lộc đã nhấn mạnh:
Chỉ riêng về ngôn ngữ nhân vật, yếu tố truyền thống và những sáng
tạo riêng của nhà thơ vẫn biểu hiện rõ nét. Trong ngôn ngữ các nhân vật
Truyện Kiều, có yếu tố hiện thực chủ nghĩa, nhưng có tính chất ước lệ mà
chúng ta thường thấy trong ngôn ngữ văn học của thế kỷ XVIII và nửa đầu
thế kỷ XIX. Có một điều phải tính đến, là ngôn ngữ trong thơ ca, cả xưa lẫn
nay bao giờ cũng có tính chất cách điệu hoá. Đây là một đặc điểm thuộc loại
hình... tính chất ước lệ trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều có phần là do
cách điệu hoá của loại hình thơ lục bát, với số chữ và vần điệu chặt chẽ.
Nhưng chủ yếu nó là một đặc điểm có tính chất loại biệt trong nghệ thuật
biểu hiện của văn học phong kiến... [89 ; tr.46]
Khảo sát trong thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 của Nguyễn Du,
chúng tôi nhận thấy có một chùm ba bài rất đáng chú ý, đó là Khổng tước vũ
孔雀舞, Điệp tử thư trung 蝶死書中 và Độc Tiểu Thanh ký 讀小青記. Ở Điệp tử
thư trung, tác giả sử dụng hình ảnh cái chết của con bướm để ví như sứ mạng của
nhà thơ, dù thế nào cũng cháy hết mình cho nghệ thuật. Trong Độc Tiểu thanh ký,
nhà thơ đã nêu rõ sự sứ mệnh của văn chương và tâm sự của một thi nhân ưu thời
mẫn thế. Cùng với hai bài thơ trên, bài Khổng tước vũ cũng được xem là một phát
ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Qua hai hình ảnh chim Khổng Tước với một bộ lông
sặc sỡ và chim Hải hạc với dáng vẻ điềm tĩnh thanh tao, nhà thơ như muốn thông
điệp đến độc giả những thông tin về mối quan hệ giữa hình thực và nội dung thẩm
mỹ của văn chương nói chung và ngôn ngữ tác phẩm nói riêng. Hơn thế nữa, nhà
thơ đã kế thừa sự phá vỡ của nguyên lý thẩm mỹ đồng nhất trong sáng tạo các hình
tượng, ngôn ngữ nhân vật trong văn học dân gian và truyện Nôm truyền thống. Đó
là cái đẹp không chỉ bao hàm nội dung tích cực và vẻ ngoài xấu xí cũng không chỉ
là bộc lộ cái ác và tiêu cực. Hình ảnh những nhân vật chính diện, phản diện trong
nghệ thuật tuồng, chèo hay một số truyện cổ tích của Việt Nam đã minh chứng cho
luận lý đó. Qua ý kiến của một số nhà nghiên cứu, từ góc độ nội dung thẩm mỹ và
153
phương hướng định danh cho những đặc trưng thẩm mỹ, chúng tôi xem ba bài thơ
trên là những tự sự nghệ thuật của ông, trong đó bài Khổng tước vũ nói về phong
cách và giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nhân vật:
“Khổng Tước phủ hoài độc,
Ngộ phục bất khả y.
Ngoại lộ văn chương thể,
Trung tàng sát phạt ky.
Nhân khoa dung chỉ thiện.
Ngã tích vũ mao kỳ.
Hải hạc diệc hội vũ,
Bất dữ thế nhân tri.”
(Phủ tạng chim công rất độc
Ăn nhầm không có thuốc chữa.
Bên ngoài lộ vẻ rực rỡ,
Bên trong giấu sự nguy hiểm thay.
Người ta khen dáng nó dịu dàng,
Ta tiếc cho bộ lông lạ của nó.
Loài chim hạc biển cũng biết múa
Nhưng không để cho người đời biết)
Đúng như Lê Quế đã nhận xét: “Giọng văn của Nguyễn Du trong Đoạn
trường tân thanh có cả sự lộng lẫy như vũ điệu chim công và cả sự thanh thoát, kín
đáo, tế nhị như vũ điệu của loài hạc biển...” [109, tr.61]. Dựa trên việc lý giải mối
quan hệ giữa hình thức và nội dung đã nêu, trong Truyện Kiều, tác giả đã tạo nên
hai tuyến nhân vật với hai kiểu phát ngôn và giọng điệu riêng biệt. Giọng điệu và
ngôn ngữ của các tuyến nhân vật đó thể hiện phong phú, đa dạng nhưng cũng khá
thống nhất: nhân vật nào ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ nào giọng điệu ấy. Giọng văn của
Nguyễn Du nói chung và chất giọng đặc trưng cho từng tuyến nhân vật nói riêng
trong Truyện Kiều có sự kiêu kỳ, rộn ràng, âm độc như vũ điệu và phủ tạng chim
công nhưng cũng có sự rắn rỏi, chân tình, kiên trì, nhân nghĩa, tinh tế của loài hạc
154
biển. Căn cứ vào sự liên tưởng, ước lệ và thống nhất trong ngôn hành của các nhân
vật trong tác phẩm, chúng tôi tạm sử dụng hai khái niệm Khổng tước văn 孔雀文và
Hải hạc văn 海鶴文để bước đầu định danh cho những giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa văn
hoá và đặc trưng giọng điệu cho những nhân vật trong Truyện Kiều. Đó là chất
giọng xảo trá, điêu ngoa, toan tính, hèn kém được bọc trong một vẻ đẹp lộng lẫy
như những cánh lông thuý vũ như lại nguy hại, hiểm độc như tạng phủ của khổng
tước, đó là lớp ngôn từ và giọng điệu ngôn ngữ của Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hoạn
Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh và Thúc Sinh - giọng Khổng Tước văn. Và một chất giọng
trầm tĩnh, đĩnh đạc như dáng vẻ phong nhã của con hạc biển, đó là những biểu hiện
chân tình, hiếu nghĩa và đường bệ, tích cực của lớp ngôn từ và giọng điệu ngôn ngữ
Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải – giọng Hải Hạc văn.
Cũng cần nói thêm rằng, văn phong, ngôn ngữ và giọng điệu trong Truyện Kiều
khá linh hoạt. Có lúc ông sử dụng lối diễn đạt, giọng văn hàn lâm với đầy rẫy những
điển cố Hán học, có lúc ông viết bằng một chất giọng rất bình dân, dung dị khá mộc
mạc có thể gọi tạm đó là lời mộc, giọng quê. Từ góc nhìn văn hoá, chúng tôi nhận thấy,
hai chất giọng bác học và bình dân ấy cũng là một sự biểu hiện linh hoạt của giọng điệu
Khổng tước văn và Hải hạc văn. Ngoài ra, sử dụng hai khái niệm này, chúng tôi còn
hướng đến việc khái quát phương thức tự sự, ngôn ngữ cũng như những lập luận
ngôn ngữ không chỉ của các nhân vật mà còn là của người kể chuyện trong quá trình
dẫn dắt nội dung tác phẩm. Những lập luận và sự thể hiện ấy đôi khi cũng có những
khéo léo, tinh tế và chân chất, quê mùa. Dù có thể hiện tính chất nào đi nữa, những
đặc tính ấy vẫn góp phần làm nên sự đa dạng trong giọng điệu và ngôn ngữ nhân vật
Truyện Kiều.
3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều
Để nhận chân cái vẻ bề ngoài của phong cách Khổng Tước văn tưởng cũng
thật dễ dàng, bởi ngoại diện của nó đã được phô ra hết bên ngoài, nhưng vấn đề là
nhận ra được sự ẩn hàm những tàng độc của nó như mối quan hệ giữa vẻ đẹp bên
ngoài của công lại dung chứa một hệ thống lục phủ ngũ tạng đầy chất độc. Tác giả đã
khéo léo sử dụng mối quan hệ ấy qua bộ lông sặc sỡ của chim Khổng Tước. Trong
155
tác phẩm ở ngay phần đầu, Nguyễn Du dùng những lời lẽ khoa trương, ồn ào để miêu
tả sự xuất hiện của những kẻ chuyên sống bằng xác thịt con người, bằng mưu mô và
thủ đoạn, những lừa dối, sự tầm thường hoặc chưa hoàn thiện. Lối nói phóng đại, sử
dụng nhiều ngoa từ, ngoa ngữ, từ ngữ kiểu cách trong ngôn ngữ của Mã Giám Sinh
như sính nghi, lam kiều, lối nói khách sáo xin dạy là những chiếc thuý vũ sặc sỡ, là
những bước đi kiểu cách của con công. Đặc biệt, trong đêm ở trú phường, Mã Giám
Sinh đã suy tính thiệt hơn đối với món hàng vô giá này, bản chất phong tình càng
trỗi dậy, càng thôi thúc hắn:
“Mừng thầm: Cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.
Đã nên quốc sắc, thiên hương,
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. ”
(Câu 823 - 826)
Ở đây, với những ngữ liệu văn hoá như “cờ đã đến tay”, “vẻ ngọc”, “quốc
sắc”, “thiên hương”, “một cười... nghìn vàng” có nguồn gốc từ thành ngữ thuần
Việt như Cờ đến tay ai người đó phất, Hán Việt như Tư nhan như ngọc, quốc sắc
thiên hương, nhất tiếu thiên kim (phiếm chỉ vẻ đẹp của người con gái), hoặc “khúc
vàng” (khúc lòng vàng, tấm lòng tốt, phiếm chỉ bụng dạ của họ Mã lúc bấy giờ) là
mỹ từ thường xuất hiện trong truyện Nôm (Một mình trong dặm rừng xanh, Châu
chan má phấn tằm oanh khúc vàng - Phan Trần). Sau cái đêm ở trú phường, khi đã ở
ngoài mươi dặm trường đình, Thuý Kiều tâm sự với Vương Bà trước lúc chia tay, đã
nhận xét về Mã:
“Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.”
(Câu 0887 - 0888)
Tại đây dù chưa cạn chén, Mã vội cũng vội giục xe đi ngay tức thì (giục liền
ruổi xe) nên Vương Ông nài nì nhờ hắn chăm sóc Kiều và trước khi rút khỏi kịch
trường này, hắn đã khoa trương với một câu thề độc nhưng rất văn hoa và đây cũng
là những câu cuối cùng Nguyễn Du viết về Mã Giám sinh:
156
“Cạn lời khách mới thưa rằng,
Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
Mai sau dầu có thế nào,
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần...”
(Câu 0903 - 0907)
Những câu văn hoa kèm theo những từ ngữ hoa mỹ như xích thằng, nhật
nguyệt, quỷ thần như thể hắn đem cả đất trời vào trong ngôn từ của mình. Nguyễn
Du đã sử dụng những hình thái ngôn ngữ rất trực diện để diễn đạt ngôn ngữ của Mã
Giám Sinh. Ở chốn lầu xanh của đất Lâm Truy có ba nhân vật với những cái tên khá
văn hoa, bóng bẩy đã trở thành những điển hình tiêu biểu trong văn học và đời
sống: Mã Giám Sinh, Tú Bà và Sở Khanh.
Nhân vật Sở Khanh cũng là một trong những nhân vật điển hình cho giọng
văn này. Khi Kiều nhờ hắn ra tay tế độ và xin hắn quyết một bài cho xong thì giọng
lưỡi hắn trở nên đại ngôn, khoa trương, khoác lác nhưng vẫn lòi đuôi đểu giả:
“Rằng: Ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn...”
(Câu 1107 - 1110)
Các ngữ liệu văn hoá có xuất xứ từ ngôn ngữ giao tiếp xã hội nhưng có tính
biểu trưng như truy phong (nguyên gốc là Truy phong mã, phiếm chỉ con ngựa giỏi,
ngựa hay), kiện nhi (chỉ những người đánh xe giỏi) xuất hiện trong lời nói của Sở
Khanh như càng làm tăng thêm vẻ hào nhoáng, chải chuốt và dịu dàng của một gã
lưu manh giang hồ. Sở Khanh cố tỏ ta vẻ khí khái anh hùng, trượng phu nên hắn đã
05 lần tự xưng bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất ta nhưng kế hoạch “lấp bể trầm
luân” của Sở kết lại ở: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng kế 三十六計走為上計
(Trong 36 kế, chạy là kế hay nhất). Hoài Thanh, khi bàn về nhân vật này đã hạ bút:
“Sở Khanh có vẻ một nhà nho. Nhưng ngay trong dáng hình chải
chuốt dịu dàng, đã có một cái gì đó tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là nhà
157
nho chân chính... lời lẽ nghe như một giọng hát rất điêu luyện mà rỗng
không, hiệp khách nhưng không phải hiệp khách...” [139, tr.406].
Đặc biệt, trong đoạn trích trên, Nguyễn Du đã bóc tách bản chất ma cô của
một tên đàng điếm nổi tiếng khắp thành Lâm Truy qua một động từ “lẻn”. Đây là
một từ có tính tạo hình cao. Lần trước, khi giới thiệu khung cảnh mà Sở Khanh
bước vào cuộc đời Kiều, Nguyễn Du cũng dùng từ “lẻn”:
“Tường đông lay động bóng cành,
Dẫy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”
(Câu 1093 - 1094)
Một ngữ liệu thuần Việt được lặp lại trong trong hai ngữ cảnh đã giúp cho
người đọc dễ dàng nhận chân được bản chất của kẻ bất lương, đưa đường dắt mối,
hãm hại biết bao cành phù dung này. Ngoài ra, những lời hoa mỹ che đậy bản chất
giả dối của kẻ lừa đảo, vừa lên gân, nói cứng vừa tỉ tê, dịu dàng như mật ngọt không
giấu vẻ giả dối của những kẻ mạo danh quân tử. Bên cạnh những nhân vật như Sở
Khanh, Mã Giám Sinh... nhà thơ còn dùng giọng văn này để châm biếm, ẩn dụ về
sự hời hợt, hèn kém, thấp cơ thua trí, nhút nhát, thiếu sự tính toán chặt chẽ, sâu sắc
của chàng Thúc Sinh 束 生 - “liệu mà cao chạy xa bay”. Ngôn ngữ của chàng Thúc
cũng hoa mỹ không kém các nhân vật khác:
“Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong
Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên.”
(Câu 1831 - 1832)
Bởi chàng Thúc “sợ quen, dám hở ra lời…” (câu 1828), cái sự hèn nhát ấy
đã đẩy Kiều vào cảnh trớ trêu, thế nhưng khi trả lời Hoạn Thư về lý do về nhà thì
chàng ta cũng viện đủ lý do rất “hoành tráng”, nào là vì “hiếu phục vừa xong”, vì
“lòng trắc dĩ”, “đau lòng chung thiên”. Những ngữ liệu văn hoá này đều có nguồn
gốc từ văn hoá bác học, hiếu phục là trách nhiệm của người làm con, trắc dĩ là lòng
thương nhớ mẹ già, đây là điển cố được lẩy từ kinh Thi “trắc bĩ Dĩ hề, chiêm vọng
mẫu hề 陟彼屺兮瞻望母兮” (Lên núi Dĩ kia trông ngóng mẹ), chung thiên là suốt
ngày, cả ngày. Cụm từ “đau lòng chung thiên” diễn tả tình cảm luôn mong ngóng
158
ngày được trở về của Thúc Sinh. Ai cũng hiểu rằng ấy là những lời nói đãi bôi, đánh
lạc hướng chú ý của Hoạn nương. Đến đây, người đọc hẳn là không còn lời nào
bình phẩm về dũng khí can trường của một đấng trượng phu mà Kiều đã hết lòng
nương tựa, tin tưởng.
Ở một minh chứng khác, từ ngữ văn hoa đã được tác giả sử dụng như là
những lời lên gân, nói cứng mà không giấu được sự kém cỏi, nhút nhát của một kẻ
quen thói phong tình không đáng để người đời quan tâm đến. Chàng Thúc cũng lên
giọng anh hùng:
“Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Đã gần chi có đường xa,
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.”
(Câu 1363 - 1366)
Với Ngô Lào (một điển cố Việt Nam) và các ngữ liệu có xuất xứ từ trong
khẩu ngữ xã hội như đá vàng, phong ba, ngôn điệu có vẻ rất rắn rỏi của một anh
chàng sợ vợ nhưng thích ăn vụng như Thúc Sinh, người đọc khi theo dõi câu
chuyện có lẽ cũng không khỏi bật cười bởi sự mâu thuẫn giữa ngôn ngữ và hành
động của nhân vật này.
Xét từ phương diện thẩm mỹ, giọng Khổng tước văn là công cụ vạch trần chỉ
rõ bản chất xấu xa, đê tiện của các nhân vật phản diện trong tác phẩm. Hệ thống
ngữ liệu văn hóa được các nhân vật này sử dụng như những chứng lý để chúng có
thể dễ dàng thực hiện những mưu ma, chước quỷ. Lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành
động lúc cường điệu, lúc điêu ngoa, lúc hùng dũng, lúc rụt rè của chúng luôn được
bao bọc trong một lớp vỏ khá hoàn bị. Với kiểu cách ngụy quân tử, ngôn ngữ đầy
những ẩn dụ, ngoa dụ, văn hoa, bản chất thâm độc của các nhân vật phản diện
dường như được che lấp, được đánh bóng, tô vẽ càng khiến cho người đọc kinh sợ
và ghê tởm. Dường như ai cũng nghĩ rằng thưởng thức được cái đẹp của Khổng
tước văn là điều thật giản đơn, dễ dàng, nhưng thực chất đằng sau sự hoa mỹ đó,
dường như nhà thơ đã sử dụng thủ pháp tương phản ngôn ngữ, ông sử dụng vẻ đẹp,
159
trang trọng, uyên nhã của các ngữ liệu văn hoá bác học như một công cụ để dần bóc
trần các mặt nạ thư sinh, dáng vẻ phong lưu, tao nhân mặc khách của chúng một
cách tinh tế và làm cho chúng hiện nguyên hình, lộ rõ bản chất đểu giả, lừa lọc.
Tất cả những minh chứng đa phân tích cứ như những khúc biến tấu trên một
khuôn nhạc có giai điệu, tiết tấu dồn dập, hối hả. Bên cạnh đó, đối với bọn nhà
chứa, ngòi bút của Nguyễn Du không tò mò, ông chỉ lách nhẹ và đi vào những
đường nét cụ thể của chiếc mặt nạ của bọn nhân diện thú ấy. Ngôn từ văn hoa, điệu
bộ giả tạo được những kẻ lừa đảo sử dụng để che đậy bản chất của mình. Như đã
nói, ngôn ngữ của các nhân vật phản diện, hay có tính tiêu cực đã phân tích trên đã
chỉ rõ vẻ đẹp của những chiếc thuý vũ rực rỡ, là những điệu múa của con công và sự
tàng độc của gan công. Có lẽ vũ điệu đẹp nhất, những chiệc lông đẹp nhất chính là
kỹ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ náo nhiệt nhất mà tác giả đã sử dụng để viết về cái
“không khí Từ Hải” (chữ dùng của Xuân Diệu).
“Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét, mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam.
Phong trần, mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo, túi cơm sá gì!
Nghênh nganh một cõi biên thuỳ,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.
Trước cờ ai dám tranh cường,
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.”
(Câu 2439 - 2450)
Bình luận về vấn đề này, Xuân Diệu đã cho rằng:
Nhà thi sĩ phối hợp nghĩa chữ với nhịp văn (tiểu đối), với âm thanh
mà tạo nên cái không khí Từ Hải... Nhà thi sĩ kể ra cũng biết lên khung sự
160
việc: Nếu viết văn theo lối “thông tấn xã” thì chỉ là: “Từ Hải đã lấy được
năm huyện ở phía Nam”, nói như thế thật là bằng phẳng, vừa vừa, tẹt đi chả
có gì to tát lắm...” [25, tr.229].
Từ góc độ ngôn ngữ, qua thống kê trong 12 câu thơ được trích trên, chúng tôi
nhận thấy có lẽ nhà thơ đã vận dụng hết những gì là tinh tuý nhất của hai lớp ngữ
liệu bình dân và bác học để phục dựng cái không khí rất hào tráng của đội quân Từ
Hải. Thứ nhất, các thành ngữ gốc Hán, thành ngữ Việt được dùng để phác hoạ uy
thế, sức mạnh của nghĩa quân do Từ Hải lãnh đạo như: trúc chẻ ngói tan, gió quét
mưa sa, giá áo túi cơm. Thứ hai, những ngữ liệu bác học Hán Việt góp phần kiến
tạo không khí trang trọng, khẳng định thành quả, chiến thắng mà đội quân đã đạt
được như: Binh uy, triều đình, văn võ, sơn hà, phong trần, biên thuỳ, cô quả, bá
vương, tranh cường, hùng cứ, hải tần. Thứ ba, những từ thuần Việt kết hợp với
phong cách khẩu ngữ được dùng để diễn đạt những xúc cảm cụ thể của lời bình mà
tác giả muốn nhấn mạnh: Từ ấy, sấm ran, trong ngoài, rạch đôi, đòi cơn, đạp đổ,
những loài, sá gì, thiếu gì, một cõi,...
Sự kết hợp nhuần nhuyễn những ngữ liệu bác học và bình dân đã giúp nhà
thơ như muốn thể hiện cái oai hùng rất lớn của cái không khí ấy. Chẳng hạn, khi sử
dụng từ cô quả 孤 寡 (tiếng vua chư hầu tự xưng), bá vương 霸 王 (vừa ám chỉ
những người đứng đầu có tài năng, sức mạnh, vừa ám chỉ việc làm của Từ Hải
giống như Sở Bá Vương năm xưa) có nguồn gốc từ văn hoá khiêm xưng của Trung
Hoa (cô gia, cô vương, quả nhân) hoặc thời kỳ lịch sử Hán sở tranh hùng, tác giả
muốn đề cao vai trò to lớn của người anh hùng Từ Hải. Thế nhưng, cái không khí ấy
càng hùng tráng bao nhiêu thì khi sự thất bại của họ Từ diễn ra, người đọc càng cảm
thấy thấm thía bấy nhiêu. Đúng như Lê Quế đã nhận định: “Đó là tài lên khung sự
việc, sân khấu hoá thành công, làm cho mọi thứ to lên, cao hơn như con côn xoè bộ
lông ra vậy. Đó chính là Khổng tước văn của Nguyễn Du, một giọng văn có ngôn từ
hào nhoáng, rực rỡ.” [109, tr.64].
Tóm lại, bên cạnh việc tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ tiếng Việt, Nguyễn Du
còn sử dụng ngôn ngữ như một công cụ để đả kích, vạch trần bản chất đê hèn, đốn
161
mạt hoặc chỉ rõ những khuyết nhược trong tính cách, ngôn hành của các tầng lớp
người trong xã hội Truyện Kiều. Lớp từ ngữ được sử dụng theo phong cách Khổng
tước văn không chỉ tạo nên những dư ba đặc biệt trong lòng người mà còn khẳng
định tính hàm súc, đầy ý vị của ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoài ra, phong cách này
còn góp phần giúp cho giọng điệu tự sự của tác giả, của các nhân vật thêm phần sâu
sắc, giàu tính văn hoá. Nó kiến tạo nên một lớp sương phủ nhẹ trên từng nhân vật.
Nét đặc sắc ẩn hàm trong phong cách này là nó đã dùng hư để nói thực, dùng cái
lộng lẫy để diễn tả cái xấu xa, dùng hiện tượng để khái quát bản chất của vấn đề.
Hơn thế nữa, đặt trong thế tương quan so sánh, phong cách Khổng tước văn sẽ làm
nền để người đọc có thể đi sâu hiểu rõ hơn về dụng ý căn bản của tác giả là ở phong
cách, giọng Hải hạc văn.
3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều
Xét từ góc độ văn hoá, ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều, giọng Khổng Tước
văn chỉ là phụ, Hải Hạc văn mới là cơ bản. Chính yếu tố này đã làm nên giọng điệu
cảm khái, hùng tráng, chân chính quân tử nhưng cũng có phần bi thương của các
nhân vật chính diện. Theo chúng tôi, có lẽ đây cũng chính là ngôn ngữ tâm đắc nhất
của Nguyễn Du, ngôn ngữ đại diện cho phong cách nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn
Du. Điều ấy không chỉ trong Truyện Kiều mà nó đã lan toả khắp trong toàn bộ gia tài
sáng tác của ông. Khi nghiên cứu vấn đề này, Lê Đình Kỵ đã nhận xét ngôn ngữ nhân
vật Truyện Kiều: “ …đã đạt đến cái bình đạm mà nồng hậu, giản dị mà hàm súc, từ
thiển mà ý thâm, lời hết mà ý vô cùng…” [130, tr.112]. Đó cũng chính là những nét
đặc trưng của chất giọng Hải Hạc văn vậy. Nổi bật nhất là ở những lời lẽ chí tình của
Kiều. Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều:
Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi duyên ưa
kim cải non biển thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi
rừng tía cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải
nghĩ càng tê lưỡi…” [30, tr.12].
Thuý Kiều đã trải qua hết tất cả những đau khổ của nhân gian, là người luôn có
ý thức về kiếp đoạn trường và luôn hướng đến cuộc sống hạnh phúc, do đó ngôn ngữ
162
của nàng có vẻ rắn rỏi, khái quát, vững chắc và đủ độ thâm trầm. Khi đối diện với tai
biến, nàng đã đi theo con đường của Đề Oanh 緹縈, Lý Kỳ 李奇 và trao lại mối tình
oan trái với chàng Kim cho Thuý Vân:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
(Câu 0731 - 0734)
Những mong đem chữ nghĩa đền đáp người yêu, nhưng tự chiều sâu của lôgic
cuộc sống, nàng hiểu rằng không bao giờ mối nhân duyên ấy trọn vẹn đối với Kim
Trọng và có lẽ hành động ấy không thể khiến nàng ngậm cười nơi chín suối được.
Trong tuyệt vọng khổ đau, Kiều vẫn ý thức về cái hiện hữu, bi kịch của nàng càng
sâu sắc khi ý thức về hiện tại vỡ tan không thể vãn hồi giữa nàng và Kim Trọng, vì
thế nàng mới cay đắng thốt lên:
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.”
(Câu 0737 - 0738)
“Ôi Kim lang, hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”
(Câu 0755 - 0756)
Tiếng kêu như ai oán, nặng trĩu trong những nỗi dằn vặt của Kiều trước nỗi
đau sinh ly tử biệt. Nhưng khi đối thoại với Thúc Sinh, ngôn ngữ của Kiều lại càng
thêm hoa mỹ, ước lệ, biểu hiện mối quan hệ gá nghĩa Thúc Sinh - Thúy Kiều, một mối
quan hệ nửa công khai, nửa lén lút:
“Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không.
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân.”
(Câu 2327 - 2330)
163
Đó là lớp ngôn ngữ quý phái, thứ bậc và kiểu cách, đó là lời lẽ của một mệnh
phụ với những quan niệm đạo đức phong kiến như Nghĩa, Tòng và những từ ngữ
ước lệ như Sâm Thương… tuy mượt mà nhưng vẫn đằm thắm thiết tha. Có thể nói,
với nhân vật Thúy Kiều, hệ thống từ ngữ được dẫn dụng trong sách vở luôn xuất
hiện trong ngôn ngữ của nàng, đặc biệt là trong những lúc đối diện với chính mình.
Các từ ngữ như ngày xuân, mệnh bạc, Kim Lang, Nghĩa, Tòng, Sâm Thương…
không chỉ phản ánh một phong cách tao nhân trong con người Thúy Kiều mà còn
thể hiện một cách đẹp nhất vẻ đẹp tâm hồn trung trinh, nhân nghĩa như băng tuyết
của người con gái được giáo dưỡng trong môi trường phong kiến và trưởng thành
trong phong ba bão táp của cuộc đời.
Nhạc khúc Từ Hải bước vào Truyện Kiều, bước vào đời Kiều có tiết tấu hùng
mạnh như một dũng tướng đang gióng trống chuẩn bị nghênh địch trên chiến
trường, cái cảm giác vuông trọn không chỉ ở cấu trúc đăng đối của những câu thơ
mà còn ở những ngữ liệu mà Từ công đã sử dụng trong ngôn ngữ của mình. Xét từ
phương diện giọng điệu và tính chất của ngôn từ, nếu Thuý Kiều ôn nhu thì Từ Hải
mạnh mẽ, nếu Thuý Kiều thanh cao thì Từ Hải quân tử, nếu Thuý Kiều đáng thương
thì Từ Hải đáng trọng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc chơ rằng: “Ngôn ngữ của Từ
Hải là tuyên ngôn của lý tưởng anh hùng là sự biểu hiện của một phẩm cách anh
hùng.” [89, tr.55]. Khi khẳng định Từ Hải là kẻ quốc sĩ, Nguyễn Du muốn thông
qua ngôn ngữ của nhân vật này đề cao phẩm giá của Kiều - người phụ nữ từng trải,
có số phận “cỏ nội hoa hèn”, cách dùng từ “tri kỷ” đã thể hiện rõ điều đó:
“Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng.”
(Câu 2427 - 2428)
Từ không ngần ngại thổ lộ những lời tâm tình với Kiều:
“Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
(Câu 2435 - 2436)
164
Lời lẽ rất đỗi thân tình, những ngữ liệu bình dân, bác học, cách thức diễn đạt
có phần nôm na, khẩu ngữ đã được sử dụng trong lời nói của Từ chứng tỏ Từ không
chỉ là kẻ võ biền, suốt đời ngồi trên yên ngựa mà qua đây ta có thể thấy được sự tồn
tại kép của hai con người trong Từ, một con người đầy khí phách hiên ngang, có
sức mạnh bạt sơn cử đỉnh như Sở Bá Vương Hạng Vũ năm xưa đứng trước ngàn
quân và một con người nhân nghĩa, đạo lý biết cảm thông, biết thương yêu trân
trọng cái đẹp, tình người. Phải chăng đó là sự biểu hiện, chuyển hoá cao độ của hai
mặt đối lập mang tính nhân văn của con người. Có thể nói, qua ngôn ngữ chân
thành của Từ Hải, Nguyễn Du không những đã sử thi hoá nhân vật này, mà đồng
thời ông cũng phác hoạ thành công bức chân dung một nhân vật anh hùng xuất
chúng, một tâm hồn bầu bạn, một trái tim yêu thương, kính trọng của Thuý Kiều.
Hiểu văn Nguyễn Du qua Khổng Tước văn chỉ là mới tiếp cận bên ngoài của
cái vẻ hào nhoáng, chỉ thấy được giọng điệu cay độc, mỉa mai của tác giả dành cho
những kẻ độc ác, gian ma nhiều khi được che đậy trong một lốt vẻ hào hoa, phong
nhã. Khi tiếp cận với giọng Hải Hạc văn, người đọc dường như mới tiếp cận được
cái trọn vẹn, hoàn mỹ của một thiên tài.
Vẻ đẹp của Hải Hạc văn được thể hiện qua ngôn ngữ của các nhân vật chính
diện là vẻ đẹp kín đáo, tế nhị và mộc mạc, thân tình. Qua nhiều đoạn triết lý, độc
thoại nội tâm của những nhân vật như Thuý Kiều, chúng ta mới thấy được dáng vẻ
thâm trầm, kín đáo, nhẹ nhàng của thi nhân.
Từ góc độ ảnh hưởng và tiếp nhận, trên nguyên tắc của mỹ học cổ điển, hệ
thống ngữ liệu bình dân và bác học đã được Nguyễn Du vận dụng một cách khéo
léo tạo nên sự khái quát, ước lệ, trang nhã, hàm súc và dư ba. Nó đã tạo nên một ưu
thế trội bật của ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều mà các truyện thơ Nôm cùng
thời khó lòng so bì kịp, nó đã làm cho mạch thơ trở nên tao nhã, ý thơ hàm súc
không rơi vào khô cứng, thô tục hoặc quá cầu kỳ. Tiếp cận từ phương diện này,
chúng tôi nhận thấy, nhà thơ đã vận dụng một cách linh hoạt, hợp lý hai hệ thống
ngữ liệu văn hoá đó trong việc miêu tả ngoại hình, tính cách, ngôn hành của nhân
vật Kim Trọng, Thuý Vân.
165
Một biểu hiện khá rõ nét của giọng Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật
Truyện Kiều đó là khả năng khái quát hoá, triết lý hoá nhằm mục đích thể hiện các
luận đề triết học, xã hội mà tác giả muốn bộc lộ. “Trong Truyện Kiều có 68 ngữ liệu
có nguồn gốc từ Phật giáo, có những từ ngữ được sử dụng với tần số cao như
Duyên 51 lần, phận 37 lần, hồng trần 08 lần, phúc 06 lần…” [89, tr.85]. Với số
lượng ngữ liệu có xuất xứ từ kinh điển phật giáo đó, nhà thơ đã bố trí, sắp đặt hệ
thống này vào ngôn ngữ của các nhân vật như Thuý Kiều, Đạm Tiên, Vãi Giác
Duyên, Tam hợp đạo cô, khiến cho ngôn ngữ của họ trở nên triết lý, mạch lạc, có
sức khái quát cao, chẳng hạn ngôn từ luận về nhân quả, Thuý Kiều nói :
“Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta…”
(Câu 2381 - 2382)
Ở câu nói này, Thuý Kiều đã sử dụng 1 từ láy thuần Việt “lồng lộng” và thành
ngữ Hán Việt : “Hại nhân nhân hại” (có xuất xứ từ kinh Kim Cương của nhà Phật) để
khái quát nên kết cục mà ngày nay bọn buôn ngươi như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc
Bà, Bạc Hạnh phải nhận lấy. Đó là cái quả phải nhận khi xưa chúng đã gieo nhân.
Hoặc trong ngôn ngữ của Tam Hợp đạo cô khi luận về nghiệp số của Thuý Kiều:
“Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.
Hại một người, cứu muôn người
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng .
Thửa công đức ấy ai bằng ?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi !”
(Câu 2683 - 2688)
Với các ngữ liệu bác học như công đức (là những quả báo có được nhờ làm
việc thiện), túc khiên (tội nghiệp của kiếp trước), những ngữ liệu này có xuất xứ từ
Cảnh Đức truyền đăng lục 景德傳燈錄, ngữ liệu bình dân như lâng lâng, các từ
ngữ có phong cách khẩu ngữ như phải chăng, ai bằng, ấy, rồi…, Tam Hợp đạo cô
đã khái quát được lối đoạn trường mà Kiều đã đi và công thành viên mãn đợi ngày
đoàn viên, tái hợp gia đình.
166
Như đã nói, văn phong, giọng điệu và phong cách ngôn ngữ Nguyễn Du rất
đa dạng, linh hoạt và có ảnh hưởng nhất định đến các tác giả, tác phẩm đời sau. Tuy
nhiên, vì đây là một tác phẩm viết tặng cho phần đông quần chúng lao động, do đó
trong thi phẩm còn có một chất giọng nhẹ nhàng, gần gũi và rất bình dân. Đó là
giọng quê, lời quê. Có thể nói, ngôn điệu này và những biểu hiện của nó cũng là là
một minh chứng rõ ràng, thuyết phục cho phong cách Hải hạc văn. Đến với tác
phẩm, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều câu thơ có dáng vẻ mộc mạc, nhẹ nhàng, tầng
tầng lớp lớp. Đó là những câu nói có tính khẩu ngữ thường nhật như giọng điệu có
vẻ kể lể của Bạc bà nói với Thuý Kiều:
“Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
Nay chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai!
Cửa hàng buôn bán Châu Thai,
Thật thà có một đơn sai chẳng hề.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
Thành thân rồi sẽ liệu về Châu Thai.
Bấy giờ ai lại biết ai,
Dầu lòng biển rộng sông dài thênh thênh.”
(Câu 2101 - 2110)
Ngoài một số ngữ liệu Hán Việt khá quen thuộc như: Tiện, thân thích, thành
thân, liệu và Châu Thai, một địa danh Trung Quốc mà Nguyễn Du đã vay mượn, về
cơ bản đoạn thơ là một tổ hợp của khá nhiều câu chữ có phong cách bình dân, khẩu
ngữ rất tự nhiên và có vẻ rất gần với lớp từ ngữ của mọi tầng lớp nhân dân như: Thì
chẳng (02 lần), ruột rà, chẳng ai, chẳng hề, biển rộng sông dài (thành ngữ Việt),
thênh thênh (từ láy). Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng những câu nói bình thường,
âm điệu có vẻ chậm rãi, dềnh dàng theo phong cách dân dã, có phần hơi thô kệch.
Vì thể khiến cho lý luận và lời lẽ của Thuý Vân trong buổi tiệc đoàn viên có vẻ trôi
chảy, bóng bẩy theo lối lập luận bình dân.
167
Trong trích đoạn từ câu 3061 đến câu 3076, các dẫn chứng, điển cố được
Thuý Vân sử dụng cũng khá quen thuộc và được xem như là những minh chứng cụ
thể để nhấn mạnh việc tái hợp Kim – Kiều là một kết cục tất yếu. Từ các tổ hợp có
tính điển cố như tác hợp cơ trời, bình địa ba đào, phận cải duyên ki, máu chảy ruột
mềm, rày ước mai ao, gương vỡ lại lành... đến các từ có phong cách khẩu ngữ như
buộc vào, cũng là, chớ sao, những là, lừa lọc, kịp thì... đều gắn liền với tu duy ngôn
ngữ văn hoá của người bình dân, giản dị, mộc mạc nhưng cũng có phần đanh thép.
Nếu loại trừ một vài điển cố có tính bác học như quả mai ba bảy, đào non... được
trích dẫn từ bài thơ Phiếu hữu mai 標有梅 (phần Thiệu Nam 召南, nói về việc con gái lo được gả kịp thời) và bài Đào yêu 桃夭 (phần Chu Nam 周南, những lời khen
cho thục nữ được lập gia đình) trong Thi kinh, hầu hết từ ngữ được dùng đều có tính
hợp lý, dễ hiểu, góp phần bộc lộ một cách thiết thân những tình cảm, sự hàm ơn của
Thuý Vân đối với Thuý Kiều.
So sánh, đối chiếu và kết hợp hai giọng văn tiêu biểu trong giọng điệu nghệ
thuật Truyện Kiều, bạn đọc có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp toàn mỹ của bức
tranh ngôn ngữ trong tác phẩm. Lúc nhanh, lúc chậm, lúc triết lý trữ tình, lúc tự sự
miêu tả nhưng tất cả đều quyện vào nhau tạo nên một thể thống nhất ngôn ngữ, góp
phần húc đúc nên tiếng nói đa thanh, khả năng đa diện và sự thể hiện hấp dẫn, lôi
cuốn của một khúc ca tuyệt xướng. Nó không chỉ biểu đạt những giá trị ngữ nghĩa
trong từng ngữ cảnh cụ thể mà còn thể hiện chiều sâu văn hoá của tác giả.
Qua hai giọng điệu ấy, tài năng và nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du
một lần nữa được khẳng định. Bức tranh ngôn ngữ của Truyện Kiều như một viên
ngọc toàn bích, không tỳ không vết và bản thân nó đã xác định được vị trí của mình
trong lịch sử phát triển ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam.
3.3. Âm hưởng của ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống xã hội,
văn chương Việt Nam
3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống
văn hóa, xã hội Việt Nam
Giao lưu và ảnh hưởng văn hóa, văn học là một trong những quy luật phổ biến
cho mọi nền văn học, nó đánh dấu sự học tập, cách tân, sáng tạo của các tác giả trong
168
mối quan hệ ảnh hưởng và tiếp nhận. Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều
Truyện 金 雲 翹 傳 của Thanh Tâm Tài Nhân 清心才人 là ví dụ tiêu biểu cho mối
quan hệ ấy. Đúng như Phan Mậu Cảnh đã nhận xét: “Ở Việt Nam 200 năm đã trôi
qua kể từ ngày Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời. Thử hỏi có tác phẩm nào ở nước
ta được bàn luận và đánh giá nhiều như Truyện Kiều, có tác phẩm nào có sức sống
lâu bền, đi vào ngôn ngữ và sinh hoạt văn hoá quảng đại hơn Truyện Kiều ?” [09,
tr.1213]. Trong sáng tác của mình, Nguyễn Du tái hiện một thế giới nghệ thuật sinh
động qua một hệ thống từ ngữ mang tính phúng dụ sâu sắc, dung chứa những quan
niệm văn hóa, văn chương và đậm hơi thở của cuộc sống. Từ sự giao lưu và chịu ảnh
hưởng của văn hóa bác học đến vấn đề quan niệm về nghệ thuật cùng phong cách tài tử
của cá nhân nhà thơ đã tạo nên những tiền đề văn hóa, văn học cho sự tiếp nhận ngôn
ngữ Truyện Kiều của độc giả. Ngôn ngữ của Truyện Kiều, nói như nhà nghiên cứu
Phan Mậu Cảnh, “không chỉ chiếm lĩnh ở đỉnh cao về nghệ thuật sử dụng tiếng Việt
mà còn có vai trò hiếm có trong việc đóng góp vào kho tàng từ vựng tiếng Việt một
hệ thống từ ngữ mới, đi vào lời ăn tiếng nói hằng ngày của mọi tầng lớp nhân dân.”
[09, tr.1215].
Từ những đặc trưng về văn hóa, xã hội và phương pháp tiếp cận liên ngành
đã tạo nên một phương thức tư duy, nhận thức mới đối với việc tiếp cận hệ thống
ngữ liệu văn hóa, mã văn hóa hay thế giới nghệ thuật sống động trong Truyện Kiều,
đó là kiểu tư duy song trùng hệ hình văn hóa. Tư duy theo hệ hình văn hóa đã tạo ra
những tiền đề cơ bản không chỉ giúp tác giả thể hiện vốn sống, lớp trầm tích văn
hóa và con người cá nhân của mình trong tác phẩm mà còn giúp độc giả tiếp nhận
tác phẩm trong môi trường, bối cảnh văn hóa, để từ đó độc giả có thể phát huy tốt
hơn vai trò là một tác nhân đồng sáng tạo.
Đến đây, qua quá trình tìm hiểu ngữ liệu văn hóa trong Truyện Kiều, chúng
tôi đã sử dụng hai hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học, bình dân như là những thành
phần cơ bản tham gia kiến tạo ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều. Đây không chỉ là
một hệ thống ngôn ngữ dung chứa nhiều tính chất như tính khái quát, tính hình
tượng, gợi mở, kích thích sự liên tưởng ở người đọc mà bản thân chúng được thể
169
hiện qua một hình thức cô đọng, hàm súc, trang nhã, linh hoạt, đa dạng. Những nền
tảng đó đã phú cho ngôn ngữ tác phẩm những lớp nghĩa đặc thù tác động đến tư duy
thẩm mỹ, quá trình tiếp nhận của người đọc. Chẳng hạn, nếu so với Thúy Vân,
Thúy Kiều tự nhận mình là “người bạc mệnh”, thì sánh với Kim Trọng nàng tự
nhận là “người thác oan”. Nhận thức được quy luật biến thiên của cuộc sống, lẽ tồn
sinh của chính bản thân mình, Thúy Kiều như một triết nhân tự chiêm nghiệm cho
chính đời mình. Hình ảnh “trâm gãy bình tan” là một tín hiệu thẩm mỹ được tập thi
từ bài thơ Tỉnh để dẫn ngân bình 井底引銀瓶 của Cố Huống 顧況: “Thạch thượng
ma ngọc trâm, ngọc trâm dục thành trung ương chiết, tỉnh thượng vãn ngân bình,
ngân bình dục thượng, ti thằng tuyệt… 石 上 磨 玉 簪 玉 簪 欲 成 中 央 折, 井 上
挽 銀 瓶, 銀 瓶 欲 上 絲 繩 絕” (mài trâm ngọc trên đá, trâm chưa thành, nửa
chừng gãy, kéo bình bạc trên miệng giếng, bình bạc chưa lên, dây tơ đứt) [192,
tr.920], ngữ liệu văn hoá này dùng để nói về số phận của giai nhân bạc mệnh, hoặc
sự việc nửa chừng bị đứt gãy. Ngữ liệu văn hóa được Nguyễn Du vận dụng ở đây đã
có ý nghĩa khái quát, tô đậm cho tính chất bi thương của một tình yêu tan vỡ, không
những thế, nó đã trở thành một công cụ văn hóa để giải mã số phận của Kiều nhi.
Xét từ góc độ tri nhận, qua hệ thống ngữ liệu bình dân và bác học trong
Truyện Kiều, người đọc như đang rảo những bước thâm trầm, dung dị, xúc cảm và
sâu lắng trong văn hoá phong kiến Trung Hoa, Việt Nam. Chính kiểu tư duy theo hệ
hình văn hóa trung cổ đã tạo nên một mã văn hóa đặc biệt cho thi phẩm. Hơn bất kỳ
một tác gia nào khác, Nguyễn Du không chỉ ký họa một cách nhanh chóng bức
tranh hiện thực xã hội phong kiến mà còn thể hiện nó bằng những nét bút uyển
chuyển qua những gam màu sáng tối như thể sự biến thiên, thăng trầm của thế sự,
của nhân sinh. Nhà thơ đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ của một tông đồ
suốt đời phụng thờ lý tưởng của mình, chuyển tải và minh chứng cho các triết
thuyết, tinh thần khoáng đạt nhân sinh. Nhà thơ dường như đã xác lập một cuộc đối
thoại văn hóa trong một thế giới đầy những biến động và tương tác.
Sự tương hợp và dung hòa giữa tư tưởng Lão Trang, Khổng Mạnh và Phật
giáo trong thế giới nghệ thuật của Truyện Kiều đã thể hiện điều đó. Hai chữ Tài
170
mệnh trong tác phẩm như một điểm sáng văn hóa di động trong toàn tác phẩm, cái
quan niệm “tài mệnh tương đố” mà Nho gia gọi là Mệnh 命, nhà Phật gọi là Nghiệp
業, Đạo gia gọi là Thiên 遷 (dịch chuyển), ấy là sự biến hóa, tương sinh tương khắc
của âm và dương đã tạo ra tư tưởng tòng quyền, thuận thiên, bất nghịch mệnh. Phải
chăng số phận Kiều nhi từ chốn buồng khuê, qua mười lăm năm lặn ngụp trong bể
đoạn trường và đến lúc đoàn viên trong nỗi đau khổ đã phản ảnh một cách chân
thực nhất những mâu thuẫn, bất mãn và hạn chế của nhà thơ đối với chính những
điều ấy. Câu hỏi mang tầm tư tưởng triết học, nặng quan niệm văn hóa cổ xưa ấy
không chỉ là bài toán cho Nguyễn Du mà còn cả bao thế hệ thi nhân trung đại.
Có thể nói thêm rằng, về vấn đề chuyển dịch những ngữ liệu từ trong nguyên
tác Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là
một vấn đề tiếp biến khá đặc biệt. Xét riêng hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong ngôn
ngữ văn học cổ điển nói chung và Truyện Kiều nói riêng khá phong phú và đa dạng,
nó không chỉ là lớp từ ngữ mang tính biểu trưng, là phương tiện biểu đạt, khái quát
những vấn đề của hiện thực cụ thể qua lăng kính thẩm mỹ của nhà nghệ sĩ. Trong
Truyện Kiều, nhà thơ đã 119 lần sử dụng những từ ngữ chỉ màu sắc, chiếm tỷ lệ
0,52% (119/ 22.778 chữ), gấp 5 lần so với Kim Vân Kiều truyện, với nhiều màu sắc
khác nhau. Nguyễn Du dùng những từ ngữ chỉ màu sắc để kiến tạo các hình tượng
có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ. Vì thế, Trần Đình Sử đã
nhận định: “xét về mặt này, Truyện Kiều cũng cho thấy những bằng chứng về sáng
tạo độc đáo của thi hào Nguyễn Du..” [132, tr.257].
Với Nguyễn Du, qua Truyện Kiều, một lần nữa ông đã gắn kết cộng đồng,
gắn kết các thế hệ độc giả trong một mạch ngầm văn hoá của dân tộc. Người Việt
Nam dù ở đâu, làm gì vẫn chung nhau tấm lòng Việt, tiếng Việt, những giá trị bất
biến ấy đã được thể hiện một cách tinh tế trong từng câu thơ lục bát Truyện Kiều.
Đúng như nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên đã tâm đắc: “Nguyễn Du là mái ấm của
ngôi nhà tổ phủ, là nơi những đứa con khắp bốn phương trời trở về sau những
chặng đường lữ thứ…” [84, tr.210]. Và Trần Đình Sử đã khái quát:
171
Giá trị của Truyện Kiều trước hết là một giá trị sáng tạo văn hoá, văn
chương tuyệt đỉnh...” và “vị trí của Truyện Kiều trong văn học Việt Nam là ở
chỗ nó đánh dấu sự xuất hiện của thi ca nghệ sĩ, sự thăng hoa của thiên tài
lên trên chủ nghĩa giáo huấn, biến văn học trung đại trở thành văn học nghệ
thuật, biến tiếng Việt thành tiếng Việt văn học đích thực, biến truyện Nôm
của ông thành một thể loại nghệ sĩ... [132, tr.05].
Quả vậy, sức hấp dẫn, ảnh hưởng và lan toả của Truyện Kiều rất đa dạng và
phong phú, nó vươn đến mọi giai tầng trong xã hội, khi tập thơ của Nguyễn Du còn
chép bằng chữ Nôm, nhiều người tuy không được đi học, chỉ nhớ thuộc lòng Truyện
Kiều nhưng đã mò mẫm tự học để đọc được tất cả các bản sách chữ Nôm. Đánh giá
về hiện tượng này, Đặng Thai Mai đã cho rằng:
Người dân Việt Nam bất kỳ thuộc về tầng lớp nào, không ai là không
thích nghe kể Truyện Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều. Người ta nhớ từng đoạn và
dẫn dụng vào câu chuyện hằng ngày, khi nói đến nhân tình thế thái… và Truyện
Kiều được xem như một bản linh kinh có thể báo cho người ta những may rủi trên
đường đời. [05, tr. 165 - 166].
Sau khi ra đời, Truyện Kiều đã thực sự trở thành món ăn tinh thần cho bao
thế hệ người đọc Việt Nam, là một tác phẩm có vị trí đỉnh cao trong lịch sử phát
triển của văn học Việt Nam, là sách giáo khoa quốc văn cần phải đọc ở các bậc
học, là một đối tượng nghiên cứu của các chuyên luận khoa học. Cùng với Lục
Vân Tiên ở Nam Bộ, Truyện Kiều đã trở thành hai đại diện tiêu biểu cho thể loại
truyện Nôm bác học. Sự ra đời của Truyện Kiều đã góp phần to lớn làm phong phú
đời sống văn hóa dân tộc. “Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà Chính Thái, xem
nôm Thúy Kiều” đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt. Ngôn
ngữ Truyện Kiều đã đạt đến độ tinh xảo, chính xác, là điển hình tiêu biểu cho sự
phát triển toàn thịnh của ngôn ngữ văn học dân tộc và những tác động của nó, đặc
biệt là lớp từ ngữ văn hóa Truyện Kiều đã đi vào ca dao dân ca như những ngữ
liệu, chất liệu là tô đậm thêm vẻ đẹp duyên dáng của văn học dân gian, văn học
bình dân Việt Nam. Do vậy, trong cuốn Thơ văn quanh Truyện Kiều (1996) nhà
172
nghiên cứu Thái Kim Đỉnh cho biết, “lúc Truyện Kiều mới được in ra chưa bao
lâu, Nguyễn Văn Thắng 阮文勝, tác giả tập văn Kim Vân Kiều án 金雲翹案, cũng
đã viết: Không những chỉ những bậc văn tài tử đọc truyện, lòng vui sướng, trí
thảnh thơi mà cho đến những bố cu mẹ đĩ hễ miệng đọc cũng khoa chân múa
tay...” [39, tr. 06 - 07].
Trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, những hình thức sinh hoạt như đố Kiều,
lẩy Kiều, bình Kiều, hoạt cảnh, ca tài tử, cải lương liên quan các tuồng tích trong
Truyện Kiều đều in đậm dấu ấn ngôn ngữ văn hóa Truyện Kiều. Có thể nói rằng,
dấu ấn của sinh hoạt dân gian xứ Nghệ “địa linh nhân kiệt”, đất Hồng Sơn văn hiến,
phong cách thi văn của dòng họ Nguyễn Tiên Điền và đô thành Thăng Long đã hun
đúc nên vẻ đẹp đài các nhưng mộc mạc, quý phái nhưng chân chất của các khung
cảnh không gian, thời gian trong tác phẩm. Và một lần nữa, những nét đẹp văn hóa
ấy đã bước ra từ những trang văn Kiều và đi vào đời sống dân tộc, tạo nên những
cung bậc tiếp nhận mới cho việc thưởng thức một tuyệt phẩm của mọi thời đại. Các
nhà Kiều học Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân…và
nhất là Phạm Đan Quế, người đã tâm huyết một đời với văn hóa Kiều đã chứng
minh được những ảnh hưởng sâu đậm của Truyện Kiều đối với các sinh hoạt văn
hóa dân tộc. Từ trong nền văn hóa Kiều, các hình thức bình Kiều, vịnh Kiều, bói
Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều đã trở thành những thú chơi tao nhã. Nghệ thuật chiết tự
được trích từ những câu thơ Kiều vẫn được các cụ dẫn dụng để chúng minh cho khả
năng chiết tự chữ Hán, một lối chơi mang tính quan phương và cao nhã. Chẳng hạn
trong thư Sở Khanh gửi Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích:
“Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành “tích việt” có hai chữ đề.”
(Câu 1087 - 1088)
Và Thúy Kiều đã giải bài toán này một cách dễ dàng:
“Lấy trong ý tứ mà suy,
Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng.”
(Câu 1089 - 1090)
173
Chữ tích 昔 trong Tích việt 昔越 vốn trong chữ Hán được cấu tạo từ các chữ
Trấp 廿, nhất -, nhật 日 có nghĩa là ngày hai mươi mốt. Chữ Việt 越 gồm có các
chữ Tuất 戌 (Chi Tuất hoặc giờ Tuất) và Tẩu 走 (chạy), có nghĩa là vào giờ Tuất,
chạy trốn. Hoặc ở một trường hợp khác, có một câu thơ nữa nếu đem chiết tự thì lại
được tên của Thúc Sinh, người tình mà Thúy Kiều đang mong ngóng ngày đêm khi
chàng về Vô Tích thăm Hoạn Thư:
“Đêm thu gió lọt song đào,
Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời.”
(Câu 1637 - 1638)
Đó chính là chữ tâm 心, tên tự của Thúc Sinh - Thúc Kỳ Tâm 束奇心.
Hoặc giả, từ những câu thơ cụ thể, người đọc có thể phán đoán các chữ Hán ẩn
chứa trong đó:
“Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.”
(Câu 0185 - 0186)
Đây là chữ Bào 胞 (gồm bộ nhục, có dáng vẻ như chữ Nguyệt, và chữ Bao),
không những thế, có khi người ta tổ chức các cuộc thi lẩy Kiều để so tài văn
chương, chẳng hạn cuộc thi lẩy Kiều do Lê Hoan 黎歡 chủ xướng (1905) và hai vị
túc nho Nguyễn Khuyến 阮勸 và Dương Khuê 楊珪 làm đồng chủ khảo. Ngôn ngữ
Truyện Kiều có lẽ từ đó đã trở thành ca từ, tuồng tích, ngữ liệu cho các loại hình văn
hoá dân gian như tuồng chèo, cải lương, hay buổi hát ví giặm, ca bài chòi của nam
thanh nữ tú trong những buổi sinh hoạt văn hoá hay những đêm hò hẹn tình tứ.
Ngòi bút hoạ chân dung Tú Bà của Nguyễn Du thật tuyệt diệu. Có lẽ Truyện
Kiều để lại trong dân chúng, gần hai trăm năm qua, bức chân dung này sâu đậm hơn
cả, bên cạnh các chân dung Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải. Mấy ai quên bức hoạ
miêu tả dáng vóc, thể xác của mụ chủ nhà chứa này:
“Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!”
(Câu 0923 - 0924)
174
Đặc biệt là những câu thơ miêu tả nghề nghiệp của mụ: "Giữa thì hương án
hẳn hoi, Trên treo bức tượng trắng đôi lông mày” (câu 0929 - 0930), cử chỉ, dáng
điệu ngỗ ngược của mụ: “Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” (câu 0950),
mụ “nổi tam bành mụ lên” (câu 0962). Rồi, tiếng than, tiếng đay nghiến của mụ, dễ
mấy ai quên: “Mầu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” (câu 0969 -
0970) và “cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao” (câu 0975 –
0976). Mỗi câu lục bát này thường được dân chúng dẫn ra hàng ngày.
Sau Truyện Kiều, không ít người đã nói đến cái gọi là lục bát hậu Truyện
Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, văn Kiều, thơ Kiều, bói Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều.
Sự ảnh hưởng ấy vẫn còn vang vọng đến các thi nhân hiện đại. Lê Thu Yến, người
đã cất công tìm kiến và phác thảo diện mạo thơ hiện đại ảnh hưởng Kiều đã tâm đắc
“đối với thế giới thi ca, thế giới của cảm xúc thì Nguyễn Du và Truyện Kiều hầu
như là nguồn cảm hứng vô tận” [175, tr.7]. Nói như Lưu Trọng Lư “Truyện Kiều là
một sự không cùng” [91, tr.92]. Ngôn ngữ Truyện Kiều dường như đã in vào máu
thịt của các thi nhân, Nguyễn Đăng Tuyển 阮登選 (tức Tiên phong Mộng liên
đường chủ nhân 僊峰夢蓮堂主人) viết Đào hoa mộng ký 桃花夢記 (hay còn gọi là
Tục Đoạn trường tân thanh 續斷腸新聲) (dài 20 hồi) là một sự lý giải về giấc
mộng đoạn trường, một nỗi khổ mà con người sẽ phải trải qua, hay đó cũng là lời
chiêu tuyết, chiêm nghiệm cho số phận nàng Kiều, Tuệ Không Phạm Thiên Thư khi
viết Đoạn Trường Vô Thanh như một sự lý giải, sự tiếp nối, phân tích về hậu thân
của Kiều theo luật Nhân quả của nhà Phật vẫn không thoát khỏi bóng cả của câu thơ
Kiều: “Đoạn trường sổ gói tên hoa, xưa là giọt lệ nay là hạt châu”. Bên cạnh đó,
cũng có người diễn xuôi thơ Kiều như một sự ngược dòng, nhưng đó là một cuộc lội
ngược văn hóa, dường như những câu thơ đã không đủ để cho họ hiểu rõ về Truyện
Kiều và để dễ dàng thuyết phục lòng người, chứng minh cho các chủ thuyết của
Phật môn. Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh bên cạnh Thả một bè lau, ông còn phóng
tác Truyện Kiều văn xuôi (dành cho người trẻ tuổi) (2007). Tác phẩm của Phạm
Thiên Thư và Thích Nhất Hạnh, các bản dịch Trung văn của Hoàng Dật Cầu, La
Trường Sơn, bản dịch pháp văn của Nguyễn Văn Vĩnh, đặc biệt số lần xuất bản của
175
Truyện Kiều cũng đã minh chứng cho sự thành công và sức sống của Truyện Kiều
trong đời sống văn hóa. Tính đến đầu năm 2014, Truyện Kiều đã qua 27 lần xuất
bản bằng chữ Nôm, 84 lần xuất bản bằng chữ Quốc Ngữ, 4 lần bằng tiếng Pháp, 2
lần bằng tiếng Anh, 1 lần bằng tiếng Hunggari, Đức, Ý và 6 lần bằng tiếng Trung
Quốc. Các văn nhân sĩ trí thức của Việt Nam đã không ít lần tự dịch tác phẩm đặc
sắc này sang Hán Văn, có thể liệt kê các bản như Vương Kim Hán tự truyện 王 金
漢 字 傳 (Nguyễn Kiên), Thuý Kiều quốc âm dịch xuất Hán tự 翠 翹 國 音 譯 出
漢 字 (Lê Mạnh Điềm), Kim Vân Kiều Hán tự lục bát ca 金 雲 翹 漢 字 六 八 歌
(Lê Dụ), Việt Nam âm Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi 越 南 音 金
雲 翹 歌 曲 譯 成 漢 字 古 詩 (Từ Nguyên Mạc), Kim Vân Kiều bình giảng 金 雲
翹 評 講 (Lý Văn Hùng), Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập 漢 譯 金 雲 翹
南 音 詩 集 (Trương Cam Vũ).
Những cuộc tranh luận cũng như lịch sử tiếp nhận ngôn ngữ Truyện Kiều đã
ghi được những dấu mốc lớn trong hành trình văn hóa, văn học cổ điển Việt Nam.
Tuy nhiên, dù tồn tại những quan điểm khác, song đứng trên những lập trường khác
nhau, người ta vẫn thấy ở Truyện Kiều có hơi ấm của tình dân tộc, của tình người,
tài năng và tâm huyết của người thi sĩ, suốt đời rong ca vì tiếng đau thương cho số
phận con người và Nguyễn Du, kẻ du ca, tha hương lạc loài trên chính mảnh đất
chôn nhau cắt rốn đã để lại cho quê hương xứ sở một thi phẩm sâu sắc và tuyệt vời.
Do vậy, hiện tượng Truyện Kiều được hoan nghênh ở Việt Nam là một thực tế văn
hoá hiển nhiên. Trong Văn chương Truyện Kiều, mục Lịch sử vấn đề Truyện Kiều,
Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa đã nhấn mạnh: “có người cải biên thành hý kịch,
quay thành điện ảnh, có người xuất bản tập kỷ niệm và có những bài diễn giảng, có
người chú giải, vẽ tranh minh hoạ, thậm chí có người còn dùng sách bói và cũng có
người sưu tầm tư liệu về Truyện Kiều làm thú vui...” [72, tr.45].
Trong những năm gần đây, sau khi thành lập Hội Kiều học Viêt Nam quy tụ
những học giả, chuyên gia Hán Nôm, người yêu mến Nguyễn Du, Truyện Kiều, các
nhà nghiên cứu và nhà xuất bản Thanh niên lần lượt cho xuất bản các ấn phẩm
nghiên cứu, bình luận về Truyện Kiều trong bộ Tùng thư Truyện Kiều, cùng với
176
những công trình công phu của học giả Phạm Đan Quế, Thế Anh, Bùi Hạnh Cẩn,
Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn, Lê Thu Yến...
đây được xem là một bộ sách góp phần thay đổi diện mạo của “văn hoá Kiều”. Đến
nay (2015), 14 công trình lớn nhỏ đã được biên tập, sưu tập, bổ sung và cho tái bản.
Có thể nói, đây không chỉ là một công việc thuần tuý khoa học mà còn là một cách
thức rất cơ bản khuyến khích việc tuyên truyền quảng bá “văn hoá Kiều” đến các
thế hệ, tầng lớp bạn đọc trong và ngoài nước. Lợi ích thiết thực của việc làm này đã
mang lại cho các bạn đọc trẻ tuổi một cái nhìn đầy đủ hơn về lịch sử hình thành
khoa Kiều học và những kết quả cụ thể của các thế hệ nghiên cứu lão thành, của
những người tâm huyết với Truyện Kiều và Nguyễn Du. Và sức lan toả, sự đồng
vọng ngân xa của ngôn ngữ Truyện Kiều đã thực sự đi vào trong tâm hồn của mỗi
con người Việt Nam. Nó không chỉ là câu hát, lời ru, là những khái quát triết lý hay
những câu chuyện kể của bà và cháu. Ngôn ngữ của Truyện Kiều đã đi sâu vào kho
từ vựng của người Việt, trở thành một lớp từ văn hoá đặc sắc trong ngôn ngữ Việt
Nam – Từ ngữ văn hoá Kiều. Đúng như Lô Uý Thanh trong Trung Quốc thông tục
tiểu thuyết tại Việt Nam đã xác thực:
Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài nhân tuy không chiếm vị trí
quan trọng trong văn học sử Trung Quốc nhưng Truyện Kim Vân Kiều của
Nguyễn Du lại có sức ảnh hưởng rất sâu, truyền bá rất rộng trong văn học
sử Việt Nam, không một tác phẩm nào khác sánh ngang được. Người ta
không chỉ thuộc lòng nội dung mà còn có thể ngâm nga, thậm chí đến cả con
nít, người mù chữ cũng có thể thuộc lòng từng đoạn, từng đoạn một. Những
người mẹ trẻ thường ru con như khúc hát ru, những bà già tóc bạc phơ cũng
thường kể cho cháu nghe Truyện Kiều trong những đêm sao sáng đầy trời
[102, tr.265 - 266].
Tiếp nhận Truyện Kiều trong một bối cảnh giao lưu văn hoá không chỉ giúp
cho người đọc các thế hệ hiểu thêm về một tuyệt tác văn học, một điển hình tiêu
biểu cho văn chương Việt Nam. Dù có nhiều cách luận bình khác nhau, tiêu cực hay
tích cực, Truyện Kiều vẫn là mạng sống của dân tộc, là món ăn tinh thần quý giá
177
của nhân dân ta, đúng như học giả Phạm Quỳnh đã nhận xét “Truyện Kiều còn …thì
nước ta còn” Và do đó, Nguyễn Du và Truyện Kiều suốt hai thế kỷ qua đã trở thành
nguồn cảm hứng của biết bao thế hệ thi nhân, là đề tài cho các hoạ gia, nhạc sỹ và nó
vẫn tiếp tục chảy mãi trong mạch nguồn văn hóa dân tộc.
3.3.2. Sự lan tỏa và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
đến đời sống văn chương Việt Nam
Tiếp cận văn học theo phương pháp liên ngành, tích hợp ngôn ngữ - văn hóa
đã mang lại cho giới nghiên cứu những hướng đi mới, đặc biệt là ở trường hợp
Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khảo sát ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều trong
bối cảnh giao lưu văn hóa, văn học Trung Hoa, Việt Nam không chỉ thể hiện mối
quan hệ về lịch sử, cũng như những cách tân sáng tạo từ phương diện văn học giữa
Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà còn nêu bật
những ảnh hưởng văn hóa, xã hội trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. Trong quá
trình tồn tại lịch sử của tác phẩm này, giá trị nghệ thuật của nó dường như đã có
một sự lan tỏa, vang vọng và không bao giờ có điểm tận cùng. Từ một nhãn quan
văn hoá đặc biệt đến một phong cách văn hoá thâm thuý, qua những giọng văn đặc
trưng, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hoàn thành sứ mệnh văn hoá cao cả của nó.
Truyện Kiều đã hình thành nên một nền văn hoá Kiều trong dòng chảy văn hoá Việt
Nam. Nó đã mang đến cho văn hoá, văn chương cổ điển Việt Nam những hương vị
mới, đậm đà và sâu sắc.
Nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng, lan toả và vang vọng của ngôn ngữ văn hoá
trong Truyện Kiều đến đời sống văn chương nghệ thuật, quá trình sáng tác cũng như
các tác phẩm cụ thể của các thế hệ thi nhân hậu Nguyễn Du, hậu Truyện Kiều, chúng
tôi nhận thấy cần phải xem xét trên hai phương diện. Một là các sáng tác, tác phẩm cụ
thể lấy cảm hứng từ những vấn đề xung quanh câu chuyện về hệ thống nhân vật, nội
dung tư tưởng, nghệ thuật của Truyện Kiều. Hai là sự ảnh hưởng, tiếp nhận kiểu sáng
tác, mô hình sáng tác, kiểu dùng từ đặt câu... có vận dụng các ngữ liệu văn hoá trong
Truyện Kiều đến các nhà văn, nhà thơ sau khi tác phẩm này hành thế.
178
Trong truyền thống văn chương Việt Nam, đề vịnh về các danh tác là một
hiện tượng không hiếm. Nhưng có lẽ chưa có một tập sách nào lại cho sức cuốn hút
các giới như Truyện Kiều. Hơn 200 năm đã trôi qua, số lượng đề vịnh về câu
chuyện tình Kim - Kiều, về nỗi đoạn trường của Kiều nhi đã có số lượng hàng ngàn
bài. Có lẽ cho đến ngàn sau, câu chuyện oan trái, hiếu tình của Vương Thuý Kiều
vẫn luôn là đề tài ngâm vịnh cho biết bao thế hệ. Cao Bá Quát trong Hoa tiên truyện
tự 花箋傳序 (1848) cho rằng “Kim Vân Kiều đạt thế ngữ 金雲翹達世語” (Kim
Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời), nói về Kiều là nói về cuộc đời, viết về Kiều cũng
chính là viết về cuộc đời vậy. Đúng như nhà nghiên cứu Lê Thu Yến đã nhận xét, từ
góc độ ngôn ngữ văn hoá, từng câu chữ trong “Truyện Kiều bắt mọi người phải suy
nghĩa, phát hiện, giải thích, cắt nghĩa... nên đã có nhiều tác phẩm phê bình nghiên
cứu từ thời này qua thời khác.” Và “Truyện Kiều như có hấp lực bắt người đọc phải
làm theo, nỗ lực sáng tạo... vì vậy mà có các hình thức lẩy Kiều, tập Kiều... Nhiều
cuộc cuộc thi tập Kiều với những hình thức khác nhau được tổ chức từ sau Truyện
Kiều ra đời và kéo dài đến bây giờ.” [175, tr.06]. Trong chương VI, tiết 04 của
chuyên luận Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều, nhà nghiên cứu Trần Ích
Nguyên (Đài Loan) đã cho rằng:
Chúng ta có thể nhìn ra ảnh hưởng của Kim Vân Kiều Truyện do
Thanh Tâm Tài Nhân sáng tác đối với văn học Trung Quốc, còn ảnh hưởng
của nó đối với văn học nước ngoài thì càng tỏ ra xuất sắc hơn....Sau khi
truyền sang Việt Nam và cải tạo lại của nhà thơ thiên tài Nguyễn Du, sáng
tác mới thành truyện thơ Nôm Truyện Kim Vân Kiều tiếng tăm vang dội và
được dịch ra nhiều thứ tiếng, bước lên văn đàn thế giới, ảnh hưởng càng
thêm sâu xa...” [102, tr.267].
Nhận xét của nhà nghiên cứu Đài Loan này đã chứng thực một điều rằng,
tầm ảnh hưởng của Truyện Kiều đã vượt khuôn khổ của một quốc gia và bắt đâu đi
vào hành trình trở thành tinh tuý của nhân loại. Ông tiếp tục khẳng định: “Điều thú
vị là, Truyện Kim Vân Kiều Truyện mượn đề tài chữ Hán, sau khi nổi tiếng hơn
người đi trước thì nhân sĩ Việt Nam lại dịch thành nhiều bản bằng chữ Hán...”
[102, tr.267]. Những ảnh hưởng của Truyện Kiều có thể được xem xét trên nhiều
179
phương diện khác nhau. Theo Nguyễn Văn Y trong Thơ vịnh Kiều [172], Trần Đình
Sử trong Thi pháp Truyện Kiều [138], Thái Kim Đỉnh trong Thơ văn xung quanh
Truyện Kiều [39], với tư cách là một truyện thơ Nôm, Truyện Kiều có nhiều mối
quan hệ với thơ ca cổ điển Trung Quốc. Có thể trước khi viết tác phẩm này, nhà thơ
Nguyễn Du đã tự hình thành một nhãn quan thi ca cổ điển Đông phương độc đáo và
thể hiện nó một cách sâu sắc trong các thế giới nghệ thuật của mình. Nguyễn Du
dẫn dụng nhiều ngữ liệu văn hóa có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc nhưng vẫn
không làm cho thi phẩm trở nên cầu kỳ, khó hiểu, sự dẫn dụng đó được thể hiện qua
lăng kính văn hoá Việt, đó cũng là sự Việt hoá có ý thức cao độ của một danh gia
giàu tính dân tộc. Chính điều này đã tác động một cách sâu sắc và mạnh mẽ đến
ngôn ngữ văn học giai đoạn này. Ngoài ra, trong một chừng mực nhất định nó cũng
góp phần tạo nên một phong cách nghệ thuật theo trường phái tập Kiều, hậu Truyện
Kiều, lẩy Kiều và kể cả bói Kiều trong văn hoá Việt Nam.
Theo nhà nghiên cứu Lê Thu Yến trong công trình sưu tuyển Nguyễn Du và
Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau (Nxb Giáo dục, 2001), “Truyện
Kiều là một cuốn sách của nhiều tâm trạng. Những tâm trạng ấy lại được thể hiện
một cách cô đọng trong một, hai dòng thơ, vì thế người đi tìm lời giải đáp về những
ẩn số của cuộc đời dễ bắt gặp mình ở trong đấy. Truyện tuy là một mắc xích các sự
kiện nhưng vẫn có thể bứt rời nó ra đặt vào những chỗ khác cũng rất hợp tình, hợp
cảnh.” [175, tr.06]. Đó cũng chính là cội nguồn, căn nguyên của hiện tượng bói
Kiều trong giới văn nhân và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt, đối với thi ca, Truyện
Kiều và hệ thống ngôn ngữ văn hoá trong thi phẩm này là nguồn cảm hứng vô tận
cho các văn thi sĩ cùng thế hệ và các thế hệ sau Nguyễn Du. Từ Phạm Quý Thích,
Vũ Trinh, Nguyễn Dực Tông Anh hoàng đế, Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Bùi Kỷ... đến Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Tố
Hữu, Hồ Văn Hảo, Lê Thu Yến, Đằng Phương, Vương Trọng... mạch nguồn cảm
hứng ấy vẫn chưa bao giờ vơi cạn.
Vịnh Kiều bằng chữ Hán có những thi phẩm tổng vịnh, đề từ, tự vịnh, ngâm
vịnh của Phạm Quý Thích (Đề từ), Chu Doãn Trí (Vịnh Thuý Kiều), Hà Tôn Quyền,
Nguyễn Văn Chi (mỗi vị đều có 30 bài vịnh về các đoạn, các tích trong Kiều), Tự
Đức (Dực Tông Anh Hoàng đế ngự chế tổng từ). Vịnh Kiều bằng chữ Nôm có các
180
tác giả như Hà Tông Quyền, Nguyễn Văn Chi, Nguyễn Công Trứ, Bùi Hữu Nghĩa,
Tôn Thọ Tường – Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Tri. Về tập Kiều, theo
chúng tôi có các tác giả tiêu biểu như Lý văn Phức, Bùi Viện, Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Thượng Hiền. Về tuồng tích Kim Vân Kiều, chúng tôi thu thập được các tài
liệu như Quan tiểu thuyết Vương Thuý Kiều ngẫu hứng, Độc Thuý Kiều truyện cảm
tác, Văn tế Thuý Kiều, Bài biểu Thuý Kiều, Từ khúc khóc Kiều, bài hậu tự Truyện
Thuý Kiều, một chùm thơ vịnh Kiều đầu thế kỷ XX của Chu Thấp Hy (qua bản dịch
của Bùi Giáng, 1956).
Thống kê thư mục nghiên cứu Truyện Kiều từ sau năm 1945, có lẽ Nguyễn
Văn Y với Thơ vịnh Kiều (sưu tập) (Lạc Việt, Sài Gòn, năm 1973) là người đầu tiên
ý thức về việc nghiên cứu những ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến
giới văn nhân hậu Nguyễn Du. Ông cho rằng: “Bây giờ tôi có thể nói mà không sợ
lầm là xưa nay trong lịch sử văn học Việt Nam không có một tác phẩm nào được
người ta bàn giải, tán tụng và làm thơ đề vịnh nhiều như quyển Đoạn trường tân
thanh mà ta quen gọi là Truyện Kiều. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật tuyệt vời
của Truyện Kiều, đồng thời nó còn cho ta thấy Truyện Kiều là một tác phẩm đã
thực sự đi sâu vào quảng đại quần chúng, nhứt là giới trí thức... một tác phẩm đã đi
sâu vào mạch sống dân tộc, vào tiếng nói quê cha đất mẹ... ” [172, tr.02].
Đến Lê Thu Yến qua Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ đời sau
(2001), 126 bài thơ tiêu biểu nhất lấy cảm hứng từ Nguyễn Du và Truyện Kiều
được sưu tuyển. Ở tập này, soạn giả đã chú ý đến 04 tác giả người Hoa Kỳ, Pháp và
Hunggari. Một bức tranh bằng thơ xinh đẹp với những ảnh hưởng sâu đậm từ một
nguyên mẫu văn hoá – Kiều và câu chuyện của nàng, đã thực sự được tái hiện, được
lan toả và vang vọng trong ý thức thẩm mỹ của các thi nhân đời sau. Đúng như nhà
thơ Tố Hữu đã khẳng định :
“Nỗi niềm xưa nghĩa mà thương,
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng...
Mai sau dù có bao giờ,
Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay.
181
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây,
Hai trăm năm lại càng say lòng người...
Đau đớn thay phận đàn bà,
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân! ”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Qua Duyên nợ với Kiều, Lê Thu Yến đã dẫn dụng khá nhiều ý tứ có trong
ngôn ngữ Truyện Kiều, đó là những lời chia sẻ cũng là tiếng đồng điệu của những
tâm hồn đa cảm trước những “nỗi bất tình” của nhân thế :
“Lần đầu tôi giở trang Kiều,
Thấy cay, thấy đắng, thấy nhiều xót xa.
Thuý Kiều sắc sảo mặn mà,
Sao trong cuộc sống phong ba bất kỳ.
Thuý Kiều tình hiếu ai bì,
Mà đời ganh ghét, khinh khi phũ phàng.
Phải chi tôi gặp được nàng,
Cảm thông một chút... đôi hàng thơ rơi. ”
Khi nghiên cứu lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, Phan Công Khanh đã cho
rằng “có một điểm nhìn lưu động xuyên suốt làm nên cái nền tảng cho quá trình
biển đổi. Đó là ý thức văn hoá Việt Nam trước những đổi thay của lịch sử…” [70,
tr.187]. Theo chúng tôi, từ góc độ ngôn ngữ văn hoá, tiếp nhận Truyện Kiều chính là
một quá trình hồi nguyên, một quá trình tự nhận thức, tìm về và khám phá, tái tạo
vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc. Những giá trị ngữ cảm và chiều kích văn hoá mà nó
mang lại luôn được tái sinh và phát triển mạnh mẽ trong dòng thời gian, đưa tiếng
Việt lên một tầm cao mới. Sức sống mãnh liệt của Truyện Kiều, sự ảnh hưởng to lớn
của nó không chỉ như là tiếng mẹ ru mà nó đã thực sự đi sâu vào trong lời ăn, tiếng nói
hằng ngày của mọi người dân. Quả thật, nhiều câu Kiều đã đi vào những ngữ cảnh giao
tiếp cụ thể. Nhiều người Việt Nam đã đọc Kiều, ngâm Kiều, thuộc Kiều, rất hay dùng
những từ ngữ, tứ thơ, ngữ điệu thơ, những tâm trạng, tình huống trong Truyện Kiều để
diễn đạt những cung bậc tình cảm cá nhân. Hiện tượng này các nhà nghiên cứu thường
182
gọi là lẩy Kiều. Đọc các bài viết, bài nói chuyện và thơ văn của chủ tịch Hồ Chí Minh,
chúng ta thấy Người rất thuộc Truyện Kiều và hay lẩy Kiều - như một ứng xử văn hoá
trước bạn bè quốc tế. Cách lẩy Kiều của Bác độc đáo và sáng tạo, có khi Người dùng
nguyên cả câu lục bát, có khi là lấy một cụm từ hoặc thay đổi một vài từ.. để diễn đạt ý tứ
của mình. Năm 1928, khi Bác từ châu Âu về Xiêm (tức Thái Lan), Bác tạm trú tại Na
Khon, trong một quãng đường Bác đã nói với một người bạn là ông Trần Lam:
“Xa nhà chốc mấy mươi niên,
Tối qua nghe giọng mẹ hiền ru con. ”
Câu lục bát này lấy ý tư từ câu 2239 - 2240 của Truyện Kiều:
“Chốc đà mười mấy năm trời,
Còn ra khi đã da mồi tóc sương. ”
Trên Báo Việt Nam độc lập (số 122, ngày 01 tháng 04 năm 1942), Bác có viết
bài Ca sợi chỉ, trong tác phẩm này Bác đã 06 lần mô phỏng lại Kiều, cụ thể như sau:
“Xưa tôi yếu ớt vô cùng,
Ai vò cũng đứt, ai rung cũng rời. ”
Câu này tập lại câu 2521 - 2522 trong Truyện Kiều:
“Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. ”
Hoặc ở một trường hợp khác, Bác viết:
“Mạnh gì sợi chỉ con con,
Khuôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng? ”
Ở câu này, Bác đã mượn ý câu thơ 1633 - 1634 trong Truyện Kiều :
“Sắn bìm chút phận con con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? ”
Tóm lại, những đặc nét trưng và hiệu quả thẩm mỹ của hệ thống ngôn ngữ
văn hóa trong Truyện Kiều đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình tiếp nhận tác
phẩm trong bối cảnh giao lưu văn hóa Việt Hoa. Nó góp phần thể hiện giọng điệu
tiêu biểu như Khổng Tước văn, Hải Hạc văn của Nguyễn Du. Ngoài ra, nó còn tác
động đến đời sống sinh hoạt văn hóa của dân tộc, các hình thức Bình Kiều, Đố Kiều,
183
Lẩy Kiều, Bói Kiều đã trở thành những thú chơi tao nhã của văn nhân, mặc khách.
Tác động của nó còn lưu dấu trong tâm thức thẩm mỹ của các nhà thơ qua các thế
hệ. Dù đã tồn tại nhiều cuộc tranh luận khác nhau về giá trị của Truyện Kiều nhưng
những đặc điểm nổi bật về ngôn ngữ vẫn là những yếu tố nổi trội trong diễn trình
vận động, tồn tại của tác phẩm.
Hệ thống ngữ liệu văn hoá bình dân và bác học trong Truyện Kiều đã mang
vẻ đẹp của sự giản ước, cô đọng. Bản thân các từ ngữ này đã thâu tóm trong nó
những quan điểm về triết học, lịch sử, tư tưởng, thói quen, kiểu tư duy, kinh nghiệm
sống...có thể bác học có thể bình dân của mọi tầng lớp trong xã hội và phạm vi hoạt
động, ý nghĩa và tính chất tối giản của các mỹ từ ấy đã thể hiện một cách khái quát
hàm súc và truyền vẻ đẹp trong sáng, giản dị đến những câu thơ đã sử dụng nó.
Tiểu kết Chương 3.
Tính triết lý và lớp trầm tích văn hoá trong hai hệ thống ngữ liệu bình dân,
bác học của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều là sự minh chứng xác thực cho phong
cách văn hoá của Nguyễn Du. Nó đã giúp nhà thơ tiếp cận, tái hiện hiện thực một
cách khá sâu sắc, hợp lý, có tính vượt trội so với các nhà thơ cùng thời. Bên cạnh
đó, với sự kết hợp hài hoà giữa hai chất giọng Khổng tước và Hải hạc trong ngôn
điệu của tác phẩm đã tạo nên một tính chất đa thanh trong thế giới nghệ thuật
Truyện Kiều. Khả năng liên tưởng và chiều kích văn hoá của người viết lẫn người
được kiểm chứng qua quá trình lưu truyền tiếp nhận và lan toả ngôn ngữ đầy sống
động, tươi rói của đời sống đến sinh hoạt văn hoá trong xã hội Việt Nam hơn hai
trăm năm nay.
Trong quá trình giao lưu và hội nhập ngày nay, trước những đổi thay của các
hệ quy chiếu thẩm mỹ, chúng ta vẫn cảm nhận được rằng đến với Truyện Kiều có
“đường đi muôn ngả” và đại thi hào Nguyễn Du luôn là niềm tự hào, là lời kêu gọi,
khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân, các thế hệ bạn đọc quay trở về với truyền
thống, làm sống lại những giá trị vĩnh hằng của văn học cổ điển mà Truyện Kiều là
một điển hình tiêu biểu. Dù những giá trị cơ bản của tác phẩm này, nhất là ở
phương diện ngôn ngữ, nhưng sự lan toả, vang vọng của Truyện Kiều vẫn mãi đồng
184
hành với lịch sử phát triển ý thức nhân văn, tinh thần nhân đạo của dân tộc ta. Là
một kiệt tác văn chương, Truyện Kiều - Đoạn trường tân thanh (tiếng kêu mới đứt
ruột) cùng nàng Kiều đã đi vào mọi nẻo đường sinh hoạt văn hoá của dân tộc từ án
sách, bờ tre đến những cánh đồng, nông trường, công trường hiện đại và kể cả mọi
ngóc ngách trong tâm hồn dân Việt. Do đó, khúc Nam âm tuyệt xướng diệu kỳ này
từ ngày chào đời đến nay vẫn luôn được nhân dân tôn quý, là nơi tụ hội của những
cảm xúc và thử thách của trí tuệ, tài năng của bao thế hệ độc giả.
185
KẾT LUẬN
1. Truyện Kiều là tác phẩm kỳ diệu của văn chương Việt Nam, một thi phẩm
tuyệt vời mang đậm tính dân tộc. Tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm bất hủ này là một
công việc hết sức khó khăn nhưng cũng vô cùng thú vị. Tinh hoa, thành tựu văn hóa
đặc sắc của đất nước Trung Hoa và vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc đã hun đúc nên
chiều sâu triết mỹ, sức lan tỏa, vang vọng của tác phẩm đối với các thế hệ bạn đọc văn
hóa Việt Nam. Có thể nói ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đã tạo nên những bước
tiến thần kỳ đối với ngôn ngữ văn học dân tộc. Xét trong tiến trình phát triển, vẻ
trang nhã quý phái của hệ thống ngôn ngữ bác học cũng như sự chân chất mộc mạc
của lớp ngôn ngữ bình dân trong thi phẩm đã quyện vào nhau trong một thể thống nhất
vừa đa dạng, vừa mẫu mực cho ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Thế giới nghệ
thuật của thi ca trung đại là một thế giới phức điệu bởi những đặc trưng mang tính
quy phạm. Người sáng tác không chỉ là một thi nhân mà còn phải đảm trách vai trò
là một triết nhân. Về hình thức, thế giới nhân vật trong thi phẩm được hoạt động
trong môi trường của những quan niệm nệ cổ, quan điểm trung hiếu, tiết nghĩa, đạo
cang thường, tình thủ túc, nhưng trong chiều sâu văn hóa của nó, mỗi một nhân vật
đều là một sự tích hợp cao độ các nét đẹp, độ thâm trầm và sự uyên nhã của tinh
thần nhân văn, nghĩa hiệp Đông phương.
Lịch sử tiếp nhận ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá tuy
không có bề dày như nhiều hướng tiếp cận khác nhưng nó đã mở ra được một
hướng nghiên cứu mới về một đối tượng đặc biệt của văn học dân tộc. Khảo sát
nguồn ngôn ngữ văn hoá bác học trong tác phẩm này sẽ là những tiền đề cần thiết
trong quá trình phác thảo hành trình giao lưu văn hoá, văn học Trung Hoa, Việt
Nam. Khảo sát hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại nói chung và
Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một công việc vô
cùng lý thú và hấp dẫn. Với hệ thống ngữ liệu văn hóa, chúng ta có thể đi vào tìm
hiểu bức tranh “muôn hình muôn vẻ” về thế giới nghệ thuật, xã hội, con người và
những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những trải nghiệm
của một thi nhân, triết nhân luôn nặng nợ với đời.
186
2. Có thể nói, trong văn học cổ điển Việt Nam, ngôn ngữ đời sống bình dân,
ngôn ngữ từ chương bác học là nguồn ngữ liệu vô cùng quý giá cung cấp cho các
nhà thơ một vốn từ vựng để sáng tác. Nó cũng chính là phương tiện dễ nhận thấy
nhất về đặc tính dân tộc cho một tác phẩm văn học cụ thể, là thước đo trình độ và
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của một nhà thơ. Nguyễn Du là người đã tôn vinh xứng
đáng những giá trị của ngôn ngữ quần chúng và dạy ngôn ngữ cho quần chúng trong
việc chuyển dịch các chức năng giáo tiếp cụ thể trong xã hội thành các giao tiếp
nghệ thuật và ngược lại. Tất cả những khả năng ấy đã giúp cho ngôn ngữ của
Truyện Kiều vượt trội hẳn các tác phẩm trước và sau nó.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ trước đến nay phần lớn chỉ
nhấn mạnh phương diện tài năng của nhà thơ, khẳng định Nguyễn Du là một người
sành và giỏi tiếng Việt, mà ít quan tâm đến ông với tư cách là nhà văn hóa. Hướng
tiếp cận phong cách đối với ngôn ngữ tác phẩm đã chỉ ra những nguyên tắc chân,
thành, tín, nhã, đạt của thi pháp cổ điển nhưng vẫn không khái quát được những
đặc trưng văn hóa của hệ thống này. Mối quan hệ biện chứng, tương tác giữa ngôn
ngữ và văn hoá trong lịch sử văn hoá cổ điển Việt Nam là một trong những hệ quả
của quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hoá Việt - Hán, là nguyên nhân trực tiếp tác
động đến sự hình thành các sắc thái, hàm nghĩa văn hoá của từ vựng, ngữ liệu văn
hoá trong tác phẩm văn học, nhất là truyện Nôm bác học.
Việc xử lý, dẫn dụng thành thạo, chuyển dịch hợp lý các ngữ liệu văn hoá này
trong các thể loại, tác phẩm văn chương đã trở thành tiêu chí đánh giá về sự uyên bác,
độ thâm thuý và khả năng chiếm lĩnh đời sống thông qua những nguyên tắc thi pháp
thể hiện đặc thù. Hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ nói chung và ngôn ngữ truyện Nôm
nói riêng là một vấn đề không chỉ được soi rọi từ góc độ ngôn ngữ mà cần phải được
đặt chúng trong môi trường hành chức cụ thể, tức ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển
Việt Nam. Trong quá trình hành chức của các thi liệu văn hoá, vấn đề được đặt ra ở
đây là người tiếp nhận, nghiên cứu cần phải quan tâm đến nghệ thuật sử dụng từ ngữ,
lý giải những ngữ liệu có nguồn gốc văn hoá bác học Trung Hoa và Việt Nam, cốt
làm sao giúp cho người thưởng thức thuộc mọi thế hệ khác nhau có thể hiểu đúng và
sử dụng đúng lớp từ này sao cho thật chính xác và linh hoạt.
187
3. Đề tài Ngôn ngữ Truyên Kiều từ góc nhìn văn hóa được khai triển dựa
trên những thành tựu về ngôn ngữ học, thi pháp học và văn hóa học. Đặc biệt, từ
mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn học và văn hóa, chúng tôi đã tiếp cận ngôn ngữ
Truyện Kiều, từ nguồn gốc đến đặc trưng thẩm mỹ, những nét nghĩa văn hóa cụ thể
ẩn tàng trong từng câu chữ nếu không được thống kê, mô tả, lý giải thì người
thưởng thức khó lòng có thể tìm thấy được vẻ đẹp, sự hấp dẫn của nó. Hệ thống từ
ngữ văn hóa trong Truyện Kiều đã tồn tại với tư cách là một phương tiện đặc thù của
ngôn từ tác phẩm. Nguyễn Du đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn, cách tân, sáng
tạo, linh động, thần tình, đích đáng, tự nhiên, gọn gàng, ý vị thanh nhã và thuyết phục
người đọc. Đó còn là nhờ có sự hòa quyện giữa những yếu tố khách quan và chủ quan
theo đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam, là sự tiếp nhận những ảnh hưởng
từ văn học cổ điển Trung Hoa. Bên cạnh đó, Nguyễn Du đã phá vỡ quy luật tạo dựng
ngôn ngữ văn chương thông thường để tạo nên một hệ thống mới diễn đạt một trạng
thái mang tính phổ quát và bắt nguồn từ mạch sống của dân tộc. Và có lẽ, tác giả đã
phát hiện ra được dáng vẻ thần kỳ, hấp dẫn của quy luật di chuyển từ văn hóa vào
ngôn ngữ và lý giải cấu trúc của chúng một cách khách quan từ phương diện tri nhận,
làm cho các tiểu cấu trúc ngôn ngữ văn hóa ấy tự nói lên ý nghĩa của bản thân mình
và góp phần tạo nên bức tranh ngôn ngữ toàn cảnh đa nghĩa và chuẩn xác.
4. Xét từ phương diện hiệu quả thẩm mỹ, trải qua nhiều thăng trầm của ngôn
ngữ văn hoá Truyện Kiều đã khẳng nhận mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Nó chính
là công cụ để tái hiện bức tranh đa dạng của hiện thực cũng như tâm tình con người
đòi hỏi sự thể hiện cao độ. Sự phong phú, chính xác, điêu luyện, uyển chuyển và sâu
sắc của ngôn ngữ văn hoá tác phẩm đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ
văn học dân tộc. Bức tranh ngôn ngữ được Tố Như tiên sinh gợi mở qua một mã văn
hóa đặc biệt, đó là sự vận hành, bổ túc và cân đối của thi phú từ chương trung đại, lối
sử dụng điến cố, thi tứ, văn liệu cổ xưa, là sự biểu hiện của các quan niệm, hành vi
văn hóa trong sinh hoạt xã hội. Trong Ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều, nếu tiếp
cận từ góc độ văn hóa, chúng ta sẽ thấy lớp ngữ liệu văn hóa sẽ vận hành theo nguyên
tắc vừa ly tâm vừa hướng tâm. Nó không chỉ mang dáng vẻ đài các của thi liệu Trung
188
Hoa mà nó còn có sự biểu hiện ở bản sắc dân tộc. Tuy không rõ ràng như lớp ngôn
ngữ bình dân, nhưng ngôn ngữ bác học, đặc biệt là hệ thống từ Hán Việt gần gũi với
lời ăn tiếng nói nơi thôn đã được vận dụng linh hoạt, thần tình, đích đáng và nhuần
nhuyễn trong tác phẩm. Hệ thống từ ngữ này đã đóng vai trò không nhỏ đối với vấn
đề dân tộc hóa, đại chúng hóa và cá tính sáng tạo của nhà văn. Điều đó đã góp phần
tạo nên tâm thế gần gũi với độc giả, khiến cho hệ thống ngữ liệu văn hóa của tác phẩm
không xa lạ đối với các thế hệ, tầng lớp bạn đọc.
5. Hơn 200 năm tiếp nhận, nghiên cứu và bình luận, với nhiều khuynh hướng
tiếp cận và đánh giá khác nhau về Truyện Kiều, tựu trung lại, chúng ta vẫn nhận thấy
một tấm lòng của các thế hệ nghiên cứu, độc giả luôn trân trọng những di sản mà nhà
thơ đã để lại cho nền văn học dân tộc. Từ khi ra đời đến nay, đứa con tinh thần này
của Nguyễn Du đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn
dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng... Tập đại thành của văn
hoá nước Việt ta đi qua hai thế kỷ tồn tại nhưng những vấn đề nghiên cứu về văn bản,
nội dung và thế giới nghệ thuật của nó vẫn để lại những tồn nghi, cần tiếp tục bổ sung
và khảo cứu thêm. Tuy vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định
những thành tựu về ngôn ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và những đóng góp
của ông đối với tiến trình phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc.
Tiếp nhận Truyện Kiều trong một bối cảnh giao lưu văn hoá không chỉ giúp
cho người đọc các thế hệ hiểu thêm về một tuyệt tác văn học, một điển hình tiêu
biểu cho văn chương Việt Nam. Dù có nhiều cách luận bình khác nhau, tiêu cực hay
tích cực, Truyện Kiều vẫn luôn được tồn tại với tư cách là một sinh mệnh văn hoá
của dân tộc, là món ăn tinh thần quý giá của nhân dân ta, đúng như học giả Phạm
Quỳnh đã nhận xét “Truyện Kiều còn …thì nước ta còn”. Và do đó, Nguyễn Du và
Truyện Kiều suốt hơn hai trăm năm qua đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao
thế hệ thi nhân, là đề tài cho các nghệ sĩ và nó vẫn tiếp tục trong mạch nguồn văn
hóa dân tộc, vẫn liên tục tiếp diễn, bền bỉ và dài lâu.
189
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Võ Minh Hải (2009), “Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá trong
Truyện Kiều”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (4), tr. 17 - 23.
2. Võ Minh Hải (2012), “Hàm nghĩa văn hóa của hai chữ Nam và Bắc trong
văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (1+2), tr. 13 - 23.
3. Võ Minh Hải (2013), “Phong cách văn hoá Nguyễn Du qua ngôn ngữ
nhân vật Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (9), tr. 76 - 83.
190
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
A. Tiếng Việt
1. Phạm Quang Ái (2011), Họ Nguyễn Tiên Điền qua gia phả, sử sách và tư
liệu điền dã, Nxb Nghệ An.
2. Đào Duy Anh (1988), Khảo luận về Truyện Kiều (Tái bản lần 3), Nxb Văn
nghệ, HN.
3. Đào Duy Anh (1989), Từ điển Truyện Kiều (Tái bản lần 2), Nxb Khoa học
Xã hội, HN.
4. Đào Duy Anh (2004), Nghiên cứu Văn hóa và Ngữ văn, Nxb Giáo dục, HN.
5. Đào Duy Anh (2011), Truyện Kiều, tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học, HN.
6. Trần Gia Anh, Trần Đình Tuấn (2012), Truyện Kiều dưới cái nhìn con số
và thành ngữ số dân gian, Nxb Thanh Hoá.
7. Trần Ngọc Anh (1999), Hồng Sơn văn phái - Nguồn thi ca Nôm một vùng
quê, Nxb Giáo dục, HN.
8. Thế Anh (2010), Một cách hiểu khác về chữ “Mã thượng” trong bài thơ
Lương Châu từ của Vương Hàn, Thông báo Hán Nôm học năm 2009, Nxb Thế
Giới, HN.
9. Phan Mậu Cảnh (2005), Góp phần lý giải ảnh hưởng của Truyện Kiều đối
với ngôn ngữ và văn hoá dân tộc, in trong Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu
thế kỷ XXI (Nguyễn Xuân Lam sưu tầm, biên soạn), Nxb Giáo dục, HN.
10. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học, HN.
11. Bửu Cầm, Lê Ngọc Trụ (1967), Thư mục Nguyễn Du, Bộ Quốc gia
Giáo dục xuất bản, SG.
12. Lê Nguyên Cẩn (2008), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá, Nxb
Giáo dục, HN.
13. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt
Nam, Nxb Giáo dục, HN.
14. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
15. Hoàng Thị Châu (2009), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG TP. HCM.
191
16. Nguyễn Huệ Chi (2013), Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn
hoá đến các mã nghệ thuật (Đặng Thị Hảo giới thiệu, tuyển chọn), Nxb Giáo dục
Việt Nam, HN.
17. Nguyễn Đình Chú (1998), “Nguyễn Du trong thời đại Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Văn học (6), tr. 31 - 41.
18. Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa...(1960), Chân dung Nguyễn Du, Nxb
Nam Sơn, SG.
19. Nguyễn Đăng Cư (1932), Kiều vận tập thành, Trung Hưng thư quán, Huế.
20. Phan Mạnh Danh (1953), Bút hoa (thơ tập cổ), Trí Đức thư xã, HN.
21. Diêm Ái Dân (2001), Gia giáo Trung Quốc cổ (Cao Tự Thanh dịch),
Nxb Trẻ, TP. HCM.
22. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1993), Tục ngữ Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, HN.
23. Phạm Văn Diêu (1970), Việt Nam văn học giảng bình, Nxb Hoành Sơn, SG.
24. Xuân Diệu (1966), Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nxb Văn học, HN.
25. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập 1 và 2), Nxb Văn
học, HN.
26. Trần Trí Dõi (2005), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Nxb Văn
hoá thông tin, HN.
27. Nguyễn Du (Thành Thái, Bính Ngọ, trọng hạ), Kim Vân Kiều tân truyện,
Quán Văn Đường tàng bản, Lê gia trân dụng.
28. Nguyễn Du (1952), Truyện Kiều chú giải (Vân Hạc Lê Văn Hoè chú giải
- Hiệu đính - Bình luận), Quốc học thư xã, HN.
29. Nguyễn Du (1960), Kim Vân Kiều (Đoạn trường tân thanh) (Bùi Khánh
Diễn chú thích), Nxb Sống Mới, SG.
30. Nguyễn Du (1960), Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu
khảo), Tủ sách Cổ văn, Nxb Tân Việt, SG.
31. Nguyễn Du (1996), Nguyễn Du toàn tập (Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng
Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến sưu tập), Nxb Văn học, HN.
192
32. Nguyễn Du (1999), Truyện Kiều tập chú (Trần Văn Chánh, Trần Phước
Thuận, Phạm Văn Hoà chú thích), Nxb Đà Nẵng.
33. Nguyễn Du (2013), Đoạn trường tân thanh (Đối chiếu Nôm - Quốc ngữ)
(Thế Anh phiên âm khảo dị), Nxb Văn học, HN.
34. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb
Văn học, HN.
35. Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1952), Vương Thúy Kiều chú giải tân
truyện, Nxb Hương Sơn, HN.
36. Trần Thanh Đạm (2000), “Suy nghĩ về “Trên đỉnh Trường Sơn kể Truyện
Kiều”, Trên đỉnh Trường Sơn kể Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, HN.
37. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nxb
Văn hoá thông tin, HN.
38. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, HN.
39. Thái Kim Đỉnh (1996), Thơ văn xung quanh Truyện Kiều, Nxb Nghệ An.
40. Trịnh Bá Đĩnh (2000), Bình giải Truyện Kiều, Nxb Văn học, HN.
41. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Phê bình văn học Việt Nam, Nxb Văn học, HN.
42. Trịnh Bá Đĩnh (2013), Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, HN.
43. Phan Huy Đông (2013), Giai thoại tổ nội - tổ ngoại của đại thi hào
Nguyễn Du, Nxb Văn học - Trung tâm văn hoá Tràng An, HN.
44. Nguyễn Đình Giang (1959), “Thử tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều
theo phương pháp mới”, Tạp chí Đại học (8), tr. 87 - 129.
45. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (1999), Nguyễn Du - Tác phẩm và
lịch sử văn bản, Nxb Tổng hợp TP. HCM.
46. Nguyễn Thạch Giang (2001), Lời quê chắp nhặt (Tập 1, 2), Nxb Khoa
học Xã hội, HN.
47. Nguyễn Thạch Giang (2005), Đoạn trường tân thanh dưới cái nhìn Nho
gia - Thiền gia, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
193
48. Trần Văn Giàu (1962), “Thảo luận với ông Nguyễn Văn Trung về vấn đề
Truyện Kiều hay là phê bình bài “Phê bình văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học
(1), tr. 35 - 59.
49. A.Ja Gurevich (1996), Các phạm trù văn hoá trung cổ (Hoàng Ngọc
Hiến dịch), Nxb Giáo dục, HN.
50. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo
dục xuất bản, SG.
51. Hoàng Văn Hành (1991), “Từ nhiều nghĩa trong Truyện Kiều, một biểu
hiện phong phú về vốn từ vựng của Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học (6), tr. 77 - 83.
52. Hoàng Văn Hành (2010), Tuyển tập Ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã
hội, HN.
53. Vũ Hạnh (1989), Đọc lại Truyện Kiều, Nxb Đà Nẵng.
54. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2010), Từ điển
thuật ngữ nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.
55. Lê Văn Hảo (1965), “Nguyễn Du và Truyện Kiều trong truyền thống dân
gian”, Tạp chí Bách Khoa (209), tr, 32 - 41.
56. Lê Văn Hảo (1965), “Ảnh hưởng qua lại giữa Truyện Kiều và dân ca”,
Tạp chí Bách Khoa (211), tr. 13 - 24.
57. Hoàng Ngọc Hiến (1966), “Triết lý Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học (2), tr. 21 - 34.
58. Nguyễn Văn Hiếu, Trần Mộng Chu, Phạm Tảo (1953), Việt Văn diễn
giảng (Phần cổ văn), Nhà in Văn Hồng Thịnh xuất bản, HN.
59. Nguyễn Trung Hiếu (1986), “Truyện Kiều trong yêu cầu đổi mới của
khoa nghiên cứu văn học hiện nay”, Tạp chí Văn học (6), tr. 128 - 134.
60. Kiều Thu Hoạch (1990), Truyện Nôm, nguồn gốc và đặc trưng thể loại,
Nxb Khoa học Xã hội, HN.
61. Nguyễn Văn Hoàn (1960), “Bước đầu kiểm điểm kết quả thảo luận
Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (11), tr. 34 - 54.
194
62. Nguyễn Văn Hoàn (1974), “Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều”, Tạp
chí Văn học (1), tr. 43 - 57.
63. Nguyễn Văn Hoàn (1999), “Hoài Thanh với việc nghiên cứu Nguyễn Du
và Truyện Kiều năm 1924”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (7), tr. 33 - 38.
64. Nguyễn Thuý Hồng (1995), “Tìm hiểu sự gặp gỡ về nghệ thuật sử dụng
ngôn từ giữa ca dao và Truyện Kiều”, Tạp chí Văn hoá dân gian (2), tr. 76 - 78.
65. Nguyễn Thúy Hồng (1995), Từ ngữ Việt và Từ ngữ Hán Việt trong Ngôn
ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP1 HN.
66. Huỳnh Chương Hưng (2002), Từ vựng Hán ngữ với nền văn hóa Hoa
Hạ, Đề tài NCKH cấp Trường, Trường ĐHSP Quy Nhơn.
67. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, HN.
68. Nguyễn Thị Ly Kha (1995), “Bước đầu tìm hiểu về hiện tượng giao thoa
từ ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt (Qua cứ liệu Đoạn trường tân thanh)”, Kỷ yếu Hội
nghị khoa học, Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM.
69. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
70. Phan Công Khanh (2001), Lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, Luận án Tiến
sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP TP. HCM.
71. Nguyễn Bách Khoa (1951), Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb Thế giới, HN.
72. Nguyễn Bách Khoa (1953), Văn chương Truyện Kiều, Nxb Thế giới, HN.
73. Hàn Triệu Kỳ (2001), Ẩn sĩ Trung Hoa (Cao Tự Thanh dịch và chú
thích), Nxb Trẻ, TP. HCM.
74. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
Nxb Khoa học Xã hội, HN.
75. Lê Đình Kỵ (1986), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Ban Vận động thành
lập Hội văn nghệ Đồng Tháp xuất bản.
76. Lê Đình Kỵ (1986), “Sắc thái bác học, sắc thái bình dân và tính thống
nhất của ngôn ngữ Truyện Kiều”, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ
phương Đông, Viện Ngôn ngữ học - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, HN.
195
77. R. Lado (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội.
78. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb
Giáo dục, HN.
79. Thái Kim Lan (2008), “Nguyễn Du nghĩ gì về thơ, thử tìm một lý giải”,
Tạp chí Tia Sáng (12), tr. 41 - 53.
80. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa
học Xã hội, HN.
81. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận (1999), Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, HN.
82. Đặng Thanh Lê (1999), Giảng văn Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.
83. Mai Quốc Liên (1966), “Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ
Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (6), tr. 50 - 57.
84. Mai Quốc Liên (1999), Tạp luận, Nxb Hội Nhà văn - Trung tâm nghiên
cứu Quốc học.
85. Lê Xuân Lít (2001), Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều, Nxb ĐHQG TP. HCM.
86. Lê Xuân Lít (tuyển chọn) (2005), Hai trăm năm bàn luận nghiên cứu
Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.
87. Đoàn ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb
ĐHQG TP. HCM.
88. Iu.M. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh
Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thuỷ dịch, Trần Ngọc Vương hiệu đính), Nxb ĐHQG HN.
89. Nguyễn Lộc (1965), “Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học (11), tr. 46 - 67.
90. Nguyễn Lộc (1978, tái bản 2006), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XVIII đến hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, HN.
91. Lưu Trọng Lư (1992), Nhật ký đọc Kiều, Nxb Hội Nhà văn, HN.
92. Phương Lựu (1995), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo
dục, HN.
196
93. Mai Hiền Lương (1997), Tiếng lòng của Nguyễn Du (Khảo luận), Nhà in
Nhân Duyên xuất bản, Gia Nã Đại.
94. Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung, Đặng Quốc Cơ (1998), Truyện Kiều và
tuổi trẻ, Làng văn xuất bản, Paris.
95. Nguyễn Đăng Na (2006), Giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, HN.
96. Nhiều tác giả (1986), Những vấn đề về ngôn ngữ học về các ngôn ngữ
phương Đông, Kỷ yếu hội thảo Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, HN.
97. Nhiều tác giả (2012), Dòng chảy văn hoá xứ nghệ từ Truyện Kiều đến
phong trào Thơ Mới, Nxb Văn học, HN.
98. Hoàng Kim Ngọc (2011), So sánh ẩn dụ trong ca dao trữ tình của người
Việt (Dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học), Nxb Lao động – Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam, HN.
99. Phan Ngọc (1991), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, Nxb Đà Nẵng.
100. Phan Ngọc (1998), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
Nxb Thanh niên, HN.
101. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du, tình người và Nguyễn Du, người
tình, Nxb Khoa học Xã hội - Nxb Mũi Cà Mau.
102. Trần Ích Nguyên (2004), Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều
(Phạm Tú Châu dịch chú), Nxb Lao động - Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, HN.
103. Trần Ngọc Ninh (1972), “Ý nghĩa Truyện Kiều trong dân gian”, Tạp chí
Bách Khoa (381), tr. 13 - 22.
104. Thuần Phong Ngô Văn Phát (1965), “Tuý Kiều với đại chúng”, Tạp chí
Bách Khoa (211), tr. 59 - 66.
105. Vũ Tiến Phúc (1974), Việt Nam văn học giảng minh, Nhà in Alpha xuất
bản, Sống Mới phát hành, SG.
106. Nguyễn Đình Phức (2013), Thi pháp thơ Đường, Nxb ĐHQG TP. HCM.
107. Hằng Phương (1955), “Ảnh hưởng về ngữ ngôn của ca dao đến Truyện
Kiều”, Văn Sử Địa, (8), tr. 47 - 56.
197
108. Huỳnh Như Phương (2014), Nhập môn Lý luận văn học, Nxb ĐHQG
TP. HCM.
109. Lê Quế (2004), Tìm hiểu Truyện Kiều, Nxb Nghệ An.
110. Phạm Đan Quế (1991), Bình Kiều, Vịnh Kiều, Bói Kiều, Nxb Hà Nội.
111. Phạm Đan Quế (1994), Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ XIX, Nxb
Văn nghệ TP. HCM.
112. Phạm Đan Quế (1999), Tập Kiều - Một thú chơi tao nhã, Nxb Văn hoá
thông tin, HN.
113. Phạm Đan Quế (2000), Từ Lẩy Kiều, Đố Kiều…đến các giai thoại về
Truyện Kiều, Nxb Văn học, HN.
114. Phạm Đan Quế (1999), Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều, Nxb Văn học, HN.
115. Phạm Đan Quế (1999), Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn
chương Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.
116. Phạm Đan Quế (2000), Truyện Kiều đọc ngược, Nxb Thanh niên, HN.
117. Phạm Đan Quế (2000), Lục bát hậu Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, HN.
118. Phạm Đan Quế (2004), Đố Kiều, nét đẹp văn hóa, Nxb Thanh niên, HN.
119. Phạm Đan Quế (2004), Bói kiều như một nét văn hóa, Nxb Thanh niên, HN.
120. Phạm Đan Quế (2004), Truyện Kiều trên báo chương thế kỷ XX, Nxb
Thanh niên, HN.
121. Phạm Đan Quế (2005), Thế giới nhân vật Truyện Kiều, Nxb Thanh
niên, HN.
122. Phạm Đan Quế (2013), Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, Nxb Thanh
niên, HN.
123. Phạm Quỳnh (1919), “Truyện Kiều”, Nam Phong tạp chí (30), tr. 34 – 56.
124. F.D. Sausure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cao Xuân
Hạo dịch, tái bản lần 2), Nxb Khoa học Xã hội, HN.
125. Ngô Quốc Quýnh (2010), Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện
Kiều, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.
198
126. Doãn Quốc Sĩ, Việt Tử (1964), Khảo luận về Đoạn trường tân thanh,
Nxb Nam Sơn, SG.
127. Đặng Đức Siêu (1996), Ngữ liệu văn học, Nxb Giáo dục, HN.
128. Đặng Đức Siêu (2009), Tinh hoa văn hoá Đông phương, Nxb Giáo dục, HN.
129. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Nguyễn Du, về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo
dục, HN.
130. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du, từ thơ chữ Hán đến kiệt
tác Truyện Kiều, Nxb Trẻ, TP. HCM.
131. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề về Thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, HN.
132. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.
133. Trần Đình Sử (2003), Văn học và thời gian, Nxb Giáo dục, HN.
134. Văn Tân (1956), “Một vài nhận xét chính về quyển Truyện Kiều và thời
đại Nguyễn Du của ông Trương Tửu”, Tập san Văn Sử Địa (21), tr. 22 - 23.
135. Đào Thản (1966), “Đi tìm một vài đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều”,
Tạp chí Văn học (1), 65-77.
136. Đào Thản (1988), Từ ngôn ngữ chung đến Ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
Khoa học Xã hội, HN.
137. Khâu Chấn Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung
quốc (Mai Xuân Hải dịch), Nxb Văn học, HN.
138. Nguyễn Hằng Thanh (2003), Nghệ thuật tái tạo nhân vật Kiều trong
Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, Nxb Thanh niên, HN.
139. Hoài Thanh (1999), Hoài Thanh toàn tập (Tập 1), Nxb Văn học, HN.
140. Thích Nhất Hạnh (2000), Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn
thiền quán, Lá Bối, Paris.
141. Thích Nhất Hạnh (2001), Kiều và văn nghệ đứt ruột, Lá Bối, Paris.
142. Phạm công Thiện (1996), Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, Viện Triết lý
Việt Nam và Triết học thế giới xuất bản, California, Hoa Kỳ.
199
143. Đàm Quang Thiện (1965), Ý niệm bạc mệnh trong đời Thuý Kiều, Nam
Chi tùng thư xuất bản, SG.
144. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, HN.
145. Lê Đức Thụ (2004), “Định hướng ngôn ngữ học văn hóa trong giảng
dạy ngoại ngữ giai đoạn hiện đại”, Tạp chí Khoa học, ĐHQG HN, (4), tr 49 - 62.
146. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh Thi, SG.
147. Đỗ Lai Thuý (1999), Từ cái nhìn văn hoá, Nxb Văn hoá, HN.
148. Đỗ Lai Thuý (2005), Văn hoá Việt Nam - Nhìn từ mẫu người văn hoá,
Nxb Văn hoá thông tin - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, HN.
149. Phạm Thiên Thư (1972), Đoạn trường vô thanh (Hậu Truyện Kiều), Lá
Bối xuất bản, SG.
150. Chu Quang Tiềm (2005), Tâm lý văn nghệ (Khổng Đức Đinh Tấn Dung
dịch), Nxb Thanh niên, HN.
151. Đặng Tiến (1972), Vũ Trụ thơ, Giao Linh xuất bản, SG.
152. Trịnh Huy Tiến (1965), “Yếu tính của Đoạn trường tân thanh – Thử đặt
đúng chỗ giai phẩm Nguyễn Du (1965 - 1820)”, Văn hoá nguyệt san (10 + 11), tr.
155 - 173.
153. Bùi Đức Tịnh (1999), Ngôn ngữ học và văn học (tập 1, 2), Nxb Văn
nghệ TP. HCM.
154. Nguyễn Sỹ Tế (1959), Luận đề về Nguyễn Du và Đoạn trường tân
thanh (tập 1, 2), Nxb Thăng Long, SG.
155. Bùi Minh Toán (2012), Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Giáo dục Việt
Nam, HN.
156. Nguyễn Đức Tồn (2001, tái bản 2012), Đặc trưng văn hoá - dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy, Nxb ĐHQG HN.
157. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN.
158. Nguyễn Quảng Tuân (1994), Chữ nghĩa Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã
hội, HN.
200
159. Nguyễn Quảng Tuân (2000), Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb
Văn học, HN.
160. Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần (2004), Từ điển Truyện Lục
Vân Tiên, Nxb Thanh niên, HN.
161. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Nxb Văn hoá thông tin, HN.
162. Vũ Thị Tuyết (1996), Vấn đề Truyện Kiều qua các thời kỳ lịch sử (từ
khi tác phẩm ra đời đến nay), Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP 1 HN.
163. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hoá, Nxb Giáo dục, HN.
164. Nguyễn Văn Trung (1963), Lược khảo văn học (3 tập), Nxb Nam Sơn, SG.
165. Nguyễn Văn Trung (1966), Ngôn ngữ văn chương và phê bình văn học,
Tài liệu giáo khoa, Đại học Văn khoa, SG.
166. Mai Thọ Truyền (1974), Phật giáo Việt Nam, Tài liệu giáo khoa Đại
học Vạn Hạnh, SG.
167. V.Varob (2004), “Bảng hình thái văn hóa của tiếng Nga” (Hoàng Dung
dịch), Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP TP. HCM, (5), tr. 48 - 55.
168. Lê Trí Viễn (1978), “Nguyễn Du”, Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3, tái
bản lần 5), Nxb Giáo dục, HN.
169. Lê Trí Viễn, Đoàn Thu Vân, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Phúc
(1997), Văn học trung đại Việt Nam, Trường ĐHSP, ĐHQG TP. HCM.
170. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn
nghệ TP. HCM.
171. Viện Văn học (1971), Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Nxb
Khoa học Xã hội, HN.
172. Nguyễn Văn Y (1973), Thơ vịnh Kiều (sưu tầm), Nxb Lạc Việt, SG.
173. Hoàng Hữu Yên (2003), Cái hay cái đẹp của tiếng Việt trong Truyện
Kiều, Nxb Nghệ An.
174. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb
Thanh niên, HN.
201
175. Lê Thu Yến (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng sáng
tác của người đời sau (từ 1930 đến nay), Nxb Giáo dục, HN.
176. Lê Thu Yến (2003), Văn học Việt Nam - Văn học trung đại, những công
trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, HN.
177. Lê Thu Yến (2005), “Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr. 23 - 28.
178. Lê Thu Yến (2008), Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb
Văn học, HN.
B. Tiếng Hán
179. 清平 (1963), 成 語 故 事, 香港偉青書店出版, 中國 香港.
180. 趙錫如 (1968), 辭 海, 中華書局, 台彎.
181. 張元濟 (1978), 康 熙 字 典, 中華書局, 台彎.
182. 楊琳 (1996), 漢語詞匯與華夏文化, 語文出版社, 北京.
183. 楊寬 (1997), 戰國史, 上海人民出版 社, 中國上海.
184. 謝光輝 (2000), 漢語字源字典, 北京大學出版社, 中國北京.
185. 朱淵清 (2001), 中 國出 土文 獻 與 傳 統 學 術, 華東師范出版社.
186. 吳玉貴 (2001), 中國風俗通史, 上海文藝出版社, 中國上海.
187. 劉綱紀, 范明華 (2002), 周易與美學, 國文史出版社, 北京.
188. 賴力行, 李清良 (2003), 中國文學批平史, 湖南教育出版社.
189. 韓兆琦 (2006), 史 記, 中華書局, 台彎
190. 云中天 (2006), 禮儀, 百花洲文藝出版社, 中國北京
191. 毛慶耆 (2006), 中國文學通義, 岳麓書社, 中國 湖南
192. 吳 新勳 (2007), 成 語 典, 幼福文出版社, 台彎
193. 李道湘,于銘松 (2007),中華文化概要,上海三聯出版社, 中國上海
194. 錢仲聯 (總主編) (2008), 中國文學大辭典, 上海辭書出版社, 中國上海
195. 楊利慧 (2009),中國民俗文化大觀, 延邊人民出版社, 中國北京
196. 劉叔新 (2010), 詞匯研究, 外語教育與研究出版社, 中國北京
197. 符淮青 (2013), 詞義的分析和描寫, 外語教育與研究出版社, 中國北京
202
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Ngữ liệu nguyên dạng trong trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều (p.1)
Phụ lục 2. Ngữ liệu chuyển dịch trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
(p.23)
Phụ lục 3. Hệ thống thành ngữ nguyên mẫu trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều (p.30)
Phụ lục 4. Hệ thống thành ngữ dẫn dụng linh hoạt trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều (p.44)
Phụ lục 5. Từ cổ, từ địa phương xứ Nghệ trong Truyện Kiều (p.48)
P.1
Phụ lục 1
NGỮ LIỆU NGUYÊN DẠNG TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRUYỆN KIỀU
Stt Ngữ liệu
Câu thơ Lĩnh vực
Dẫn giải
A Hoàn
1
1719
Từ ngữ xã hội
Người đầy tớ nữ búi tóc chữ Y
Ái ân
2
750
Từ ngữ xã hội
Chỉ tình cảm nam nữ
Anh hào
3
2169
Từ ngữ xã hội
Tài năng hơn người, quán thế
Anh hoa
4
415
Từ ngữ xã hội
Vẻ đẹp của cỏ cây, vẻ đẹp bề ngoài
Anh hùng
5
1071
Từ ngữ xã hội
Người có tài hơn người
Âm công
6
2720
Kinh Truyện
Thủy Sám Kinh, công đức
Âm cực
7
2646
Kinh Truyện
Dịch, Khí âm cùng cực
Âm khí
8
113
Kinh Truyện
Dịch, Khí âm
Ân oán
9
2320
Từ ngữ xã hội
Ơn huệ và cừu thù, lòng căm giận
Ân tình
10
2322
Từ ngữ xã hội
Tình nghĩa đối với người có ơn
Ba đào
11
2238
Từ ngữ xã hội
Sóng cả, chỉ gian nan
Bá vương
12
2485
Từ ngữ xã hội
Kẻ đứng đầu chư hầu
Bách chiến
13
2088
Từ ngữ xã hội
Trải trăm trận trăm thắng
Bạc Bà
14
2103
Nhân danh
Tên nhân vật
Bạc Hạnh
15
1159
Nhân danh
Tên nhân vật
Bạc mệnh
16
2131
Kinh truyện
Phận mỏng hèn, tên một nhạc khúc
Bạc Sinh
17
738
Nhân danh
Tên gọi khác của Bạc Hạnh
Bạc tình
18
2045
Từ ngữ xã hội
Sự bội bạc tình cảm
Bài vị
19
2195
Từ ngữ xã hội
Lễ cổ, tấm gỗ đỏ ghi tên người mất
Bản sư
20
2628
Từ ngữ xã hội
Tên gọi tôn kính thầy dạy
Bao dung
21
1519,
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng rộng lượng
Bảo lĩnh
22
3015
Từ ngữ xã hội
Nhận trách nhiệm giữ gìn
Báo ân
23
1150
Từ ngữ xã hội
Đền ơn đáp nghĩa
Báo đáp
24
2309,
Từ ngữ xã hội
Đền bù trả lại
Báo phục
25
2397
Từ ngữ xã hội
Đền đáp, trả nghĩa
Báo thù
26
2323
Kinh truyện
Trả thù
2309,
Kinh Truyện
Kinh Thư, đánh dẹp phản loạn
Bát tiễu
27
2397
Kinh Truyện
Huỳnh Đình Kinh, nhàn dật
Bát tiên
28
630
Địa danh
Kinh đô
Bắc kinh
29
2352
Kinh Truyện
Tấn Thư, chỉ người mai mối
Băng nhân
30
2454
Thi liệu
Thơ Lý Bạch, chỉ sự trinh tiết
Băng tuyết
31
2210
Kinh Truyện
Trang Tử, anh hùng có đại nghiệp
Bằng
32
332
Từ ngữ xã hội
Chỉ người không có tình nghĩa
Bất nghĩa
33
2207
Từ ngữ xã hội
Chỉ kẻ vô nhân đức
Bất nhân
34
332
Từ ngữ xã hội
Chỉ kẻ không tình lý
Bất tình
35
2230
Thi liệu
Đường Lý Bạch, Buồn vui
Bi hoan
36
1186
Từ ngữ xã hội
Roi bằng da, hình phạt
Bì tiên
37
976
Từ ngữ xã hội
Triều đình cát cứ nơi biên ải
Biên đình
38
1511
Từ ngữ xã hội
Biên giới hai nước
Biên thùy
39
3140
Từ ngữ xã hội
Nói rõ ràng, phân tích sáng rõ
Biện bạch
40
978
Thi liệu
Thơ Đỗ Phủ, Sự chia ly, tiễn biệt
Biệt ly
41
2166
Từ ngữ quân sự
Quân lính dùng trong chiến tranh
Binh
42
2447
Từ ngữ quân sự
Áo giáp, chỉ chiến tranh
Binh cách
43
1391
Từ ngữ quân sự
Chuyện chiến tranh
Binh đao
44
2799
Từ ngữ xã hội
Uy thế về quân sự
Binh uy
45
46
Bình địa (ba đào)
2438
Thi liệu
Cảnh bình yên, đối lập với ba đào
2542
47
Bình Khang
Địa danh
Chốn kỹ viện, nơi trăng gió
Bình Nguyên Quân
2493
48
Nhân danh
Chiến Quốc sách, người hào phóng
Bình thành
2440
Kinh Truyện
Kinh Thư, Bình thiên thành địa
49
Bố kinh
3065
Kinh Truyện
Hậu Hán Thư, chỉ người vợ hiền
50
Bồ đề
1335
Kinh Truyện
Kim Cương Kinh, sự giác ngộ
51
Bồ liễu
2129
Kinh Truyện
Tình sử, sự yếu mềm của phụ nữ
52
Bút giá
2491
Từ ngữ xã hội
Chỉ sự học hành
53
Bút pháp
505
Từ ngữ xã hội
Chỉ người tài hoa, viết chữ đẹp
54
Ca ngâm
2989
Từ ngữ xã hội
Hát xướng
55
Ca nhi
746
Từ ngữ xã hội
Con hát, kỹ nữ
56
Cam lai
397
Từ ngữ xã hội
Vận may bắt đầu
57
P.2
1987
Văn liệu
Sử ký, Chỉ chiến tranh
Can qua
58
30
Can trường
59
Từ ngữ xã hội
Chỉ lời gan ruột tâm sự
62
Canh
60
Từ ngữ xã hội
Khoảng khắc thời gian
3210
Canh thiếp
61
Kinh Truyện
Lễ Ký, thiếp ghi lễ vấn danh
2491
Cao đình
62
Địa danh
Tên núi ở Chiết Giang, chỗ tiễn biệt.
2188
Cáo
63
Từ ngữ xã hội
Báo quan, thông báo sự việc lên trên
717
Cảo táng
64
Kinh Truyện
Sơn Hải Kinh, bó cỏ chôn sơ sài
650
Cát đằng
65
Kinh Truyện
Kinh Thi, chỉ người vợ bé
1500
Cát lũy
66
Kinh Truyện
Kinh Thi, chỉ người vợ bé
Nơi Bá Nha, Tư Mã Tương Như đánh đàn
1404
Cầm đài
67
Địa danh
Lã Thị Xuân Thu, thịnh trị, thanh liêm
2564
Cầm đường
68
Kinh Truyện
Kinh Thi, chỉ vợ chồng hòa hợp
2280
Cầm sắt
69
Kinh Truyện
Nghi Lễ, phẩm phục triều nghi
1480
Cân đai
70
Kinh Truyện
Kinh Lễ, tuổi lấy chồng
463
Cập kê
71
Kinh Truyện
Kinh Lễ, đính ước hôn nhân
2875
Cầu thân
72
Kinh Truyện
Hậu Hán Thư, ngọc quý
3110
Châu
73
Kinh Truyện
Thơ Bạch Cư Dị, chỉ sự hôn ước
2273
Châu Trần
74
Thi liệu
Sử Ký, giữ phép thường
36
Chấp kinh
75
Kinh Truyện
Tỉnh phía nam sông Trường Giang
1440
Chiết Giang
76
Địa danh
Chùa của sư Giác Duyên
198
Chiêu ẩn am
77
Địa danh
Chiêu dụ giặc hàng, lập lại an ninh
1458
Chiêu an
78
Từ ngữ xã hội
Tục u quái lục, gọi hồn người chết
2105
Chiêu hồn
79
Kinh Truyện
Vỗ về, an ủi, lập lại trị an
2308
Chiêu phủ
80
Từ ngữ xã hội
Sửa sang bề ngoài
2954
Chiêu tập
81
Từ ngữ xã hội
Khai Nguyên Thiên Bảo di sự, khoa thi
2457
Chế khoa
82
Kinh Truyện
đặc biệt, gọi là ân khoa
Chiến thuật dụng binh pháp
2967
Chiến hòa
83
Từ ngữ quân sự
Sử Ký, Hạng Vũ bản kỷ, nơi đánh nhau
2509
Chiến trường
84
Kinh Truyện
Yên ngựa đi đường xa, chỉ sự tiễn hành
2859
Chinh an
85
Từ ngữ xã hội
Chiến Quốc Sách, Tần Sách, chỉ việc
1373
Chỉnh nghi
86
Kinh Truyện
chỉnh đốn nghi lễ tiếp đón thiên tử
P.3
Nhân danh
Tên nhân vật
473
87
Chung Công
Nhân danh
Tên nhân vật
1521
88
Chung Lão
Từ ngữ xã hội
Trọn đời, cả cuộc đời
2501
89
Chung thân
Từ ngữ xã hội
Hết ngày trời, trọn đời, cả ngày
2125
90
Chung thiên
Từ ngữ xã hội
Trọn tình, trọn nghĩa
2448
91
Chung tình
Từ ngữ quân sự
Quân tướng nói chung
2416
92
Chư tướng
Kinh Truyện
Đại Tạng Kinh, làm cho rõ ràng
1832
93
Chứng minh
Kinh Truyện
Lễ Ký, tiếng vua chư hầu khiêm xưng
3090
94
Cô quả
Thi liệu
Tùy Viên thi thoại, Thơ cổ
2353
95
Cổ thi
Kinh truyện
Nhạc kinh, âm thanh dùng tay tạo ra
2125
96
Cổ xúy
gọi là cổ, dùng hơi thổi gọi là xúy
Từ ngữ xã hội
Chỉ quê cũ, đất tổ
2448
97
Cố hương
Từ ngữ xã hội
Người xưa, tri âm tri kỷ
132
98
Cố nhân
Thi liệu
Thơ Lý Bạch, chỉ quê cũ, sự ly tán
1467
99
Cố quốc
Từ ngữ xã hội
Gậy gộc, chỉ bọn côn đồ Khuyển Ưng
2480
100
Côn quang
Từ ngữ xã hội
Chỉ nghề đánh võ
1797
101
Côn quyền
Từ ngữ xã hội
Sự nghiệp và danh vọng
1788
102
Công danh
Kinh Truyện
Kinh Thư, ơn của vua đối với dân
1624
103
Công đức
Kinh Truyện
Hán thư, ngũ tước, chỉ danh vọng
2170
104
Công hầu
Từ ngữ xã hội
Chốn công đường, công sở
2498
105
Công nha
Từ ngữ xã hội
Sức lực làm việc, công sức đầu tư
2491
106
Công phu
Từ ngữ xã hội
Việc chung, viêc riêng
2468
107
Công tư
Từ ngữ xã hội
Mức độ dụng sức
2595
108
Công trình
Từ ngữ xã hội
Dáng điệu, khuôn vẻ người
1201
109
Cốt cách
Từ ngữ xã hội
Chỉ tình thân anh em
1379
110
Cốt nhục
Kinh Truyện
Hồng Vũ hình luật, một đơn vị quân sự
699
111
Cơ
đội ở cấp Tỉnh
Kinh Truyện
Pháp Hoa Kinh, máy tạo nhânduyên
2412
112
Cơ duyên
Kinh Truyện
Tam Quốc Chí, cơ nghiệp đã dựng nên
2463
113
Cơ đồ
Kinh Truyện
Kinh Thi, công ơn của mẹ cha
2312
114
Cù lao
Kinh Truyện
Kinh Thi, ví người vợ cả
2412
115
Cù mộc
P.4
Từ ngữ xã hội
Khai tội, nhận tội lỗi
2463
116
Cung chiêu
Kinh Truyện
Kinh Nhạc, ngũ âm, thông hiểu âm luật
601
117
Cung thương
Kinh Truyện
Sử ký, nơi chôn các quan khanh, đại
3238
118
Cửu nguyên
phu nước Tấn, dụ chỉ âm phủ
Văn liệu
Đông Chu liệt quốc, hồi 4, chỉ âm phủ
1150
119
Cửu tuyền
Tấn Lục Sơ, Tống tử trường dạ đài, cõi chết
Thi Liệu
31
120
Dạ đài
Chỉ nhà quyền quý
Từ ngữ xã hội
3000
121
Danh gia
Danh dự và tiết tháo
Từ ngữ xã hội
1685
122
Danh tiết
Xương khô còn còn lại khi cải táng
Từ ngữ xã hội
747
123
Di hài
Hình hài còn sót lại
Từ ngữ xã hội
1529
124
Di hình
Phong thái tốt đẹp, dung mạo đẹp
Từ ngữ xã hội
3186
125
Dung quang
Kinh Dịch, quẻ Càn, khí Dương, mùa xuân
Kinh Truyện
1667
126
Dương hòa
Đường Vương Duy, chỉ nơi tống biệt
Thi liệu
2564
127
Dương quan
Công ơn sinh dưỡng của cha mẹ
Từ ngữ xã hội
409
128
Dưỡng sinh
Phụng dưỡng cha mẹ
Từ ngữ xã hội
319
129
Dưỡng thân
Đoan là đầu mối, sự lôi thôi
Từ ngữ xã hội
1502
130
Đa đoan
Bận rộn, bận lòng, thương yêu
Từ ngữ xã hội
228
131
Đa mang
Binh Pháp Tôn Tử, quân chủ lực
Kinh Truyện
2824
132
Đại doanh
Quan lại cao cấp
Từ ngữ xã hội
1599
133
Đại quan
Quân chủ lực của một viên tướng
Từ ngữ xã hội
351
134
Đại quân
Hồng Vũ di sự, trên tước vương
Kinh Truyện
2270
135
Đại vương
Màu xanh nhạt, cuộc sống giản di
Từ ngữ xã hội
2512
136
Đạm thanh
Tên của một tài nữ bạc mệnh
Nhân danh
2925
137
Đạm Tiên
Lương Hoàng Sám kinh, chỉ đàn cầu siêu
Kinh Truyện
2919
138
Đàn tràn
Đào hoa nguyên ký, nơi ở ẩn
Thi liệu
398
139
Đào nguyên
Người nữ tu đắc đạo
Từ ngữ xã hội
68
140
Đạo cô
Giẫm lên cỏ xanh, du xuân
Từ ngữ xã hội
2968
141
Đạp thanh
Vâng mệnh vua hành sự
Từ ngữ xã hội
192
142
Đặc sai
Kinh Thi, loài dây leo, chỉ vợ lẽ
Kinh Truyện
2651
143
Đằng la
Vu Lan Bồn Kinh, chốn âm ty
Kinh Truyện
44
144
Địa ngục
Đường Ôn Đình Quân, cảnh thanh bình
Thi liệu
2453
145
Điếm nguyệt
P.5
Kinh Truyện
Kinh Dịch, chỉ hướng Tây, mặt trời lặn
1350
146
Đoài
Từ ngữ xã hội
Chỉ người phụ nữ trinh thục, đẹp
1706
147
Đoan chính
Từ ngữ xã hội
Chỉ người phụ nữ đẹp
2030
148
Đoan trang
Từ ngữ xã hội
Sum họp đông đủ, vui vẻ trọn vẹn
426
149
Đoàn viên
Kinh Truyện
Sưu Thần Ký, đứt ruột, sự đau đớn
523
150
Đoạn trường
Kinh Truyện
Hoàn Vũ Ký, chim cuốc, tiếng ai oán
21
151
Đỗ Quyên
Kinh Truyện
Pháp Hoa Kinh, cứu sống lại
3060
152
Độ sinh
Thi liệu
Sở Tống Ngọc Phú, chỉ nơi con trai ở
200
153
Đông lân
Từ ngữ xã hội
Bạn cùng học, buôn cùng phường
3202
154
Đồng môn
Từ ngữ quân sự
Nguyên soái đốc thúc việc quân
3055
155
Đổng nhung
Từ ngữ xã hội
Một lòng một dạ, cùng quyết tâm
175
156
Đồng tâm
Từ ngữ xã hội
Bạn học, bằng hữu thâm giao
2088
157
Đồng thân
Tam Quốc Chí, nơi cấm cung của nữ giới
Văn liệu
2454
158
Đồng Tước
Tiếng vọng lại, sự cảm thông
Từ ngữ xã hội
555
159
Đồng vọng
Huyền Trung Ký, phòng của vợ chồng
Kinh Truyện
154
160
Động phòng
Người giúp việc trong nhà
Từ ngữ xã hội
156
161
Gia đồng
Nhà lớn, chỉ cha mẹ
Từ ngữ xã hội
1074
162
Gia đường
Thực hiện tội hình, xử phạt
Từ ngữ xã hội
3135
163
Gia hình
Quê hương, chỉ quê cha đất tổ
Từ ngữ xã hội
530
164
Gia hương
Người giúp việc, người nhà
Từ ngữ xã hội
2147
165
Gia nhân
Quy định của gia đình
Từ ngữ xã hội
1419
166
Gia pháp
Niên hiệu của vua Minh Thế Tông
Nhân danh
1799
167
Gia Tĩnh
Kinh Thi, chỉ vợ chồng, vợ tố
Kinh Truyện
1615
168
Gia thất
Của cái trong nhà
Từ ngữ xã hội
1735
169
Gia tư
Pháp hiệu của sư thầy
09
170
Giác Duyên
Nhân danh
Tin tức tốt
Từ ngữ xã hội
3091
171
Giai âm
Người đẹp
Từ ngữ xã hội
12
172
Giai nhân
Chấm dứt chiến tranh
Từ ngữ quân sự
2884
173
Giải binh
Huyền Trung Ký, chỉ việc nhân duyên
Kinh Truyện
47
174
Giải kết
Đường Thư, Học trò trường Quốc Tử Giám
Kinh Truyện
2502
175
Giám sinh
Khó khăn, gian khổ, lao đao, lận đận
Từ ngữ xã hội
421
176
Gian truân
P.6
625
Kinh Truyện
Thủy Kinh Chú, vốn là chỉ Tam Giang,
177
Giang hồ
Ngũ hồ, chỉ người thích ngao du
2476
Từ ngữ xã hội
Vái chào lẫn nhau, tình thâm
178
Giao bái
1595
Từ ngữ xã hội
Vui vẻ với nhau, chuyện ân ái
179
Giao hoan
3133
Từ ngữ quân sự
Đồ binh khí, chỉ chiến tranh
180
Giáp binh
3190
Kinh Truyện
Bắc sử, chỉ quan phục, quan lại
181
Hà y
2252
Từ ngữ xã hội
Lối nói khiêm xưng, ghé thăm
182
Hạ cố
2266
Từ ngữ xã hội
Mừng công, mừng chiến thắng
183
Hạ công
197
Từ ngữ xã hội
Lời chúc tụng
184
Hạ từ
2565
Kinh Truyện
Kinh Thư, vua ban cho quần thần
185
Hạ tứ
591
Từ ngữ xã hội
Giày thêu, công tử con nhà giàu
186
Hài văn
198
Kinh Truyện
Thái Chân ngoại truyện, chỉ một loài
187
Hải đường
hoa đẹp, chỉ người đẹp
143
Từ ngữ xã hội
Lối nói khiêm xưng,nhà cửa nghèo hèn
188
Hàn gia
175
Từ ngữ xã hội
Sự ấm lạnh, lời tâm sự
189
Hàn huyên
195
Kinh Truyện
Hậu Hán Thư, tết ăn đồ lạnh, lễ hội
190
Hàn thực
394
Từ ngữ xã hội
Cảnh nghèo hèn
191
Hàn vi
942
Địa danh
Thủ phủ tỉnh Chiết Giang
192
Hàng Châu
2290
Từ ngữ xã hội
Kẻ thất bại, chịu hàng phục
193
Hàng thần
2957
Kinh Truyện
Tống Sử, Tô Đông Pha, tài văn học
194
Hành vân
2466
Từ ngữ xã hội
Nhà thổ, nơi hoan lạc
195
Hành viện
478
Từ ngữ xã hội
Đối xử hào hiệp, rộng rãi, lịch sự
196
Hào hoa
3139
Nhân danh
Pháp hiệu của sư huynh Giác Duyên
197
Hằng Thủy
152
Từ ngữ xã hội
Sự linh ứng khi cầu nguyện
198
Hiển linh
2050
Từ ngữ xã hội
Giao nộp tù binh, người có tội
199
Hiến phù
118
Từ ngữ xã hội
Yêu thích sự sống, làm phúc
200
Hiếu sinh
2352
Kinh Truyện
Lễ ký, áo tang cha mẹ, việc trả hiếu
201
Hiếu phục
1750
Từ ngữ xã hội
Người con có hiếu với cha mẹ
202
Hiếu tử
1831
Từ ngữ xã hội
Người đẹp
203
Hoa khôi
1833
Nhân danh
Tên Thúy Kiều do Hoạn Thư đặt
204
Hoa Nô
1279
Kinh Truyện
Chu Lễ, mũ miện của vương hầu
205
Hoa quan
P.7
Đường Lý Thương Ẩn, ông trời, tạo hoá
Thi liệu
1854
206
Hóa công
Đường Lý Bạch, chỉ ông trời, tạo hoá
Thi liệu
2266
207
Hóa nhi
Nguyên Vương Thực Phủ, Tây Sương
Văn liệu
85
208
Hoài xuân
Ký, chỉ sự nuối tiếc tuổi trẻ
Mẹ của Hoạn Thư
Nhân danh
1120
209
Hoạn Nương
Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh
Nhân danh
1456
210
Hoạn Thư
Chẩm Trung Ký, cuộc đời như cõi mộng
Kinh Truyện
1833
211
Hoàng lương
Đường, thủ lĩnh, người anh hùng
Nhân danh
1844
212
Hoàng Sào
Đàn của người Hồ, đàn Nhị
Từ ngữ xã hội
1716
213
Hồ cầm
Nam Hoa Kinh, cuộc sống như cõi mộng
Kinh Truyện
2496
214
Hồ Điệp
Chỉ Hồ Tôn Hiến, tôn xưng
Nhân danh
32
215
Hồ Công
Tên nhân vật
Nhân danh
3200
216
Hồ Tôn Hiến
Cư tang cha mẹ
Từ ngữ xã hội
2507
217
Hộ tang
Sắm sửa hành lý
Từ ngữ xã hội
2452
218
Hồi trang
Người đứng đầu Hội Đoạn Trường
Từ ngữ xã hội
534
219
Hội chủ
Thái Bình Quảng Ký, hôn nhân
Kinh Truyện
1496
220
Hồng diệp
Nước gỗ mai già, mùi sen, sắc đỏ
Từ ngữ xã hội
199
221
Hồng mai
Chỉ người đàn bà đẹp
Từ ngữ xã hội
45
222
Hồng nhan
Cái bàn xoay lớn, chỉ ông trời
Từ ngữ xã hội
1991
223
Hồng quân
Chỉ loại quần đỏ của phụ nữ
Từ ngữ xã hội
65
224
Hồng quần
Bụi đỏ, chỉ cuộc đời
Từ ngữ xã hội
2157
225
Hồng trần
Hậu Hán Thư, nơi có ngọc trai, cố cư
Kinh Truyện
35
226
Hợp Phố
Chiếm đóng vững chắc
Từ ngữ xã hội
908
227
Hùng cứ
Kinh Thi, Huyên thảo, chỉ mẹ
Kinh Truyện
306
228
Huyên
Thờ cúng gia tiên
Từ ngữ xã hội
2450
229
Hương hỏa
Phòng ở của phụ nữ
Từ ngữ xã hội
3017
230
Hương khuê
Làng xóm, láng giềng
Từ ngữ xã hội
949
231
Hương lân
Đường Thôi Hiệu, chỉ quê nhà
Thi liệu
1280
232
Hương quan
Kinh Thư, kính cẩn tuân theo
Kinh Truyện
155
233
Khâm
Kinh Thư, kính cẩn tuân mệnh vua ban
Kinh Truyện
1266
234
Khâm ban
Lễ Ký, chuẩn bị cho người chết
Kinh Truyện
2948
235
Khâm liệm
P.8
2948
Từ ngữ xã hội
Đơn xin phép
236
Khất từ
1668
Từ ngữ xã hội
Chốn ở của phụ nữ quyền quý
237
Khuê các
654
Nhân danh
Tên thuộc hạ của Hoạn Thư, kẻ ác
238
Khuyển
239
Khuynh thành
Thi liệu
Hán Lý Diên Niên, người đẹp
296
258
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng son sắt của người phụ nữ
240
Kiên trinh
2893
Từ ngữ xã hội
Người trẻ tuổi có sức mạnh
241
Kiện nhi
1108
Nhân danh
Tên gọi khác của Thúy Kiều
242
Kiều Nhi
1279
Nhân danh
Tên gọi thân mật của Kim Trọng
243
Kim Lang
775
Địa danh
Tên cửa cung Vị Ương (Hán), nơi các
244
Kim Mã
quan đợi chiếu chỉ, hạng quyền quý
245
Kim môn
2870
Địa danh
Nói tắt của Kim Mã môn
410
Nhân danh
Tên nhân vật
246
Kim Trọng
148
Từ ngữ xã hội
Trâm cài tóc bằng vàng
247
Kim thoa
294
Kinh Truyện
Pháp Cú kinh, kinh điển phật giáo
248
Kinh (kệ)
Kinh là gỡ tơ, luân là xe tơ lại, tài chính trị
1789
Từ ngữ xã hội
249
Kinh luân
Loài cá dữ, quân lính hùng mạnh
2452
Từ ngữ xã hội
250
Kình ngạc
Tên Tự của Thúc Sinh
2252
Nhân danh
251
Kỳ Tâm
Kiếp sau, hậu kiếp
1167
Từ ngữ xã hội
252
Lai sinh
Cơ quan chuyên trách cất nhắc quan lại
2788
Từ ngữ xã hội
253
Lại Bộ
Đường Lý Thương ẩn, địa danh sản
1530
Thi liệu
254
Lam Điền
sinh nhiều ngọc quý, nơi quyền quý
Thái Bình Quảng Ký, chỉ nơi tiên ở
255
Lam Kiều
3204
Địa danh
Tên một cái hiên đẹp, chỗ ở của phụ nữ
266
Địa danh
256
Lãm Thúy
Tiếng gọi người chồng
120
Từ ngữ xã hội
257
Lang quân
Tên một huyện thuộc Sơn Đông
258
Lâm Thanh
2783
Địa danh
Tên một huyện thuộc Sơn Đông
626
Địa danh
259
Lâm Tri
Bà con láng giềng
920
Từ ngữ xã hội
260
Lân lý
Thương xót
311
Từ ngữ xã hội
261
Lân tuất
Thái độ nghiêm khắc
592
Từ ngữ xã hội
262
Lập nghiêm
Quy định và tiến trình một buổi lễ
1410
Từ ngữ xã hội
263
Lễ nghi
Quần áo quy định trong hội lễ
2510
Từ ngữ xã hội
264
Lễ phục
P.9
265
Lệnh tiễn
2213
Từ ngữ quân sự
Cờ lệnh có gắn mũi tên sắt, quân lệnh
266
Liêu Dương
2303
Địa danh
Quê của Kim Trọng
Tên một loài liễu, sự yếu mềm của nữ giới
267
Liễu Bồ
533
Từ ngữ xã hội
Giường thờ người mới chết
268
Linh sàng
999
Từ ngữ xã hội
Bài vị ghi tên người chết
269
Linh vị
1674
Từ ngữ xã hội
Phòng vợ chồng mới cưới
270
Loan phòng
2975
Từ ngữ xã hội
Lộ trình đi trên đường, đi xa
271
Lục trình
1871
Từ ngữ xã hội
Chết chưa chôn nơi đất khách, sự lẻ loi
272
Lữ thấn
1670
Từ ngữ xã hội
Lục thao tam lược, tài dụng binh
273
Lược thao
532
Kinh Truyện
Tha hương nơi đất khách
274
Lưu lạc
2170
Từ ngữ xã hội
Chiến Quốc Sách, tên khúc nhạc
275
Lưu thủy
1056
Kinh Truyện
Tên nhân vật
276
Mã Giám Sinh
Nhân danh
478
Phận mỏng, chỉ người phụ nữ
277
Mệnh bạc
625
Từ ngữ xã hội
Mai Hoa dịch số, số Tử vi
278
Mệnh cung
738
Kinh Truyện
Vợ quan tòng tam phẩm trở lên
279
Mệnh phụ
1695
Từ ngữ xã hội
Kinh Lễ, tôn miếu, Thái miếu
280
Miếu đường
2481
Kinh Truyện
Cõi âm và cõi dương
281
Minh dương
2543
Từ ngữ xã hội
Cửa nhà, chỗ ở
282
Môn phòng
2999
Từ ngữ xã hội
Chu Công mộng đàm, điều xấu
283
Mộng huyễn
1713
Kinh Truyện
Chu Công mộng đàm, điềm báo
284
Mộng triệu
235
Kinh Truyện
Tên huyện thuộc Phúc Kiến
285
Nam Bình
233
Địa danh
Sơn trại do Từ Hải lập nên
286
Nam đình
2949
Địa danh
Lầu gác ở phía Nam
287
Nam lâu
2270
Địa danh
Kinh Thi, con gái đi lấy chồng
288
Nghi gia
778
Kinh Truyện
Bách Hiếu đồ thuyết, chỉ người cha, vì
289
Nghiêm đường
2224
Kinh Truyện
làm cha quý ở tính nghiêm
Bách Hiếu đồ thuyết, lời dạy của cha
290
Nghiêm huấn
1278
Kinh Truyện
Chỉnh đốn quân ngũ
291
Nghiêm quân
1393
Từ ngữ quân sự
Huyền Trung Ký, đón dâu
292
Nghinh hôn
2297
Kinh Truyện
Hán Thư, nơi làm việc quan, cảnh phú quý
293
Ngọc Đường
822
Kinh Truyện
Ông bà bên ngoại
294
Ngoại gia
2870
Từ ngữ xã hội
P.10
295
Ngoại hương
371
Từ ngữ xã hội
Quê ngoại, quê hương
296
Ngô Lào
574
Địa danh
Ngô tức Trung Quốc, Lào tức Ai Lao,
thường tỷ dụ đường xa xôi
Hai nước thời Xuân Thu, nay đây mai đó
297
Ngô Việt
1363
Địa danh
Gặp trắc trở, khó khăn
275
Từ ngữ xã hội
298
Ngộ biến
Gửi gắm tình cảm, ký thác tình cảm
600
Từ ngữ xã hội
299
Ngụ tình
Nhạc kinh, chỉ âm luật
1314
Kinh Truyện
300
Ngũ âm
Đại Tạng Kinh, năm thức cúng phật:
31
Kinh Truyện
301
Ngũ cúng
Hương, hoa, đăng, trà, quả
Tỳ Kheo giới luật, năm điều răn: Sát sinh,
302
Ngũ giới
1918
Kinh Truyện
trộm cắp, tà dâm, nói càn, uống rượu
Người nộp đơn kiện cáo
1920
Từ ngữ xã hội
303
Nguyên đơn
Đường Thư, tết Thượng Nguyên
1415
Kinh Truyện
304
Nguyên tiêu
Người đánh cá
942
Từ ngữ xã hội
305
Ngư ông
Người đánh cá
2705
Từ ngữ xã hội
306
Ngư phủ
Tên cái lầu, nơi Thúy Kiều bị nhốt
2699
Địa danh
307
Ngưng Bích
Người giúp việc trong dinh quan
1033
Từ ngữ xã hội
308
Nha dịch
Việc xẩy ra trước mắt
608
Từ ngữ xã hội
309
Nhãn tiền
Hoa Nghiêm kinh, chỉ duyên nợ vợ chồng
1551
Kinh Truyện
310
Nhân duyên
201
Từ ngữ xã hội
Chỉ cõi đời, cõi người
311
Nhân gian
1706
Kinh Truyện
312
Nhân quả
Nhân Quả kinh, ngũ uẩn, nguyên nhân
và kết quả của vạn vật
995
313
Nhật nguyệt
Từ ngữ xã hội
Mặt trời, mặt trăng, chỉ thời gian
906
314
Nhi nữ
Từ ngữ xã hội
Chỉ con gái nói chung
315
Nho gia
2176
Kinh Truyện
Chiến Quốc Sách, chỉ những người theo
học phái, tư tưởng của Khổng Tử
1498
Từ ngữ xã hội
316
Ninh gia
Về thăm nhà, con gái về thăm nhà
2220
Từ ngữ xã hội
317
Nữ nhi
Con gái
1234
Từ ngữ xã hội
318
Oan gia
Thù hằn làm việc dữ thì bị điều dữ báo lại
Khí oan uẩn chưa siêu thoát
1013
Từ ngữ xã hội
319
Oan khí
Oan uổng khổ ải
2535
Từ ngữ xã hội
320
Oan khổ
P.11
Từ ngữ xã hội
Oan uổng khổ sở
1641
321
Oan khốc
Từ ngữ xã hội
Cái gây nên oan nghiệp
1433
322
Oan nghiệt
Từ ngữ xã hội
Nghiệp báo do kiếp trước để lại
986
323
Oan nghiệp
Kinh Truyện
Pháp Hoa kinh, vật quý của nhà Phật
1753
324
Pháp bảo
Từ ngữ xã hội
Người làm bùa phép theo Đạo gia
2046
325
Pháp sư
Từ ngữ xã hội
Nơi hành hình phạm nhân
2984
326
Pháp trường
Từ ngữ xã hội
Bày lộ ra ngoài
2395
327
Phát tiết
Từ ngữ xã hội
Nơi thờ phật
415
328
Phật đài
Từ ngữ xã hội
Nơi thờ phật
1639
329
Phật đường
Kinh Truyện
Tứ khố toàn thư, lời phẩm bình nghệ
1919
330
Phẩm đề
thuật hội họa cổ điển
Từ ngữ xã hội
Chia đường, chia tay
402
331
Phân kỳ
Từ ngữ xã hội
Trình bày rõ ràng, cụ thể
869
332
Phân minh
333
Phi phù
2915
Kinh Truyện
Thái ất huyền kinh, đốt bùa thỉnh tiên,
bùa phép trừ tà
Từ ngữ xã hội
Khác với người thường
1684
334
Phi thường
Kinh Truyện
Mao thi thảo trùng kinh, tên hai loài rau
1485
335
Phỉ phong
nhà nghèo ăn, chỉ tư chất bình thường,
Từ ngữ xã hội
332
336
Phiếu hồng
Tờ trát của quan
Kinh Truyện
1406
337
Phiếu Mẫu
Sử Ký, Hoài Âm Hầu liệt truyện, người tốt
Từ ngữ xã hội
2348
338
Phong ba
Sóng gió, ám chỉ khó khăn gian khổ
Từ ngữ xã hội
1366
339
Phong lưu
Thái độ nhàn nhã, lịch sự
Từ ngữ xã hội
35
340
Phong nguyệt
Trăng gió, chỉ tình cảm yêu đương
Từ ngữ xã hội
396
341
Phong nhã
Tính cách phong lưu, chuộng văn thơ
Từ ngữ xã hội
152
342
Phong sương
Gió sương, chỉ sự chịu đựng
Từ ngữ xã hội
399
343
Phong tư
Hình dáng, vẻ người xinh đẹp
Từ ngữ xã hội
151
344
Phong tình
Tính lẳng lơ
Từ ngữ xã hội
806
345
Phong trần
Gió bụi, chỉ cõi đời trần tục
Từ ngữ xã hội
986
346
Phong vận
Duyên dáng đoan trang
Từ ngữ xã hội
188
347
Phồn hoa
Giàu có, đô hội
Từ ngữ xã hội
180
348
Phu nhân
Vợ vua , quan từ nhị phẩm trở lên
P.12
349
Phú Dương
1621
Địa danh
Tên huyện thuộc Chiết Giang
350
Phù dung
1160
Từ ngữ xã hội
Một loại sen, chỉ người phụ nữ đẹp
351
Phủ đường
1160
Từ ngữ xã hội
Nhà làm việc của quan
352
Phù tang
2471
Từ ngữ xã hội
Hộ tang cha mẹ
353
Phú hậu
2002
Từ ngữ xã hội
Nhà nền nếp giàu có
354
Phúc Kiến
149
Địa danh
Tên một tỉnh ở Trung Quốc
355
Phúc lộc
2954
Từ ngữ xã hội
Sự may mắn
356
Phục thư
3225
Từ ngữ xã hội
Hồi đáp thư, trả lời thư
357
Phương diện
1086
Từ ngữ xã hội
Thể diện, danh dự
358
Phượng liễn
2591
Từ ngữ xã hội
Nghi thức trang trọng
359
Phượng loan
2265
Kinh Truyện
Quảng Nhã, chỉ chim quý, người tài đẹp
360
Quá quan
2276
Kinh Truyện
Khúc nhạc của Vương Chiêu Quân
361
Quan âm các
479
Địa danh
Tên một gác ở nhà Hoạn Thư
362
Quan gia
1913
Từ ngữ xã hội
Người sang trọng
363
Quan hà
3236
Từ ngữ xã hội
Cửa ải và sông, chỉ đường xa
364
Quan nha
1499
Từ ngữ xã hội
Quan lại và nha dịch, bọn cường quyền
3059
365
Quan phòng
Từ ngữ xã hội
Chỉ nơi quan ải bảo vệ biên cương
366
Quan san
1935
Từ ngữ xã hội
Chỉ cương thổ, biên ải
367
Quan tái
1520
Thi liệu
Đường Vương Hàn, cảnh chia ly
368
Quản huyền
1596
Từ ngữ xã hội
Ống sáo, dây đàn, chỉ tiếng nhạc
369
Quán gia
780
Từ ngữ xã hội
Chủ quán trọ, quán trọ
370
Quán khách
2231
Từ ngữ xã hội
Nhà trọ
371
Quảng Lăng
287
Kinh Truyện
Tấn Thư, tên khúc nhạc của Kê Khang
372
Quân lệnh
477
Từ ngữ quân sự
Lệnh của tướng lệnh, điều binh
373
Quân trung
2378
Từ ngữ quân sự
Giữa doanh trại, nơi ở của nguyên soái
374
Quân tử
2437
Kinh Truyện
Luận Ngữ, chỉ người có học
375
Quốc gia
351
Kinh Truyện
Hán Thư, chỉ giang sơn, tổ quốc
376
Quốc sắc
2591
Từ ngữ xã hội
Người đẹp nổi tiếng trong nước
377
Quốc sỹ
163
Kinh Truyện
Sử Ký, người tài giỏi trong nước
378
Quy liệu
2427
Từ ngữ xã hội
Thu xếp, an bài mọi việc
379
Quy ninh
614
Kinh Truyện
Kinh Thi, con gái đã lấy chồng về thăm
P.13
nhà cha mẹ đẻ
380
Quỷ thần
1606
Kinh Truyện
Sưu Thần Ký, chỉ bậc thần tiên
381
Quyên sinh
906
Từ ngữ xã hội
Tự làm cho mình chết
Quảng Nhã, nước ngọc, chỉ loại rượu quý
382
Quỳnh tương
858
Kinh Truyện
Người làm việc trong phủ nha
383
Sai nha
453
Từ ngữ xã hội
Nơi làm việc của quan, nhà chính
384
Sảnh đường
576
Từ ngữ xã hội
Cái khí chém giết, sự hung dữ
385
Sát khí
1711
Từ ngữ xã hội
Kinh Thư, giấy tờ do vua ban
386
Sắc chỉ
2251
Kinh Truyện
Kinh Thi, tên đàn, thê tử hảo hợp
387
Sắt cầm
2948
Kinh Truyện
Thông Điển,tên sao, chỉ sự xa cách
388
Sâm Thương
3178
Kinh Truyện
Kim Cương Kinh, Tam độc, chỉ dục vọng
389
Sân si
2329
Kinh Truyện
Sự chia cắt, nỗi khổ
390
Sinh ly
1166
Từ ngữ xã hội
Huyền Trung Ký, đồ dẫn cưới
391
Sính nghi
780
Kinh Truyện
Ngày sinh
392
Sinh nhật
844
Từ ngữ xã hội
Công ơn sinh dưỡng của cha mẹ
393
Sinh thành
371
Từ ngữ xã hội
Sự sống chết
394
Sinh tử
604
Từ ngữ xã hội
Điều mong muốn
395
Sở cầu
3169
Từ ngữ xã hội
Kẻ đàng điếm
396
Sở Khanh
2123
Nhân danh
Dàn hai, xếp theo thứ tự chầu vua
397
Song phi
1223
Từ ngữ xã hội
Chỉ cha mẹ
398
Song thân
2312
Từ ngữ xã hội
Chỉ đất nước, tổ quốc
399
Sơn hà
862
Từ ngữ xã hội
Hòn giả sơn và hồ nước, phong cảnh
400
Sơn hồ
2442
Từ ngữ xã hội
Núi và khe, đường đi khó khăn
401
Sơn khê
1915
Từ ngữ xã hội
Bạn học cùng thầy
402
Sư huynh
533
Từ ngữ xã hội
Thầy dạy
403
Sư trưởng
2046
Từ ngữ xã hội
Dâm đãng, bậy bạ
404
Tà dâm
2341
Từ ngữ xã hội
Trả ơn
405
Tạ ân
2682
Từ ngữ xã hội
Từ biệt
406
Tạ từ
2421
Từ ngữ xã hội
Người tài giỏi, danh tiếng
407
Tài danh
2418
Từ ngữ xã hội
Chỉ tài giỏi biểu lộ ra ngoài
408
Tài hoa
149
Từ ngữ xã hội
Tài năng và sắc đẹp, chỉ phụ nữ
409
Tài sắc
115
Từ ngữ xã hội
P.14
Từ ngữ xã hội
Người tài giỏi
24
410
Tài tử
Từ ngữ xã hội
Sinh ra một lần nữa, sống lại
47
411
Tái sinh
Từ ngữ xã hội
Sống lại
707
412
Tái thế
Kinh Truyện
Ba La Mật Đa Tâm Kinh: Bành Kiêu,
3039
413
Tam bành
Bành Cứ, Bành Chất; sự nổi giận
Kinh Truyện
Thần Tiên Truyện, cõi tiên
962
414
Tam đảo
Nhân danh
1685
415
Tam Hợp
Kinh Truyện
Quy y Phật, Pháp, Tăng, xuất gia
2563
416
Tam quy
Kinh Truyện
Lễ Ký, lễ tang, giải oan, cầu siêu
1920
417
Tang trai
Kinh Truyện
Hậu Hán Thư, chỉ người vợ hiền
1668
418
Tao khang
Từ ngữ xã hội
Sửa sang phần mộ
1480
419
Tảo mộ
Từ ngữ xã hội
Quan hệ khắng khít
44
420
Tâm giao
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng trong sáng
3085
421
Tâm hương
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng trung thục
1930
422
Tâm minh
Từ ngữ xã hội
Người trung thành
2124
423
Tâm phúc
Địa danh
Tỉnh Sơn Tây, nơi phát tích của nhà
3183
424
Tấn Dương
Đường, chỉ nghiệp đế vương
425
Tất giao
2196
Kinh Truyện
Hán Sử, keo sơn, sự gắn bó
359
426
Tây thiên
Kinh Truyện
Phổ Đà Kinh, đất phật
195
427
Tẩy oan
Từ ngữ xã hội
Rửa oan
428
Tẩy trần
2438
Từ ngữ xã hội
Tục xưa khi đi xa về thường làm tiệc
rượu tẩy trần (rửa bụi), cầu may
429
Tế độ
1571
Kinh Truyện
Kim Cương Kinh, cứu rỗi chúng sinh
thoát khỏi phiền não, bể khổ
430
Tế nhuyễn
1080
Từ ngữ xã hội
Đồ cúng tế
583
431
Tha hương
Từ ngữ xã hội
Lưu lạc nơi đất khách, ly hương
532
432
Thanh cao
Từ ngữ xã hội
Phong cách cao nhã
3244
433
Thanh khí
Kinh Truyện
Dịch Kinh, cùng cảnh ngộ
193
434
Thanh lâu
Từ ngữ xã hội
Chỉ nhà quyền quý, nhà thổ
2668
435
Thanh minh
Từ ngữ xã hội
Tiết khí, khoảng tháng 3 ÂL
43
437
Thanh nhàn
Từ ngữ xã hội
Thong dong, thoải mái
P.15
437
Thanh tân
2875
Từ ngữ xã hội
Thanh tú, mới mẻ, đẹp đẽ
438
Thanh vân
188
Kinh Truyện
Cựu Đường Thư, chỉ hoạn lộ đắc ý
439
Thanh xuân
2478
Từ ngữ xã hội
Tuổi trẻ, sức sống
440
Thanh y
1059
Từ ngữ xã hội
Đầy tớ gái
441
Thành thân
1745
Từ ngữ xã hội
Kết hôn
442
Thánh đế
2108
Kinh Truyện
Thư kinh, chỉ vua Nghiêu Thuấn
443
Thảo am
2489
Từ ngữ xã hội
Lều cỏ
444
Thảo đường
2990
Từ ngữ xã hội
Nhà cỏ, nơi ẩn dật
445
Thảo lư
2697
Văn liệu
Tam Quốc diễn nghĩa, nhà cỏ, ẩn dật
446
Thăng đường
2732
Từ ngữ xã hội
Lên công đường làm việc quan
447
Thâm giao
2885
Từ ngữ xã hội
Có mối giao hảo sâu sắc
448
Thần hôn
3085
Kinh Truyện
Hiếu Kinh, sớm hôm, chăm sóc cha mẹ
449
Thần mộng
918
Từ ngữ xã hội
Nằm mộng
450
Thất bảo
1017
Từ ngữ xã hội
7 loại của quý, vật quý
451
Thê nhi
1724
Từ ngữ xã hội
Vợ con, chỉ gia đình
452
Thể phách
2874
Từ ngữ xã hội
Linh hồn
453
Thệ sư
116
Kinh Truyện
Người làm phép, Vu sư
454
Thể nữ
2307
Từ ngữ xã hội
Người đầy tớ gái
455
Thi đồng
2263
Từ ngữ xã hội
Ống để thơ
456
Thi họa
397
Từ ngữ xã hội
Tài làm thơ, vẽ tranh
457
Thị hùng
30
Từ ngữ xã hội
Cậy sức ra oai
458
Thị lập
1178
Từ ngữ xã hội
Đứng hầu quan trên, hầu vua
459
Thị yến
2312
Từ ngữ xã hội
Hầu tiệc
460
Thiên đường
2567
Từ ngữ xã hội
Cõi trời
461
Thiên hạ
1774
Kinh Truyện
Kinh Thi, chỉ giang sơn đất nước
462
Thiên hương
1962
Từ ngữ xã hội
Hương trời, vẻ đẹp phụ nữ
463
Thiên quan
66
Kinh Truyện
Chu Lễ, quan đứng đầu triều
(trủng tể)
464
Thiên Thai
1722
Thi liệu
Đường Thi, cõi tiên
465
Thiên tài
392
Từ ngữ xã hội
Tài năng trời phú
466
Thiên tải
163
Từ ngữ xã hội
Ngàn năm
P.16
Kinh Truyện
Lục độ tập kinh, thanh tĩnh, tịch mịch
467
Thiền
2399
Từ ngữ xã hội
Gốc nhân từ, sự hiền lành
468
Thiện căn
1933
Từ ngữ xã hội
Người làm việc thiện
469
Thiện nhân
3251
Từ ngữ xã hội
Lập bàn thờ
470
Thiết vị
1729
471
Thiều quang
Từ ngữ xã hội
Ánh sáng múa xuân
2967
Kinh Truyện
Thuật dị ký, mặt trăng
472
Thỏ
40
Từ ngữ xã hội
Thần coi sóc một vùng
473
Thổ công
79
Từ ngữ xã hội
Quan lại địa phương (vùng cao)
474
Thổ quan
2132
475
Thông huyền
Kinh Truyện
Huỳnh Đình Kinh, thông hiểu huyền
2589
cơ, biết được ý trời
Từ ngữ xã hội
Giỏi giang
476
Thông minh
1684
Từ ngữ xã hội
Thông minh, hiền lành
477
Thông tuệ
150
Thi liệu
Ánh mắt của người con gái đẹp
478
Thu ba
2059
Từ ngữ xã hội
Không gian về đêm, tiếng chuông chiều
479
Thu không
1323
Từ ngữ xã hội
Hồn bị thu về địa phủ, chết
480
Thu linh
172
Từ ngữ xã hội
Ánh mắt phụ nữ
481
Thu thủy
2960
Từ ngữ xã hội
Mời rượu, uống rượu
482
Thù tạc
25
Nhân danh
Tên gọi Thúc Sinh
483
Thúc Lang
1835
Từ ngữ quân sự
Bó giáp, đầu hàng
484
Thúc giáp
1464
Nhân danh
Cha Thúc Sinh
485
Thúc ông
2502
Nhân danh
Tên nhân vật
486
Thúc Sinh
1452
Từ ngữ xã hội
Em bố, ông chú
487
Thúc phụ
1397
Kinh Truyện
Sưu Thần Ký, chỉ kẻ mất nước
488
Thục Đế
531
Từ ngữ xã hội
Con gái con nhà gia giáo
489
Thục nữ
3202
Nhân danh
Tên nhân vật
490
Thúy Kiều
3219
Nhân danh
Tên nhân vật
491
Thúy Vân
16
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng son sắt từ đầu đến cuối
492
Thủy chung
16
352
493
Thuyền quyên
Từ ngữ xã hội
Chỉ người con gái đẹp
494
Thư hiên
819
Từ ngữ xã hội
Phòng sách
495
Thư hương
395
Từ ngữ xã hội
Dòng dõi sĩ hoạn
496
Thư phòng
1061
Từ ngữ xã hội
Phòng đọc sách
P.17
Từ ngữ xã hội
Gánh vác việc nhà
2849
497
Thừa gia
Từ ngữ xã hội
Hóng mát, nơi nhàn dật
3237
498
Thừa lương
Từ ngữ xã hội
Đau buồn
1371
499
Thương tâm
Từ ngữ xã hội
Ký hiệu Sở Khanh gửi cho Kiều
1084
500
Tích việt
Từ ngữ quân sự
Hồi trống đầu khi xuất quân
2317
501
Tiên nghiêm
Từ ngữ quân sự
Chỉ đội quân, viên tướng đi đầu
2509
502
Tiên phong
Từ ngữ xã hội
Chỉ người thầy (đã qua đời)
932
503
Tiên sư
Từ ngữ xã hội
Đón trước được sự việc
2406
504
Tiên tri
505
Tiền Đường
Địa danh
Tên sông Hàng Châu (Chiết Giang)
1000
Thi liệu
Đường, Đỗ Phủ, đường đời
2269
506
Tiền lộ
Từ ngữ xã hội
Cánh chim Hồng hộc, gửi thư
1084
507
Tiện hồng
Từ ngữ xã hội
Tài mọn, khiêm tốn
465
508
Tiện kỹ
Từ ngữ xã hội
Tùy tiện, tự làm theo ý mình
2454
509
Tiện nghi
Từ ngữ xã hội
Đất xấu, chỗ chôn người chết
2561
510
Tiện thổ
Kinh Truyện
Nam Hoa Kinh, chỉ cảnh nhàn dật
2876
511
Tiêu dao
Từ ngữ xã hội
Tin tức, sự trông mong, nhớ nhung
1489
512
Tiêu hao
Từ ngữ xã hội
Tiêu điều, thê lương, buồn bã
491
513
Tiêu tao
Từ ngữ xã hội
Con suối nhỏ, phong cảnh đẹp
53
514
Tiểu khê
Từ ngữ xã hội
Người con gái đẹp
187
515
Tiểu kiều
Từ ngữ xã hội
Tiểu ni sư
2043
516
Tiểu thiền
Nhân danh
Tên nàng Phùng Phục Thi, vợ vua Tề,
2586
517
Tiểu Lân
chỉ tấm lòng chung thủy
1557
Từ ngữ xã hội
Con gái nhà quyền quý
518
Tiểu thư
Từ ngữ xã hội
Sao nhỏ, chỉ người vợ lẽ
954
519
Tiểu tinh
Kinh Truyện
Lễ Ký, kỳ rước dâu
694
520
Tinh kỳ
Từ ngữ xã hội
Sáng sủa, linh lợi
116
521
Tinh anh
522
Tinh binh
2965
Từ ngữ quân sự
Đội quân tinh nhuệ
523
Tinh thành
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng thành khiết
126
524
Tinh thần
Từ ngữ xã hội
Yếu tố vô hình , đối lập với thể xác
17
525
Tinh Vệ
2972
Kinh truyện
Thuật Dị Ký, con gái vua Viêm Đế, chỉ
công vô ích, công dã tràng
P.18
Từ ngữ xã hội
Chuyện tình Nam nữ
2682
526
Tình ái
Từ ngữ xã hội
Nhân duyên vợ chồng
3139
527
Tình duyên
Từ ngữ xã hội
Người tình
3143
528
Tình nhân
Từ ngữ xã hội
Người tình, người chồng
751
529
Tình quân
Từ ngữ xã hội
Nơi thanh tịnh thờ Phật, Thánh
1689
530
Tĩnh đàn
Kinh Truyện
Liệt nữ truyện, Tam tòng, đạo làm vợ
506
531
Tòng phu
Từ ngữ xã hội
Sự ứng biến, xoay sở
600
532
Tòng quyền
Từ ngữ xã hội
Gia tộc
1953
533
Tông đường
Kinh Truyện
Chiến Quốc Sách, chàng trai đẹp
1232
534
Tống Ngọc
Từ ngữ xã hội
Quan đầu tỉnh, hàm nhị phẩm
2451
535
Tổng đốc
Từ ngữ xã hội
Tên loài hoa, chỉ người con gái đẹp
1092
536
Trà mi
Nhân danh
Pháp hiệu của Thúy Kiều
1922
537
Trạc Tuyền
Từ ngữ xã hội
Nơi ở của những người tu hành
2056
538
Trai phòng
Nhân danh
Chỉ Trang tử, mộng hão huyền
3200
539
Trang Sinh
Kinh Truyện
Thi Kinh, lòng nhớ thương mẹ
1832
540
Trắc Dĩ
Từ ngữ xã hội
Con nhà quyền quý
148
541
Trâm anh
Từ ngữ xã hội
Khổ sở
1080
542
Trầm luân
Từ ngữ xã hội
Thức ăn ngon, quý hiếm
1258
543
Trân cam
Từ ngữ xã hội
Bụi bặm, chỉ cõi đời
1380
544
Trần ai
Từ ngữ xã hội
Bụi bặm, cấu ghét, thân nhơ nhuốc
3104
545
Trần cấu
993
546
Trần duyên
Từ ngữ xã hội
Duyên nợ ở cõi trần
Từ ngữ xã hội
Bày tỏ lời cảm tạ
3032
547
Trần tạ
Kinh Truyện
Thuật Dị Ký, Bá Nha - Tử Kỳ truyện,
1248
548
Tri âm
tình bạn gắn bó, hiểu rõ lẫn nhau.
Từ ngữ xã hội
Biết ơn
386
549
Tri ân
Từ ngữ xã hội
Biết lỗi
2377
550
Tri quá
Từ ngữ xã hội
Cầm bình rượu hầu tiệc, hầu hạ
1836
551
Trì hồ
Từ ngữ xã hội
Xua đuổi ma quỷ
1684
552
Trí quỷ
Từ ngữ xã hội
Chính phủ thời phong kiến
2441
553
Triều đình
Từ ngữ xã hội
Ngay thẳng, trong trắng
1148
554
Trinh bạch
Từ ngữ xã hội
Quan lại cao cấp, dự hàng quân cơ
2451
555
Trọng thần
P.19
556
Trú phường
Từ ngữ xã hội
Nơi ở của kỹ nữ, kỹ viện
785
557
Trụ trì
2038
Từ ngữ xã hội
Người quản lý cao nhất ở chùa
558
Trúc mai
708
Thi liệu
Đường Lý Bạch, chỉ tình bạn đẹp
559
Trúc viện
1371
Từ ngữ xã hội
Nhà nghỉ, nơi nhàn dật
560
Trung đường
1673
Từ ngữ xã hội
Nhà giữa, nơi thờ tổ tiên
561
Trung khúc
423
Từ ngữ xã hội
Điều ẩn uất, quanh co trong lòng
562
Trung quân
2315
Từ ngữ quân sự
Đội quân ở giữa, quân chủ lực
563
Trùng phùng
795
Từ ngữ xã hội
Gặp lại , niềm vui
564
Trùng sinh
3049
Từ ngữ xã hội
Sống lại, niềm vui
565
Truy hoan
1299
Từ ngữ xã hội
Vui chơi, hoan lạc
566
Truy phong
1107
Từ ngữ xã hội
Đuổi gió, tên ngựa, nhanh
567
Trường giang
2636
Địa danh
Tên sông lớn ở Trung Quốc
568
Trường đình
871
Kinh Truyện
Sử Ký, nơi đưa tiễn, nghỉ chân
569
Trường Khanh
Nhân danh
Sử Ký, Tư Mã Tương Như
1232
Trước hổ trướng ở doanh trại, bàn quân cơ
570
Trướng tiền
2378
Từ ngữ xã hội
Chỉ người đàn ông, người chồng
571
Trượng phu
2214
Từ ngữ xã hội
Tên nhân vật, chủ nhà chứa
572
Tú Bà
882
Nhân danh
Miệng thêu, tài văn chương
573
Tú khẩu
208
Từ ngữ xã hội
Vu Lan Kinh, tội ở tiền kiếp nay phải trả
574
Túc khiên
2688
Kinh Truyện
Chỉ người đàn ông, người chồng
575
Tùng quân
901
Từ ngữ xã hội
Nơi pháp đình xét xử
576
Tụng đình
2757
Từ ngữ xã hội
Ngày giờ hẹn xét xử
577
Tụng kỳ
692
Từ ngữ xã hội
Cõi âm phủ
578
Tuyền đài
710
Từ ngữ xã hội
Chỉ sự từng trải
579
Tuyết sương
384
Từ ngữ xã hội
Nhà riêng
580
Tư gia
480
Từ ngữ xã hội
Sử Ký, tên nhạc khúc của Tư Mã
581
Tư Mã (Phượng
4751
Kinh Truyện
Tương Như, sự đồng cảm
Cầu)
Kim Cương Kinh, lòng bác ái
582
Từ bi
908
Kinh Truyện
Chỉ Từ Hải
583
Từ Công
2124
Nhân danh
Nhà thờ tổ, tổ tiên
584
Từ đường
531
Từ ngữ xã hội
Tạm biệt, từ giã về
585
Từ quy
2398
Từ ngữ xã hội
P.20
586
Từ tâm
Từ ngữ xã hội
Tấm lòng hiền hậu
608
587
Tương phùng
Từ ngữ xã hội
Gặp gỡ
159
588
Tương tri
460
Từ ngữ xã hội
Quen biết lẫn nhau
589
U hiển
128
Từ ngữ xã hội
Cõi âm, cõi dương, sự sống chết
590
Uy linh
2321
Từ ngữ xã hội
Sự linh ứng của thần thánh
591
Uy nghi
2313
Từ ngữ xã hội
Vẻ trang trọng
592
Văn chương
150
Từ ngữ xã hội
Thơ phú nói chung
593
Văn nhân
135
Từ ngữ xã hội
Người làm thơ phú
594
Vân du
2650
Văn liệu
Duyệt Vi thảo đường bút ký, đi đây đó
595
Vấn an
1940
Từ ngữ xã hội
Hỏi thăm
596
Vấn danh
624
Kinh Truyện
Lễ Ký, hỏi tên, lễ dạm ngõ
597
Vận mệnh
1798
Từ ngữ xã hội
Tuân theo mệnh lệnh
598
Vệ cơ
2312
Kinh Truyện
Ngũ lễ chú sớ, quân lễ, đơn vị quân đội
599
Vi lô
264
Từ ngữ xã hội
Cây lau, sậy, chỉ sự hiu hắt
Chức quan ngoại ngạch, chỉ người giàu có
600
Viên ngoại
11
Từ ngữ xã hội
Khách xa đến, chỉ khách làng chơi
601
Viễn khách
624
Từ ngữ xã hội
Phương xa, nơi xa
602
Viễn phương
67
Từ ngữ xã hội
Tỉnh Sơn Đông, đất quý
603
Việt Đông
2172
Địa danh
Giàu sang, hiển hách
604
Vinh hiển
2872
Từ ngữ xã hội
Giàu sang, phú quý
605
Vinh hoa
2287
Từ ngữ xã hội
Ly biệt mãi mãi, chết
606
Vĩnh quyết
1680
Từ ngữ xã hội
Không duyên phận vợ chồng
607
Vô duyên
74
Từ ngữ xã hội
Đường Thi, tên sông, chết trận
608
Vô Định
2494
Thi Liệu
Huyện Thường Châu, Giang Tô
609
Vô Tích
2291
Địa danh
Thi Kinh, con gái lấy chồng
610
Vu quy
651
Kinh Truyện
Vu khống, đổ tội cho người khác
611
Vu thác
660
Từ ngữ xã hội
Mẹ Thúy Kiều
612
Vương Bà
674
Nhân danh
Cha Thúy Kiều
613
Vương Ông
712
Nhân danh
Em Thúy Kiều
614
Vương Quan
14
Nhân danh
Quân của nhà vua
615
Vương sư
2506
Từ ngữ xã hội
Quan lại của nhà vua, quan lớn
616
Vương thần
2477
Từ ngữ xã hội
P.21
617
Vương Tôn
828
Từ ngữ xã hội
Con cháu của nhà vua
618
Xuân đình
1500
Thi liệu
Lương Trương Tán, hội họp vui vẻ
619
Xuân Đường
534
Kinh Truyện
Trang Tử, chỉ người cha
620
Xuân Huyên
759
Kinh Truyện
Thi Kinh, Trang Tử, chỉ cha mẹ
621
Xuân sơn
25
Từ ngữ xã hội
Núi mùa xuân, cảnh đẹp, vẻ đẹp
622
Xuất gia
1920
Từ ngữ xã hội
Đi tu
623
Xướng tùy
3148
Từ ngữ xã hội
Đạo làm vợ
624
Yến anh
45
Từ ngữ xã hội
Tên hai loài chim mùa xuân, cảnh đông
đúc, vui tươi, sum vầy hòa hợp
625
Yểu điệu
2841
Kinh Truyện
Thi Kinh, người con gái lấy chồng
P.22
P.23
Phụ lục 2
NGỮ LIỆU CHUYỂN DỊCH
TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
Stt
Ngữ liệu
Câu thơ
Nguồn gốc
Ý nghĩa
Ả Hằng
1363
Hằng Nga thiết dược bôn nguyệt (Tống
Mặt trăng, ám chỉ
1
Văn tuyển – Tạ Trạng)
người đẹp
Ả Lý
2
Liệt Nữ truyện, Tên nàng Lý Kỳ, Đường
Tài nữ
672
Ả Tạ
3
Liệt Nữ truyện, nàng Tạ Đạo Uẩn,Tấn
Tài nữ
406
Ác
4
Ngũ Kinh thông nghĩa, Kim ô
Mặt trời, quạ lửa
79
Kim Ô hải để sở phi lai (Đường Hàn Dũ)
5
Áo xanh
1944
Giang châu Tư mã thanh sam khấp
Hạng nho sỹ
(Đường Bạch Cư Dị)
6
Ấp cây
327
Thiên Đạo Chích, sách Trang Tử, câu
Chữ tín
chuyện về Vĩ Sinh
Ba quân
7
Chu Lễ, cấp quân đội của chư hầu lớn
Quân sự
2299
Ba sao
8
Tam Tinh : Phúc, Lộc, Thọ
Phúc lộc, may mắn
1638
Ba sinh
9
Tam kiếp : Quá khứ, hiện tại, vị lai
Đời người
257
Ba thu
10
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (Thi)
Thời gian
248
Ba xuân
11
Thùy ngôn thốn tâm thảo, báo đáp tam
Công đức cha mẹ
620
xuân huy (Đường – Mạnh Giao)
12
Bảng xuân
2860
Hội thí được tổ chức vào mùa xuân
Sự đỗ đạt
13
Bảy chữ, tám nghề
1210
Hoàng Oanh Nhi (Tình Sử - Phùng
Phòng trung thuật
Mộng Long đời Minh)
Bèo mây
14
Bình Thủy tương phùng
Lang bạt, nhỏ nhoi
1343
Bể dâu
15
Thương hải tang điền (Thần tiên truyện)
Sự biến đổi
03
Bể oan
16
Oan hải (Đại Tạng Kinh)
Quan niệm bể khổ
2420
của Phật giáo
17
Bể trầm luân
1104
Luân hồi
Quan niệm về luân
hồi của Phật giáo
18
Bên nguyên
1415
Nguyên đơn,
Người đi kiện
19
Bóng dâu
1254
Thung dung dưỡng dư nhật, thủ lạc vu
Tuổi già
tang du (Tấn – Trương Hoa)
Tống - Văn tuyển – Tạ Trạng
Chỉ người đẹp
177
Bóng Nga
20
Tinh Kỳ ảnh
Quân đội
2314
Bóng tinh
21
Nguyệt hoa di ảnh ngọc nhân lai
Chỉ người đẹp
438
Bóng trăng
22
Tứ Hải (Thủy Kinh Chú)
Không gian, bốn biển
2225
Bốn bể
23
Tứ quý (Kinh Sở tuế thời ký)
Thời gian, bốn mùa
1914
Bốn mùa
24
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Sầu muộn
1502
Bờ liễu
25
(Đường- Vương Xương Linh)
Cân phủ
Hình phạt thời xưa
661
Búa rìu
26
Ngân dược trùng quan thích vị tịch, bất
Cõi đời, sự nhỏ
250
Bụi hồng
27
như miên khứ mộng trung khan (Đường,
nhoi của cuộc
Từ An Trinh)
sống
Hồng trần (Thần Tiên truyện)
Cõi trần
3137
Bụi trần
28
Tú phòng
Phòng của phụ nữ
527
Buồng thêu
29
Xuân phòng
Phòng của con gái
1010
Buồng xuân
30
Trai phòng, thư trai
Nơi đọc sách
253
Buồng văn
31
Bút của người có tài
Hoa bút
204
Bút hoa
32
Chí lớn anh hùng
Hồng phi tuân chữ (Thi)
2247
Cánh hồng
33
Tỷ dụ cái chết nhẹ
Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du
2970
Cánh hồng
34
nhàng, anh hùng
long (Hán – Tào Thực phú)
Tuổi xuân sắc của
35
Cành xuân
1261
Túng sử trường điều tự cựu thùy, giã
người phụ nữ
ưng phan chiết tha nhân thủ (Toàn
Đường thi thoại)
Chỉ việc cưới xin
Lam Kiều (Thái Bình Quảng ký)
457
Cầu Lam
36
Sách quý
Phương cảo
07
Cảo thơm
37
Quan phục
Cân đái triều phục (Lễ Ký)
2273
Cân đai
38
Nơi cao quý
Bồ đề bách xích thụ (cổ thi)
1914
Cây trăm thước
39
Tín vật xin cưới
Sương chùy (chày giã thuốc Huyền
457
Chày sương
40
sương ở cung Quảng Hàn)
Địa danh
Tức Thai Châu, Triết Giang
2105
Châu Thai
41
Địa danh
Tức Thương Châu, Giang Tô
1277
Châu Thương
42
P.24
Xích thằng hệ túc (Tục u quái lục)
Chuyện hôn nhân
333
Chỉ hồng
43
Thệ hải minh sơn (Cổ thi)
Lời thề son sắt
1367
Chỉ non
44
Phiếm bỉ bách chu, tại bỉ trung hà (Thi)
Số phân long đong
2970
Chiếc Bách
45
Thanh điểu (Hán Vũ cố sự),
Tin tức
268
Chim xanh
46
Cửu tự cù lao (Thi)
Công ơn cha mẹ
1253
Chín chữ
47
Bỉ giao dạ cửu hồi trường (Tùy Thư)
Sự đau đớn
570
Chín hồi
48
Cửu Tuyền (Địa phủ kinh)
Cõi âm
734
Chín suối
49
Đông hoàng, Đông đế, Đông quân
Mùa xuân
1327
Chúa xuân
50
Trông mong, chờ đợi
Chúc vọng
158
Chốc mòng
51
Tài và mệnh đố kỵ
Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương
02
Chữ tài,
52
nhau
(Cổ thi)
Chữ mệnh
Đạo làm vợ, làm con
Tam tòng
717
Chữ tòng
53
Chỗ người đẹp ở
Quảng Hàn cung
1636
Cung Quảng
54
Chỗ người đẹp ở
Nguyệt cung tức Quảng Hàn cung
1339
Cung trăng
55
Cửa xe của vua
Viên môn (Chu Lễ)
2318
Cửa viên
56
Nơi tu hành
Không môn (Đại Thừa chân kinh)
1910
Cửa không
57
Mùa xuân
Phương thảo liên thiên bích, lê chi sổ
41
Cỏ non,
58
điểm hoa (cổ thi)
cành lê
Ông trời
Hóa nhi, hóa công
1116
Con tạo
59
Sự cần mẫn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận (Đường,
1976
Con tằm
60
Lý Thương ẩn)
Cửa gỗ đóng kín, ở ẩn
Ư thị sài môn tuyệt tân khách (Hán Thư)
529
Cửa sài
61
Cửa Phật
Thiền môn
2061
Cửa thiền
62
Đắc ý, được việc
Môn lan đa hỉ khí, nữ tế cận thừa long
2212
Cưỡi rồng
63
(Đường - Đỗ Phủ)
Vợ chồng đồng lòng
Đồng tâm kết
1341
Dải đồng
64
Vợ lẽ
Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi (Thi)
2280
Dây cát
65
Nói dây, tiếp tục
Loan giao, tục huyền giao (Bác vật chí)
2582
Dây loan
66
Cơ may, duyên
1531
67
Duyên Đằng
Thời lai phong tống Đằng Vương các
may
(Tống - Tô Đông Pha)
Sự bền vững, chắc
68
Đá vàng
352
Cổ công tích minh hồ kim thạch (Lã Thị
P.25
Xuân Thu)
chắn, bền bỉ
69
Đài gương
330
Sầu phụ kính đài tiền
Nỗi buồn của
(Đường, Trịnh Âm)
người phụ nữ
Đào yêu (Thi)
Tuổi lấy chồng
1670
Đào non
70
Thôi cốc (Hán Thư)
Trọng hiền tài
2433
Đẩy xe
71
Thúc số, sinh số (Thượng Thư)
Bói toán
439
Đặt cỏ
72
Vu Giáp, Cao Đường mộng
Giấc mơ
850
Đỉnh Giáp
73
(non thần)
Hoa chúc (Cổ Lễ)
Phòng cưới
2861
Đuốc hoa
74
391
Đường mây
75
Vân lộ, thanh vân đắc lộ (Cổ ngữ)
Đạt quan
437
Động Đào
76
Đào hoa nguyên ký (Tấn Đào Tiềm)
Sự ẩn dật
1266
Giấc hòe
77
Hòe An mộng (Dị văn lục)
Mộng ảo, cõi mộng
78
Giấc Hương quan
2727
Cố hương quan chi mộng
Nhớ quê
713
Giấc mai
79
Mai hồn mộng (Long Thanh Lục)
Giấc ngủ
658
Giấc xuân
80
Xuân miên
Giấc ngủ
519
Gieo cầu
81
Đầu Tú câu (Nam Tề Thư)
Chọn rể
762
Gieo thoa
82
Đầu thoa (Tấn Thư)
Giọt hồng
83
1858
Ưng hậu khách trình qui vị đắc Lục song
Trinh tiết
hồng lệ lãnh quyên quyên (cổ thi)
1865
Giọt Tương
84
Tương lệ (Bác vật chí), nước mắt
Nước mắt người vợ
1043
Giọt rồng
85
Đồng Long
Đồng hồ xưa
2237
Gốc Tử
86
Tử phần (Thi)
Mẹ già mong con
1715
87
Huyên, xuân
Huyên Đường, Xuân Đường (Thi)
Cha mẹ già
Mai hồn (Long Thành Lục - Triệu Sư Hùng)
1306
Hồn mai
88
Hồn người phụ nữ
Đồng xú (Hậu Hán thư, Thôi Thực truyện)
726
Hơi đồng
89
Sự thanh liêm
Loan giao (Bác vật chí)
1100
Keo loan
90
Sự bền chặt
Kết thảo hàm hoàn (Bắc sử,Vương Huệ
1532
Kết cỏ
91
Sự hàm ơn, báo đáp
Long truyện)
( ngậm vành)
Kết phát vi phu phụ
479
Kết tóc
92
Kết nghĩa vợ chồng
Chiêu Quân khúc (Hậu Hán Thư)
93
Khúc Chiêu Quân
477
Khúc nhạc chia ly
Quảng Lăng khúc (Tấn Thư)
94
Khúc Quảng Lăng
268
Khúc nhạc từ biệt
P.26
Hồng diệp (Thái Bình quảng ký)
Mai mối, duyên lành
Lá thắm
95
1568
Hồng lâu
Nơi ở của phụ nữ
Lầu hồng
96
809
Thanh Lâu
Kỹ viện
Lầu xanh
97
1261
Liễu Chương Đài
1537
Chương Đài liễu (Toàn Đường thi thoại)
Sự chung thủy
98
Tâm hỏa
Dục vọng
99
Lửa tâm
2250
Binh hỏa
Quân vụ
100
Lửa binh
2406
Hồng nhan
Phụ nữ
101
Má hồng
517
Tây sương (Tây Sương ký)
Nơi hẹn hò
102
Mái Tây
238
103
Mạch Tương
Tương lệ (Bác vật chí)
Nước mắt của phụ nữ
255
104
Mành Tương
1319
Tương liêm (Bác vật chí)
Của quý hiếm
105
Mây Hàng (mây
2236, 1787
Thái Hàng vân (Tân Đường Thư - Địch
Lòng hiếu thuận,
trắng)
Nhân Kiệt truyện)
nhớ mẹ cha
106
Mây Tần
2182
Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại
Nhớ cố hương
(Đường, Hàn Dũ)
Thanh nhãn (Tấn - Nguyễn Tịch)
Người tri ki
107
Mắt xanh
2196
Long vân khánh hội (Dịch)
Nghiệp đế vương
108
Mây rồng
671
Đề Oanh (Liệt Nữ truyện)
Lòng hiếu thuận
109
Nàng Oanh
2991
Ngày buồn, mòm mỏi
Bạc nhật
110
Ngày bạc
734
Sự thỏa lòng
Hàm tiếu nhập địa
111
Ngậm cười
27
Sắc đẹp mỹ miều
112
Nghiêng nước
2862
Khuynh quốc khuynh thành (Hán Nhạc
(nghiêng thành)
phủ – Lý Diên Niên)
Đỗ đạt, đỗ tiến sĩ
113
Ngõ Hạnh
Hạnh viên hạng (Du thành Nam ký)
3204
Của quý hiếm
114
Ngọc Lam Điền
Lam Điền ngọc
1350
Chỉ vợ lẽ
115
Người Đằng La
106
Đằng La (Quy Sơn cảnh sách)
Người xưa, tổ tiên
116
Người đời xưa
1043
Cổ nhân
Lòng thương yêu
117
Người tựa cửa
Ỷ môn vọng nhữ (Chiến Quốc Sách,
của cha mẹ
Vương Tôn Giả)
Người làm mai mối
118
Nhà băng
630
Băng nhân (Thông Chí)
Người mẹ
119
Nhà Huyên
244
Huyên đường: Yên đắc huyên thảo,
ngôn thụ chi bối (Thi)
Phòng ở của phụ nữ
120
Nhà Hương
1803
Hương khuê (Quảng Tập)
P.27
Chi Lan thất, Lan thất (Gia ngữ)
Nhà của người đẹp
375
121
Nhà Lan
Thung (Xuân) đường (Trang tử)
Chỉ người cha
1353
122
Nhà Thung
Kim ốc (Hán Vũ cố sự).
Chỗ người đẹp
1902
123
Nhà vàng
Nguyệt Hạ Lão nhân (Tục u quái lục)
Người làm mai mối
549
124
Ông Tơ
Bảo trụ tín (Luận ngữ chú sớ giải kinh)
Lòng trung tín
328
125
Phận ấp cây
126
Phường Kim Môn
410
Kim Mã môn (Hán Thư)
Chốn cung đình
127
Quạt nồng (ấp
1044
Đông ôn hạ sảnh (Hoàng Hương – Nhị
Lòng hiếu thuận
thập tứ hiếu)
lạnh)
Lão Lai Tử (Hiếu tử truyện)
Lòng hiếu thuận
1045
128
Sân Lai
Tam Hòe Vương thị (Tống Sử)
Sự vinh hiển
1257
129
Sân Hòe
Bội ngọc (Lễ Ký)
Chỉ người quân tử
310
130
Sân Ngọc Bội
Kim Liên ( Nam sử)
Chỉ người đẹp
190
131
Sen vàng
Tần Xuyên ( Đường - Vị Tây ca)
Sự đau buồn, chia ly
1501
132
Sông Tần
Yến hạm, hổ đầu, ngọa tàm my (Hán Thư)
133
Râu hùm, hàm én
2167
Quý tướng anh hùng
Tinh trì
1466
134
Ruổi sao
Đi trong đêm tối
Tử trúc lâm
1926
135
Rừng tía
Nơi ẩn dật
Phượng hoàng vu quy
2212
136
Sánh phượng
Con gái lấy chồng
Cát lũy (Thi)
1633
137
Sắn bìm
Thân phận vợ lẽ
Quốc sắc thiên hương
1065
138
Sắc nước
Vẻ đẹp của phụ nữ
(hương trời)
Quân tại Tương giang đầu, thiếp tại
Sự chia ly của
139
Sông Tương
365
Tương giang vỹ (cổ thi)
người phụ nữ
Hoàng tuyền (Địa phủ kinh)
94
140
Suối vàng
Chốn âm phủ
Thanh sử (Hán Thư)
07
141
Sử xanh
Danh vọng
Thốn tâm
242
142
Tấc riêng
Tấm lòng son sắt
Thần hôn định tỉnh
Lòng hiếu thuận
143
Tấm lòng thần hôn
918
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh
Vắng vẻ, cô quạnh,
144
Thân rồng cá
2672
(Đỗ Phủ)
không người tri kỷ
Quế Thiềm (Dậu Dương Tạp Trở)
145
Thềm quế
1339
Cung trăng
Nguyệt trung hà hữu, ngọc thố đảo dược
146
Thỏ bạc
1269
Mặt trăng
(Phó Hàm – Nghĩ thiên hàm)
P.28
147
Thói nhà
Gia phong
Nề nếp gia đình
332
148
Thiếp Lan Đình
Lan Đình Tự Thiếp (Tấn Thư)
Chữ viết đẹp
1988
Thuần canh lô khoái (Tấn thư, Trương Hàn)
149
Thuần vược
Nhớ cố hương
1593
Kỳ công đức như thử
150
Thửa công đức
Công đức, tiết hạnh
2687
Ngư thư (Nhữ Nam tiên hiền truyện)
2944
151
Tin cá
Tin tức
Nhạn tín (Hán Thư – Tô Vũ truyện)
945
152
Tin nhạn
Tin tức
Sương tín (Cổ kim thi thoại)
622
153
Tin sương
Tin tức
Ngư dương cổ bề động đại lai (Đường
2222
154
Tiếng Bề
Tiếng trống trận
Bạch Cư Dị)
Hồng ti (Khai Nguyên Thiên Bảo si sự)
540
155
Trao tơ
Gả con gái lấy
Nguyệt lão (Tục u quái lục)
687
156
Trăng già
chồng
Phong nguyệt
1290
157
Trăng gió
Người làm mai mối
Tang gian Bộc thượng chi âm, vong
507
158
Trên Bộc
Chuyện nam nữ
quốc chi âm dã (Lễ Ký)
159
(trong dâu)
Thói dâm bô
Kim binh uy dĩ chấn, thi như phá trúc, sổ
160
Trúc chẻ
2439
Thắng trận, sức
tiết chi hậu giai nghinh nhận nhi giải
(ngói tan)
mạnh của quân đội
(Tấn Thư - Đỗ Dự truyện)
Hổ Trướng (Nam Đường Thư)
2315
161
Trướng Hùm
Chốn quân cơ
Huỳnh Trướng (Tấn Thư, Xa Dận)
434
162
Trướng Huỳnh
Phòng đọc sách
Mai trướng
2284
163
Trướng mai
Phòng sách
Thanh mai trúc mã (Đường Lý Bạch)
704
164
Trúc mai
Sự gắn bó
Ngũ nguyệt ngũ nhật, hữu đấu bách thảo
160
165
Tuần đố lá
Trò chơi
chi hý (Tông Lẫm – Kinh Sở tuế thời ký)
Hạc thọ (Thần tiên truyện)
166
Tuổi Hạc
673
Tuổi thọ của cha mẹ
Vật hóa di tính (Cổ ngữ)
167
Vật đổi (sao dời)
3087
Sự thay đổi
Cửu hồi trường
168
Vò chín khúc
488
Sự đau đớn
Khả lân Vô Định hà biên cốt (Đường,
169
Xương Vô Định
2494
Sự chết chóc , chỉ
Trần Đào)
chiến tranh
P.29
P.30
Phụ lục 3
HỆ THỐNG THÀNH NGỮ NGUYÊN MẪU
TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
Câu
Stt
Thành ngữ
Điển cố
Yếu tố thi pháp
thơ
Ngôn ngữ Thuý Kiều 翠翹
509
1 Ăn xổi ở thì
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2 Ăn gió nằm sương
554
X
(Phong xan lộ túc)
2865
Ngôn ngữ tác giả
3 Ân trả nghĩa đền
Ngôn ngữ tác giả
4
2393
Bạc ác tinh ma
2122
Ngôn ngữ tác giả
5 Bán hùm buôn sói
Ngôn ngữ tác giả
6 Bắt khoan bắt nhặt
1837
(Bách ban vi nan)
2401
Ngôn ngữ Thuý Kiều
7 Bèo hợp mây tan
Ngôn ngữ Thuý Vân 翠雲
8 Bèo nổi mây chìm
770
(Phiêu phù vô định)
1882
Ngôn ngữ tác giả
9 Bể sâu sóng cả
Ngôn ngữ tác giả
10 Bể Sở sông Ngô
X
2464
(Ngô đầu Sở vĩ)
X
1104
Ngôn ngữ Sở Khanh 楚卿
11 Bể trầm luân
X
5
Ngôn ngữ tác giả
12 Bỉ sắc tư phong
3051
Ngôn ngữ tác giả
13 Bỉ thử nhất thì
X
3065
Ngôn ngữ Thuý Vân
14 Bình địa ba đào
X
2944
Ngôn ngữ tác giả
15 Bóng chim tăm cá
1709
Ngôn ngữ tác giả
16 Buồm cao lèo thẳng
814
Ngôn ngữ tác giả
17 Buôn phấn bán hương
18 Bưng bít (kín) miệng bình
1577
Ngôn ngữ Thúc Sinh 束生
Ngôn ngữ Thuý Kiều
19 Bưng mắt bắt chim
1508
(Yếm mục bổ tước)
1128
Ngôn ngữ tác giả
20 Bước thấp bước cao
(Khảm kha bất bình)
1238
21 Bướm chán ong chường
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1229
22 Bướm lả ong lơi
Ngôn ngữ tác giả
23 Cá chậu chim lồng
Ngôn ngữ Từ Hải 徐海
2184
(Trì ngư lung điểu)
3166
24 Cá nước chim trời
Ngôn ngữ Kim Trọng 金重
25 Cá nước duyên ưa
Ngôn ngữ Từ Hải
2275
X
(Ngư thuỷ duyên hài)
26 Cách mặt khuất lời
747
Ngôn ngữ Hoạn Thư 宦姐
27 Cạn dòng lá thắm, dứt đường
Ngôn ngữ tác giả
268
X
chim xanh
28 Càng cay nghiệt lắm, càng
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2362
oan trái nhiều
246
29 Canh cánh bên lòng
Ngôn ngữ tác giả
30 Cánh hồng bay bổng
Ngôn ngữ tác giả
2247
(Hồng nhạn cao phi)
2605
31 Cát dập sóng vùi
Ngôn ngữ Thuý Kiều
639
32 Cân sắc cân tài
Ngôn ngữ tác giả
514
33 Chán chường yến anh
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2010
34 Chau mày nghiến răng
Ngôn ngữ Thuý Kiều
35 Chạy chẳng khỏi trời
Ngôn ngữ tác giả
2163
(Sáp sí nan phi)
36 Chẳng vò mà rối, chẳng dần
Ngôn ngữ tác giả
1252
mà đau
2517
37 Chắp cánh cao bay
Ngôn ngữ Thuý Kiều
38 Chắp cánh liền cành
Ngôn ngữ Thuý Kiều
515
X
(Tỷ dực liên chi)
39 Chân trời mặt bể
Ngôn ngữ tác giả
2607
X
(Thiên nhai hải giác)
104
40 Châu sa vắn dài
Ngôn ngữ tác giả
1840
41 Chén đầy chén vơi
Ngôn ngữ tác giả
1835
43 Chén tạc chén thù
Ngôn ngữ tác giả
P.31
(Thù tạc giao thác)
Ngôn ngữ tác giả
44 Chỉ non thề bể
1368
X
(Thệ hải minh sơn)
2485
X
Ngôn ngữ Thuý Kiều
45 Chiếc bách giữa dòng
1957
X
Ngôn ngữ Thuý Kiều
46 Chiếc bách sóng đào
1523
Ngôn ngữ tác giả
47 Chiếc bóng năm canh
1627
Ngôn ngữ tác giả
48 Chiếc bóng song the
2995
Ngôn ngữ tác giả
49 Chiếc lá lìa rừng
Ngôn ngữ tác giả
50 Chín chữ cao sâu
1253
X
(Cửu tự cù lao)
2471
Ngôn ngữ Từ Hải
51 Chọc trời khuấy nước
Ngôn ngữ Thuý Kiều
52 Chọn đá thử (gửi) vàng
2187
(Giản phật thiêu hương)
2201
Ngôn ngữ tác giả
53 Con mắt tinh đời
1758
Ngôn ngữ tác giả
54 Con ong cái kiến
1116
X
Ngôn ngữ tác giả
55 Con tạo xoay vần
2245
X
Ngôn ngữ tác giả
56 Cố quốc tha hương
1099
X
Ngôn ngữ Thuý Kiều
57 Cốt nhục tử sinh
Ngôn ngữ tác giả
58 Cờ đã đến tay
823
(Đả hưởng đệ nhất thương)
59 Cuộc bể dâu
3
X
Ngôn ngữ tác giả
1331
Ngôn ngữ tác giả
60 Cuộc vuông tròn
1221
Ngôn ngữ tác giả
61 Cửa các buồng khuê
Ngôn ngữ tác giả
62 Cửa đóng then cài
271
(Thiết tướng bả môn)
1591
Ngôn ngữ tác giả
63 Cười phấn cợt son
2606
Ngôn ngữ tác giả
64 Cướp công cha mẹ
2263
Ngôn ngữ tác giả
65 Cung nga thể nữ
Ngôn ngữ tác giả
66 Da mồi tóc sương
2240
x
(Kê bì hạc phát)
1503
Ngôn ngữ tác giả
67 Dài thở ngắn than
3080
Ngôn ngữ Thuý Kiều
68 Dãi gió dầu mưa
P.32
(Luân lạc phong trần)
69 Dãi nguyệt dầu hoa
3025
Ngôn ngữ tác giả
70 Dày gió dạn sương
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1237
X
(Xan phong ẩm lộ)
71 Dặn ngọc thề vàng
Ngôn ngữ tác giả
2869
72 Dơ dáng dại hình
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1357
(Xú mô xoạ dạng)
73 Duyên nợ ba sinh
Ngôn ngữ Kim Trọng
257
X
(Tam sinh hương hoả)
74 Dứt áo ra đi
Ngôn ngữ tác giả
2229
75 Đá biết tuổi vàng
Ngôn ngữ tác giả
363
76 Đá nát vàng phai
Ngôn ngữ Thúc Sinh
1955
77 Đan giậm giật giàm
Ngôn ngữ tác giả
586
78 Đánh lận con đen
X
Ngôn ngữ tác giả
839
79 Đau như dần
Ngôn ngữ tác giả
2114
80 Đáy bể mò kim
Ngôn ngữ Kim Trọng
3175
X
(Hải để lao châm)
81 Đắm ngọc chìm hương
Ngôn ngữ tác giả
2638
82 Đắp nhớ đổi sầu
Ngôn ngữ Kim Trọng
383
83 Đầu mày cuối mắt (mặt)
Ngôn ngữ tác giả
498
84 Đầu trâu mặt ngựa
Ngôn ngữ tác giả
578
X
(Ngưu đầu mã diện)
85 Đeo bầu quảy níp
2650
Ngôn ngữ tác giả
86 Đẹp duyên cưỡi rồng
Ngôn ngữ tác giả
2212
X
(Long phụng hoà duyên)
87 Đêm ngắn tình dài
1369
Ngôn ngữ tác giả
88 Đi đời nhà ma
970
Ngôn ngữ Tú Bà 秀婆
89 Đổ quán xiêu đình
1302
Ngôn ngữ tác giả
90 Đổi thay nhạn yến
1478
Ngôn ngữ Thuý Kiều
91 Đổi trắng thay đen
Ngôn ngữ tác giả
690
(Điên đảo hắc bạch)
92 Đội trời đạp đất
2171
Ngôn ngữ tác giả
P.33
(Đỉnh thiên lập địa)
Ngôn ngữ Thúc Sinh
93 Động địa kinh thiên
2924
X
(Kinh thiên động địa)
94 Đưa người cửa trước, rước
Ngôn ngữ tác giả
946
X
người cửa sau
Ngôn ngữ tác giả
95 Đường đi lối lại (về)
846
X
Ngôn ngữ tác giả
96 Ép duyên Châu Trần
2094
Ngôn ngữ tác giả
97 Gan héo ruột đầy
1869
(Can trường thốn đoạn)
98 Gan liền tướng quân
2518
Ngôn ngữ tác giả
99 Gắn bó tất giao
359
Ngôn ngữ tác giả
100 Gầy như mai
638
Ngôn ngữ tác giả
101
Ngôn ngữ Tam hợp đạo cô
Giáo dựng gươm trần
2669
三合道姑
102 Giấu ngược giấu xuôi
1513
Ngôn ngữ Thuý Kiều
103 Giết người không dao
Ngôn ngữ tác giả
1816
(Sát nhân bất kiến huyết)
104 Gìn vàng giữ ngọc
545
Ngôn ngữ Kim Trọng
105 Gió giục (giật) mây vần
907
Ngôn ngữ tác giả
106 Gió kép mưa đơn
1111
Ngôn ngữ Sở Khanh
455,
107 Gió mát trăng thanh (trong)
Ngôn ngữ tác giả
(Thanh phong minh nguyệt)
2165
108 Gió quét mưa sa
2443
Ngôn ngữ tác giả
109 Gió táp mưa sa
403,
Ngôn ngữ Thuý Kiều
(Cấp phong bạo vũ)
3099
110 Gió thảm mưa sầu
Ngôn ngữ tác giả
2569
(Thê phong khổ vũ)
111 Gió trúc mưa mai
Ngôn ngữ tác giả
1249
X
(Trúc phong mai vũ)
112 Gió tựa hoa kề
Ngôn ngữ tác giả
1241
113 Giọt châu thánh thót
Ngôn ngữ tác giả
3015
114 Giọt ngắn giọt dài
Ngôn ngữ tác giả
684
P.34
115 Giông tố phũ phàng
Ngôn ngữ tác giả
1969
116 Giở duốc bày trò
Ngôn ngữ Thuý Kiều
3155
117 Góc bể bên trời
Ngôn ngữ Vương Ông 王翁
899
(Thiên nhai hải giác)
118 Gươm lớn giáo dài
Ngôn ngữ tác giả
2311
119 Gương vỡ lại lành
Ngôn ngữ Thuý Vân
3071
X
(Phá kính trùng viên)
120 Gượng nói gượng cười
Ngôn ngữ tác giả
1864
121 Hạc nội mây ngàn
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2402
122 Hàm én mày ngài
X
Ngôn ngữ tác giả
2274
123 Hiếu trọng tình thâm
Ngôn ngữ tác giả
609
124 Hoa cười ngọc thốt
Ngôn ngữ tác giả
21
125 Hoa đã lìa cành
Ngôn ngữ tác giả
1325
126 Hoa rụng hương bay
Ngôn ngữ tác giả
2997
127 Hoa thải hương thừa
Ngôn ngữ tác gia
1413
128 Hoa trôi bèo dạt (giạt)
Ngôn ngữ Thuý Kiều
219
(Phiêu linh vô y)
129 Hoa xưa ong cũ
Ngôn ngữ tác giả
3144
130 Hồn kinh phách rời
Ngôn ngữ tác giả
2390
(Hồn phi phách lạc)
131 Hồn lạc phách xiêu
Ngôn ngữ tác giả
2363
(Hồn phi phách tán)
459
132 Hồng diệp xích thằng
X
Ngôn ngữ Thuý Kiều
133 Hồng rụng thắm rời
Ngôn ngữ tác giả
1138
134 Hớt hơ hớt hải
Ngôn ngữ tác giả
1659
2237
135 Huyên cỗi xuân già
X
Ngôn ngữ tác giả
136 Hương hỏa (lửa) ba sinh
Ngôn ngữ của quan Huyện xử
2581
(Tam sinh hương hoả)
kiện
2334
137 Kẻ cắp bà già gặp nhau
Ngôn ngữ tác giả
1973
138 Kẻ ngược người xuôi
Ngôn ngữ Thúc Sinh
781
139 Kẻ ở người đi
Ngôn ngữ tác giả
2434
140 Kẻ Việt người Tần
X
Ngôn ngữ tác giả
P.35
141 Kẽ tóc chân tơ
Ngôn ngữ Hoa tỳ 花婢
1997
(Minh tế thu hào)
142 Kể nhặt kể khoan
1153
Ngôn ngữ tác giả
143 Kết cỏ ngậm vành
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1100
X
(Kết thảo hàm hoàn)
144 Kết duyên Châu Trần
2866
X
Ngôn ngữ tác giả
145 Kết tóc xe tơ
1532,
Ngôn ngữ Thuý Kiều
(Kết phát phu thê)
3111
146 Khắc lậu canh tàn
1119
Ngôn ngữ tác giả
147 Khắp chợ thì quê
815
Ngôn ngữ tác giả
148 Kiến bò miệng chén
2335
Ngôn ngữ Hoạn Thư
149 Kim mã ngọc đường
2870
X
Ngôn ngữ tác giả
150 Kín cổng cao tường
267
Ngôn ngữ tác giả
151 Kín như bưng
Ngôn ngữ tác giả
1563
(Thủ khẩu như bình)
152 Lá bối phướn mây
2057
Ngôn ngữ tác giả
153 Lá gió cành chim
1231
X
Ngôn ngữ tác giả
154 Lá rụng hoa rơi
361
Ngôn ngữ tác giả
155 Lá thắm chỉ hồng
Ngôn ngữ Thuý Kiều
333
X
(Hồng diệp xích thằng)
156 Làm thân trâu ngựa
708
Ngôn ngữ Thuý Kiều
71,
Ngôn ngữ tác giả
Lặng ngắt như tờ
157
2753
158 Lên thác xuống ghềnh
1951
Ngôn ngữ tác giả
159 Liễu chán hoa chê
1211
Ngôn ngữ Tú bà
160 Liễu ép hoa nài
521
Ngôn ngữ Thuý Kiều
161 Liễu ngõ hoa tường
1355
Ngôn ngữ Thuý Kiều
162 Lót đó luồn đây
611
Ngôn ngữ tác giả
163 Lộc trọng quyền cao
2497
Ngôn ngữ tác giả
164 Lỡ một lầm hai
1007
Ngôn ngữ Tú bà
165 May thuê viết mướn
2762
Ngôn ngữ tác giả
166 Mạt cưa mướp đắng
812
Ngôn ngữ tác giả
P.36
3068
Ngôn ngữ Thuý Vân
167 Máu chảy ruột mềm
656
Ngôn ngữ tác giả
168 Máu sa ruột dàu
2089
Ngôn ngữ tác giả
169 Mặn phấn tươi son
170 Mặn tình cát lũy, lạt tình tao
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1480
X
khang
Ngôn ngữ Thuý Kiều
171 Mặt dạn mày dày
1223
(Hậu nhan vô sỉ)
2326
Ngôn ngữ tác giả
172 Mặt như chàm đổ
2475
Ngôn ngữ Thuý Kiều
173 Mặt nước cánh bèo
3037
Ngôn ngữ Thuý Kiều
174 Mặt nước chân mây
Ngôn ngữ tác giả
175 Mặt sắt đen sì
1409
X
(Thiết diện vô tư)
Ngôn ngữ tác giả
176 Mặt ủ mày chau
2113
(Sầu mi khổ liễm)
3232
Ngôn ngữ tác giả
177 Mây bay hạc lánh
2902
Ngôn ngữ họ Đô
178 Mây trôi bèo nổi
1731
Ngôn ngữ Tú bà
179 Mèo mả gà đồng
2016
Ngôn ngữ Thuý Kiều
180 Miệng hùm nọc rắn
1162
Ngôn ngữ Mã Kiều 馬嬌
181 Một cốt một đồng
803
Ngôn ngữ tác giả
182 Một khắc một chày
202
Ngôn ngữ tác giả
183 Một hội một thuyền
758
Ngôn ngữ tác giả
184 Một hơi lặng ngắt
1293
Ngôn ngữ tác giả
185 Một tỉnh mười mê
641
Ngôn ngữ tác giả
186 Một vẻ một ưa
2438
Ngôn ngữ tác giả
187 Muôn binh nghìn tướng
2095
Ngôn ngữ Bạc bà
188 Muôn dặm một thân
Ngôn ngữ Hồ Công (Hồ Tôn
189
2574
Muôn oán nghìn sầu
Hiến) 胡公 (胡宗憲)
Ngôn ngữ Từ Hải
190 Muôn chung nghìn tứ
2204
X
(Thiên chung vạn tứ)
391
Ngôn ngữ tác giả
191 Mở khóa động đào
236
Ngôn ngữ Vương Bà 王婆
192 Mua não chuốc sầu
P.37
Ngôn ngữ tác giả
193 Mười phân vẹn mười
X
18
(Thập toàn thập mỹ)
X
1239
Ngôn ngữ tác giả
194 Mưa Sở mây Tần
983
Ngôn ngữ tác giả
195 Mát ngọc liều hoa
2616
Ngôn ngữ Thuý Kiều
196 Nát ngọc tan vàng
1891
Ngôn ngữ tác giả
197 Nát ruột như bào
651
X
Ngôn ngữ tác giả
198 Nạp thái vu quy
568
Ngôn ngữ tác giả
199 Nặng gánh tương tư
997
Ngôn ngữ tác giả
200 Nặng nghiệp má đào
1879
Ngôn ngữ Thuý Kiều
201 Nặng như chì (trì)
790
Ngôn ngữ Thuý Kiều
202 Nắng giữ mưa gìn
1037
Ngôn ngữ tác giả
203 Nắng sớm đèn khuya
198
X
Ngôn ngữ Đạm Tiên 淡仙
204 Ném châu gieo vàng
77
X
Ngươn ngữ Vương Quan 王觀
205 Nếp tử xe châu
308
Ngôn ngữ tác giả
206 Ngày gió đêm trăng
Ngôn ngữ Kim Trọng
207 Ngậm đắng nuốt cay
1472
(Như khổ hàm tân)
1939
Ngôn ngữ tác giả
208 Ngậm ngùi thở than
859
Ngôn ngữ tác giả
209 Nghĩ đi nghĩ lại
Ngôn ngữ tác giả
210 Nghiêng nước nghiêng thành
21
X
(Khuynh quốc khuynh thành)
1332
211 Ngọn nguồn lạch sông
Ngôn ngữ Thúc Sinh
600
X
Ngôn ngữ tác giả
212 Ngộ biến tòng quyền
Ngôn ngữ tác giả
213 Nguyện ước ba sinh
1259
(Tam sinh hữu hạnh)
1609
Ngôn ngữ Hoạn Thư
214 Ngứa ghẻ hờn ghen
Ngôn ngữ tác giả
215 Nhà tranh vách đất
2767
X
(Bồng môn tất hộ)
Ngôn ngữ Kim Trọng
216 Nhả ngọc phun châu
405
X
(Thốn ngọc phún châu)
Ngôn ngữ tác giả
217 Nhắm mắt đưa chân
1115
(Thính thiên do mệnh)
P.38
218 Nhân định thắng thiên
X
Ngôn ngữ Kim Trọng
420
219 Nhẹ như bấc
1879
Ngôn ngữ Thuý Kiều
220 Nhớ cảnh nhớ người
259
Ngôn ngữ tác giả
221 Như bào lòng son
2832
Ngôn ngữ tác giả
222 Như dại như ngây
1839
Ngôn ngữ tác giả
223 Như khóc như than
1853
Ngôn ngữ tác giả
224 Như nung gan sắt
2827
Ngôn ngữ tác giả
225 Như tỉnh như say
804
Ngôn ngữ tác giả
226 Như oán như sầu
476
Ngôn ngữ tác giả
227 Nở mặt mở mày
Ngôn ngữ tác giả
2993
(Mi khai nhãn tiếu)
228 Nợ nần yến anh
1098
Ngôn ngữ Thuý Kiều
229 Nửa tình nửa cảnh
1038
Ngôn ngữ tác giả
230 Nửa ở nửa về
133
Ngôn ngữ tác giả
231 Nước chảy hoa trôi
754
Ngôn ngữ Thuý Kiều
232 Nước dẫy sóng dồi
2672
Ngôn ngữ Tam hợp đạo cô
233 Nước đã đánh phèn
2155
Ngôn ngữ tác giả
234 Nước đục bụi trong
879
Ngôn ngữ Thuý Kiều
235 Nước thẳm non xa
1255
Ngôn ngữ Thuý Kiều
236 Nước trôi hoa rụng
1705
Ngôn ngữ tác giả
237 Ong bướm đãi đằng
1025
X
Ngôn ngữ tác giả
238 Phách lạc hồn bay
Ngôn ngữ tác giả
1651
(Phách tán hồn phi)
239 Phách lạc hồn xiêu
Ngôn ngữ tác giả
1823
(Phách tán hôn phi)
240 Phận bạc như vôi
753
Ngôn ngữ tác giả
241 Phận bèo mây
1343
Ngôn ngữ Thúc Sinh
242 Phận bọt bèo
1449
Ngôn ngữ Thúc Sinh
243 Phận cải duyên kim
3067
X
Ngôn ngữ Thuý Vân
244
1477,
Ngôn ngữ Thuý Vân
Phận gái chữ tong
2217
411
245 Phận mỏng cánh chuồn
Ngôn ngữ Thuý Kiều
P.39
246 Phận mỏng như tờ
Ngôn ngữ Vương Ông
2777
247 Phong gấm rủ là
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1235
248 Phượng chạ loan chung
Ngôn ngữ Thuý Kiều
89
249 Quan sơn nghìn dặm
Ngôn ngữ tác giả
2874
250 Quạt nồng ấp lạnh
Ngôn ngữ tác giả
1044
251 Quằn quại vũng lầy
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1959
252 Quỷ quái tinh ma
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2333
253
X
Ngôn ngữ tác giả
66,
Quốc sắc thiên hương
825
254 Quốc sắc thiên tài
X
Ngôn ngữ tác giả
2922
255 Rày lần mai lữa
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1494
256 Rày trông mai chờ
Ngôn ngữ tác giả
1040
257 Rầu như dưa
Ngôn ngữ tác giả
2794
258 Rẽ thúy chia uyên
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1875
259 Rụng cải rơi kim
X
Ngôn ngữ Thuý Vân
769
260
X
Ngôn ngữ Quan huyện xử kiện
Rước dữ cưu hờn
1459
Thuý Kiều – Thúc Ông
261 Rượu sớm cờ trưa
Ngôn ngữ tác giả
1473
262 Sắc nước hương trời
Ngôn ngữ Sở Khanh
1065
263 Sen ngó đào tơ
Ngôn ngữ tác giả
3137
264 Sông cạn đá mòn
Ngôn ngữ Thúc Sinh
1975
2675
265 Sống đọa thác đày (đầy)
Ngôn ngữ Tam hợp đạo cô
266 Sớm đào tối mận
Ngôn ngữ tác giả
1289
267 Sớm mận tối đào
Ngôn ngữ tác giả
3223
268 Suy trước nghĩ sau
Ngôn ngữ tác giả
1169
(Chiêm tiền cố hậu)
269 Tạc đá ghi vàng
Ngôn ngữ tác giả
2855
270 Tai vách mạch rừng (dừng)
X
Ngôn ngữ bà quản gia nhà
1755
(Cách tường hữu nhĩ)
Hoạn Thư
271 Tái thế tương phùng
X
Ngôn ngữ Thuý Kiều
3039
272
X
Ngôn ngữ tác giả
47,
Tài tử giai nhân
1457
P.40
273 Tay bồng tay mang
2244
Ngôn ngữ Thuý Kiều
274 Tay bợm già
882
Ngôn ngữ Thuý Kiều
275 Tay đã nhúng chàm
1397
Ngôn ngữ Thuý Sinh
276 Tắt lửa lòng
3045
Ngôn ngữ tác giả
277 Thảm lấp (rấp) sầu vùi
1929
Ngôn ngữ tác giả
278 Thanh thiên bạch nhật
2396
Ngôn ngữ tác giả
X
279 Thành hạ yêu minh
2503
Ngôn ngữ tác giả
X
280 Tháng đợi năm chờ
553
Ngôn ngữ Thuý Kiều
281 Tháng trọn (lọn) ngày qua
1789
Ngôn ngữ tác giả
282 Tháo củi sổ lồng
1072
Ngôn ngữ Sở Khanh
283 Thay bậc (bực) đổi ngôi
959
Ngôn ngữ Thuý Kiều
284 Thăm ván bán thuyền
1552
Ngôn ngữ tác giả
285 Thầm trông trộm nhớ
324
Ngôn ngữ tác giả
286 Thân lươn bao quản lấm đầu
1147
Ngôn ngữ Thuý Kiều
287 Thân thích ruột rà
2104
Ngôn ngữ tác giả
288 Thất kinh rụng rời
1654
Ngôn ngữ tác giả
289 Thẹn lục e hồng
787
Ngôn ngữ tác giả
290 Thẹn phấn tủi hồng
1928
Ngôn ngữ tác giả
291 Thệ hải minh sơn
603
Ngôn ngữ tác giả
292 Thiên tải nhất thì
2399
X
Ngôn ngữ tác giả
293 Thịt nát xương mòn
733
Ngôn ngữ Thuý Kiều
294 Thỏ lặn ác tà
79
Ngôn ngữ tác giả
295 Tính quẩn lo quanh
681
Ngôn ngữ Thuý Kiều
296 Tòa rộng dãy dài
1721
Ngôn ngữ tác giả
297 Tóc rối da chì
1746
Ngôn ngữ tác giả
298 Tô lục chuốt hồng
1305
Ngôn ngữ tác giả
299 Tơ chùng phím loan
254
Ngôn ngữ tác giả
300 Túc trái tiền oan
1765
X
Ngôn ngữ Thuý Kiều
301 Tử biệt sinh li (ly)
617
Ngôn ngữ tác giả
302 Trai tài gái sắc
2842
Ngôn ngữ tác giả
Ngôn ngữ tác giả
303 Trai anh hùng gái thuyền
2211
quyên
P.41
304 Trăng tủi hoa sầu
1436
Ngôn ngữ Thúc Sinh
305 Trâm gãy bình rơi
Ngôn ngữ Vương Quan
70
X
(Bình trầm trâm chiết)
Ngôn ngữ Thuý Kiều
306 Trâm gãy gương tan
749
Ngôn ngữ tác giả
307 Treo ấn từ quan
2939
Ngôn ngữ Thuý Kiều
308 Trên Bộc trong dâu
807
X
(Tang gian bộc thượng)
309 Trong giá trắng ngần
1191
Ngôn ngữ tác giả
310 Trong ngọc trắng ngà
1311
Ngôn ngữ tác giả
311 Trọng nghĩa khinh tài
310
Ngôn ngữ tác giả
312 Trộm dấu (giấu) thầm yêu
158
Ngôn ngữ tác giả
313 Trơ như đá, vững như đồng
2521
Ngôn ngữ tác giả
314 Trời thẳm đất dày
979
Ngôn ngữ tác giả
315 Trúc chẻ ngói tan
2439
Ngôn ngữ tác giả
316 Trướng rủ màn che
37
Ngôn ngữ tác giả
317 Tuyết chở sương che
367
Ngôn ngữ tác giả
318 Ủ dột nét hoa
103
Ngôn ngữ tác giả
319 Ủ liễu phai đào
2603
Ngôn ngữ tác giả
320 Ván đã đóng thuyền
Ngôn ngữ tác giả
2801
(Mộc dĩ thành chu)
321 Vạ gió tai bay
616
Ngôn ngữ tác giả
322 Vào luồn ra cúi
2468
Ngôn ngữ Thuý Kiều
323 Vào sinh ra tử
2942
Ngôn ngữ tác giả
324 Vật đổi sao dời
Ngôn ngữ tác giả
3087
X
(Vật hoán tinh di)
325 Vào trước ra sau
2189
Ngôn ngữ tác giả
326 Ve ngâm vượn hót
2571
Ngôn ngữ tác giả
327 Vơ quàng vơ xiên
2600
Ngôn ngữ tác giả
328 Vùi liễu dập hoa
1136
Ngôn ngữ tác giả
329 Xa chạy cao bay
1971
X
Ngôn ngữ Thúc Sinh
P.42
(Viễn tẩu cao phi)
330 Xem thường xem khinh
Ngôn ngữ tác giả
886
331 Xót liễu vì hoa
Ngôn ngữ Thuý Kiều
335
332 Yếu liễu tơ (thơ) đào
X
Ngôn ngữ tác giả
897
P.43
P.44
Phụ lục 4
HỆ THỐNG THÀNH NGỮ ĐƯỢC DẪN DỤNG LINH HOẠT
TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
Stt
Thành ngữ
Câu thơ
Yếu tố thi pháp
Ghi chú
671, 672
Ngôn ngữ tác giả
1 Ả Lý nàng Oanh
Ngôn ngữ tác giả
2 Ai khảo mà xưng
1578
Ngôn ngữ tác giả
Hán Việt
3 Án binh bất động
844
4 Ân trả nghĩa đền
2908
Ngôn ngữ tác giả
5 Ba bề bốn bên
2514
Ngôn ngữ tác giả
6 Bách chiến bách thắng
Ngôn ngữ tác giả
Hán Việt
2525
7 Bàn ra nói vào
2488
Ngôn ngữ tác giả
8 Bát cơm phiếu mẫu
2348
Ngôn ngữ tác giả
9 Bèo dạt hoa trôi
2812
Ngôn ngữ Kim Trọng
10 Bèo trôi sóng vỗ
3020
Ngôn ngữ Thuý Kiều
11 Bên trời góc bể
1041
Ngôn ngữ Thuý Kiều
12 Buồm gió lèo mây
1623
Ngôn ngữ tác giả
13 Buôn thịt bán người
2140
Ngôn ngữ tác giả
14 Cá chậu chim lồng
2150
Ngôn ngữ Thuý Kiều
15 Cát lầm ngọc trắng
1950
Ngôn ngữ Thúc Sinh
16 Cầm đã bén dây
1963
Ngôn ngữ Thuý Kiều
17 Cậy người cậy thợ
1374
Ngôn ngữ tác giả
18 Chân mây cuối trời
546
Ngôn ngữ Kim Trọng
19 Châu về Hợp Phố
306
Ngôn ngữ Kim Trọng
20 Chết trong hơn sống đục
1026
Ngôn ngữ Thuý Kiều
21 Chiếc bóng song the
1627, 2231 Ngôn ngữ tác giả
975
22 Chịu tốt một bề
Ngôn ngữ Tú bà
813
23 Chung lưng đấu cật
Ngôn ngữ tác giả
652
24 Có tiền mua tiên cũng được
Ngôn ngữ tác giả
25 Cỏ nội hoa hèn
2197
Ngôn ngữ Thuý Kiều
601
26 Cù lao chín chữ
Ngôn ngữ tác giả
567
27 Cữ gió tuần mưa
Ngôn ngữ tác giả
2869
28 Dặn ngọc thề vàng
Ngôn ngữ tác giả
282
29 Duyên nợ ba sinh
Ngôn ngữ tác giả
1676
30 Đứt ruột cháy gan
Ngôn ngữ tác giả
865
31 Đắn đo ngược xuôi
Ngôn ngữ tác giả
890
32 Đất khách quê người
Ngôn ngữ Vương Bà
1817
33 Đất thấp trời cao
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2389
34 Đầu rơi máu chảy
Ngôn ngữ tác giả
2161
35 Đầu xanh tuổi trẻ
Ngôn ngữ tác giả
976
36 Gái tơ ngứa nghề
Ngôn ngữ Tú bà
2790
37 Ghi lòng tạc dạ
Ngôn ngữ Vương Ông
2446
38 Giá áo túi cơm
Ngôn ngữ tác giả
1130
39 Giày tía vò hồng
Ngôn ngữ tác giả
857
40 Giận duyên tủi phận
Ngôn ngữ tác giả
2963
41 Gieo ngọc chìm (trầm) châu
Ngôn ngữ Kim Trọng
385
43 Gió bắt mưa cầm
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2795
44 Gió giật mưa tuôn
Ngôn ngữ tác giả
2443
45 Gió quét mưa sa
Ngôn ngữ tác giả
1554
46 Gió thoảng ngoài tai
Ngôn ngữ tác giả
152
47 Hào hoa phong nhã
Ngôn ngữ tác giả
48 Hồng nhan bạc mệnh
34, 669,
Ngôn ngữ tác giả
1906
65
49 Hồng nhan đa truân
Ngôn ngữ tác giả
50 Hùm thiêng sa lưới
2516
Ngôn ngữ tác giả
51 Hương lửa đượm nồng
1384, 2213 Ngôn ngữ tác giả
3210
52 Khổ tận cam lai
Ngôn ngữ Kim Trọng
Hán Việt
1578
53 Không khảo mà xưng
Ngôn ngữ Thúc Sinh
1548
54 Kiến bò miệng chén
Ngôn ngữ Hoạn Thư
361
55 Lá rụng hoa rơi
Ngôn ngữ tác giả
919
56 Lạ nước lạ cái
Ngôn ngữ tác giả
1337
57 Lạt phấn phai hương
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2665
58 Ma đưa lối quỷ dẫn đường
Ngôn ngữ Tam hợp đạo
cô
P.45
1815
59 Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm
Ngôn ngữ Thuý Kiều
1877
60 Một trời một vực
Ngôn ngữ tác giả
831
61 Mỡ để miệng mèo
Ngôn ngữ Mã Giám Sinh
1845
62 Nát ruột tan hồn
Ngôn ngữ tác giả
63 Mgâm hoa vịnh nguyệt
Ngôn ngữ tác giả
Hán Việt
1214
1846
64 Mgậm bồ hòn (làm ngọt)
Ngôn ngữ tác giả
490
65 Ngậm đắng nuốt cay
Ngôn ngữ Kim Trọng
1583
66 Ngọc đá vàng thau
Ngôn ngữ tác giả
1766
67 Ngọc nát hoa tàn
Ngôn ngữ tác giả
2871
68 Ngọn bèo chân sóng
Ngôn ngữ tác giả
1725
69 Ngọn hỏi ngành tra
Ngôn ngữ tác giả
962
70 Nổi tam bành
Ngôn ngữ tác giả
801
71 Nước đã đến chân
Ngôn ngữ tác giả
3098
72
Ong bướm qua lại
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2097
73 Phá gia (chi tử)
Ngôn ngữ Tú bà
2791
74 Phận bạc như vôi
Ngôn ngữ tác giả
2711
75 Phách quế hồn mai
Ngôn ngữ tác giả
1794
76 Phấn thừa hương cũ
Ngôn ngữ tác giả
1477
77 Phận gái chữ tòng
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2715
78 Phận mỏng đức (phúc) dày
Ngôn ngữ tác giả
2301
79 Phụ tình bạc nghĩa
Ngôn ngữ tác giả
1520
80 Quan san muôn dặm
Ngôn ngữ tác giả
1180
81 Quyến anh rủ yến
Ngôn ngữ tác giả
1173
82 Quyến gió rủ mây
Ngôn ngữ tác giả
337
83 Rày gió mai mưa
Ngôn ngữ Kim Trọng
3069
84 Rày ước mai ao
Ngôn ngữ Thuý Vân
1682
85 Rấp thảm quạt sầu
Ngôn ngữ Thúc Sinh
1820
86 Rối như ruột tằm
Ngôn ngữ tác giả
1252
87 Rối như tơ vò
Ngôn ngữ tác giả
1580
88 Rút dây động rừng
Ngôn ngữ Thúc Sinh
2832
89 Ruột gan như lửa đốt
Ngôn ngữ Kim Trọng
1891
90 Ruột nát như bào
Ngôn ngữ Thúc Sinh
P.46
547
91 Ruột rối bời bời
Ngôn ngữ tác giả
1796
92 Sầu dài ngày ngắn
Ngôn ngữ tác giả
704
93 Tan cửa nát nhà
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2960
94 Thất cơ lỡ vận
Ngôn ngữ của người dân
vùng Tiền Đường
95 Thỏ bạc ác vàng
1269
Ngôn ngữ tác giả
96 Thở ngắn than dài
1503, 3130 Ngôn ngữ tác giả
1626
97 Thuận phong một lá
Ngôn ngữ tác giả
352
98 Thủy chung như nhất
Ngôn ngữ Thuý Kiều
2096
99 Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn
Ngôn ngữ Tú bà
xa
100 Tình sâu nghĩa nặng
1263, 1966 Ngôn ngữ tác giả
3147
Ngôn ngữ tác giả
101 Tình xưa nghĩa cũ
2086
Ngôn ngữ tác giả
102 Tính gần tính xa
336
Ngôn ngữ tác giả
103 Trẻ người non dạ
1506
Ngôn ngữ Thuý Kiều
104 Trong ấm ngoài êm
1730
Ngôn ngữ Hoạn thư
105 Trốn chúa lộn chồng
2215
Ngôn ngữ tác giả
106 Trời cao bể rộng
2628
Ngôn ngữ tác giả
107 Trời cao sông rộng
2063
Ngôn ngữ tác giả
108 Trời quang mây tạnh
2877
Ngôn ngữ tác giả
109 Trướng rủ màn che
2287
Ngôn ngữ tác giả
110 Vinh hoa phú quí
1610
Ngôn ngữ Hoạn thư
111 Xấu chàng hổ ai
3134
Ngôn ngữ tác giả
112 Xứng đôi vừa lứa
2205
Ngôn ngữ tác giả
113 Ý hợp tâm đầu
P.47
P.48
Phụ lục 5
TỪ CỔ, TỪ ĐỊA PHƯƠNG XỨ NGHỆ TRONG TRUYỆN KIỀU (Khảo sát qua bản Truyện Thuý Kiều do Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim hiệu khảo)
Stt
Từ
Nghĩa
Câu thơ
Ghi chú
Cô, chị
1
X
Ả
Đầu lòng hai ả Tố Nga. (15) Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, Lại thu ả Lý bán mình hay sao. (671 – 672)
2
Một vùng cỏ áy bóng tà (97)
Áy
3
Âu
Vùng đất xấu, cỏ vàng, cỏ xấu Chấp nhận Lo lắng, băn khoăn Có lẽ, dễ thường
4
Bằn bặt Mê man, bất tỉnh
Chê bai, hổ thẹn
5
Bẻ bai
Âu đành quả kiếp nhân duyên (201) Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa. (2846) Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây (282) Nàng thì bằn bặt giấc tiên, Mụ thì cầm cập, mặt nhìn hồn bay. (989 – 990) Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm. (2851 – 2852)
6
Thúc sinh quen thói bốc rời (1303)
Bốc
Tăng nhanh, có khi hơi quá đáng
Căn vặn, gạn hỏi
7
Căn
Trả giá, trả treo Mô đất thấp
8 9
Cò kè Cồn
10
Cúi, cúi đầu
X
Cui
Tóc tơ căn vặn tấc lòng Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. (451 – 52) Cò kè bớt một thêm hai (647) Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. (1036) X Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt người e cui đầu. (321 – 322)
11
Cứ
Cứ trông mộng triệu mà suy. (233) Một là lại cứ lầu xanh phó về. (1420)
12
Cữ
Não người cữ gió tuần mưa. Một ngày nặng gánh tương tư một ngày (562 – 563)
Khoảng được lấy làm chuẩn, chiếu theo mà làm Còn đọc là cự, chỉ mốc thời gian, 7 ngày 1 cữ, 10 ngày 1 tuần
13
Tiếng chửi
X
Cha
14
Đầy, nhiều
Chan
Chém cha cái số đào hoa Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi. (2151 – 2152) Nàng càng giọt ngọc như chan Nỗi lòng luống những bang hoàng niềm tây. (1759 – 1760)
15
Chan Mênh mông, nhiều Còn nhiều ân ái chan chan,
P.49
chan
16
Đã chắc chi
Chắc
Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi. (3163 – 3164) Đến bây giờ mới tới đây Mà lòng đã chắc những ngày một hai. (2281 – 2282)
17
Phải không?
X
Chăng nhe
Bậc mây dón bước ngọn tường, Phải người hôm nọ rõ ràng, chăng nhe? (319 – 320)
18
X
Chắp
Chắp nhặt (gom từ nhiều nơi lại)
Lời quê chắp nhặt dông dài Mua vui cũng được mội vài trống canh. (3253 – 3254)
19
Chậm
Chầy
Đêm thu, một khắc một chầy, Bâng khuâng như tỉnh, như say một mình. (803 – 804)
20
Chốc
Chốc đà mười mấy năm trời Còn ra khi đã da mồi tóc sương (2239 - 2240)
Khoảng thời gian ngắn
21
X
Chồn Mỏi, mỏi mệt
Rằng: từ ngẫu nhĩ gặp nhau, Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn. (323 – 324) Ra tuồng trên bộc, trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
22
Gì, nào
Chi
(Câu 0507 – 0508)
23
Chỉ là
Chỉn
24
Rõ ràng, rành rành
Chiền chiền
25
Cái chân
X
Chưn
26
X
Cái bẫy, cái dụng cụ bắt cá.
Dàm (Giàm)
Nắm tay nhau
27
Dan
Trò chuyện thân mật
28
Dãi dề
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (165 – 166) Hai bên giáp mặt chiền chiền Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay. (1697 – 1698) Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chưn theo một vài thằng con con. (137 – 138) Phòng khi nước đã đến chưn, Dao này thì liệu với thân sau này. (801 – 802) Điều đâu ai buộc ai làm Này ai đan dập, giật dàm bỗng dưng? (585 – 586). Tà tà bóng ngả về tay, Chị em thơ thẩn, dan tay ra về. (51 – 52) Hàn huyên chưa kịp dãi dề, Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
29 Dàu dàu Buồn bã
X
30
P.50
Dặt dìu
Nâng lên đặt xuống, Cách này cách nọ.
31 Dằng dặc Thời gian dài
32
Tiếng hát
Dặng
33
Đẩy lên, đầy lên
Dẫy
34 Dậy dàng Nối tiếng khắp nơi
35
Xin
Dẽ
36
Dẽ dàng Trớ trêu
X
37
Tìm kiếm
Dò
X
38
Dón
Di chuyển nhẹ Ít
(575 – 576) Trời hôm, mây kéo tối rầm, Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương. (783 – 784) Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu. (641 – 642) Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên. (2785 – 2786) Cách hoa, sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông. (379 – 380) Mấy lần cửa đóng then cài Dẫy thềm hoa rụng biết người ở đâu? (271 – 72) Tiếng gà xao xác gáy mau, Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. (1123 1124) Thưa rằng: Đừng lấy làm chơi, Dẽ cho thưa hết một lời đã nao. (501 – 502). Dẽ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều. (2361 – 2362) Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông (1331 - 32) Bậc mây dón bước ngọn tường, Phải người hôm nọ rõ ràng, chăng nhe? (319 – 320) Dón chừng đứng núp độ lâu nửa giờ. (1996)
Lời quê chắp nhặt dông dài (3253)
X
39
Dông
Dông dài, dông chơi
40
Xấu hổ
Dơ
X
41
Rời đi
Dời
X
42
Gấp, Gấp gáp
Dớp
43
E lệ
Dín
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình. (851 – 52) Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi (259 – 60) Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng, Dớp nhà, nhờ lượng người thương dám nài (645 – 646) Ngại ngùng dín gió e sương, Ngừng hoa bong then, trông gương mặt
X
44
Mắng chưởi
P.51
Dức
45
Dường
Cái rường, cái xà nhà
X
Đã
46
Đà
Thổi lất phất
47
Đàn
48 Đãi đằng Dãi dầu, qua lại
X
49
Đẫy đà Béo tốt
Đầm đầm: nhiều
50
Đầm
51
Điệu
Dáng vẻ Bắt ép đưa đi
52
Đè nẻo
Lần theo, theo lối mà đi
53 Đeo đai
Quyến luyến không rời, quyến mãi
X
54
Đòi
Gọi đến, Nhiều
dày. (635 – 636) Bất tình nổi trận mây mưa, Dức rằng những giống bơ thờ quen thân (1727 - 28) Dường cao rút ngược dây oan Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. (593 - 594) Nẻo xa mới tỏ mặt người, Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình. (141 – 142) Mành tương phân phất gió đàn. (255) Thế mà im chẳng đãi đằng, Chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng. (2011 – 2012) Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao! (924) Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương (785) Nét buồn như cúc, điệu buồn như mai. (638) Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà. (1134) Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang. (265 – 266) Bóng nga thấp thoáng dưới mành, Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai. (1062 – 1063) Sảnh đường mảng tiếng đòi con lên hầu. (1718) Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. (222) Ngổn ngang gò đống kéo lên. (49)
X
55
Đống
Giữa đường đứt gánh tương tư. (725)
56 Đứt gánh
X
57
E
Đụn đất cao Công việc không thành Hơi sợ E lệ
58 Gàn quải Trăn trở
Tình trong như đã mặt ngoài còn e. (165) Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa. (146) Ông tơ gàn quải chi nhau, Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi. (549 – 550)
59
Lóng đục lấy trong Dừng chân, gạn chút niềm tây gọi là.(316) X
Gạn
Chia tay
60
Giã
X
61
Nói ướm trước, dò ý tứ
Giạm (Dàm)
62
Dính dáng đến
Giấn
Giã chàng nàng mới kịp dời song sa. (438) Ngảnh đi chợt nói chợt cười. Cáo say, chàng đã giạm bày lảng ra. (1841 – 1841) Chút thân liễu yếu thơ đào, Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. (897 – 989)
63
Nhìn theo
X
P.52
Ghé
64
Cúi (cúi đầu)
Gót
65
X
Gượng Hơi ép
66
Khó
X
Khôn
67
Hỏi thăm
Han
68
X
Hao
Bớt, mất dần Tin tức, âm hao
69 Héo dòn Héo lắm
70
Hiếm
Hiếm gì, không thiếu
71
X
Hòng Muốn
72
Khắc
Cái khấc để phân chia thời gian
73
Khen ngợi
Khen khao
74
Thấp thoáng
Lãng đãng
75
Lừa lọc, gian xảo
Lận
76
X
Nhẹ nhõm, thư thái Không quan tâm
Lâng lâng
77
X
Lẻn
Lách mình vào một chỗ nào đó một cách lén lút
Bóng tà như giục cơn buồn, Người đà lên ngựa, khách chon ghé theo. Lặng nghe thấm thía gót đầu, Thưa rằng: ai có muốn đâu thế này. (1021 – 1022) Vui là vui gượng kẻo là. Ai tri âm đó, mặn mà với ai. (1247 – 1248) Một mình khôn biết làm sao, Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng. (1128 -1129) Trước xe lơi lả han chào. Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi. (925 – 26) Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao. Mặt tơ tưởng mặt long ngao ngán lòng. (251 – 252) Ruột tằm ngày một héo dòn, Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve. (2833 – 2834) Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa, hiếm gì yến oanh. (63 – 64) Quá thương chút ngĩa đèo bòng Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao. (2803 – 2804) Đêm thu khắc lậu canh tàn. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm sương. (1119 – 1120) Xiết bao kể nỗi thảm sầu, Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. (777 -778) Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lung khen khao. (3217 – 3218) Sương in mặt, tuyết pha thân Sen vàng lãng đãng khi gần khi xa. (189 – 190) Sẵn thây vô chủ bên sông, Đem vào để đó, lận song ai hay. (1649 – 1650) Thửa công đức ấy ai bằng, Túc khiên đã rửa, lâng lâng sạch rồi. (2687 – 2688) Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. (535 – 536)
X
78
P.53
Lề
Đã thành nếp, quen thói
X
79
Ngó, xem
Liếc
80
Liếng
Vốn làm ăn buôn bán
X
81
Huống hồ
Lọ
X
82
Nghe
Mảng
83 Màu hồ
Nước hồ phết lên các tấm vải mới dệt cho đẹp
X
84 Mặt mo Lời chửi
85
Mầng Mừng vui
X
86
Min
Tiếng người trên tự xưng: Ta, tao.
87
Mòng
- Chốc mòng (biến âm của từ Chúc vọng): Trông mong
X
88
Mùi Màu, màu sắc
89 Nao nao Hơi cong
90 Não nùng Cảm động
X
91
Sẵn, giấu kín
Nhiệm (Nhẹm)
X
92
Khi
Nẻo
Tường đông lay động bóng cành, Dẫy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào. (1093 – 1094) Chung lưng mở một ngôi hàng, Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. (813 – 814) Nàng rằng: trộm liếc dung quang, Chẳng sân ngọc bội, cũng phường kim môn. (409 – 410) Màu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma. (969 – 70) Dường cao rutrs ngược dây oan, Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. (593 – 594) Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. (536 – 537) Màu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma. (969 – 970) Còn đương suy nghĩ trước sau. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. (1169 – 1170) Tần ngần dạo bước lầu trang, Một đoàn mầng thọ ngoại hương mới về. (573 – 574) Này này sự đã quả nhiên, Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. (963 – 964) Nước non cách mấy buồng thêu, Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mồng. (157 – 158) Tuyết in sắc, ngựa câu dòn Cỏ pha mùi áo, nhuộm non da trời. (139 – 140) Nao nao dòng nước uống quanh, Dịp cầu nho nhỏ, cuối ghềnh bắc ngang. (56 – 57) Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào, là chẳng não nùng xôn xao. (3205 – 3206) Cạn lời khách mới thưa rằng: Buộc chưn thôi cũng xích thằng nhiệm trao. (903 – 904) Nàng dù quyết chẳng thuận tình, Trái lời nẻo trước, luỵ mình đến sau.
93
Chêm vào cho chặt
P.54
Nêm
94 Ngã giá
Đồng ý với giá tiền đưa ra
95
Ngảnh Quay mặt đi
X
96
Nó, hắn, ông ấy
Nghỉ
97
Ngứa (nghề)
Cảm thấy bị kích thích không chịu được
98
Thoáng trông thấy
Nhác
99
Nhặt Mau, chóng
X
100
Cái nắp
Níp
X
101
Buồn cười
Nực
102 Nường Nàng (cô gái)
103
Do dự, trù trừ
E ấp
104
Này, bữa ni
Rày
105
Rắp
Toan tính, định Rắp ranh (láy)
106
Thông thả trình thưa
Rén chiềng
107
Cố nán lại
Rốn
(2111 – 2112) Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm. (47 – 48) Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. (647 – 648) Ngảnh đi chợt nói chợt cười. Cáo say, chàng đã giạm bày lảng ra. (1841 – 1841) Có nhà viên ngoại họ Vương Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung. (11 - 12) Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao. (975 – 976) Bóng hồng nhác thấy nẻo xa. Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. (161 – 162) Nhặt thưa gương dọi đầu cành. Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. (433 – 434) Giác Duyên từ tiết giã nàng, Đeo bầu, quảy níp, rộng đường vân du. (2649 – 2650) Vân rằng: Chị cũng nực cười, Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa. (105 – 106) Mượn người, thuê kiệu, rước nường, Bạc đem mặc bạc, kiếm đường cho xa. (2143 – 2144) Những là e ấp dùng dằng, Rút dây, sợ nữa động rừng, lại thôi. (1579 – 1580) Những là rày ước mai ao, Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình. (3069 – 3070) Rắp mong treo ấn từ quan. (2939) Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày. (1612) Lạy thôi nàng lại rén chiềng, Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. (773 – 774) Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (165 – 166) Một trai con thứ rốt lòng,
X
108
Cuối cùng
Rốt
X
109
P.55
Rủ rỉ
Nói chậm và nhỏ, như Thủ thỉ.
X
110
Hãy
Sá
111
Khua, làm đụng đến
Sịch
112
Bắt đầu ráo nước
Se
113
Nhẹ nhàng
Sẽ
X
114
Sòng
Thành thực, ngay thẳng
115 Pha càn Chạy ào vào
X
116 Tán hoán Ngẩn ngơ, mê mẩn
117
Ngà say
Tàng tàng
118
Sánh với, so với
Tày
119 Tần ngần Lưỡng lự
120
Riêng tư
Tây
121
Sâu sắc
Thấm thía
122
Chốn, nơi
Thửa
123 Thướt tha
Di chuyển nhanh chóng
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia. (13 – 14) Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm. (2851 – 2852) Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Liệu đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân. (619 – 620) Gió đâu sịch bức mành mành Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao (213 – 14) Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan (255) Cách hoa, sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông. (379 – 380) Tình riêng, chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lung khen khao. (3217 – 3218) Tôi đòi phách lạc hồn bay, Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình. (1651 – 1652) Nàng đà tán hoán đê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn. (1851 – 1852) Tàng tang chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới tỏ bày một hai. (3061 – 3062) Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương. (511 – 512) Tần ngần dạo bước lầu trang, Một đoàn mầng thọ ngoại hương mới về. (573 – 574) Bấy lâu mới được một người, Dừng chưn, gạn chút niềm tây gọi là. (315 – 316) Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ. (363 – 364) Thửa công đức ấy ai bằng, Túc khiên đã rửa, lâng lâng sạch rồi. (2687 – 2688) Cách tường phải buổi êm trời, Dưới đào dường có bóng người thướt tha. (289 – 290) Tẻ vui cũng một kiếp người,
X
124
Buồn
Tẻ
125
Ngất đi, sợ hãi
P.56
Tê mê
126 Tôi ngươi Tôi đòi, người ở
X
127
Im lặng, chịu thiệt
Tốt
128
Phía, bề
Vành
X
129 Vắt nóc
Tư thế ngồi gác chân chữ ngũ
130
Vầy
Vui, vui với (vui vầy)
131
Dáng dấp, sắc thái
Vẻ
132
Có đáng gì
Vẻ chi
133
Vó
Vàng vó, đồ hàng mã
134
Vin
Đưa tay lên níu xuống
135
Vựng
Choáng váng, chóng mặt, ngất xỉu
136
Thoắt, bỗng
Xảy
137 Xăm xăm
Từ láy, hăm hở tiến bước
138 Xập xè
Từ láy, chim bay chao liệng
139
Nói ra, khai ra, chỉ ra, lộ ra
Xưng xuất
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru. (1193 – 1194) Nàng đà tán hoán, tê mê, Vâng lời, ra trước bình the, vặn đàn. (1851 – 1852) Chút thân liễu yếu, thơ đào, Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. (987 – 988) Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao. (975 – 976) Này con thuộc lấy làm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. (1209 – 1210) Lễ xong hương hoả gia đường Tú Bà vắt nóc lên giường ngôi ngay. (949 – 950) Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi. (3163 – 3164) Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười. (17 –18) Vẻ chi một đoá yêu đào Vườn hồng, chi dám ngăn rào chim xanh. (503 – 504) Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay. (49 – 50) Đào tiên đã bén tay phàm, Thì vin cành quýt cho cam sự đời. (833 – 834) Kẻ thang người thuốc bời bời, Mới dầu cơn vựng chưa phai giọt hồng. (761 – 762) Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc Kiến, lửa tàn Tích giang. (2953 – 2954) Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. (265 – 266) Xập xè én liệng lầu không. Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. (2749 – 2750) Hỏi ra sau mới biết rằng, Phải tên xưng xuất, tại thằng bán tơ. (587 – 588)
P.57