BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH --------------------------

VÕ MINH HẢI

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH --------------------------

VÕ MINH HẢI

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số:

62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Lê Thu Yến

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu,

kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 05 năm 2015

Tác giả luận án

Võ Minh Hải

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục bảng

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................01

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................. 02

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 14

4. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 16

5. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................... 17

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 17

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ..........................................................19

8. Cấu trúc của luận án .......................................................................................... 20

Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ NHÌN TỪ

QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI.............................................................22

1.1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hoá...........................................................22

1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hoá........................................ 22

1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá ............................................. 26

1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hoá................ 31

1.2. Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học ....................34

1.2.1. Khái niệm ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác

học ........................................................................................................................ 34

1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác

học ........................................................................................................................ 37

1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn chương cổ điển

Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá........................................................................... 41

1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm - Tấm gương phản chiếu văn hoá .........46

1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao tiếp đặc thù của văn

học cổ điển Việt Nam............................................................................................. 46

1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật

truyện Nôm............................................................................................................ 49

1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều ......52

1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du............................ 52

1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và

Truyện Kiều .......................................................................................................... 57

Chương 2. NGỮ LIỆU VĂN HOÁ TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TRUYỆN KIỀU .....................................................................................................68

2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học và văn hoá Việt, bình dân

đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều .........................68

2.1.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học đối với hệ thống ngữ

liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ......................................................... 68

2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Việt, bình dân đối với hệ thống ngữ

liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ......................................................... 71

2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ

thuật Truyện Kiều ................................................................................................. 76

2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều.......................................................................................................... 91

2.2.1. Khảo sát và nhận xét về ngữ liệu văn hoá bác học.................................. 91

2.2.2. Khảo sát và nhận xét về ngữ liệu văn hoá bình dân ................................ 96

2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều......................... 102

2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên, biến hoá và thích

hợp với nội dung ngữ cảnh .................................................................................. 102

2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một cách sáng

tạo ....................................................................................................................... 112

2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ liệu bác học

và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều........................................... 122

Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HOÁ

TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU ................................. 133

3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện tính triết luận và bức tranh thời đại qua

ngôn ngữ tác giả................................................................................................. 133

3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hoá qua ngôn ngữ trữ tình................... 133

3.1.2. Bức tranh văn hoá thời đại qua ngôn ngữ tự sự .................................... 142

3.2. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện chiều sâu triết mỹ qua ngôn ngữ nhân vật trong

Truyện Kiều...........................................................................................................151

3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn và Hải hạc

văn ...................................................................................................................... 151

3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều..... 154

3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều........... 161

3.3. Âm hưởng của ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống xã hội,

văn chương Việt Nam.........................................................................................167

3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống văn hoá,

xã hội Việt Nam ................................................................................................. ..167

3.3.2. Sự lan toả và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời

sống văn chương Việt Nam .................................................................................. 177

KẾT LUẬN........................................................................................................ 185

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................. 189

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH................................................................... 190

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHQG: ĐHSP : HN: KHXH & NV: SG: TCVH: TCNCVH: TP. HCM : Tr.: Đại học Quốc gia Đại học Sư phạm Hà Nội Khoa học Xã hội và Nhân văn Sài Gòn Tạp chí Văn học Tạp chí Nghiên cứu văn học Thành phố Hồ Chí Minh Trang

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng Trang Stt

Bảng 2.1. Ngữ liệu văn hoá bác học trong một số 92 1 truyện Nôm

Bảng 2.2. Ngữ liệu văn hoá trong Hoa Tiên, Truyện 94 2 Kiều và Lục Vân Tiên

Bảng 2.3. Ngữ liệu văn hoá bác học trong ngôn ngữ 95 3 nghệ thuật Truyện Kiều

Bảng 2.4. Ngữ liệu văn hoá bình dân trong Hoa Tiên, 96 4 Truyện Kiều và Lục Vân Tiên

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lịch sử phát triển văn hoá, văn học của nhân loại, có những tác phẩm

văn học kiệt xuất, phản ánh, kết tinh văn hoá tinh thần của một quốc gia, phô bày

những nét đẹp kiều diễm của ngôn ngữ mẹ đẻ - một biểu tượng văn hoá tài hoa của

một dân tộc. Những tác phẩm ấy không chỉ là những nỗi đam mê, niềm kiêu hãnh tự

hào của dân tộc đó mà còn là chiếc cầu nối văn hoá – tâm linh mang lại bao nhiêu

tình yêu, sự kính trọng và những trải nghiệm của những dân tộc khác. Vì vậy, có thể

nói, Nguyễn Du 阮攸 đã cống hiến cho dân tộc chúng ta một tuyệt phẩm, đúng như

Đặng Thai Mai đã từng nhận định: “Trong toàn bộ văn học Việt Nam ngày xưa,

Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn

hết...” [05, tr.165].

Từ khi ra đời đến nay Truyện Kiều 傳翹 (nguyên danh Đoạn trường tân

thanh 斷腸新聲) đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn,

tâm linh của dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng. Nhờ có

Truyện Kiều, vẻ đẹp của tiếng Việt càng được tôn xưng, tài năng của các thi nhân

người Việt càng được khẳng định, đề cao. Tuy đã có không ít công trình nghiên cứu

công phu về tác phẩm nhưng cho đến nay vẫn còn có khá nhiều vấn đề cần được

làm sáng tỏ. Những vấn đề liên quan đến văn bản, nội dung và thế giới nghệ thuật

của nó vẫn để lại những tồn nghi, cần tiếp tục kiểm chứng, bổ sung và khảo cứu

thêm. Tuy vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định những

thành tựu về ngôn ngữ của Nguyễn Du trong tuyệt phẩm này cũng như những

đóng góp thiết thực của ông đối với lịch sử phát triển ngôn ngữ văn chương cổ

điển Việt Nam.

Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại Việt Nam

nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một

hướng tiếp cận có tính chất liên ngành. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một

số nhà nghiên cứu đã đi sâu, tìm hiểu nội dung, tư tưởng thẩm mỹ và phong cách

văn hoá của Nguyễn Du trong hành trình sáng tạo, những đóng góp cụ thể của ông

2

cho văn học nước nhà. Từ định hướng này, thông qua ngôn ngữ chúng ta có thể

khảo sát, từng bước chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật, khám phá bức tranh về đời sống

xã hội và những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những

trải nghiệm của một nhà nghệ sĩ trước những cuộc dâu bể, biến thiên của cuộc sống.

Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các thế hệ học giả đi trước, chúng tôi tiến

hành khảo sát hệ thống ngữ liệu cổ văn trong Truyện Kiều và đối chiếu chúng với các

tài liệu khảo chứng, hệ thống văn bản thư tịch Hán Nôm có liên quan. Từ đó, chúng

tôi tìm hiểu một số vấn đề có tính lý thuyết về hệ thống điển cố, thi liệu, các lớp từ

ngữ, những vấn đề thi pháp ngôn ngữ mang tính cao nhã, từ chương, uyển ngữ trong

ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, đặc biệt là ý nghĩa hàm ẩn, các tầng nghĩa văn hoá

của chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể. Đây cũng là một trong những việc làm cần

thiết góp phần nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học

cổ điển trong nhà trường và bảo tồn vốn di sản Hán Nôm của ông cha ta. Từ những ý

nghĩa cấp thiết trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều từ góc nhìn văn hoá như một sự thể nghiệm, biện giải ngôn ngữ văn chương

cổ điển và văn hoá thông qua các mối quan hệ biện chứng giữa chúng.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Sự ra đời của Truyện Kiều là một mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành

của ngôn ngữ văn học, văn hoá dân tộc. Tài năng và những đóng góp của Nguyễn

Du không chỉ được thể hiện qua việc tái tạo một tác phẩm tiểu thuyết diễm tình Hán

văn trong văn học cổ điển Trung Quốc mà còn được khẳng nhận từ nhiều góc độ

khác nhau, nhất là từ phương diện ngôn ngữ và văn hoá.

Với số lượng 3.254 câu thơ lục bát trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã huy

động một vốn từ phong phú, đa dạng và liên kết chúng thành một hệ thống ngữ liệu

đặc sắc tạo nên những thần cú diễm từ trong văn học cổ điển Việt Nam. Do đó, nó đã

trở thành một đối tượng nghiên cứu, so sánh của nhiều chuyên ngành khác nhau như:

Văn bản học, Thi pháp học cổ điển, Ngôn ngữ học văn hoá... gắn liền với những tên

tuổi các học giả nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Sỹ Tế, Đặng

Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Khắc Viện, Bửu Cầm, Lê Ngọc Trụ, Bùi

3

Khánh Diễn, Tản Đà, Bùi Giáng, Bằng Giang, Thẩm Thệ Hà, Trần Phương Hồ,

Nguyễn Tử Quang, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Văn Hoàn, Lê Trí Viễn,

Đào Thản, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thạch Giang... và gần

đây nhất là những công trình quy mô của Trần Đình Sử, Trần Nho Thìn, Nguyễn Hữu

Sơn, Đào Thái Tôn, Phạm Đan Quế, Lê Thu Yến, Lê Xuân Lít, Vũ Thanh Huân...

Tựu trung, qua những tư liệu hiện có, theo chúng tôi, lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ

nghệ thuật Truyện Kiều có thể khái quát thành các hướng như sau:

2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Từ góc nhìn lịch sử phái sinh, tuỳ theo từng mục đích của các chuyên luận,

tiểu luận nghiên cứu, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều được xem xét từ

nhiều góc độ với nhiều khái niệm khác nhau. Qua nghiên cứu, chúng tôi tạm nêu

một số nét khái quát như sau: Ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ quý tộc (Lê Trí

Viễn, Đào Thản, Lê Đình Kỵ, Đặng Thanh Lê); Ngôn ngữ hiện thực và ngôn ngữ

ước lệ (Nguyễn Lộc, Lê Đình Kỵ); Ngôn ngữ (dòng, sắc thái) bình dân và bác học

(Mai Quốc Liên, Lê Đình Kỵ); Ngôn ngữ văn học dân gian và ngôn ngữ văn học

chữ Hán (ngôn ngữ văn chương bác học) (Đào Duy Anh, Lê Trí Viễn, Nguyễn Lộc,

Đặng Thanh Lê, Đào Thản, Nguyễn Thuý Hồng); Ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Hán

Việt (Đào Thản, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Lộc, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Thuý

Hồng, Lê Thu Yến, Vương Trọng...).

Trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3, in năm 1962, tái bản 1976) của

nhóm tác giả Đại học Sư phạm, khi bàn về một vài phương diện của nghệ thuật

Nguyễn Du, Lê Trí Viễn đã cho rằng:

Nguyễn Du sử dụng rất tài tình vốn ngôn ngữ nhân dân. Ông cũng đã

học tập cách sử dụng của người đi trước hay đồng thời... Nguyễn Du còn

dùng ca dao và tục ngữ, cách dùng cũng có những hình thức biến hoá tài

tình, thích hợp. Hồ Xuân Hương đã có lối trích dùng ca dao và tục ngữ

thành điển cố ngang hàng với những điển cố trong văn học Trung Quốc.

Điều đó không những nâng cao giá trị của vốn dân tộc mà tác dụng thực tế

là đem lại cho thơ văn một ý vị đậm đà, một dáng dấp thanh thoát mà khi

4

dùng điển cố ngoại lai không thể có được. Nguyễn Du đã thực sự đi theo con

đường đó và đã rất thành công. [168, tr.179 - 180].

Bên cạnh đó, Lê Trí Viễn còn nhấn mạnh đến vấn đề ảnh hưởng của văn hoá

Trung Hoa trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, ông khẳng định: “Tác giả

Truyện Kiều cũng tiếp tục truyền thống vay mượn văn học Trung Quốc đã có từ

lâu. Hoặc lấy ngay những thành ngữ chữ Hán, hoặc thu gọn những điển cố trong

văn học Trung Quốc thành những thành ngữ bằng tiếng Việt Nam, hoặc chuyển

hình ảnh trong thơ Trung Quốc sang thơ Việt Nam.” [168, tr.180].

Những nhận định trên đã được Lê Trí Viễn tiếp tục tái khẳng định trong giáo

trình Văn học Trung đại Việt Nam (Trường ĐHSP TP. HCM, 1996) [169]. Quả vậy,

qua những nhận xét của nhà nghiên cứu, chúng ta có thể nhận thấy khả năng phổ

cập hoá, dung dị hoá của lời thơ Truyện Kiều của Nguyễn Du đến với mọi tầng lớp

nhân dân. Đó có lẽ cũng là niềm tự hào lớn của dân tộc mà không phải tác giả văn

học nào cũng có thể đạt được.

Theo sự sưu tập của chúng tôi, xuất phát từ quan điểm xem ngôn ngữ là một

bộ phận quan trọng cấu thành vẻ đẹp đặc biệt của tác phẩm, Nguyễn Lộc trên Tạp

chí Văn học số 11 năm 1965 với bài viết Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều [89]

và tiếp tục trong công trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ

XIX) (1978, tái bản 2006) [90] đã khảo sát nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn

Du ở các phương diện như từ ngữ Hán Việt, điển cố, thi liệu, ngữ liệu tập văn, tập

thi... Tác giả đi sâu phân tích nét đặc sắc và chỉ ra những sáng tạo của Nguyễn Du trong

nghệ thuật sử dụng từ trong thi phẩm của mình. Ông cho rằng:

Cũng như Hồ Xuân Hương, với Nguyễn Du thơ ca không tự bó mình

trong khuôn khổ nào của ngôn từ. Không có sự phân biệt của ngôn ngữ thơ và

ngôn ngữ đời sống. Đối với ông, bất cứ một từ ngữ nào cũng trở thành từ ngữ

của thơ, miễn là phải dùng nó một cách có nghệ thuật... [90, tr. 778].

Tiếp tục những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lộc, nhà Ngữ học Đào Thản

với tiểu luận Đi tìm một vài đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) [135] đã khái

quát những vấn đề cơ bản về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du, nhất là

5

phần điển cố và các ngữ liệu cổ văn khác. Trong những công trình này này, các tác

giả đã nhận định cụ thể như sau: “Cái đặc sắc ở Nguyễn Du là ở chỗ mài dũa đến

điêu luyện mà không làm mất vẻ tự nhiên, chọn lọc tinh vi mà không cầu kỳ vẫn giữ

được phần trong trẻo của ngôn ngữ dân tộc” [135, tr.68]. Trong Đặc điểm ngôn ngữ

Truyện Kiều (1988), Đào Thản tiếp tục khẳng định:

Ngôn ngữ Truyện Kiều nói chung không có vay mượn xa lạ và cầu kì

như Cung oán ngâm khúc, không có cái đài các quá ư lộng lẫy nhưng bề bộn

rườm rà của Hoa tiên hay đẽo gọt vụng về của Sơ kính tân trang. Quả thật ngôn

ngữ Truyện Kiều gần với thôn ca hơn cả. [136, tr.169].

Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đã có nhiều công

trình nghiên cứu tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau nhằm tìm hiểu phong cách

đặc thù của Nguyễn Du và giai phẩm nổi tiếng của ông. Từ góc độ phong cách, tu từ

học, một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Sỹ Tế trong Luận đề về Nguyễn Du và

Đoạn Trường Tân Thanh (1959) [154], Phạm Văn Diêu với Việt Nam văn học

giảng bình (1970) [23], Nguyễn Quảng Tuân trong Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện

Kiều (1992, tái bản có bổ sung 2000) [159], Chữ nghĩa Truyện Kiều (1990, 2004)

[158], Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80] và

trong mục Truyện Kiều (Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế

kỉ XIX, 1999) [81], Giảng văn Truyện Kiều (1999, 2006) [82] và Thích Nhất Hạnh

với Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán (2000) [140]... cũng đã

có những dòng đánh giá, giảng giải và bình phẩm về hệ thống từ ngữ trong các đoạn

trích tiêu biểu của Truyện Kiều khá hấp dẫn. Khi khẳng định Truyện Kiều là một

thành tựu rực rỡ và kết tinh những giá trị văn hoá đặc biệt của ngôn ngữ dân tộc

Việt Nam, Đặng Thanh Lê đã cho rằng:

Vận dụng triệt để ngôn ngữ dân tộc - đưa hệ thống từ vựng xã hội,

đưa khẩu ngữ vào mảnh đất thơ ca, kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian và

tiếp thu tinh hoa ngôn ngữ văn học nước ngoài... đồng thời Nguyễn Du tái

tạo tất cả những chất liệu đó theo yêu cầu xây dựng hình tượng và chủ đề tác

phẩm. Sử dụng vốn liếng ngôn ngữ của đời sống quá khứ, của ngoại lại đồng

6

thời in vào đó dấu vết của phong cách cá nhân, của cá tính sáng tạo, những

câu thơ Kiều phản phất phong vị ca dao, phong vị thơ Đường luật, phong cách

thành ngữ, tục ngữ và cả màu sắc khúc ngâm trữ tình... nhưng đồng thời đó vẫn là

những câu thơ riêng biệt của Truyện Kiều. [81, tr.206].

Đặc biệt, trong công trình Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du qua Truyện

Kiều (1985, tái bản có bổ sung 2003) [100], Phan Ngọc đã đưa ra những nhận định

về phong cách, cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du và tác phẩm

của ông rất khoa học và thú vị. Nhà nghiên cứu đã cho rằng:

Nghiên cứu Truyện Kiều trong phong cách thể hiện truyện Nôm ta thấy

tác giả thừa hưởng những cái hay của thể loại nhưng còn phải chịu một vài

nhược điểm của nó. Cái hay là ở tâm trạng, ở ngôn ngữ, ở sự xây dựng một

phong cách diễn đạt gần như toàn dân. Nhưng nhược điểm vẫn còn: phần thể

hiện hoàn cảnh khách quan không mãnh liệt mà chiều theo khuôn sáo, đưa

yếu tố thần linh vào không tự nhiên, những khuyết điểm chung của hầu hết các

truyện Nôm. [100, tr.323].

Tiếp sau Phan Ngọc, Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều (2002) [132]

đã khảo sát và tìm hiểu thế giới nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của Nguyễn Du và tác

phẩm của ông một cách khá công phu. Tác giả đã đi vào nghiên cứu tác phẩm theo

một hệ thống và biện giải nó ở nhiều phương diện. Ông đã tôn vinh Nguyễn Du là

“nhà nghệ sĩ ngôn từ”, là “nhà nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học trung đại

Việt Nam” [132, tr.305]. Đặc biệt, Trần Đình Sử đã nhấn mạnh:

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ, ông cũng “đập

vỡ” cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày để tạo thành ngôn từ nghệ thuật. Ông đã

tránh ngôn từ tác giả thực dụng để sử dụng ngôn từ đã chủ thể. Ông đã trao

quyền tự sự cho người kể chuyện và cho nhân vật, làm cho ngôn từ ấy có thể

“nói” nhiều hơn là lời của ông Tham tri bộ Lễ, ông Cai bạ Quảng Bình và

ông sứ thần triều Nguyễn. [132, tr.308].

Qua những công trình của Lê Trí Viễn, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Lộc, Đặng

Thanh Lê, Phan Ngọc, Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử... người đọc cảm thấy

7

thích thú với những nhận xét sắc sảo, tinh tế, thực sự thoả đáng và qua đó có thể có

được một cái nhìn khái quát hơn về phong cách ngôn ngữ, thế giới thẩm mỹ và quan

điểm sáng tác của Nguyễn Du - nhà thơ vĩ đại của dân tộc.

Như đã trình bày, kể từ ngày ra đời cho tới nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du

đã được giới nghiên cứu Ngữ văn học tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Trong

hàng trăm nghiên cứu, một số được tập trung vào tư tưởng và triết lý từ câu chuyện

hay từ tác giả qua câu chuyện; một số xoay quanh các giá trị đạo lý có thể suy ra từ

tác phẩm; và một số đặt trọng tâm về ngôn ngữ dùng trong truyện. Đối với vấn đề

ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, khái quát về giá trị ngôn ngữ của tác phẩm

này đã có những đánh giá cụ thể bằng nhãn quan thẩm mỹ mang tính định lượng, bằng

những số liệu thống kê khá cụ thể và chi tiết. Theo phương pháp này, Từ điển Truyện

Kiều (1974) [03] của Đào Duy Anh, Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều (2001) [91] của Lê

Xuân Lít, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1995) [161] của Đỗ

Minh Tuấn, luận án Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều (1995) [65] của Nguyễn Thuý Hồng đã có những con số chính xác về tần

số, tần suất xuất hiện của các ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong tác phẩm. Cách

làm này nhằm đưa đến cho người đọc một cái nhìn khoa học, thực chứng về hệ thống

từ vựng trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Thông qua hệ thống này, người tiếp nhận đã có

những cơ sở, số liệu cụ thể để có thể tìm hiểu, biện giải và cắt nghĩa ý đồ nghệ thuật,

thế giới trữ tình và hình tượng nhân vật mà Nguyễn Du muốn gửi gắm trong tác phẩm

của mình một cách khoa học và hợp lý.

2.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá

So với nhiều truyện Nôm cùng thể tài khác, ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều dường như là một thế giới đầy hương sắc, là phức thể đa dạng và phong phú.

Do đó, càng đào sâu tìm hiểu, chúng ta càng phát hiện thêm nhiều điều mới lạ. Tuy

nhiên, trong nhiều đặc điểm trội bật ấy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua toàn bộ ngôn ngữ

Truyện Kiều và làm nên giá trị vĩ đại của tác phẩm ấy, phải chăng là sự kết hợp

tuyệt diệu giữa hai khuynh hướng bình dân và bác học trong ngôn ngữ tác phẩm.

Đây có thể xem là những bước khám phá đầu tiên về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc

8

nhìn văn hoá, cụ thể ở đây là văn hoá bình dân và bác học. Mai Quốc Liên trong

Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) đã cho rằng:

Nguyễn Du là một nhà thơ vô song đã đóng góp rất nhiều vào ngôn

ngữ văn học dân tộc. Công lao của ông trong việc kế thừa một cách sáng tạo

ngôn ngữ dân gian và trong việc sử dụng tài tình ngôn ngữ văn học Trung

Quốc. Thành tựu tuyệt vời của ông trong việc làm phong phú, làm trong sáng

ngôn ngữ văn học thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng sâu xa và lâu dài đến sự phát

triển ngôn ngữ văn học dân tộc ta. [83, tr.57].

Sau học giả Mai Quốc Liên, nhà lý luận phê bình văn học Lê Đình Kỵ cũng

khảo sát Sắc thái bác học, sắc thái bình dân và tính thống nhất của ngôn ngữ

Truyện Kiều (1986), ông cũng thống nhất quan điểm:

Tính dân tộc của ngôn ngữ có gốc rễ chủ yếu ở thành phần bình

dân... những yếu tố bác học như điển cố, tượng trưng, ước lệ đã được

Nguyễn Du nhào nặn tái tạo và đưa vào một âm hưởng mới, chứa chan tình

điệu dân tộc...” và “làm thế nào kết hợp giữa hai thành phần đó trong cùng

một tác phẩm mà không có sự phân ly, chắp nối. Hoàn cảnh mỹ học cụ thể

lúc bấy giờ cho phép sự thống nhất hai thành phần ấy trong một sự kết hợp

biện chứng, hữu cơ. [76, tr 425].

Hướng tiếp cận trên tuy đã chỉ ra được hai nguồn gốc cơ bản cấu thành hệ

thống ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều nhưng vẫn chưa đi sâu phân tích, đưa

ra những dẫn liệu cụ thể và nêu bật rõ ràng những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm trong

ngôn ngữ Truyện Kiều, nhất là nguồn gốc, xuất xứ cụ thể của hệ thống ngữ liệu văn

hoá trong tác phẩm tiêu biểu này.

Năm 1995, Nguyễn Thị Ly Kha đã công bố bài viết Bước đầu tìm hiểu về

hiện tượng giao thoa từ ngữ tiếng Hán sang từ ngữ tiếng Việt (qua cứ liệu Đoạn

trường tân thanh) và phần phụ lục Đôi điều về Truyện Kiều và cổ thi trong Kỷ yếu

Hội nghị Khoa học, Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM. Từ góc độ lý thuyết tiếp

xúc ngôn ngữ, tác giả đã trình bày khá nhiều vấn đề về sự giao thoa của hai hệ

thống ngôn ngữ, tuy nhiên, bài viết cũng chỉ dừng lại ở mức độ nêu vấn đề, chưa

9

thật sự giải quyết một cách thấu đáo những giá trị văn hoá của hai hệ thống từ ngữ

Hán Việt và thuần Việt trong điều kiện hành chức của nó. Trong bài viết này, tác

giả cũng nhận định:

Giao thoa ngôn ngữ gắn liền với giao thoa văn hoá. Sự giao thoa ấy

đã góp phân tăng thêm cho Truyện Kiều một số lượng từ phong phú, có khả

năng chuyển tải mọi tâm tư phức tạp tế nhị của con người. Sự giao thoa từ

ngữ trong Truyện Kiều góp thêm một minh chứng về khả năng mở khi tận

dụng ngôn ngữ để diễn đạt nhưng vẫn đảm bảo quy luật tiết kiệm ngôn ngữ

bằng phương thức chuyển nghĩa từ... có tác dụng tích cực khi người song

ngữ ấy đồng thời là người song văn hoá. [68, tr. 160].

Về ngôn ngữ bình dân, nhất là lớp từ ngữ dân tộc qua ca dao, tục ngữ, lối nói

khẩu ngữ, từ địa phương đã được các tác giả Hoàng Hữu Yên trong Cái hay, cái đẹp

của tiếng Việt trong Truyện Kiều (2003) [173], Phạm Đan Quế trong Về những thủ

pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2008) [115], Thế giới nghệ thuật

Truyện Kiều (2013) [122], Lê Nhật Ký trong Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong

Truyện Kiều của Nguyễn Du (2013) [97]... đã có những kết luận cơ bản. Bàn về vấn

đề này, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên đã nhận thấy:

Đọc các tác phẩm Nôm của Nguyễn Du, chúng ta bắt gặp trong

Truyện Kiều cũng như trong một số tác phẩm khác của nhà thơ vốn từ thuần

Việt lấp lánh trong tác phẩm, chứng tỏ đại thi hào của chúng ta hết sức trân

trọng và chân thành học tập sáng tạo từ cái vốn quý đó. [179, tr.31].

Cũng như hướng tiếp cận văn bản học của Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn,

Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Quảng Tuân..., hầu hết

các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khi phân tích, khảo chứng về hai nguồn gốc bác học

và bình dân của ngôn ngữ Truyện Kiều đều có những nhận xét khái quát về phong

cách ngôn ngữ văn hoá của Nguyễn Du. Có thể nói, lời thơ của Tố Như rất gần gũi

với lời ăn tiếng nói và nếp suy nghĩ của mọi tầng lớp nhân dân. Nhà thơ đã có ý

thức rất cao khi học tập, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá của ngôn từ trong

văn chương bác học, bình dân Việt Nam. Đó cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn

Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc.

10

Cũng từ góc độ văn hoá, một số nhà nghiên cứu khác đã đi theo khuynh

hướng truy tìm những nguồn gốc, xuất xứ của các ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ

Truyện Kiều. Đây có thể xem như là một trong những hướng tiếp cận liên ngành

ngôn ngữ - văn hoá kết hợp với những thành tựu nghiên cứu về Huấn hỗ học Hán

ngữ. Đặc biệt ở đây, hướng tiếp cận này có thể phục dựng lại một bức tranh phong

phú về những ảnh hưởng của văn hoá, văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam

đến tư duy thẩm mỹ, khả năng lựa chọn ngữ liệu trong quá trình hình thành tác phẩm

và tìm hiểu được sự vận động lý thú, những ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều đến đời sống văn chương hậu thế.

Những tác giả đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này, theo chúng tôi, có

thể kể đến vai trò mở đường của Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Đặng Thanh Lê,

Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Hoàng Hữu

Yên, Nguyễn Thạch Giang, Lê Thu Yến, Nguyễn Hữu Sơn... Nhà nghiên cứu

Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80], Nguyễn

Thạch Giang trong Đoạn Trường tân thanh qua cái nhìn của Thiền gia, Nho gia

(1995) [47], Lời quê chắp nhặt (2001) [46] và Nguyễn Thuý Hồng trong công

trình Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong Truyện Kiều (1995) [65] và Phạm Đan

Quế trong công trình Về những thủ pháp nghệ thuật văn chương Truyện Kiều

(2006) [115], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [122] đã đặt vấn đề khảo sát

hệ thống ngôn ngữ văn hoá trong ngôn ngữ truyện Nôm nói chung và Truyện Kiều

nói riêng như một thủ pháp đặc trưng tiếp cận thế giới nghệ thuật tác phẩm từ sự

phân loại nguồn gốc của từ ngữ: Việt và Hán - Việt. Kết quả nghiên của các

chuyên gia trên đều thống nhất, phù hợp với quan điểm của Nguyễn Thuý Hồng,

khi tác giả cho rằng:

Từ ngữ Hán Việt được vận dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều và các

truyện thơ Nôm chủ yếu là những từ ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ văn hoá

(ngôn ngữ của các văn bản viết) của Trung Quốc như: Các từ địa danh,

nhân danh và điển cố thi liệu quen thuộc của văn chương Trung Quốc, các

thuật ngữ khái niệm trong các tác phẩm triết học Phật giáo và kinh điển Nho

giáo. [65, tr.45 - 46].

11

Kết quả của hướng nghiên cứu trên tuy có nhiều điểm mới so với những

người đi trước song những tác giả này là đi sâu phân tích, quy loại, phân loại các

ngữ liệu một cách chặt chẽ, theo hệ thống, đặc biệt là chưa nêu bật vẻ đẹp cũng như

sự đóng góp của hệ thống từ ngữ này đối với toàn bộ hệ thống cấu trúc ngôn ngữ

nghệ thuật Truyện Kiều. Nói cách khác, đây cũng là hướng tiếp cận và lý giải

Truyện Kiều bằng phương pháp thống kê học, một trong những phương pháp đặc

trưng của ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu trên cũng

là những định hướng quan trọng giúp cho người thực hiện đề tài này đi sâu phân

tích những đặc trưng và giá trị nghệ thuật của lớp từ ngữ văn hoá trong ngôn ngữ

nghệ thuật Truyện Kiều.

Có thể nói, các công trình nghiên cứu về thế giới ngôn ngữ trong sáng tác

của Nguyễn Du ngày càng nhiều nhưng việc nghiên cứu, đánh giá nó dưới góc độ

liên ngành ngôn ngữ - văn hoá vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Cá biệt,

một số nhà thơ đã chịu ảnh hưởng về tư tưởng, văn phong của Truyện Kiều một

cách rất nghệ thuật và văn hoá. Chẳng hạn ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975,

Tuệ Không Phạm Thiên Thư đã cảm khái viết nên Đoạn Trường vô thanh (Lá Bối

xuất bản, Sài Gòn, 1974) [149] như một sự tâm cảm, “biệt nhỡn liên tài” đối với Tố

Như Tử. Ngôn từ văn hoa, ý tứ điêu luyện, bố cục rõ ràng, Đoạn Trường vô thanh

như một sự tương thức, hoà hợp của những tình điệu thẩm mỹ, như một sự hội ngộ

ngẫu nhiên của những hồn thơ đa cảm trước cảnh tang thương của cuộc đời và

mang theo cả lịch sử văn hiến ngàn năm của một dân tộc anh hùng. Tuy vậy, theo

chúng tôi, mở đầu cho hướng nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ - văn hoá đối với

Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều có lẽ là nhà Kiều học Phạm Đan Quế, trong hàng

loạt các công trình của mình do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành như: Tập Kiều -

một thú chơi tao nhã (1999) [112], Đố Kiều - nét đẹp văn hoá (2002) [118], Về

những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2002) [115], Bình Kiều,

Vịnh Kiều, Bói Kiều (2003) [110], Lục bát hậu Truyện Kiều (2003) [117], Truyện

Kiều trên báo chương thế kỷ XX (2004) [120], Thế giới nhân vật Truyện Kiều

(2005) [121], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [121]... và bộ sách Truyện

12

Kiều trong văn hoá Việt Nam (Tùng thư Truyện Kiều) (2013) của Hội Kiều học Việt

Nam đã bước đầu đi sâu phân tích những nét đẹp văn hoá được thể hiện qua ngôn

ngữ của thi phẩm.

Thông qua những bộ tùng thư văn hoá Kiều mà chúng tôi vừa đề cập trên,

Phạm Đan Quế đã nêu bật những hiện tượng, khía cạnh văn hoá của Truyện Kiều đã

ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống xã hội, văn học nước nhà. Tuy nhiên, qua các

công trình này, các tác giả chưa thực sự đầu tư phân tích quá trình chuyển hoá, đặc

trưng văn hoá Trung Hoa và Việt Nam đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ Truyện Kiều

như thế nào. Nói cách khác, cả Phạm tiên sinh lẫn Tuệ Không cư sỹ đã góp phần

minh chứng cho sức sống trường cửu của Truyện Kiều và những câu lục bát đậm

tình dân tộc. Tuy nhiên, cả hai đều chưa đi sâu lý giải cội nguồn văn hoá của tác

phẩm. Sự lan toả, vang vọng của những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm bên trong lớp

ngôn ngữ đặc biệt của Truyện Kiều đã khiến cho giai phẩm này đi vào thế giới tinh

thần của người đọc dường như lớn hơn nhiều so với những gì mà Nguyễn Du đã ký

thác. Giá trị, ý nghĩa của Truyện Kiều ngày càng được nâng cao bởi những yếu tố

thẩm mỹ, những nội hàm văn hoá đang ẩn sâu dưới lớp băng nghệ thuật của ngôn từ

và nó đem lại cho người tiếp nhận những dự cảm, tình điệu, tâm thức mới trong

hành trình đi tìm các tầng nghĩa nhân sinh, văn hoá của nghệ thuật và đời sống.

Từ năm 1999 đến nay (2014), một số nhà nghiên cứu đã kế thừa quan điểm

học thuật của Dương Lâm (Trung Quốc), Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương...

Đặc biệt, các chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá

(2003, tái bản bổ sung 2007) [144] của Trần Nho Thìn, Từ cái nhìn văn hoá (1999)

[147], Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá (2005) [148] của Đỗ Lai Thuý,

Từ vựng Hán ngữ với nền văn hoá Hoa Hạ (2002) [66] của Huỳnh Chương Hưng

đã thật sự mang lại một hướng tiếp cận mới cho lĩnh vực nghiên cứu Ngữ văn cổ

điển ở Việt Nam. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu mới nhất về ngôn ngữ

văn hoá trong Truyện Kiều được các nhà nghiên cứu như Thái Kim Đỉnh, Vương

Trọng, Vũ Thế Khôi, Trương Quế Phương, Lê Thu Yến, Trương Xuân Tiếu, Mai

Thị Ngọc Chúc, Vũ Thanh Huân, Lê Nhật Ký... lần lượt công bố cho thấy trào lưu

13

tiếp cận ngôn ngữ văn hoá đối với Truyện Kiều đã thực sự cần thiết, cần có sự nâng

cấp thành lý luận. Do đó, kế thừa những người đi trước, chúng tôi luôn ý thức tìm

về những giá trị văn hoá của Truyện Kiều cũng như là những sáng tạo mà Nguyễn

Du đã để lại cho hậu thế.

Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện luận án, bản thân chúng tôi cũng đã cố

gắng tìm hiểu, thể hiện kết quả nghiên cứu bước đầu của mình về giá trị văn hoá

trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều qua một số bài viết như: Hàm nghĩa văn

hoá của chữ Đông và chữ Tây trong văn học trung đại Việt Nam (2003), Đặc trưng

thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

(2009), Hàm nghĩa văn hoá của hai từ Nam, Bắc trong ngôn ngữ văn học trung đại

Việt Nam (2011), Ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến đời sống văn

chương và xã hội Việt Nam (2012), Phong cách văn hoá Nguyễn Du qua ngôn ngữ

nhân vật trong Truyện Kiều (2013).

Qua một số hướng tiếp cận văn hoá đã đề cập trên, chúng tôi cho rằng việc

khảo sát hệ thống ngữ liệu mang hàm nghĩa văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật

truyện Nôm nói chung, Truyện Kiều nói riêng là một vấn đề hấp dẫn và cần có sự

đầu tư thỏa đáng. Điều đó cho thấy, đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ

góc nhìn văn hoá mà chúng tôi đang thực hiện tuy không phải hướng tiếp cận mới

lạ, song nó vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ cho những ai tâm huyết với các tác

phẩm văn học dân tộc. Hướng tiếp cận này góp phần minh chứng khả năng liên hội

của từ ngữ văn hoá tạo nên đặc trưng tư duy mang tính biểu tượng, ý nghĩa liên hội

của các chúng trong ngôn ngữ Truyện Kiều, làm cho trường liên tưởng của tác phẩm

này càng được mở rộng mà mỗi độc giả tuỳ theo bề dày văn hoá của mình có thể

thẩm thấu được.

Tóm lại, từ những hướng nghiên cứu đã tổng thuật và nhìn lại một chặng

đường lịch sử khảo sát Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy tiếp cận tác phẩm văn học

từ góc nhìn văn hoá là vấn đề lớn, cần có sự đầu tư, tìm hiểu của nhiều thế hệ học

giả và bạn đọc. Từ định hướng này, nhiều nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu, khám

phá thế giới nghệ thuật, bức tranh ngôn ngữ về đời sống xã hội, khẳng định những

14

cách tân, đóng góp của Thanh Hiên tiên sinh trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực

cùng với những trải nghiệm của một nhà nghệ sỹ trước những dâu bể, biến thiên,

tang thương của cuộc đời. Do vậy, khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học

trung đại nói chung và Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn

hoá là một công việc khá phức tạp và có giá trị khoa học, thực tiễn đối với công tác

nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm này trong nhà trường. Thông qua hệ thống ngữ liệu

văn hóa, một số nhà nghiên cứu bước đầu đã khám phá nội dung, tư tưởng, những

sáng tạo, đặc trưng phong cách văn hoá của đại thi hào Nguyễn Du.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá,

chúng tôi nhận thấy cần phải có những cách thức tiếp cận liên ngành, khảo cứu,

giảng giải ngữ liệu văn hoá một cách khoa học và chuẩn xác. Vì thế, khi thực hiện

luận án, chúng tôi cũng đã gặp không ít những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, việc

xác định rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã giúp tác giả luận án từng

bước tháo gỡ được những vướng mắc học thuật cần giải quyết.

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án chúng tôi là hệ thống ngữ liệu văn

hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, cụ thể ở đây là ngữ liệu văn hoá bác

học và ngữ liệu văn hoá bình dân. Xét về hình thức ngôn ngữ, nguồn gốc và xuất

xứ, đây là hệ thống từ ngữ Hán Việt, có yếu tố Hán Việt, thuần Việt, từ ngữ nguyên

dạng hay chuyển dịch được dẫn dụng trong văn chương bác học có nguồn gốc từ

các tác phẩm kinh điển trong triết học và văn chương cổ điển Trung Hoa như Tứ

thư 四書, Ngũ kinh 五經, Lão Tử Đạo Đức kinh 老子道德經, Trang Tử Nam Hoa

kinh 莊子南華經, Sở Từ 楚辭, Nhạc phủ 樂府, Đường thi 唐詩, Tống từ 宋詞,

Minh Thanh cổ điển tiểu thuyết 明清古典小說... hay những bộ kinh tạng của Phật

giáo nói chung. Về ngữ nghĩa và phạm vi sử dụng, đó là các từ ngữ thể hiện những

quan niệm, biểu tượng về màu sắc, phương vị, từ ngữ thuộc các lĩnh vực chính trị,

quân sự, sinh hoạt văn hoá cộng đồng, quan niệm đạo đức, thẩm mỹ của thi ca cổ

điển phương Đông. Cụ thể có thể khái quát thành những thành phần sau: địa danh,

15

nhân danh Hán Việt, các từ ngữ, khái niệm xã hội, thành ngữ, tục ngữ Hán Việt, hệ

thống từ ngữ, thi văn liệu tiếp thu từ văn hoá, văn học cổ điển Trung Hoa.

Bên cạnh những ngữ liệu có nguồn gốc từ văn hoá, văn chương bác học, đề

tài còn hướng đến những từ ngữ có nguồn gốc từ trong văn học dân gian, văn học

bình dân, trong lối nói sinh hoạt khẩu ngữ đời thường của cuộc sống. Cụ thể là các

thành phần ngôn ngữ như: từ ngữ có phong cách khẩu ngữ, bình dân (chủ yếu

nghiên cứu qua lớp hư tư tiếng Việt, từ cổ Việt ngữ, từ địa phương xứ Nghệ), từ láy,

những từ ngữ ảnh hưởng từ ca dao, thành ngữ, tục ngữ và khẩu ngữ trong tiếng Việt.

Đặc biệt, luận án còn hướng đến một lớp từ ngữ chịu ảnh hưởng từ Truyện

Kiều trong văn chương và đời sống tinh thần của các thế hệ văn nghệ sĩ sau Nguyễn

Du mà chúng tôi tạm gọi là Từ ngữ văn hoá hậu Truyện Kiều. Do vậy, thông qua

kết quả thống kê, phân loại ngữ liệu, chúng tôi sẽ bước đầu đi vào tìm hiểu, phân

tích hàm nghĩa văn hoá, chức năng, giá trị sử dụng nó trong ngôn ngữ Truyện Kiều.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và

văn hoá, những ảnh hưởng của văn hoá bác học, bình dân đối với ngôn ngữ nghệ

thuật Truyện Kiều. Từ những kết luận có được, thông qua quá trình khảo sát, thống

kê, phân loại các tiểu hệ thống ngôn ngữ với những nét nghĩa văn hoá đặc thù,

chúng tôi bước đầu tìm hiểu phong cách, giá trị cũng như những hiệu quả thẩm mỹ

của các hệ thống ngữ liệu văn hoá, những biểu hiện cụ thể của nó trong Truyện

Kiều. Để tạo tính thống nhất trong quá trình khảo sát ngữ liệu, trong luận án này,

chúng tôi không đi sâu khảo sát những hiện tượng cú pháp câu trong ngôn ngữ nghệ

thuật của Truyện Kiều.

Ngoài ra, trên một hệ quy chiếu mới, chúng tôi bước đầu so sánh những đặc

trưng văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật của thiên truyện này với một số truyện thơ

Nôm bác học khác trước và sau nó.

3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê

Văn bản Truyện Kiều được khảo sát trong luận văn của chúng tôi là bản

Truyện Thuý Kiều (1925, tái bản 1960) do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo

16

[30]. Đây là một trong những bản phiên quốc ngữ chất lượng, có giá trị khoa học.

Bên cạnh đó chúng tôi có những đối chiếu và so sánh với các bản quốc ngữ Vương

Thuý Kiều chú giải tân truyện (1952) [35] do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chấp bút

hiệu đính, chú giải, bình luận, bản Truyện Kiều chú giải (1952, tái bản 2010) [28]

do Vân Hạc Lê Văn Hoè chú giải và bản Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh)

(1960, bản in lần 3) [29] do học giả Bùi Khánh Diễn chú thích và bình luận.

Trong quá trình thống kê, tác giả luận án đã sử dụng một số kết quả, thành

tựu nghiên cứu về văn bản học, ngôn ngữ học của các nhà nghiên cứu trước đây.

Với công việc này, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói trong lịch sử tìm hiểu, tiếp

nhận ngôn ngữ Truyện Kiều. Tiếp đến là trình bày những diễn giải, cắt nghĩa thêm

một số thông tin liên quan đến các ngữ liệu văn hoá đã được thống kê, phân loại

trong luận án. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã gặp phải

không ít khó khăn, nhất là ở hệ thống tiêu chí phân loại ngữ liệu. Và tất nhiên, việc

thống kê, phân loại, xử lý một số lượng lớn dữ liệu, sự thiếu sót, khiếm khuyết là

điều không tránh khỏi, nhất là trong quá trình thẩm bình và phân tích những nét đẹp

văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều - Tập đại thành về văn hoá, văn học Việt Nam.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành thống kê cụ thể các thành

phần từ ngữ về quy mô, số lượng, tỷ lệ của các thành phần ngôn ngữ bác học, bình dân

trong Truyện Kiều, so sánh tác phẩm này với một số truyện Nôm khác.

Từ số lượng, tỷ lệ được thống kê, tác giả luận án sẽ phân tích các đặc điểm

ngữ dụng, đặc trưng văn hoá, tính chất đặc thù của từng hệ thống để đi đến những

kết luận về vai trò, vị trí và giá trị thẩm mỹ của các thành phần ngữ liệu văn hoá cụ

thể trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.

Bên cạnh đó, tác giả luận án sẽ so sánh những tương đồng và dị biệt trong

nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du với một số tác giả văn học khác. Qua đó,

chúng tôi xác định những đặc trưng trong phong cách văn hoá của tác giả Truyện

Kiều, vị trí của tác phẩm trong tiến trình phát triển văn hoá, văn chương cổ điển

Việt Nam và tiếp tục khái quát những quy luật phát triển của ngôn ngữ văn học

trung đại Việt Nam.

17

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Vận dụng mối quan hệ văn hoá - ngôn ngữ vào khảo sát một tác phẩm văn

học cụ thể là một trong những hướng tiếp cận mang tính triết học, đa ngành. Hướng

đi này sẽ trực tiếp luận giải mối quan hệ biện chứng giữa văn học, ngôn ngữ với văn

hoá. Văn hoá là một hiện tượng tồn tại một cách không cụ thể, trực tiếp, người ta

chỉ có thể nhận diện văn hoá qua hệ thống các biểu hiện cụ thể - các hiện tượng văn

hoá như một tập hợp đa trị cần được tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Mục

đích chính của luận văn là tìm hiểu những giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam

trong hệ thống Ngôn ngữ nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể - Truyện Kiều. Thông

qua những kết quả thu thập được, chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích những yếu tố văn

hoá ẩn hàm trong lớp ngôn từ nghệ thuật đặc sắc của thi phẩm này.

Nhiệm vụ cơ bản của luận án là tiến hành phác hoạ một cách chân thực bức

tranh toàn cảnh về thế giới trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều từ góc độ

ngôn ngữ văn hoá. Từ đó, chúng tôi xác định những nét riêng biệt về giá trị văn hoá

của ngôn ngữ tác phẩm trong hành trình phát triển của văn học cổ điển, những yếu

tố đã làm nên giá trị bất hủ của thi phẩm.

6. Phương pháp nghiên cứu

Nhằm hỗ trợ cho việc lý giải, tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến điển cố, thi

liệu, từ ngữ tập cổ trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều và hàm nghĩa văn hoá của

chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể, chúng tôi tiến hành khảo sát, truy nguyên hệ thống

ngữ liệu cổ văn Truyện Kiều trong các văn bản, tài liệu Hán Nôm. Đây là một việc

làm cần thiết đối với những ai yêu mến tác phẩm và bảo tồn di sản văn học cổ điển

của ông cha ta. Vì những lý do cơ bản ấy, chúng tôi thiết nghĩ ngôn ngữ văn hoá

trong Truyện Kiều cần phải xem một biểu tượng, một minh chứng cho mối quan hệ

ngôn ngữ - văn hoá thông qua các quan hệ hữu cơ của hai hệ thống này.

Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng

kết hợp các lý thuyết, quan điểm nghiên cứu về văn hoá học, ngôn ngữ học lịch sử,

thi pháp học và các kiến thức liên ngành liên quan đến việc khảo chứng hệ thống

ngữ liệu văn hoá bác học, bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Trong luận án này,

chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:

18

6.1. Phương pháp tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm văn học

Với phương pháp này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cội nguồn, dấu vết văn

hóa và đặt hệ thống ngữ liệu văn hóa trong mối quan hệ với chỉnh thể tác phẩm. Cụ

thể, chúng tôi sẽ từng bước phân tích những giá trị của từng hệ thống ngữ liệu văn

hoá bác học, bình dân đã tham gia kiến tạo nên những đặc sắc về nội dung và nghệ

thuật của tác phẩm. Bên cạnh đó, với tư cách là một yếu tố cấu tạo nên những nét

đặc sắc trong Truyện Kiều, chúng tôi cũng đi sâu lý giải những những ảnh hưởng

văn hóa của ngôn ngữ tác phẩm đến đời sống văn chương, học thuật và văn hóa Việt

Nam hậu Truyện Kiều.

6.2. Phương pháp thống kê, phân loại và so sánh

Trên cơ sở giới thuyết về các nguồn gốc văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều, chúng tôi đi vào thống kê và phân loại hệ thống ngữ liệu cổ văn.

Thông qua việc phối kết hợp hai tiêu chí truyền thống văn hóa (văn hóa Hán, văn

hóa Việt) và phẩm chất văn hóa (bác học và bình dân), chúng tôi phân chia thành

ngữ liệu văn hóa Hán, bác học và ngữ liệu văn hóa Việt, bình dân. Đó là những cơ

sở khoa học để khảo sát toàn bộ hệ thống ngôn ngữ văn hóa trong Truyện Kiều và

chứng minh cho những luận điểm mà chúng tôi sẽ trình bày trong luận án của mình.

Dựa vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn tự cũng như khả năng hành chức

của nó trong Ngôn ngữ nghệ thuật, trong khi nhận diện các thành phần ngữ liệu văn

hoá trong Truyện Kiều, chúng tôi sử dụng các bản sau: Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ,

Trần Trọng Kim hiệu khảo) [30]; Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện (Tản Đà chú

giải) [35]; Từ điển Truyện Kiều (Đào Duy Anh biên soạn) [03]; Đoạn Trường Tân

Thanh dưới cái nhìn Nho gia, Thiền gia (Nguyễn Thạch Giang biên soạn); Truyện

Kiều tập chú (Trần Văn Chánh và nhóm soạn giả chú giải) [32]; Tìm hiểu từ ngữ

Truyện Kiều (Lê Xuân Lít biên soạn) [91]...

6.2. Phương pháp phân tích miêu tả

Chúng tôi vận dụng phương pháp này để phân tích, miêu tả, tìm hiểu các ngữ

liệu đã thống kê, từ đó đưa ra những chỉ xuất, những dẫn liệu, nêu rõ nguồn gốc,

xuất xứ của ngữ liệu từ kho tàng cổ văn Trung Hoa và Việt Nam. Kết quả thu thập

19

được sẽ là luận cứ minh chứng cho những luận điểm mà chúng tôi đề xuất trong quá

trình nghiên cứu đề tài luận án.

6.3. Phương pháp phân tích logic

Phương pháp này được sử dụng để phân tích những giá trị thẩm mỹ, văn hoá

của các thành phần ngôn ngữ được sử dụng trong Truyện Kiều. Với ý nghĩa là

phương tiện thể hiện thi pháp nghệ thuật ngôn từ của chính tác giả, qua phương

pháp phân tích logic, chúng tôi sẽ nêu bật những hiệu quả nghệ thuật của các thành

phần từ ngữ đối với việc xây dựng thế giới nghệ thuật Truyện Kiều và sự thể hiện hệ

thống chủ đề tư tưởng tác phẩm.

6.4. Phương pháp tổng hợp, khái quát hoá

Bên cạnh các thao tác thống kê, phân loại, phân tích miêu tả, chúng tôi bước

đầu tìm hiểu những tiếp thu, kế thừa và khả năng sáng tạo vốn văn hoá bác học của

thi sĩ Tố Như trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Qua đó, chúng tôi sẽ đi vào khảo sát

những nét đặc sắc về phong cách, tâm thức văn hoá, quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ

như một phương cách tiếp cận đặc thù. Ngoài ra, chúng tôi đã đặt các hệ thống ngữ

liệu đã khảo cứu trong toàn bộ chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm như một yếu tố đặc

trưng, một thành phần cơ bản cấu thành “đặc chất văn hóa” của tác phẩm.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Trong những thập kỷ gần đây, việc nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá từ góc độ

liên ngành được mở rộng và đạt nhiều thành tựu khả quan. Ở những bước phát triển

này, sự quan tâm đến vấn đề tính dân tộc, giao lưu tiếp xúc hay tiếp biến trong ngôn

ngữ luôn được quan tâm. Và dĩ nhiên, sự quan tâm ấy luôn thể hiện trong quá trình

nghiên cứu văn hoá, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.

Tiếp cận từ chiều sâu của một hoạt động không tách rời của tư duy, ngôn ngữ

được coi là một phương tiện duy nhất có khả năng giải mã cho các loại hình gắn

liền với phạm trù văn hoá. Nhờ vào tiềm năng này, ngôn ngữ có thể tạo nên những

tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, đánh dấu những bước trưởng thành về mặt văn

hoá của một cộng đồng. Những đặc sắc, giá trị văn hoá của ngôn ngữ nghệ thuật

truyện Nôm, Ngâm khúc và Hát nói - những thể loại nội sinh trong văn học cổ điển

20

Việt Nam là một ví dụ điển hình. Những giá trị ấy không chỉ thể hiện đặc trưng

nghệ thuật và tâm huyết của nhà thi sĩ mà còn đánh dấu một bước trưởng thành

trong tư duy nghệ thuật, một bước tiến trong tư tưởng và góp phần tạo nên sắc thái

trang trọng quý phái của văn chương cổ điển.

Có thể nói, mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ được xác lập trong biên

độ của quá trình tiếp nhận, thể hiện những đặc sắc về nghệ thuật, tư tưởng của tác

phẩm. Trong thực tế tồn tại, hệ thống từ ngữ, ngữ liệu khi đi vào tác phẩm, nó kiến

tạo nên những bức tranh sinh động về xã hội và tâm tưởng của tác giả.

Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi nhận thấy, ngôn ngữ nghệ thuật

truyện thơ Nôm là một đối tượng hấp dẫn, có khả năng được phóng chiếu nghiên

cứu từ nhiều góc độ, nhất là từ hướng tiếp cận văn hoá. Do đó, việc tìm hiểu các

tầng nghĩa bề nổi, lớp trầm tích văn hoá ẩn giấu bên trong hệ thống ngôn ngữ thể

loại truyện Nôm là một hướng giải mã văn hoá khá mới mẻ, góp phần nâng cao

chất lượng nghiên cứu và giảng dạy truyện thơ Nôm trong nhà trường cũng như

trong giới học thuật. Bên cạnh đó, sự phân tích hệ thống ngữ liệu văn hoá trong

truyện Nôm dường như chưa thu hút được thật nhiều chú ý của giới nghiên cứu.

Một vài cuốn chuyên khảo gần đây mới gợi lên được cái ý niệm về một vùng đối

tượng mà trữ lượng dường như chưa lộ rõ, do vậy những sự mô tả và phân tích

chưa hẳn đã hoàn toàn hợp lý. Có lẽ, theo chúng tôi, đằng sau cả khối di sản này

còn có thể đọc ra nhiều thông số lý thú về văn hóa tinh thần người Việt.

8. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được

chia thành 03 chương như sau:

Chương 1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá nhìn từ quan niệm

thẩm mỹ trung đại

Đây là chương nghiên cứu lý luận, có tính chất tạo tiền đề khoa học cho quá

trình triển khai luận án. Do vậy, trong chương này, thông qua việc làm rõ mối quan

hệ hữu cơ, tác động giữa ngôn ngữ và văn hoá, chúng tôi tiếp tục lý giải những đặc

trưng nghệ thuật cơ bản về hàm nghĩa văn hoá của hệ thống ngữ liệu trong truyện

Nôm bác học. Bên cạnh đó, chúng tôi đi sâu khái quát những giá trị văn hoá của

21

ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du

qua thơ chữ Hán và Truyện Kiều.

Chương 2. Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Đây là chương nghiên cứu trọng tâm của luận án. Nhiệm vụ cơ bản của

chương này là tìm hiểu những ảnh hưởng của văn hoá bản địa và ngoại lai trong

ngôn ngữ Truyện Kiều. Bên cạnh đó, để có được một cái nhìn cụ thể về những giá

trị văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, chúng tôi đã tiến hành những

khảo sát, thống kê hệ thống ngữ liệu bình dân, bác học và khái quát một số nét đặc

trưng văn hoá của hai hệ thống từ ngữ văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều.

Đặc biệt, từ những số liệu cụ thể, chúng tôi sẽ nêu bật một số nét về nghệ

thuật sử dụng, tính linh hoạt, khả năng chuyển dịch, sự chuyển dẫn tự nhiên, hợp lý,

thích đáng cùng với những đóng góp cụ thể của hai hệ thống ngữ liệu trong việc

kiến tạo những giá trị văn hoá đặc sắc của Truyện Kiều.

Chương 3. Hiệu quả thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn

ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Với mục đích khẳng định giá trị văn hoá của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều, chúng tôi sẽ khảo sát những biểu hiện cụ thể của ngữ liệu văn hoá trong cách

tiếp cận, lý giải hiện thực qua nhãn quan văn hoá, tính triết lý của ngôn ngữ tác giả.

Ngoài ra, từ những trải nghiệm về văn hoá, những khái quát nhân sinh của Nguyễn

Du, chúng tôi đi sâu tìm hiểu sự chuyển hoá của những trải nghiệm ấy qua ngôn

ngữ của hai hệ thống nhân vật chính diện và phản diện trong Truyện Kiều.

Sức ảnh hưởng của những giá trị văn hoá của Nguyễn Du, ngôn ngữ Truyện

Kiều đến đời sống văn chương học thuật và xã hội Việt Nam cũng là một nội dung

cần tìm hiểu, soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau. Từ kết quả nghiên cứu này,

chúng ta có đủ cơ sở để khái quát những đóng góp của Nguyễn Du không chỉ về

mặt văn học mà còn là những dấu ấn văn hoá đối với đời sống xã hội Việt Nam.

22

Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NHÌN TỪ

QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI

1.1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hóa

1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hoá

Xét từ góc độ chức năng, các nhà nghiên cứu cho rằng, ngôn ngữ là công cụ

cơ bản để con người trao đổi giữa người với người trong cộng đồng, là âm thanh

của con người được dùng để thể hiện những nội dung, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm.

Trong đời sống thường nhật và quá trình hành chức của nó, ngôn ngữ đôi khi còn

được hiểu với một phạm vi khá rộng và bao quát hơn. Tuy nhiên, nhờ những điều

kiện nào mà ngôn ngữ, vốn là công cụ giao tiếp giữa người với người trong xã hội,

đồng thời lại là chất liệu cho một thứ nghệ thuật gọi là văn chương, nó đóng vai trò

là cầu nối thông linh giữa tác giả, người đọc và văn bản nghệ thuật? Theo Nguyễn

Phan Cảnh, “chính sự giống nhau giữa các đơn vị ngôn ngữ và sự gần nhau giữa

các đơn vị ngôn ngữ đã đảm nhiệm việc giải thích, thuyết minh cho các tín hiệu

ngôn ngữ… Hoạt động này làm nên nội dung cụ thể của điều mà chúng ta gọi là

“người thuyết minh” trong các văn bản nghệ thuật.” [10, tr.08 - 09]. Trong chuyên

luận Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Iu.M.Lotman cũng nhận định:

Bất kỳ một hệ thống phục vụ cho những mục đích giao tiếp giữa hai

hay nhiều cá thể đều có thể được xác định như là một ngôn ngữ (như chúng

tôi đã từng lưu ý, trường hợp tự giao tiếp hàm ý rằng một cá thể xuất hiện

với tư cách đúp). Điều chỉ dẫn thường gặp rằng ngôn ngữ ngụ ý giao tiếp

trong xã hội loài người, nói một cách chặt chẽ, thì không phải là nhất thiết,

bởi từ một phía, giao tiếp ngôn ngữ giữa con người và máy móc và giữa máy

móc với nhau vào thời điểm hiện nay đã trở thành một vấn đề không còn chỉ

mang tính lý thuyết mà đã trở nên là một thực tế kỹ thuật. Từ phía khác, sự

hiện diện của các thông báo bằng ngôn ngữ xác định trong thế giới động vật

không còn là điều phải nghi ngờ… [88, tr.23].

Và ông đã đi đến kết luận “chúng tôi sẽ hiểu ngôn ngữ là bất kỳ một hệ thống

có tính giao tiếp nào có sử dụng những ký hiệu được sắp đặt bằng một dạng thức

đặc biệt…” [88, tr.25].

23

Với tư cách là một chất liệu đặc biệt, là công cụ diễn giải nội dung, ngôn ngữ

được xem là yếu tố thứ nhất của văn chương, nó có vai trò tối quan trọng như màu

sắc, đường nét đối với hội họa, giai điệu, tiết tấu đối với âm nhạc và hình khối đối

với kiến trúc. Và ngược lại, văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Vì vậy, trong

lịch sử phát triển văn hoá của nhân loại, các nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ

trác tuyệt. Trong quá trình tư duy sáng tạo của nhà văn, những đột phá về ngôn ngữ

đóng vai trò hết sức quan trọng và có tầm ảnh hưởng đối với việc tạo nên vẻ đẹp,

chiều sâu triết mỹ của thế giới nghệ thuật tác phẩm văn chương. Trong lao động

nghệ thuật của nhà văn có một sự lao tâm khổ tứ về ngôn ngữ. Trên nền chung của

ngôn ngữ toàn dân, nhà văn đã tinh luyện thành lớp ngôn từ nghệ thuật để tạo tác

tác phẩm văn học. Quá trình sáng tạo ra ngôn ngữ văn học, dường như nhà nghệ sĩ

đã tạo nên những nét khu biệt giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học. Vì vậy,

có thể xem ngôn ngữ nhân dân là kho quặng nguyên liệu, còn ngôn ngữ văn học là

sản phẩm, tinh chất đã được những nghệ nhân ngôn từ ấy tinh xảo nhào luyện.

Từ góc độ so sánh, ngôn ngữ trong văn học có những đặc điểm riêng biệt

khác hẳn các loại hình nghệ thuật khác. Ở đây, trước tiên chúng ta phân biệt ngôn

ngữ và lời văn (lời nói), Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương [124], Ferdinand

de Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói

(parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ

trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi ký hiệu bao gồm hai phương diện gắn

liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy: Cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái

biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa

chúng có mối quan hệ võ đoán tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà

nhiều khi không thể giải thích một cách tường tận được. Lời nói là sản phẩm của cá

nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh cụ

thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà văn sáng

tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ thuật chính là

đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học. Do đó, việc kiểm định

những đặc tính vốn có của chất liệu ngôn ngữ và xem xét sự chi phối của chúng đến

24

nghệ thuật văn chương là yêu cầu cần thiết của một công trình phê bình văn học.

Điều ấy có thể xác định được một cách khái quát các cơ sở ngôn ngữ của việc phân

tích văn học, nhất là từ góc độ ngôn ngữ văn hoá.

Xét từ phương diện lịch sử, ngôn ngữ là công cụ phục vụ cho quá trình nhận

thức, tư duy và là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Nó mang những chức năng

rất cơ bản như giao tiếp, nhận thức, tư duy. Những chức năng đó đã hình thành từ

sớm ở mọi cộng đồng xã hội, mọi dân tộc. Diễn trình lịch sử phát triển của văn

chương qua các thời kỳ, giai đoạn của một dân tộc cụ thể là minh chứng rất rõ ràng.

Xét về mặt không gian, trên diện rộng có thể thấy, với tư cách chất liệu của nghệ

thuật, ngôn ngữ là loại chất liệu mang tính toàn dân, tính phổ thông tính phổ biến

nhất. Nhờ thứ chất liệu sẵn có ấy mà sáng tác văn chương mang tính toàn dân. Mỗi

người khi có cảm hứng đều có thể làm được một vài câu thơ, câu văn. Sau sáng tác

là việc truyền bá tác phẩm. Nhờ chất liệu ngôn ngữ mang tính toàn dân nên tác

phẩm văn chương có thể truyền bá dễ dàng và rộng rãi đến mọi người. Bùi Minh

Toán trong Ngôn ngữ với văn chương cho rằng “…ngôn ngữ là tài sản riêng của

từng dân tộc, mang đặc trưng dân tộc, hơn nữa chính ngôn ngữ là một trong những

đặc trưng cơ bản nhất của dân tộc…” [155, tr.37]. Nói cách khác, ngôn ngữ của

một dân tộc cụ thể chính là linh hồn của dân tộc đó và nghĩa của từ cũng chính là

linh hồn của từ. Chẳng hạn trong các câu ca dao sau:

“Trăng thanh anh mới hỏi nàng:

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?”

Hay

“Tưởng giếng sâu, anh nối sợi gàu dài

Ai ngờ giếng cạn, anh tiếc hoài sợi dây.”

Từ chất liệu, hình ảnh quen thuộc trong tiếng Việt, cái vẻ hồn hậu, chân chất,

thuần phác đã được các tác giả dân gian sử dụng một cách nhuần nhị khiến cho câu

ca trở nên gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày mà không đánh mất đi vẻ đẹp bình

dị và chân tình của một lời tỏ tình đằm thắm hay sự tiếc nuối vô vàn của một chàng

trai nơi thôn dã. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã không ít lần sử dụng

25

những kiểu cấu trúc ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ để giãi bày những điệp khúc trữ

tình hay tâm trạng khác nhau của nhân vật. Đặc biệt là nghệ thuật lặp hư từ, các

kiểu cấu trúc ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ mà câu thơ vẫn không bị khô cứng, vẫn

có sự uyển chuyển, sức hấp dẫn, lôi cuốn và thuyết phục người đọc:

“Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân”.

(Câu 1271 - 1272)

“Hải đường mơn mởn cành tơ,

Ngày xuân càng gió, càng mưa, càng nồng.”

(Câu 1283 - 1284)

“Làm cho, cho mệt, cho mê,

Làm cho đau đớn, ê chề cho coi.”

(Câu 1617 - 1618)

Ngôn ngữ với tư cách là một chất liệu mang nghĩa, nó chuyển tải toàn bộ nội

dung, tư tưởng, suy nghĩ tâm tư tình cảm của con người. Do đó, “nội dung ngữ

nghĩa mà ngôn ngữ biểu hiện rất đa dạng, phong phú, thuộc mọi lĩnh vực khác nhau

trong đời sống của con người…” [155, tr.38]. Nhờ thuộc tính này của ngôn ngữ,

nhà nghệ sỹ khi sáng tác văn chương có thể đi sâu khám phá, phân tích từng ngõ

ngách trong tâm hồn con người với những xúc cảm tế vi, nhuần nhị và có thể giãi

bày, thể hiện xúc cảm của mình trên từng con chữ. Điều đó cũng góp phần thể hiện

sự nhạy cảm, nỗi đau hay sự chiêm nghiệm của họ trước những biến thiên của cuộc

đời. Đặc tính nghĩa của chất liệu ngôn ngữ là một trong những ưu thế căn bản góp

phần kiến tạo nên tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương với tư cách là sản phẩm

văn hoá tinh thần. Đồng thời, nó cũng là một ưu thế đối với độc giả khi tiếp cận,

lĩnh hội tác phẩm văn chương. Bởi lẽ khi ấy, người đọc sẽ huy động toàn bộ năng

lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ và kể cả vốn văn hoá, vốn sống của cá nhân để cắt

nghĩa, lý giải và tái hiện hình tượng theo kinh nghiệm thẩm mỹ riêng biệt của mình.

Bên cạnh đó, với một kiểu tổ chức và cơ chế hoạt động cá nhân của mình, nghệ

thuật thơ văn sẽ có những nét đặc sắc, đậm cá tính trong cảm thụ và kiến tạo thế

26

giới hình tượng của tác phẩm văn chương. Do đó, để có thể tái hiện lại thế giới hình

tượng cụ thể, giúp chúng lần lượt xuất hiện trong dòng ý thức, trong quá trình chiếm

lĩnh của người tiếp nhận văn chương, có lẽ chúng ta cần phải duy trì sự ăn khớp cái biểu

đạt và nội dung biểu đạt với nội dung biểu đạt phái sinh.

Trên cơ sở của các lý thuyết tiếp cận văn hóa, ứng chiếu vào văn học và

ngôn ngữ, chúng ta sẽ nhận ra được nhiều chân giá trị được sáng tạo, tích hợp trong

các phông nền thẩm mỹ của các nhà nghệ sĩ ưu tú. Bởi lẽ, những tác phẩm văn học

tinh túy luôn tắm mình trong bản sắc văn hóa của dân tộc và được thể hiện một cách

sinh động qua lớp ngôn từ đặc sắc của nó. Do vậy, qua việc tiếp cận mối quan hệ

giữa ngôn ngữ và văn chương nhìn từ góc độ văn hóa, tác giả sẽ đạt đến một trình

độ thẩm mỹ sáng tạo vô tư và mang đến cho đối tượng thưởng thức một một sự cảm

nhận đúng hướng, tạo nên những hiệu ứng, khoái cảm thẩm mỹ nhất định, góp phần

thúc đẩy quá trình tiếp nhận, đồng sáng tạo ở các thế hệ bạn đọc văn chương.

Nhìn chung, trong dòng chảy văn hoá của một dân tộc, với những chức năng

cơ bản của mình, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện, là công cụ tư duy, giao tiếp,

lưu trữ ký ức,… mà nó còn là chất liệu cơ bản để xây dựng nên thế giới nghệ thuật

ngôn từ thấm đẫm những sắc màu văn hoá của một dân tộc, một thời đại hay một cá

nhân văn hoá cụ thể - nhà nghệ sĩ. Ngoài ra, với tư cách là mạch ngầm văn hoá,

ngôn ngữ còn được xem là một trong những yếu tố cấu thành văn hoá, có sức lan

toả sâu rộng và làm sáng tỏ những tính chất trội bật của bản sắc văn hoá trong đời

sống xã hội của một dân tộc.

1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá

Trong những thập kỷ gần đây, hướng nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá từ góc

độ liên ngành được chú ý và đạt nhiều thành tựu khả quan. Từ những bước phát

triển này, những vấn đề liên quan đến tính dân tộc, sự giao lưu tiếp xúc hay quá

trình tiếp biến trong ngôn ngữ luôn được chú trọng. Và dĩ nhiên, sự quan tâm ấy

luôn thể hiện trong các kết quả nghiên cứu về văn hoá, mối quan hệ, tương tác giữa

ngôn ngữ, văn hoá của một dân tộc, một nền văn học cụ thể.

27

Khi bàn đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, các nhà nghiên cứu

thường băn khoăn nhiều vấn đề như: đối tượng và phạm vi của văn hoá, văn hoá và

ngôn ngữ cần khảo sát ở những phương diện nào, hoặc mối tương tác đặc thù giữa

ngôn ngữ và văn hoá cần xem xét trên hệ quy chiếu nào... Theo cách hiểu thông

thường nhất, ngôn ngữ được hàm chứa trong văn hoá, là một yếu tố cấu thành văn

hoá, nhưng thực tế, trong hoạt động hành chức của nó, ngôn ngữ đã có những chi

phối, tác động đến văn hoá trên nhiều phương diện, nhiều cấp độ, tầng bậc khá

nhau, rất phong phú, linh hoạt và đa dạng.

Khi nói đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hoá, điều đầu tiên cần khẳng

định rằng, ngôn ngữ chính là cửa sổ, cầu nối giúp cho quá trình mở rộng tầm hiểu

biết về văn hoá của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, nếu dừng ở

đây thì có lẽ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá sẽ tương đồng với mối quan hệ

giữa văn hoá với các ngành khoa học khác. Trong Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp

nhận văn học (1998), khi bàn về mối quan hệ giữa văn học và ngôn ngữ với văn

hoá, nhà nghiên cứu Ngữ học Nguyễn Lai cho rằng “ở đây có một vấn đề gì đó nằm

trong chiều sâu hơn cần đặt ra. Đó là: sự hình thành ngôn ngữ là tiền đề nhiều mặt

của sự hình thành văn hoá, mặc dù xếp theo hình thức thì ngôn ngữ nằm trong

phạm trù văn hoá” [78, tr.05]. Cũng giống như các ngành khoa học xã hội - nhân

văn khác, văn hoá, ngôn ngữ đều được xem là những “thiết chế trừu tượng” (F.de

Saussure) và cùng phát triển với “con người xã hội” (F.Engels). Và, trong tính hiện

thực của nó, ngôn ngữ là tiền đề cơ bản kích thích sự phát triển, tiến hoá của tư duy

con người, tác động đến quá trình hình thành “con người xã hội”. Như vậy, “theo

cách nhấn mạnh của F.Engels, rõ ràng ngôn ngữ không chỉ là tiền đề tạo nên đối

tượng văn hoá, mà hơn thế nữa - từ trong chiều sâu - trước hết nó là tiền đề tạo ra

con người.” [78, tr.06], đồng thời từ đó con người tiếp tục tạo ra những giá trị văn

hoá, tạo ra những tiền đề chủ quan và khách quan khác làm phong phú thêm đối

tượng của văn hoá. Đó là những chỗ phức tạp, là sự tác động có chiều sâu của ngôn

ngữ đối với văn hoá mà không phải ai cũng nhận thấy được. Tuy nhiên, “nhìn

chung những hoạt động thuộc về lĩnh vực ngôn ngữ hay văn hoá đều là những hoạt

28

động tinh thần, cả hai đều được xử lý và đều dựa vào quá trình ước lệ, thẩm mỹ hoá

gắn liền với yếu tố tâm lý xã hội.” [78, tr.07 - 08]. Hiểu được sự phức tạp này,

chúng ta mới có thêm những cơ sở khoa học để phân tích, biện giải cho mối quan hệ

tương tác qua lại giữa ngôn ngữ, văn hoá. Đặc biệt, nhận thức rõ sự ảnh hưởng đa

chiều ấy, người nghiên cứu luôn luôn nâng cao ý thức kết hợp giữa ý nghĩa nhân

văn với tiền đề tâm lý xã hội trong văn hoá được biểu hiện qua ngôn ngữ. Đó cũng

là lý thuyết, cơ sở lý luận góp phần cắt nghĩa, lý giải những nguyên nhân sâu xa,

những cơ sở khoa học, tiền đề nhân văn tạo nên bản sắc, cá tính và chiều sâu văn

hoá, ngôn ngữ của một dân tộc cụ thể.

Riêng đối với hệ thống ngữ liệu văn hoá trong văn học cổ điển, quá trình phát

triển ý nghĩa từ thực chỉ (nét nghĩa được dùng để chỉ một đối tượng cụ thể, rõ ràng

nào đó), đặc chỉ (nét nghĩa được dùng để nói về một đối tượng có tính chất đặc biệt

hoặc có ý nghĩa tổng quát nào đó) đến phiếm chỉ (nét nghĩa được dùng để chỉ riêng

một loại sự vật hiện tượng nào đó), hư chỉ (từ không mang nét nghĩa thực mà được

dụng để ngầm chỉ một đối tượng hay sự vật khác) đều có những nguyên nhân văn

hoá của nó. Với một đơn vị từ vựng cụ thể, nếu như vừa có thể chỉ tổng quát các

loại sự vật hiện tượng vừa có thể chỉ riêng một loại sự vật cụ thể nhất định trong

tổng loại đó thì loại trước là phiếm chỉ, hư chỉ, loại sau là đặc chỉ, thực chỉ. Đối với

một từ cụ thể, nghĩa thực chỉ là nghĩa có trước rồi trong quá trình hành chức và hoạt

động của nó mới sản sinh ra nghĩa hư chỉ, chẳng hạn như từ súc sinh 畜牲 là một từ

thực chỉ các loài cầm thú nói chung nhưng trong thực tế ngôn ngữ từ này còn được

dùng để chỉ cho hạng người tính cách không tốt, đó là nghĩa hư chỉ. Từ sơn hà 山

河 có ý nghĩa chỉ cụ thể về núi và sông, song trong quá trình phát triển ý nghĩa của

nó, từ này thường được dùng để chỉ cho toàn bộ đất đai của một dân tộc nhất định.

Có lẽ, theo lôgic này, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của hai câu thơ trong bài

Xuân vọng 春望 của nhà thơ Đỗ Phủ 杜甫 đời Đường:

“Quốc phá sơn hà tại,

Thành xuân thảo mộc thâm...”

Tạm dịch: “Nước đã mất rồi nhưng núi sông hãy còn mãi

29

Toà thành đang đi vào mùa xuân, cây cỏ trở nên rậm rạp...”

Từ ý nghĩa hư chỉ toàn bộ đất đai của một dân tộc, chúng ta mới có thể nhận

thấy được tính dân chủ trong quan niệm về hiện thực của Đỗ Phủ, một triều đại cụ

thể dù có mất đi nhưng đất đai của nhân dân là còn mãi. Tính nhân dân trong thơ

của nhà thơ hiện thực bậc nhất này do đó trở thành một đặc điểm lớn về nội dung.

Trong mối quan hệ giữa đặc chỉ và phiếm chỉ thì tình hình có khác. Phiếm chỉ hay

đặc chỉ là cách nói tương đối. Không có phiếm chỉ thì không có đặc chỉ. Ý nghĩa

phiếm chỉ, hư chỉ và đặc chỉ, thực chỉ không xuất hiện cùng một lúc mà nó có quan

hệ văn hoá khá rõ. Chẳng hạn, hai từ Sĩ 士 và Nữ 女 là những từ phiếm chỉ con trai

con gái nói chung đã dần chuyển sang nghĩa đặc chỉ là nam nữ thanh niên chưa thành

gia lập thất. Quẻ Quy muội 歸妹 trong Dịch kinh 易經 có câu:

“Nữ thừa khuông, vô thực 女承筐無實

Sĩ khuê dương, vô huyết 士刲羊無血

(Người con gái xách giỏ, trong giỏ không có đồ;

Người con trai giết dê, không có huyết).

Học giả Lý Đạo Bình 李道平 đã chú sớ rằng: “Viết nữ viết sĩ, vị thành phu

phụ chi từ 曰女曰士未成夫婦之辭” (Nữ và sĩ là từ gọi con gái, con trai chưa thành

vợ thành chồng). Nhận định về sự thay đổi ngữ nghĩa trong ngôn ngữ văn học cổ

điển Trung Hoa, Dương Lâm 楊琳, nhà nghiên cứu văn học cổ điển Trung Hoa,

trong Hán ngữ từ hối dữ Hoa Hạ văn hoá 漢語詞匯與華夏文化 đã nhận định:

Việc phát sinh ra nghĩa phái sinh này không hoàn toàn chịu sự câu

thúc của các nhân tố văn hoá. Đối với một số từ cụ thể, chúng ta có thể tìm

hiểu những nguyên nhân văn hoá dẫn đến nghĩa phiếm chỉ và đặc chỉ của từ

trong quá trình phát triển và hành chức. Song, do mối quan hệ trước sau của

nghĩa phiếm chỉ và đặc chỉ không phải lúc nào cũng dễ xác định, cá biệt có

những lúc mối quan hệ dẫn đến và bị dẫn đến những đảo lộn nhưng không ảnh

hưởng đến sự tồn tại của các quy luật ngôn ngữ... [182, tr.210].

Tiếp cận từ chiều sâu của một hoạt động không tách rời sức sống của tư duy,

ngôn ngữ được coi là một phương tiện duy nhất có khả năng giải mã cho tất cả các

30

loại hình gắn liền với phạm trù văn hoá. Nhờ vào tiềm năng này, ngôn ngữ có thể

tạo nên những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, đánh dấu những bước trưởng

thành về mặt văn hoá của một cộng đồng. Những nét trội bật trong ngôn ngữ truyện

Nôm, ngâm khúc và hát nói trong văn học cổ điển Việt Nam là ví dụ điển hình. Hệ

thống ngôn ngữ biểu trưng, các hình tượng nghệ thuật ước lệ, cổ kính như các sáng

tác của Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn đã được đưa vào ngôn ngữ tác phẩm

uyển chuyển, sáng tạo đánh dấu quá trình lao động nghệ thuật tâm huyết của nhà

thơ. Điều này không chỉ thể hiện đặc trưng nghệ thuật, tâm huyết của nhà thi sĩ mà

hơn bất kỳ một sự phát triển nào hết, việc vận dụng hệ thống ngữ liệu văn hoá này

đã đánh dấu sự trưởng thành trong tư duy nghệ thuật, một bước tiến trong tư tưởng,

góp phần tạo nên sắc thái trang trọng quý phái của văn chương cổ điển. Như vậy,

mối quan hệ, tác động giữa văn hoá và ngôn ngữ ở đây được xác định trong biên độ

của sự hấp thụ và chuyển hoá, tạo nên chất lượng nghệ thuật, nội hàm tư tưởng của

ngôn từ tác phẩm. Khi hoá thân vào nghệ thuật, ngôn ngữ như được thăng hoa, vượt

qua chính bản thân nó để tạo nên bức tranh sinh động, đa diện, đa thanh của văn

chương và xã hội. Nếu bản thân tác phẩm không hề có mối liên hệ với mạch ngầm

văn hoá dân tộc thì tác phẩm ấy sẽ không còn là công trình nghệ thuật.

Ngoài những đặc tính trên, chúng ta có thể nhận thấy, ngôn ngữ đã góp phần

không nhỏ trong việc khúc xạ, thể hiện và phát triển những giá trị văn hoá - một

phạm trù có tính cốt lõi của văn hoá. Nó là thước đo nhân bản của xã hội, con

người. Theo một số nhà nghiên cứu, giá trị văn hoá được xem là một hình thái của

đời sống tinh thần, nó phản ánh, kết tinh đời sống văn hoá vật chất, văn hoá tinh

thần của con người. Đó còn là những đánh giá mang tính chủ quan của con người về

tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp...

được con người cho là chân, thiện, mỹ, là thước đo nhân văn của xã hội. Soi chiếu

ngôn ngữ từ góc độ văn hoá sẽ giúp cho con người dễ dàng thấu triệt khi tiếp nhận

các giá trị văn hoá như kết quả của quá trình tri nhận, tư biện, chuyển hoá, lựa chọn

của cá nhân. Ngôn ngữ - một hiện hữu vật chất - sẽ giúp cho văn hoá cùng với các

giá trị căn bản của nó sẽ khúc xạ, ngấm sâu và dần hình thành chiều sâu văn hoá,

phong cách văn hoá của từng cá nhân trong quá trình tồn tại của cá nhân mình.

31

Tóm lại, về mặt hình thức, ngôn ngữ và văn hoá đều mang tính biểu trưng,

ước định. Nó nằm trong quỹ đạo của hoạt động tinh thần, do đó, bản thân chúng

luôn thể hiện mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Tuy ngôn ngữ là một thành tố cấu

thành văn hoá nhưng trên thực tế ngôn ngữ luôn là tiền đề sâu xa chi phối, tác động

đến văn hoá. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ giải mã mà đồng thời cũng là công cụ

được sử dụng để mã hoá đối tượng của văn hoá. Nó là biểu hiện sinh động nhất cho

quá trình tác động của văn hoá đến đời sống vật chất và tinh thần của một cộng

đồng dân tộc riêng biệt.

1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hóa

Ngôn ngữ là một thành tố văn hoá được con người sáng tạo trong lịch sử xã

hội. “Sapir E, một trong những nhà ngôn ngữ hàng đầu của thế giới đã nhận định

ngôn ngữ là nghệ thuật lớn lao và phổ biến nhất mà chúng ta biết được, đó là một

công trình vĩ đại và vô danh của nhiều thế hệ vô tình.” [78, tr.100]. Cũng theo tác

giả này, ngôn ngữ là công trình nghệ thuật cổ xưa nhất, to lớn nhất và giá trị nhất

mà trí tuệ con người đạt được, ngôn ngữ tạo dựng nên văn hoá. Cùng với lao động,

ngôn ngữ cũng được xem là cội nguồn của văn hoá. Sự phát triển của văn hoá dân

tộc có thể được xem xét trên bình diện ngôn ngữ. Sự ra đời của ngôn ngữ đã đánh dấu

một bước phát triển mới trong tiến trình văn minh của xã hội loài người.

Từ góc nhìn văn hoá, thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta có thể

tìm hiểu được đặc trưng tâm lý văn hoá dân tộc. Điều đó được thể hiện qua các kết

quả khảo sát cụ thể về các phương thức sản sinh từ ngữ, các quy luật phát triển từ

ngữ, quy luật ngữ pháp, kết hợp từ, nhất là ở ngôn ngữ văn chương. Nếu không có

sự phân tích, giải thích từ góc độ văn hoá thì sự tìm hiểu các đặc tính nói trên trong

một ngôn ngữ cụ thể sẽ không được toàn diện, thậm chí sai lầm. Vì vậy, ở Trung

Quốc đại lục, nhà Ngữ văn học cổ điển Dương Lâm đã nêu rõ:

Sự lý giải, tìm hiểu của mọi người về ngôn ngữ học văn hoá không

hoàn toàn thống nhất. Ngôn ngữ học văn hoá được lý giải bao gồm hai mặt:

Một mặt là đem ngôn ngữ đặt vào trong bối cảnh văn hoá, nêu rõ tác dụng

của văn hoá trong quá trình hình thành, phát triển ở một số hiện tượng ngôn

32

ngữ, đi sâu vào sự lý giải chính xác của mọi người đối với ngôn ngữ. Mặt

khác, hiệu quả của việc nghiên cứu này sẽ cung cấp tri thức ngôn ngữ để

nghiên cứu, giải thích, nói rõ sự hình thành, phát triển của các hiện tượng

văn hoá cụ thể. [182, tr.10].

Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng nói và viết, được thể hiện qua hình thức vật

chất đặc thù, đó là âm thanh, văn tự. Khảo sát nguồn gốc của ngôn ngữ, văn tự ra

đời muộn hơn so với âm thanh. Ngôn ngữ văn tự đã thể hiện một trình độ tư duy

trừu tượng, năng lực khái quát hoá cao. Trước khi có chữ viết, con người muốn biểu

đạt tư tưởng tình cảm, truyền thụ kinh nghiệm đều phải thông qua lời nói, tức âm

thanh. Vì vậy, trong kho tàng văn hoá dân gian của mỗi dân tộc đã lưu giữ hàng vạn

câu ca, lời hát từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đó là một trong những đóng góp quan

trọng của ngôn ngữ đối với việc duy trì và bảo tồn vốn cổ dân tộc. Tuy nhiên, hạn

chế lớn nhất của phương thức lưu giữ này là hiện trạng “tam sao thất bổn”, thất

thoát qua thời gian, hạn chế về không gian địa lý và mức độ phổ biến... Vì thế, sự ra

đời của văn tự đã làm một cuộc cách mạng, tạo nên một bước ngoặt lịch sử kỳ diệu

thúc đẩy sự phát triển về tư duy và văn hoá. Nó đã trở thành một công cụ lưu trữ

văn hoá tốt nhất. Văn tự đã phần nào khắc phục được những khiếm khuyết của

phương thức lưu trữ âm thanh, truyền miệng. Mặt khác, nó còn là một động lực cơ

bản kích hoạt sự sáng tạo, phổ biến và lưu truyền những kinh nghiệm của đời sống,

phong tục tập quán của dân tộc qua các thế hệ kế tiếp nhau.

Ngôn ngữ và văn hoá đã tồn tại trong một mối liên hệ chặt chẽ, biện chứng,

hữu cơ, không thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện thể hiện văn hoá và văn hoá

được chứa đựng trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ - văn tự là kết tinh của văn hoá dân tộc,

văn hoá nhờ ngôn ngữ, văn tự để được lưu truyền và trong tương lai, nền văn hoá

cũng nhờ vào ngôn ngữ để duy trì và phát triển. Nhà nghiên cứu Trần Trí Dõi khi

bàn về vấn đề Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội [26] đã cho rằng hướng

tiếp cận ngôn ngữ đối với văn hoá, khảo sát mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ

sẽ góp phần đi sâu lý giải về bản chất xã hội và chức năng văn hoá đích thực của

ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ có chức năng lưu giữ, bảo tồn mà còn đóng vai trò

quan trọng trong quá trình sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển của văn hoá.

33

Ngoài ra, với tư cách là chất liệu lịch sử, ngôn ngữ đóng vai trò cốt tuỷ trong

sáng tạo văn chương, nghệ thuật. Là nguyên liệu, là phương tiện đầu tiên của văn

học, nghệ thuật, ngôn ngữ đã giúp cho nhà nghệ sĩ có thể phản ánh, thể hiện và cắt

nghĩa cuộc sống thông qua thế giới nghệ thuật một cách phong phú, sinh động. Với

tư cách là một công cụ giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ đã thể hiện chức năng cơ bản

trong sự phát triển tư tưởng, văn hoá tinh thần của con người. Bởi lẽ ngôn ngữ là

công cụ giao tiếp quan trọng nhất, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. “Mọi sản

phẩm văn hoá dù vật chất hay tinh thần đều có nguồn gốc từ ngôn ngữ” [26, tr.30].

Điều đó cho thấy, sự biến đổi, phát triển ngôn ngữ luôn luôn song hành với biến đổi

và phát triển văn hoá. Muốn nghiên cứu sâu về văn hoá, khảo sát hàm nghĩa văn hoá

trong lời ăn tiếng nói, tập quán giao tiếp và văn chương nghệ thuật của một dân tộc

phải thông qua ngôn ngữ và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến nội

dung văn hoá. Vì thế, ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò là chất liệu trực tiếp, cụ thể

kiến tạo nên giá trị tinh thần của con người mà còn là “Phương tiện bên trong của

quá trình sáng tạo ra các giá trị văn hoá vật chất” [26, tr.30].

Trong lịch sử phát triển tâm lý, các hoạt động nhận thức luôn được tổ chức

theo các nguyên lý có tính chất kế thừa và tiếp biến. Trong quá trình ấy, nếu không

có sự hỗ trợ của ngôn ngữ, con người khó lòng có thể đúc kết thành các khái quát,

kinh nghiệm, kế thừa thành tựu và lưu truyền chúng qua các thế hệ. Về phương diện

này, ngôn ngữ không chỉ phát huy chức năng nhận thức, tư duy hay giao tiếp đặc

trưng của mình, bản thân nó đã thực sự trở thành một công cụ quan trọng trong việc

tiếp tục kế thừa, bảo lưu, sáng tạo văn học, văn hoá dân tộc. Nó thúc đẩy quá trình

phát triển văn hoá một cách toàn diện. Nhìn lại hai hệ thống ngôn ngữ văn tự Hán

và Nôm trong lịch sử phát triển ngôn ngữ nghệ thuật của văn học cổ điển Việt Nam,

chúng ta có thể nhận thấy vai trò của những từ ngữ, ngữ liệu có nguồn gốc xuất xứ

văn hoá cụ thể đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên chiều sâu

thẩm mỹ của tác phẩm. Nếu hệ thống từ ngữ có nguồn gốc từ văn hoá, văn chương

bác học đã giúp cho các nhà thơ có thể nêu cao, khái quát, và thần thánh hoá các giá

trị đạo đức, chính trị, xã hội, trình bày và nêu bật các khái niệm Nho học, Đạo học,

34

Phật học... thì hệ thống ngữ liệu văn hoá bình dân lại có thể giúp các thi nhân giãi

bày tâm can qua những từ ngữ, khái niệm có tính cụ thể, dễ hiểu, chính xác, rõ ràng,

nặng về tính miêu tả và thể hiện được hồn cốt dân tộc một cách tinh tế nhất. Hai hệ

thống này đã tạo nên một diện mạo đặc sắc, phản ánh được một cách uyển chuyển

nhất sự hoà quyện chặt chẽ của hai hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học và bình dân

của văn chương cổ điển Việt Nam.

Có thể nói, ngôn ngữ đã đóng một sứ mạng lịch sử to lớn trong quá trình

chuyển biến, thay đổi, kế thừa của văn hoá, nó thúc đẩy văn hoá phát triển ở cả bề

nổi lẫn chiều sâu, là sự thể hiện rõ nét nhất của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân

tộc. Ở bề nổi, những thay đổi về phương diện ngôn ngữ theo đúng quy luật xã hội,

góp phần kiến tạo ra những đột phá đáng kể về mặt văn hoá.

1.2. Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học

1.2.1. Khái niệm ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm

bác học

Trong phạm vi tư liệu hiện có, theo chúng tôi, ngữ liệu văn hoá trong ngôn

ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam là hệ thống từ ngữ có nguồn gốc từ văn

hoá bác học, bình dân, có sự biểu hiện sinh động về ngữ nghĩa, góp phần hình

thành, phản ánh thế giới nghệ thuật của tác phẩm và đặc trưng tư tưởng, tư duy văn

hoá - nghệ thuật của nhà nghệ sĩ.

Truyện Nôm, còn gọi là truyện thơ Nôm, truyện Nôm, truyện thơ… là một

thể loại nội sinh trong văn học cổ Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, cùng với

những truyện được sáng tác bằng chữ Hán, truyện Nôm có thể đã xuất hiện từ thế kỉ

XVI và phát triển mạnh vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Là một thể loại

dân tộc, truyện Nôm đã bị chi phối bởi quan niệm đẳng cấp trong các thể loại văn

chương thời trung đại và nội dung có phần vượt ra ngoài quy củ, khuôn phép lễ giáo

đương thời, vì thế giai cấp thống trị đã có lúc ra lệnh cấm lưu hành thể loại này.

Xét từ góc độ nguồn gốc và tính chất, hệ thống truyện Nôm trong văn học cổ

điển Việt Nam được tạm thời được phân thành hai loại cơ bản: truyện Nôm bác học

và truyện Nôm bình dân. Tuy nhiên, về lực lượng sáng tác, tác giả của truyện Nôm

35

phần lớn là những trí thức xuất thân khoa bảng hoặc sĩ phu ẩn cư lánh đời. Chủ đề,

đề tài của truyện Nôm bình dân thường lấy sự tích từ trong truyện dân gian hoặc tự

sáng tác. Những truyện thơ này thường khuyết danh, có lẽ tác giả không nghĩ đến

lưu danh hoặc vì bị cấm mà giấu tên. Nhưng cũng có truyện hữu danh, tác giả là

những nhà trí thức có tên tuổi. Lại cũng có truyện Nôm chắc chắn do những văn

nhân, sĩ phu, những nho sĩ học cao hiểu rộng sáng tác, nhưng vì nhiều lý do khác

nhau mà trở thành khuyết danh. Phần lớn truyện Nôm bác học là những tác phẩm

được diễn quốc âm từ các tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc. Nhiều truyện

Nôm được các nghệ nhân hát rong kể truyện thơ như Hoa Tiên 花箋, Song Tinh Bất

dạ 雙星不夜, Lục Vân Tiên 陸雲僊, Sơ kính tân trang 梳鏡新妝… và đặc biệt là

Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲 (tục gọi là Truyện Kiều 傳翹). Cùng với một số

thể loại khác như thơ Nôm Đường luật, khúc ngâm song thất lục bát, thơ Hát nói…

truyện thơ Nôm đã góp phần làm giàu thêm cho di sản văn hoá tinh thần của người

Việt. Sử dụng văn tự, thể thơ của người Việt và đề cao quyền sống của con người,

truyện thơ Nôm thể hiện xu hướng dân tộc hoá, dân chủ hoá nhờ hình thức diễn đạt

độc đáo, có nội dung nhân văn, xã hội tiến bộ.

Cuộc sống quanh ta có bao điều kỳ diệu. Những sự vật, hiện tượng từ đơn

giản đến phức tạp đều có cái lý để tồn tại mà không phải ai cũng có thể giải thích

được, càng khó khăn hơn nếu đó là hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ. Có những lúc,

chúng ta phải võ đoán nhưng đôi khi cũng cần phải lý giải tường tận mới có thể

hiểu được sự phong phú của chúng trong văn hoá, văn chương cổ điển. Hàm nghĩa

của các ngữ liệu văn hoá mà chúng tôi đề cập đến ở đây là những nội dung, ý

nghĩa, dấu ấn văn hoá được phản ánh, thể hiện qua các mối quan hệ, sự tác động

của những nét nghĩa ấy đối với quá trình giao tiếp, sáng tạo ngôn ngữ văn học của

nhà văn trong tác phẩm của họ.

Như đã trình bày, xuất phát từ hoàn cảnh địa lý, lịch sử và điểm loại hình

ngôn ngữ, hai đất nước láng giềng Việt Nam – Trung Hoa đã có mối quan hệ, tiếp

xúc văn hoá rất lâu đời, những ảnh hưởng của văn hoá Hán trong văn hóa Việt là

một đặc điểm rất đáng lưu ý. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển những đặc điểm

36

mang tính đặc thù của văn hoá Việt cũng là một nhu cầu thiết yếu. Trong diễn trình

phát triển của văn hoá Việt Nam, việc tiếp nhận văn hoá ngoại lai và phát huy

những yếu tố tích cực của văn hoá bản địa, sáng tạo những yếu tố mới phù hợp với

đặc trưng của dân tộc luôn luôn được thể hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống

nhưng cụ thể nhất là ở ngôn ngữ, cụ thể hơn là ở lớp từ ngữ Hán Việt và thuần Việt.

Trong hệ thống từ Hán Việt, vấn đề giữ lại những nét nghĩa cơ bản trong Hán

ngữ (tức nghĩa gốc, nghĩa thực chỉ) là một sự phổ biến. Song, đó không chỉ là một

sự ảnh hưởng, tiếp thu hoàn toàn mà trong tập quán sử dụng ngôn ngữ của chúng ta

cũng đã có sự sáng tạo, thay đổi (tức là quá trình phái sinh ngữ nghĩa, hay còn gọi là

sự vay mượn hình thức biểu đạt để diễn tả những lớp nghĩa mới). Chẳng hạn, từ

phương phi 芳 菲 trong tiếng Hán có nghĩa là “thơm tho”, một từ dùng cho hoa, cỏ

nhưng khi gia nhập vào kho từ vựng Việt ngữ thì nó lại có nghĩa là “mập mạp, tốt

béo”, được dùng để chỉ cho sức khoẻ tốt. Từ tử tế 仔細 trong tiếng Hán có nghĩa là

“tỉ mỉ, kĩ lưỡng” nhưng được người Việt sử dụng với ý nghĩa là “đối xử tốt với

nhau”. Từ thủ đoạn 手段 trong Hán ngữ có nghĩa là “phương pháp, cách thức”

nhưng ngày nay người Việt lại tường dùng để chỉ cho “những cách thức hay mưu

tính không tốt để đạt được mục đích”. Người Việt sử dụng từ mã thượng 馬上 (anh

hùng mã thượng) để chỉ người có chí khí anh hùng, trong tiếng Hán hiện đại, nghĩa

của mã thượng là “tức thì”, “ngay lập tức” như bài thơ Lương Châu từ 涼州詞 của

Vương Hàn 王翰 (Thịnh Đường) có câu: “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ

bà mã thượng thôi”, Nguyễn Tuyết Hạnh đã tạm dịch thành: “Rượu ngon Bồ đào

trong chén dạ quang, toan uống thì tiếng tỳ bà giục lên ngựa” và dịch giả đã khẳng

định: “Từ “mã thượng” trong bài thơ này hầu như đều được dịch là lên ngựa. Lên

ngựa thì phải là “thượng mã” hay “thướng mã” chứ không thể là “mã thượng” là

lập tức như mã thượng tẩu 馬上走 (đi ngay lập tức)” [08, tr.91]. Tất nhiên, đây

cũng là cách hiểu cũng có tính hợp lý nhất định. Song, khi phân tích ngữ nghĩa của

câu thơ này, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với cách biện giải của Thế Anh:

“Mã thượng” không phải là lên ngựa, nhưng hiểu theo nghĩa bạch

thoại như tác giả Nguyễn Tuyết Hạnh thì cũng chưa ổn... Vấn đề ở đây thực

37

ra là có liên quan đến một nét văn hoá đặc trưng của người Hồ ở vùng Tây

Vực (nay thuộc khu tự trị Tân Cương) là “ngồi lên trên lưng ngựa để đánh

tỳ bà”. Do đó “mã thượng” phải hiểu là “ngồi trên lưng ngựa” và “tỳ bà

mã thượng” được coi như một cụm từ cố định để chỉ nét đặc trưng văn hoá

đó [08, tr.91].

Qua ví dụ trên chúng ta có thể nhận thấy, muốn hiểu rõ ngữ nghĩa của từ ngữ,

đặc biệt là từ ngữ trong thơ cổ đòi hỏi người đọc phải có một vốn văn hoá nhất định

và từ đó ảnh hưởng đến phong cách ứng xử, tiếp nhận các tác phẩm văn chương cổ

điển, nhất là ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Ngoài ra, độc giả cần phải hiểu rõ

mối tương quan giữa ngôn ngữ văn hoá bình dân, ngôn ngữ văn hoá bác học. Hai hệ

thống này luôn giữ một khoảng cách nhất định, luôn đứng thành một lớp riêng

mang phong vị cổ kính, trang trọng, uyên bác, tao nhã và cụ thể, chuẩn xác, giàu

sức biểu đạt sinh động.

Từ góc nhìn lịch sử, việc nghiên cứu về những nét nghĩa văn hoá và xác định

nội hàm khái niệm hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ là một việc làm có tính phương

pháp luận, giúp chúng ta có được những biện giải chuẩn xác hơn về ngữ nghĩa và

phong cách chức năng của từ ngữ. Đặc biệt, trong nghiên cứu tác phẩm văn học thời

trung đại, việc sử dụng ngữ liệu văn hoá như một khái niệm có tính công cụ đã mang

lại cho người đọc những phương thức tiếp cận có chiều sâu và góp phần gợi mở

những nét nghĩa văn hoá biểu trưng trong ngôn ngữ văn học cổ điển.

1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm

bác học

Như đã phân tích, trước sự đổi mới và mở rộng biên độ của đối tượng khảo

sát dựa trên các nguyên tắc liên ngành, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã quan tâm

đến những vấn đề thuộc về văn hoá, đối thoại văn hoá giữa các dân tộc thuộc các

vùng miền khác nhau, đặc biệt là ở lĩnh vực ngôn ngữ giao tiếp và văn chương.

Điều này đã dẫn đến sự ra đời của một ngành khoa học mới, có tính độc lập, đó là

ngành Ngôn ngữ học văn hoá, xuất hiện tại điểm giao giữa ngôn ngữ và văn hoá.

Từ trước đến nay, chúng ta vẫn thường sử dụng các khái niệm bản sắc văn

hoá, hành trình văn hoá, tiếp xúc văn hoá như những khái niệm công cụ để đánh giá

38

về tính văn hoá trong một tác phẩm cụ thể hoặc một giai đoạn văn học nhất định.

Ngôn ngữ là “vật dẫn” quan trọng của văn hoá, là một thành tố cấu thành văn hoá,

chẳng hạn nghiên cứu về thuật ngữ, quan điểm, tư tưởng triết học Phật giáo mà

không nghiên cứu văn hoá Phật giáo cũng giống như “sờ đuốc gõ mâm” (Môn chúc

khấu bàn 捫燭扣槃) khó mà nắm bắt được những ý nghĩa minh triết của hệ thống tư

tưởng này. Đây cũng là những khó khăn mà chúng tôi phải giải quyết khi thực hiện

đề tài này. Trên thực tế, chưa có một công trình nào định nghĩa về hàm nghĩa văn

hoá của từ ngữ một cách hệ thống và đầy đủ, song trong quá trình hành chức của

nó, ngữ liệu văn hoá đã đi vào văn học một cách tự nhiên, tạo nên những sắc thái

phong phú, đa nghĩa cho ngôn ngữ tác phẩm, đặc biệt là Truyện Kiều.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, hệ thống ngữ liệu văn hoá trong tác phẩm

văn học cổ điển là những mã nghệ thuật cần có sự phân tích, biện giải. Nó bao gồm

một hệ thống những uyển từ, nhã ngữ hoặc hình thức ngôn ngữ ước lệ có nguồn gốc

từ trong các thể loại như: Thi từ và phú thời Hán - Nguỵ, Đường - Tống nói riêng và

văn học cổ điển Trung Quốc nói chung. Bên cạnh đó, nó còn là lớp từ ngữ thoát thai

từ văn hoá, văn học dân gian Việt Nam, từ vốn kinh nghiệm dân gian qua thành

ngữ, tục ngữ hay hệ thống hư từ, từ láy trong tiếng Việt. Nó có thể được thể hiện

qua những dạng thức, hình thái ngôn ngữ gián tiếp nhưng nó lại yếu tố trực tiếp

tham gia kiến tạo nên dáng vẻ đài các, dung dị, tiếng nói đa thanh và khả năng đa

nghĩa cho tác phẩm. Đặc biệt, lớp từ ngữ này đã thể hiện một trình độ am tường,

tiếp thu văn hoá Trung Hoa và Việt Nam cũng như bề dày của kinh nghiệm sống mà

nhà thơ muốn gửi gắm vào trong thi phẩm của mình. Khi thể hiện khả năng khái quát

hoá về cuộc sống và thân phận người phụ nữ tài hoa, bạc mệnh, Nguyễn Du đã hạ bút:

“Anh hoa phát tiết ra ngoài

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa...”

(Câu 415 - 416)

Các ngữ liệu anh hoa, bạc mệnh, tài hoa... trong những câu thơ trên vừa

mang màu sắc trang nhã, điển phạm vừa mang tính triết lý khái quát đã giúp cho

nhà thơ có thể trình bày những suy ngẫm của bản thân về số phận con người, đặc

39

biệt là những con người tài hoa. Đó là những từ ngữ đã chịu ảnh hưởng của các học

thuyết Nho, Phật, Lão đậm chất siêu hình, phản ánh một số hạn chế về nhận thức về

nhân sinh, bản thể của thời đại và tác giả nhưng nó lại thể hiện một chiều kích ngữ

nghĩa sâu sắc, tâm thức văn hoá mà một tác gia trung đại cần được trang bị trên con

đường nghệ thuật của mình.

Bên cạnh đó, trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học, chức năng

biểu đạt của các ngữ liệu đã nêu trong đoạn trích có tính chuyên biệt, diễn tả những

khái niệm cụ thể về cuộc sống theo quan điểm của người xưa và những nỗi đau cay

đắng mà con người phải chịu trong cuộc sống của mình. Nó không chỉ là những

khái quát về văn hoá mà còn là một thủ pháp từ chương làm gia tăng tính hàm súc,

trang nhã và thể hiện sự uyên bác của tác giả trước những vấn đề của cuộc sống và

nghệ thuật, đảm bảo đúng theo nguyên tắc thi pháp cổ điển. Hay đó cũng có thể là

những lời lẽ mang tính bình dân nhưng cũng rất văn hoa của nhà nghệ sĩ, chẳng hạn

như trong một số sáng tác của cụ Đồ Chiểu. Đi sâu vào thế giới ngôn từ nghệ thuật

của Nguyễn Đình Chiểu nói chung và Lục Vân Tiên nói riêng, chúng ta có thể thấy

vốn từ ngữ dân gian của ông rất phong phú. Nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao được

vận dụng một cách khéo léo, tài tình làm cho từ ngữ Đồ Chiểu gần gũi với lời ăn

tiếng nói của quần chúng nhân dân. Xen vào những vần thơ Đồ Chiểu là những

thành ngữ quen thuộc: phận bạc như vôi, sớm còn tối mất, sống sao thác vậy, đàn

gảy tai trâu, nước xao đầu vịt, ếch ngồi đáy giếng, thịt cá ê hề, bảng lảng bơ lơ, bá

vơ bá vất, tham đó bỏ đăng, vạch lá tìm sâu, treo dê bán chó, gió thảm mưa sầu…

Hoặc có những kiểu định danh được dùng theo cách nói ví của dân gian: nổi như

cồn, đau như dần, súng nổ như bắp rang, đạn bắn như mưa vãi, ghét thói mọi như

nhà nông ghét cỏ, liến hơn cha khỉ, hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng…

đều là cách nói rất riêng, rất độc đáo của người dân Nam bộ. Điều này chứng tỏ nhà

thơ đã tỏ rõ bản lĩnh văn hoá và tinh thần yêu nước khi sử dụng lối nói rất quen

thuộc của quần chúng khu vực văn hoá Nam bộ trong sáng tác của mình.

Đọc thơ văn Đồ Chiểu, ta còn bắt gặp những câu thơ được sáng tạo từ ca dao:

Ai ai cũng ở trong đời, Chính chuyên trắc nết chết thời cũng ma (Lục Vân Tiên) rất

40

giống với ca dao truyền thống: Chính chuyên chết cũng ra ma, Lẳng lơ chết cũng đem

ra ngoài đồng. Âm hưởng của làn điệu dân ca như phảng phất trong thơ văn Đồ

Chiểu: Sen hỡi là sen tiếng chẳng hèn, Thấy sen lỡ vận tiếc cho sen (Dương Từ Hà

Mậu 楊徐 - 荷茂) hình ảnh sen tiếng chẳng hèn gợi sự liên tưởng đến câu ca dao

quen thuộc của nhân dân về loài hoa cao quý: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Rất nhiều câu thơ Đồ Chiểu: Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều, Cám cảnh giang

sơn biết bấy nhiêu (Tự thuật 自述 II), Ví dầu có nhớ tích xưa (Lục Vân Tiên) rất

giống với những lời hát ru quen thuộc của quần chúng trong Nam: Chiều chiều chim

vịt kêu chiều; Ví dầu cầu ván đóng đinh; Ví dầu tình bậu muốn thôi… Qua những ví

dụ kê dẫn trên, chúng ta có thể cảm nhận được cái phong vị bình dị mộc mạc của ca

dao nhưng đồng thời cũng bị lôi cuốn bởi những nét tinh tế đầy hấp dẫn, sâu sắc về

câu chữ, lý tưởng thẩm mỹ của hàn nho Nguyễn Đình Chiểu.

Hoặc trong quá trình khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm Sơ kính tân trang

梳鏡新妝 của Phạm Thái 范彩, chúng tôi nhận thấy có 86 điển cố được lồng vào

trong lời kể, lời tả của tác giả. Điển cố trong lời kể của tác giả rất đa dạng về nội

dung, thích hợp với diễn biến của tình tiết. Có thể nói, đa số nội dung điển cố trong

lời kể của tác giả nói về gia thế, sự nghiệp, tài năng, tình yêu lứa đôi, kết duyên vợ

chồng… Điển cố nguyên dạng Hán Việt và điển cố đã bị Việt hóa (chuyển dịch)

chiếm phần lớn. Chẳng hạn:

“Thềm Trương lan huệ nở chen,

Sắt cầm đã biết mấy phen hài hoà.

Phạm đường cũng mộng hủy xà,

Năm ba thơ ngợi, đào hoa nghi kỳ.

Muộn màng thay giấc điềm bi,

Tinh thành ắt cũng có khi cảm thần.

Sửa sang một cuộc âm phần,

Hàm Thư đan phượng lắm phần tinh hoa…”

(Sơ kính tân trang, câu 53-60)

41

Trong đoạn trích trên tác giả dùng các điển như sắt cầm: đàn cầm và đàn sắt

là hai thứ đàn thường đánh hòa âm với nhau, chỉ cảnh vợ chồng êm ấm, hòa hợp;

mộng hủy xà: chiêm bao thấy rắn, chỉ điềm sinh con gái; đào hoa nghi kỳ: chỉ người

con gái đẹp về nhà chồng. Thơ Đào yêu trong kinh Thi khen người con gái đẹp đã

đến tuổi lấy chồng; giấc điềm bi: mộng thấy sinh con trai. Đây đều là các điển cố

Hán Việt có nguồn gốc từ kinh Thi tác giả cho biết gia đình họ Trương sinh con gái,

gia đình họ Phạm sinh con trai tuy hơi muộn, nhưng việc hứa hôn của hai gia đình

được như ý. Hầu như điển cố, thi liệu trong lời kể của tác giả đều là những điển khá

quen thuộc. Tuy nhiên, vẫn còn một số điển cố, thi liệu trong lời kể của tác giả

không hoàn toàn dễ hiểu và ít xuất hiện. Và như thế, việc sử dụng điển cố hay các

mỹ từ trong ngôn ngữ văn học cổ điển được xem là không thành công.

Như vậy, ngữ liệu văn hoá trong tác phẩm văn học cổ điển, ở một góc độ nào

đấy đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật của tác

phẩm. Trong quá trình hành chức, nó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình sáng tạo

và tiếp nhận văn học. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian, giới hạn của đề tài, hệ

thống ngôn ngữ văn hoá khảo sát ở đây được chúng tôi thu hẹp trong phạm vi ảnh

hưởng và tiếp xúc với văn hoá bác học và bình dân.

1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn chương cổ

điển Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá

Ngôn ngữ nghệ thuật là dạng thức ngôn ngữ được dùng để biểu đạt nội dung

hình tượng của các tác phẩm nghệ thuật. Xét từ phương diện chất liệu, lớp ngôn ngữ

được sử dụng trong các tác phẩm văn chương được bắt nguồn từ kho “quặng chất

liệu” của ngôn ngữ toàn dân, nhưng khả năng tái tạo hình tượng là nét nổi bật của

ngôn ngữ nghệ thuật, do đó những nét tương phản của lớp ngôn từ này chỉ bộc lộ ở

phương diện thẩm mỹ. Đồng thời, bản thân ngôn từ nghệ thuật cũng dung chứa

những ý nghĩa, giá trị văn hoá sâu sắc, thể hiện những tính chất văn hoá đặc thù của

một dân tộc, thời đại trong quá trình hiện thực hoá cảm xúc, tư duy thẩm mỹ nghệ

thuật của nhà nghệ sỹ.

Nếu ngôn ngữ là “công cụ giao tiếp quan trọng nhất” thì ngôn ngữ nghệ

thuật không chỉ là phương tiện miêu tả cái thực tại ngoài ngôn ngữ mà nó còn là đối

42

tượng của sự miêu tả, cần được phân tích và soi rọi. Nó được xem là đối tượng đã

được định danh bậc hai, là những biểu tượng của nội giới mà nhà nghệ sỹ đã hun

đúc được trong hành trình tiếp xúc văn hoá và đi tìm ý nghĩa đích thực của nghệ

thuật. Tuy nhiên, trong giao tiếp nghệ thuật, hệ thống này không chỉ biểu thị một

khái niệm hay một ý nghĩa đơn trị, đơn thuần nào đấy, tức là không tồn tại sự đơn

nghĩa, vì nếu thế sẽ rất lãng phí hình thức. Mỗi một câu, chữ trong tác phẩm đã

dung chứa những giá trị thẩm mỹ của môi trường văn hoá nơi tác phẩm đã ra đời và

lưu truyền, hành thế.

Khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, nhất là

truyện thơ Nôm bác học, hệ thống thi liệu, điển cố luôn không chỉ là những yếu tố

tạo nên sự hấp dẫn mà còn là những rào cản nghệ thuật đối với người đọc. Sự trang

bị cũng như những hiểu biết về văn hoá cổ điển truyền thống Đông phương luôn là

những điều kiện cần thiết. Đó không chỉ là chìa khoá giải mã tác phẩm mà còn thể

hiện bản lĩnh văn hoá, chiều sâu văn hoá trong phong cách của người sáng tác và người

tiếp nhận. Ví dụ:

“Vườn tây uyển khúc trùng thanh dạ,

Gác Lâm Xuân điệu ngả Đình Hoa.”

(Cung oán ngâm khúc 宮怨吟曲)

“Khách đà về chốn tây trai,

Một mình, một bóng đứng ngồi sao yên.”

(Bích Câu kỳ ngộ 碧溝奇遇)

Nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa thực chỉ của những từ như tây uyển, tây trai, Lâm

Xuân, Đình Hoa thì ngôn ngữ tác phẩm trở nên thô cứng, tức là nó chỉ cung cấp cho

người đọc lớp nghĩa bề mặt mà không đi vào lớp nghĩa bề sâu để người đọc có thể

hiểu tác phẩm một cách sâu sắc hơn. Song khi tiếp cận văn hoá với những ngữ liệu

này, người đọc sẽ giải thích được tính hợp lý vốn có để những ngữ liệu này có thể

tồn tại được, tức là người đọc có thể phân tích và nêu bật được nét nghĩa hư chỉ,

nghĩa bóng của ngữ liệu.

Nhà nghiên cứu Ngữ văn học cổ điển Trung Hoa Dương Lâm trong công

trình khảo cứu nổi tiếng Hán ngữ từ hối dữ Hoa Hạ văn hóa đã nhận định: “Tây là

43

nơi mặt trời lặn, cũng là nơi sản sinh ra tối tăm lạnh lẽo, mang ý nghĩa tử vong,

không tốt lành...” [182, tr.57]. Trong thế đối lập tương đối giữa Đông và Tây,

Nam và Bắc nếu những ý nghĩa, hàm nghĩa văn hoá của Đông, Nam thường mang

sắc thái dương tính thì ngược lại Tây, Bắc cũng phái sinh nhiều nét nghĩa mới

nhưng thường mang sắc thái âm tính và do đó nó thường gắn liền với phụ nữ như

Tây Thi 西施 (nhân danh, chỉ người con gái đẹp), Tây tử 西子 (chỉ người con gái

đẹp), Tây trai 西齋 (căn phòng ở phía Tây, nơi con gái ở), Tây Vương Mẫu

西王母 (bà chúa của các tiên nữ), hoặc sự chết chóc, suy vong, yếm thế như Bắc

mang 北邙 (tên địa danh, hàm chỉ nơi chôn người chết), Bắc thủ 北首 (sự phản

bội), Bắc vọng 北望 (sự ngóng mong về cõi Bắc, nỗi nhớ quê hương), Bắc song

北窗 (cửa sổ ở chái Bắc, nơi ở của mẹ)...

Trở lại với hai ngữ liệu tây uyển và tây trai đã dẫn trên, đây là hai ngữ liệu

gắn liền với nữ nhân và nhờ có nó Nguyễn Gia Thiều mới có thể bộc bạch nỗi

lòng của người cung nữ khi nhớ về khúc điệu Đình Hoa của Trần Hậu Chủ, ấy

cũng là một sự hồi tưởng về một quá khứ huy hoàng của những ngày được quân

vương sủng ái hay tác giả truyện Nôm Bích câu kỳ ngộ sử dụng ngữ liệu Tây trai

không chỉ nói về phương hướng của trai phòng mà thực chất là đề cập đến chỗ ở

của người con gái, để từ đó diễn tả nỗi nhớ nhung, tương tư của chàng thư sinh Tú

Uyên đối với Giáng Kiều.

Ở một ví dụ khác, chữ Bắc 北 cũng đã đi vào trong tác phẩm văn thơ cổ Việt

Nam như một ngữ liệu quan trọng giúp cho thi nhân có thể phản ánh không gian

nghệ thuật của thi phẩm. Trong quan niệm của người xưa, Bắc gắn liền với sự u tối,

lạnh lẽo, vì thế những câu thơ xuất hiện chữ Bắc thường tạo nên một âm hưởng

hoang vắng, tàn tạ, nhạt nhoà, phai phôi. Trong tâm trạng nhớ nhung người chồng

nơi chiến tuyến, người chinh phụ đã dõi mắt về hướng Bắc ngóng trông bóng hình

của chinh phu. Thế nhưng, nàng chỉ thấy ở phương đó toàn là những cảnh hoang

vắng, lẻ tẻ vài ba quán khách, giữa muôn trùng núi non, nghe tiếng địch trên lầu cao

tê tái, nỉ non:

“Bắc lai hoà thử bán hoang thành,

44

Vi vũ giang lâu địch nhất thanh...”

(Chinh phụ ngâm khúc 征婦吟曲)

Hồng Hà nữ sĩ 紅河女士 đã chuyển Nôm rất tài tình như sau:

Trông đường Bắc đòi chòm quán khách,

Mây rà cây xanh ngất núi non.

Lúa thành thoi thót bên cồn,

Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.

Nam Trung tạp ngâm 南中雜吟 là một tập thơ chất chứa những tiếng thở

dài, một tâm trạng, u uất, bế tắc, một trái tim luôn tha thiết với nhân dân, với quê

hương của Tố Như Tử 素如子, trong Tân thu ngẫu hứng 新秋偶興, ông đã viết:

“Giang Thành nhất ngoạ duyệt tam chu,

Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.”

(Giang Thành nằm mãi ba năm rồi,

Ngóng Bắc quê nhà cuối tận trời.)

Ngữ liệu bắc vọng 北望 trong hai câu thơ trên hàm chỉ tâm sự mong ngóng, nhớ

nhung về quê nhà trong nỗi cô đơn, u hoài. Đó cũng là tâm sự của chuỗi ngày làm quan ở

Huế nhưng lòng vẫn luôn đau đáu nhớ quê nhà.

Từ góc độ văn hoá bình dân, qua khảo sát một số tác phẩm của cụ Đồ Chiểu,

chúng tôi nhận thấy từ ngữ trong thơ văn Nôm của cụ Đồ luôn có những nét mộc

mạc, bình dị của ca dao và thấm đẫm bản chất chân thật, hồn nhiên, táo bạo và bộc

trực như chính tính cách hào sảng của con người Nam bộ. Có lẽ vì thế những nhân

vật trong thơ văn cụ Đồ, dẫu là những người anh hùng văn võ song toàn nhưng vẫn

đơn sơ bình dị trong hành động cũng như trong giao tiếp. Một nho sinh Lục Vân

Tiên kinh sử làu thông nhưng hành động, cử chỉ quê mùa, lúng túng khi hỏi chuyện

khách qua đường: Cả kêu: “Bớ chú cõng con, Việc chi gấp gáp bon bon chạy hoài”.

Đặc trưng văn hoá Nam bộ càng rõ hơn qua lời đáp trả, tạ từ của anh chàng họ Lục

này, không một chút văn hoa nhưng lại rất rắn rỏi: “Vân Tiên nghe nói rằng ừ! Làm

thư cho kịp chừ chừ chớ lâu”. Những từ ngữ ấy có phần thô cộc, đậm chất khẩu ngữ

và thiếu sự lãng mạn tình tứ cần thiết như bao mối tình tài tử giai nhân trong văn

45

học cổ điển Việt Nam nhưng nó chân chất, bình dị và quen thuộc với văn hoá ứng

xử của người dân Nam bộ nghĩ sao nói vậy! Câu nói của ông Quán: “Quán rằng

ghét việc tầm phào, Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”, tuy có vẻ thô kệch

nhưng lại chất chứa biết bao tình cảm yêu thương, căm ghét rất phân minh, cụ thể.

Đó cũng là cách nghĩ suy rất đặc trưng của nhân dân Nam bộ: Bởi chưng hay ghét

cũng là hay thương.

Vẻ đẹp của những từ ngữ văn hoá bình dân trong các sáng tác Nôm không chỉ

được toát lên từ nghệ thuật sử dụng từ ngữ bình dân mà còn bộc lộ quan điểm của

nhân dân về các vấn đề xã hội. Nguyễn Đình Chiểu đã nói lên được tiếng nói của

người bình dân, thay mặt người dân để bày tỏ lòng ghét thương, nỗi căm giận.

Tiếng chửi trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc rất nôm na dân dã nhưng lại chứa đựng

bao sức mạnh: Bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó. Có những chân lí

hoặc những suy ngẫm về đạo lí ở đời cũng được nhà thơ đúc kết dưới dạng rất giản

dị mà hết sức rắn rỏi:

“Dù đui mà giữ đạo nhà,

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.

Dù đui mà khỏi danh nhơ,

Còn hơn có mắt ăn nhơ tanh rình.

Dù đui mà đặng trọn mình

Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu”

(Ngư tiều y thuật vấn đáp 漁樵醫術問答)

Từ ngữ được dẫn dụng trong mấy câu thơ tuy đơn sơ nhưng toát lên vẻ sắc

cạnh độc đáo, ông không chỉ bộc bạch quan niệm cá nhân mà còn lột tả được phác

thảo được vẻ đẹp văn hoá của bức chân dung, diện mạo, tính cách của người dân

Nam bộ một cách rõ nét. Nét đẹp của Kiều Nguyệt Nga được miêu tả không giống

như nét đẹp của Thúy Kiều, nhưng Kiều Nguyệt Nga vẫn trội bật lên với vẻ đẹp

quen thuộc, giản dị đời thường: Nguyệt Nga đứng dậy mỉm cười có duyên. Dù là

nho sĩ nhưng diện mạo và tính cách của Hớn Minh chẳng khác gì người vẻ bề ngoài

của nông dân Nam bộ thứ thiệt, chân chất, dám làm dám chịu:

46

“Tôi bèn nổi giận một khi,

Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.

Mình làm nỡ để ai lo,

Bó tay chịu trói nạp cho huyện đường.”

(Lục Vân Tiên 陸雲僊)

Tuy không có ngoại hình hùng dũng như Từ Hải, nhưng Hớn Minh, Lục Vân

Tiên vẫn có được phong độ của một trang hảo hán, một người anh hùng nông dân.

Có lẽ, qua các ngữ liệu văn hoá bình dân được Nguyễn Đình Chiểu sử dụng, người

nông dân côi cút nghèo khó bỗng vụt sáng ngời về tinh thần cứu quốc, xả thân vì

nghĩa cả, họ hiên ngang bước vào văn học Việt Nam như một biểu tượng văn hoá

cao đẹp, một tượng đài vĩ đại của tinh thần yêu nước.

Có thể nói, tham chiếu từ góc độ văn hoá, chúng ta dễ dàng nhận thấy Ngôn

ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam không chỉ là một

công cụ giao tiếp của nhà văn đối với bạn đọc mà nó đã trở thành một hình thức

giao tiếp có tính văn hoá. Tính chất này được thể hiện không chỉ qua tính đa nghĩa

của câu chữ, ngôn từ mà còn được phản ánh qua những nét nghĩa văn hóa được ẩn

hàm bên trong hệ thống ngữ liệu nghệ thuật ấy. Nhà văn giao tiếp với độc giả trong

một môi trường văn hoá trung đại và qua quá trình này, nhà nghệ sỹ có điều kiện

bộc lộ, thể hiện chiều sâu văn hoá đối với quá trình cắt nghĩa cuộc sống theo cách

riêng của mình.

1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm - Tấm gương phản chiếu văn hóa

1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao tiếp đặc thù

của văn học cổ điển Việt Nam

Khi tiếp cận ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam nhất là truyện thơ Nôm bác

học, độc giả phải tiếp xúc với một hệ thống ngữ liệu cổ văn rất phong phú về nội

dung và phức tạp về nguồn gốc. Do đó, để hiểu và thưởng thức vẻ đẹp, xúc cảm với

những ý nghĩa nội tại hàm ẩn trong ngôn ngữ tác phẩm văn chương thời kỳ trung

đại, người thưởng thức phải được trang bị một vốn kiến thức về lịch sử, văn hoá,

đặc điểm xã hội, đặc điểm thi pháp cổ điển... mà cần thiết hơn cả là sự hiểu biết về

47

nguồn gốc, xuất xứ văn hoá của hệ thống điển cố, thi văn liệu. Bởi lẽ đây là lớp từ

ngữ đa nghĩa, được sử dụng thường xuyên và phổ biến trong thi pháp văn học cổ.

Những ngữ liệu đã được trừu tượng hoá, khái quát hoá và đúc rút từ những mẩu

chuyện lịch sử, văn chương, cách đối nhân xử thế, kinh nghiệm sống... của tiền nhân

được ghi chép và lưu giữ trong kho thư tịch cổ của Trung Hoa và Việt Nam.

Những dấu ấn văn hoá, quan niệm nhân sinh, văn chương, xã hội đã ảnh

hưởng rất lớn đến hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm. Đặc biệt, trong

quá trình hành chức của nó, hệ thống ngữ liệu này đã góp phần hình thành tính đa

nghĩa của ngôn ngữ tác phẩm. Chẳng hạn, khi gặp các ngữ liệu như đông sàng,

đông quân, thanh đế, xuân phong, thu phong, tàn lạp, sương diệp, tây phong, tây

lầu, tây sương, tây trai, tây uyển... trong các thi phẩm trung đại, chắc hẳn người

đọc sẽ không khỏi băn khoăn vì lớp ngữ nghĩa rất phức tạp của nó. Tuy nhiên, khi

mã văn hoá của các ngữ liệu này đã được biện giải thì quá trình tìm hiểu tác phẩm

sẽ trở nên hấp dẫn và thú vị hơn.

Sau khi ra đời và bước vào đời sống văn học dân tộc, Truyện Kiều đã thực sự

trở thành món ăn tinh thần cho bao thế hệ người đọc Việt Nam. Cùng với Lục Vân

Tiên ở Nam Bộ, tác phẩm này đã trở thành song đại tuyệt phẩm của thể loại truyện

Nôm bác học. Sự ra đời của Truyện Kiều đã góp phần to lớn làm phong phú đời

sống văn hóa dân tộc. “Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà Chính Thái, xem nôm

Thúy Kiều” đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt. Ngôn ngữ

Truyện Kiều đã đạt đến độ tinh xảo, chính xác, là điển hình tiêu biểu cho sự phát

triển toàn thịnh của ngôn ngữ văn học dân tộc và những tác động của nó, đặc biệt là

lớp từ ngữ văn hóa Truyện Kiều đã đi vào ca dao dân ca như những ngữ liệu, chất

liệu là tô đậm thêm vẻ đẹp duyên dáng của văn hoá, văn học dân gian Việt Nam.

Nguyễn Du miêu tả khung cảnh tài tử giai nhân tao ngộ qua sự xuất hiện của

Kim Trọng trong buổi Thanh minh:

“Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha mầu áo nhuộm non da trời.”

(Câu 0139 - 0140)

48

“Hài văn lần bước dặm xanh

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”

(Câu 0143 - 0144)

Một bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội được nhà thơ phác thảo qua

những hình ảnh văn hoá rất đặc trưng của Trung Hoa, Việt Nam. Con người trong tiết

Thanh minh đi sửa phần mộ và tìm đến những bóng hình quá khứ tạo nên một dạng

thức của không gian hồi cố trong tâm cảm. Đặng Thanh Lê đã phân tích bức tranh

Thanh minh ấy một cách khéo léo và hấp dẫn như sau:

Nguyễn Du đã chứng tỏ bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn

gọn về một sinh hoạt thông thường: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nghi lễ

và hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhưng đó vẫn là hai hình thức

sinh hoạt văn hoá có điểm khác biệt: Hội đạp thanh là cuộc vui chơi trên dặm

cỏ xanh của lứa tuổi thanh xuân... Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và

có thể tìm thấy sợi tơ hồng cho mai sau... trong tiết Thanh minh, có hồi ức, có

tưởng niệm (lễ là tảo mộ) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía

trước của cuộc đời (hội là đạp thanh)... [82, tr.33].

Khung cảnh thiên nhiên diễm lệ ấy cũng chính là cái cớ để nhà thơ miêu tả một

bức chân dung hoàn chỉnh về người nho sỹ tài hoa theo quan niệm Nho gia. Có lẽ, ở

đoạn thơ này, Nguyễn Du đã chọn bức tranh thanh minh làm nền cho bức truyền thần

của Kim Trọng như một sự tương tác nghịch chiều. Vẻ đẹp thiên nhiên trở nên thơ

mộng hơn nhờ có hình ảnh con người và hình ảnh con người trở nên sinh động hơn

nhờ có thiên nhiên vậy. Thiên nhiên là chuẩn mực, con người là điểm son. Tất cả

những ngữ liệu miêu tả Kim Trọng đều gắn liền với màu xanh: hài văn lần bước dặm

xanh, cỏ pha màu áo nhuộm non da trời, một vùng như thể cây quỳnh cành dao...

Đông - Xuân - Thanh - Tuổi trẻ - Tình yêu là những từ mang tâm thức văn hoá, dễ

liên tưởng qua lại, chính điều đó đã mang lại cho đoạn thơ và ngôn ngữ tự sự tác giả

đậm chất trữ tình, nhẹ nhàng, có chiều sâu triết lý, văn hoá. Đồng thời, cách thức liên

tưởng ấy cũng tạo nên chuỗi thanh âm phức điệu, những hoà điệu mang tính ngữ

cảnh của thể loại truyện Nôm, xu hướng cao nhã và cảm thức văn hoá cá nhân tác giả.

49

Bản thân nó (tức thanh âm phức điệu) có thể tạo nên một tiềm năng ngữ nghĩa mà

mỗi độc giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo cho mình những mô thức tái hiện riêng biệt, tuỳ

thuộc vào “tầm đón nhận” và chiều sâu văn hoá của mỗi cá nhân.

Như vậy, hơn bất kỳ một phương tiện nào khác, ngôn ngữ nghệ thuật không

chỉ thể hiện đặc trưng thẩm mỹ của thể loại và tác giả mà còn góp phần phát triển

quá trình tư duy và đặc điểm nghệ thuật của một mô hình phản ánh cuộc sống, giúp

nhà văn có thể triển khai ý đồ nghệ thuật theo thủ pháp mỹ học đặc trưng của thơ ca

trung đại: Ý tại ngôn ngoại 意在言外 (ý ở ngoài lời), huyền ngoại chi âm 絃外之音

(âm thanh ở ngoài tiếng đàn) và cam dư chi vị 甘餘之味 (vị ngọt ở ngoài vị ngọt).

Hơn thế nữa, nó còn thể hiện sự lịch lãm, trình độ văn hoá, chiều sâu văn hoá, chiều

sâu tư tưởng của tác giả văn học, kể cả sự trang nhã, uyên bác của Ngôn ngữ nghệ

thuật văn học cổ điển.

1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ nghệ

thuật truyện Nôm

Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ văn chương cổ điển từ lâu đã được

các nhà khoa học Ngữ văn quan tâm khảo sát, song sự thống nhất trong quan điểm

nghiên cứu về nội hàm và ngoại diên của các khái niệm này vẫn chưa được minh

định cụ thể, chi tiết hoá, đây cũng chính là những vấn đề cốt lõi của việc nghiên cứu

ngôn ngữ văn hoá trong một đối tượng cụ thể. Trong bối cảnh chung đó, việc đề

xuất một cách hiểu sơ khởi về khái niệm này của tác giả luận án đã góp phần xây

dựng nên hệ quy chiếu để phân loại và biện giải về hệ thống ngữ liệu bác học và

bình dân trong ngôn ngữ truyện Nôm nói chung. Khi trở thành một yếu tố quan

trọng của ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, hệ

thống ngữ liệu này đã phát huy tối đa tiềm năng vốn có, giúp cho nhà nghệ sỹ có thể

diễn đạt uyển chuyển, hấp dẫn những khái quát nghệ thuật ở cấp độ cao. Việc sử

dụng thành thạo, hợp lý các ngữ liệu văn hoá này trong các thể loại, tác phẩm văn

chương đã trở thành tiêu chí đánh giá về sự uyên bác, độ thâm thuý và khả năng

chiếm lĩnh đời sống thông qua những nguyên tắc thi pháp và các phương thức biểu

hiện đặc thù.

50

Tiếp xúc với nghệ thuật, nhất là nghệ thuật văn chương cổ điển, ấn tượng

đầu tiên là ở tính thẩm mỹ, sự cách điệu, khả năng đăng đối trong hình thức.

Không chấp nhận điều này, người thưởng thức khó có thể đặt chân vào thánh

đường nghệ thuật. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong văn chương, đặc biệt văn học

cổ điển Việt Nam cũng có đặc trưng như vậy. Nghệ thuật lựa chọn, kết hợp và sử

dụng các ngữ liệu văn hoá đã kiến tạo cấu trúc thẩm mỹ, độ sâu sắc và sự thâm

thuý cho ngôn ngữ tác phẩm văn học trung đại ở Việt Nam. Khảo sát ngôn ngữ

văn học cổ điển từ góc nhìn văn hoá, có lẽ chúng ta cần xem xét đặc trưng của hệ

thống này trên hai phương diện nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật, qua đó

phân tích, biện giải và cắt nghĩa những tác động của nó, nhất là sự tương tác thẩm

mỹ của sự sáng tạo và tiếp nhận trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn chương

trung đại Việt Nam.

Về phương diện nội dung, nếu như ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp khẩu

ngữ, tính cộng đồng (cũng là một đặc trưng của văn hoá) được thể hiện rất cao, nó

đảm bảo cho quá trình luân chuyển ngữ nghĩa trong chuỗi lời nói không bị đứt

quãng thì khi đi vào tác phẩm nghệ thuật, do được trau chuốt, gọt dũa, đặc biệt dưới

áp lực của môi trường, bối cảnh và đặc trưng văn hoá của thời đại và thể loại, sự gia

tăng các nội hàm ngữ nghĩa mới trong các từ ngữ nghệ thuật được nâng lên rất cao

và trở thành lớp ngôn từ được tổ chức ở trình độ cao. Ý nghĩa khái quát cao và đậm

nét tượng trưng của lớp từ ngữ này đã tạo nên sự cô đọng cho câu thơ, lời văn và

hơn thế nữa, nó còn góp phần diễn đạt cấu trúc của hệ thống cảm xúc, tứ thơ đặc sắc

của thi nhân. Đặc điểm ngôn ngữ này được các nhà nghiên cứu văn học cổ gọi là

tính hàm súc, cô đọng và tiết giản. Đặc tính này đã hỗ trợ đắc lực cho các tác giả tổ

chức hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm theo thi pháp văn học cổ trung đại:

tính tượng trưng ước lệ, cao nhã và quy phạm, đồng thời phản ánh phong cách thời

đại, quan niệm về nhân sinh, dấu ấn văn hoá của một giai đoạn lịch sử. Có lẽ, những

yếu tố này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn hay sức sống bền lâu cho những tác

phẩm văn học cổ trung đại và có thể đây cũng là những điều kiện tiên quyết đảm

bảo cho sự thành công của ngôn ngữ các tác phẩm như Hoa tiên, Lục Vân Tiên, Sơ

51

kính tân trang, Song Tinh Bất Dạ... Và đó cũng chính một nguyên nhân góp phần

tạo nên sự điêu luyện, sâu sắc, dung dị, bình dân, cổ kính bác học của Truyện Kiều

hay chiều sâu văn hoá trong tâm thức nghệ thuật và tư duy, chiêm nghiệm, lý giải

về cuộc sống của văn thi sĩ tiêu biểu trong văn hoá, văn chương cổ điển Việt Nam.

Hệ thống từ ngữ nguyên dạng Hán Việt và chuyển dịch thuần Việt trong tác

phẩm văn học cổ trung đại là những từ ngữ mang những nét nghĩa văn hoá, nó có

sức khái quát cao đã giúp cho tác giả có khả năng miêu tả hiện thực theo một bút

pháp cực tả, tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá. Nói cụ thể hơn, đây cũng chính là biểu

hiện cao độ của tính hàm súc, cô đọng, tính biểu trưng trong nội dung tác phẩm. Nó

thể hiện ở xu hướng khái quát hoá, ước lệ hoá với những cấu trúc cân đối hài hoà,

đăng đối trong nội dung thi liệu mà chúng ta đã phân tích trên. Ngoài ra, hệ thống

từ ngữ này góp phần thể hiện lối tư duy cầu tính, sùng cổ, có tính trật tự thứ bậc của

văn hoá Việt, từ đó chi phối đến xu hướng trọng sự cân đối hài hoà, hàm súc, cô

đọng trong ngôn từ nghệ thuật.

Xét về phương diện hình thức nghệ thuật, tính hàm súc, cân đối hài hoà trong

hình thức, ý tượng đã tạo nên tính biểu trưng cho những thi từ đặc sắc. Những đặc

tính này không chỉ đơn thuần là những biểu hiện đặc trưng cho ngôn từ thi ca, mà

sâu xa hơn là nó đã được sản sinh ra từ nhu cầu thể hiện, biểu đạt một cách khái

quát nhất những nội dung cụ thể, đó là sự dồn nén những thông tin. Đây là những

biểu tượng về vẻ đẹp chuẩn mực hài hoà mà ông cha ta đã học tập và sáng tạo trong

tiến trình phát triển của lịch sử văn chương nước nhà. Bắt nguồn từ tính đăng đối

trong hình thức thể hiện, ngôn ngữ nghệ thuật đã phản ánh những quan niệm văn

hoá về mỹ học cổ điển, đó là quan niệm tôn trọng sự hài hoà giữa nội dung và hình

thức (xét ở góc độ nào đấy). Nếu chất liệu tươi rói của phong cách khẩu ngữ đã tạo

cho các ngữ liệu văn hoá một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, đầy sức sống thì những giá

trị văn hoá bác học góp phần giúp cho ngữ liệu có thể lột tả được những nét đẹp

uyển chuyển, sắc thái uyên bác, cao nhã cho các ngữ cảnh được miêu tả. Nếu xem

xét từ góc độ từ chương học, ngữ liệu văn hoá còn có khả năng mang lại sắc thái tu

từ, góp phần tạo nên trường liên tưởng sâu rộng, tạo nên sự hô ứng, hài hoà, mang

màu sắc bác học, quý phái, vương giả, kiêu kỳ.

52

Như vậy, xét ở phương diện nghệ thuật, các ngữ liệu văn hoá trong ngôn từ

nghệ thuật đã phát huy được tính năng động vốn có của nó: tính thẩm mỹ và đăng

đối. Yếu tố thẩm mỹ khách quan của các thi liệu văn hoá thích hợp với việc nhấn

mạnh các sắc thái mơ hồ, trang trọng... và nó “không thích hợp với việc cụ thể hoá

đối tượng phản ánh nhưng nó lại vô cùng thích hợp khi ta muốn vĩnh viễn hoá sự

việc, đẩy lùi nó về thế giới ý niệm. Nó cấp cho ngôn ngữ cái vẻ dứt khoát, đanh thép

của những chân lý vĩnh viễn...” [100, tr.54].

1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều

1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du

Quan niệm thẩm mỹ là một thuật ngữ thuộc bộ môn Mỹ học và Lý luận văn

học. Thuật ngữ này, ở Việt Nam, có người gọi là thẩm mỹ quan, nhưng phổ biến

hơn cả vẫn là quan niệm thẩm mỹ. Trong giáo trình Nhập môn Lý luận văn học

(2014), Huỳnh Như Phương đã định nghĩa như sau: “Quan niệm thẩm mỹ là sự tự ý

thức của đời sống thẩm mỹ, trong đó có đời sống nghệ thuật, của một thời đại và

được phát ngôn qua những cá nhân kiệt xuất, bằng những khái niệm và mệnh đề

suy lý” [108, tr.81].

Có thể nói, nội hàm thuật ngữ này luôn có sự co giãn, nhưng nhìn chung,

quan niệm thẩm mỹ qua nhiều thời đại được hiểu là sự tự ý thức, cách cảm thụ,

đánh giá của chủ thể về đời sống thẩm mỹ, trong đó có đời sống nghệ thuật. Trong

Tâm lí văn nghệ, Chu Quang Tiềm đã phân chia cái đẹp làm hai dạng thức cơ bản

khác nhau: cái đẹp nhu tính và cái đẹp cương tính. Theo ông, cái đẹp cương tính chủ

về động, cái đẹp nhu tính chủ về tĩnh, động như say, tĩnh như mộng, ông cho rằng:

Quan niệm âm, dương có thể nói đã in sâu vào tâm tưởng mọi người,

cho nên hai cái đẹp thuộc loại “cương, nhu” đã được các nghệ thuật gia phân

chia rành mạch. Về phương diện thơ thì có sự khác biệt giữa họ Lý và họ Đỗ,

họ Vi, họ Mạnh, về phương diện từ thì có sự khác biệt giữa họ Tô, họ

Tân... [150, tr.356].

Lưu Cương Kỷ 劉綱紀 và Phạm Minh Hoa 范明華 trong Chu Dịch dữ mỹ

học 周易與美學 cho biết, trong lịch sử nghiên cứu mỹ học Trung Quốc, vấn đề cái

53

đẹp và vấn đề sinh mệnh có quan hệ mật thiết với nhau và “Cái đẹp được nảy sinh là

lấy sự biến hoá, phát triển lành mạnh, bình thường của sinh mệnh tự nhiên làm tiền

đề” [187, tr.13].

Có thể nói, mỹ học cổ điển Việt Nam đã được hình thành trên nền tảng của

quan điểm triết mỹ phương Đông và văn hoá cổ truyền dân tộc. Trong văn chương,

các tác phẩm tập trung thể hiện theo định hướng cơ bản là Thi dĩ ngôn chí 詩以言志

và Văn dĩ tải đạo 文以載道, Văn dĩ minh đạo 文以明道. Dưới ảnh hưởng của triết

học, mỹ học Nho giáo, loại văn chương được đề cao là văn chương chở đạo, phụng

sự con người. Trong suốt gần mười thế kỷ phát triển văn học Hán Nôm Việt Nam,

hệ thống mỹ học cổ điển phong kiến dành quyền cho chủ thể được phép bày tỏ chí

lớn của mình trong phạm vi quan niệm xử thế của Nho giáo: Tu 修, Tề 齊, Trị 治,

Bình 平. Về hình thức biểu hiện của cái đẹp, người xưa thường hướng đến tính hài

hoà, đăng đối, cao quý, thanh nhã. Trong chuyên luận Mấy vấn đề về phương pháp

dạy thơ văn cổ Việt Nam (1984), nhà nghiên cứu văn học cổ điển Nguyễn Sĩ Cẩn có

lí khi nhận xét: “Đối với người xưa, thế giới là một chỉnh thể tĩnh tại. Cân đối, hài

hòa là ý niệm của cái đẹp (...). Cao quý, thanh nhã là những phạm trù của văn học

cổ” [13, tr.32]. Ông còn khẳng nhận rằng: “Người nghệ sĩ xưa quan tâm đến cái gợi

hơn cái tả (...). Giá trị thẩm mỹ của câu văn, lời thơ toát lên từ nội dung hàm súc và

tính không xác định của nó” [13, tr.33].

Sự hình thành quan niệm thẩm mỹ ở mỗi người nghệ sĩ luôn gắn với nhiều

yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Ý thức hệ tư tưởng, môi trường thẩm

mỹ, lịch sử văn hoá, xã hội, gia đình, dòng họ... là những điều kiện khách quan đã

chi phối mạnh mẽ đến quá trình hình thành quan niệm và ý thức mỹ học của người

nghệ sĩ. Thi sĩ Nguyễn Du cũng không ngoài quy luật chung đó. Quan niệm thẩm

mỹ của ông được hình thành trên những cơ sở có tính khách quan và chủ quan.

Nguyễn Du chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những điều kiện văn hoá, tư tưởng xã hội,

nhưng cá nhân ông đã thẩm thấu những vấn đề của thời đại, tiếp thu và vận dụng cải

biến để xây dựng thành quan niệm của riêng mình. Về cơ sở hình thành quan niệm

thẩm mỹ ở Nguyễn Du, chúng ta có hình dung qua mấy căn cứ sau:

54

Thứ nhất, Nguyễn Du đã sinh trưởng trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ

phong kiến Việt Nam và một giai đoạn đầy bi kịch của lịch sử dân tộc. Trong sáng

tác của Nguyễn Du, dưới những tác động của một môi trường lịch sử, văn hoá đặc

biệt ấy, nét nổi bật chính là sự dâng trào cao độ của xúc cảm và một cảm quan hiện

thực sâu sắc. Vì thế, ta luôn cảm thấy trong thơ Nguyễn Du luôn vang lên những

thanh âm, ánh lên sắc màu của cuộc sống trần thế. Không những vậy, thế giới trữ

tình của nhà thơ khắc hoạ rõ những nét sắc cạnh, chân thực không khoan nhượng về

một bức tranh hiện thực phong phú, đa dạng. Đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp, sự chân thực

của bức tranh đa thanh sắc ấy, chúng ta sẽ nhận thấy Nguyễn Du hiện ra với tư cách

của một nhà nhân đạo vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Có lẽ,

trong số những yếu tố trội bật của thế giới nghệ thuật Tố Như tử, đây dường như là

điểm đặc sắc, tích cực nhất và đáng chú ý nhất của ông. Nó tạo nên cái sức sống kỳ

lạ, bền bỉ ở hầu hết tác phẩm của ông, nhất là thơ chữ Hán và Truyện Kiều.

Thứ hai, Nguyễn Du sinh ra ở phường Bích Câu 碧溝 thuộc kinh thành

Thăng Long 昇龍, một vườn địa đàng nghệ thuật thời bấy giờ. Những năm tháng

sống ở chốn lầu son gác tía tuy cổ kính nhưng đầy rẫy những chướng ngại và bất

trắc vô hình. Những sắc màu của cuộc sống, các địa danh văn hoá tiêu biểu cổ thành

Thăng Long, Bích Câu đã tạo nên câu thơ đẹp, những ý tưởng thẩm mỹ sâu sắc

trong thế giới nghệ thuật thơ của ông. Và Nguyễn Du dù đã trải qua những ngày

tháng tha hương trên đất Bắc nhưng trong tâm trí ông, những ký ức, hình ảnh về quê

hương xứ Nghệ luôn hiển hiện, đi về. Với quê hương, ông là người để lại nhiều dấu

ấn đáng nhớ trong các sinh hoạt văn hoá làng xã. Nguyễn Du đã viết bài Thác lời

trai phường nón trả lời bài Thác lời trai phường vải của Nguyễn Huy Quýnh

阮輝炯, một tuyệt phẩm chan chứa những rung cảm tế vi, trong sáng của tuổi đôi

mươi hồn nhiên, trong sáng.

Bên cạnh những ảnh hưởng của quê hương xứ Nghệ giàu truyền thống thi ca,

sự tác động của một văn phái lừng lẫy ở mảnh đất Hồng lĩnh 鴻嶺 cũng là điều

đáng nói. Từ năm 1943, Hoàng Xuân Hãn đã định danh và nghiên cứu về Hồng Sơn

văn phái 鴻山文派. Có thể nói, đây là một danh xưng khá thi vị, dụ chỉ cho một

55

nguồn di sản văn hoá truyền thống của 99 ngọn hùng phong thuộc dải Hồng Sơn hùng

vĩ. Trần Ngọc Anh trong Hồng Sơn văn phái - Nguồn thi ca Nôm một vùng quê (1999)

đã tiếp tục khẳng định:

“Vùng đất địa linh nhân kiệt ấy đã hun đúc nên bao danh nhân kiệt

xuất, những thần bút kỳ tài làm rạng danh nền văn học nước nhà như Phan

Kính, Nguyễn Huy Oánh, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Quýnh,

Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ…” [07, tr.12].

Như vậy, về mặt lịch sử và văn học, đất Hồng Sơn đã sản sinh ra một nguồn thi

ca Nôm đặc biệt và phát triển liên tục với sức sống bền bỉ, không ngừng.

Thứ ba, từ mạch nguồn văn hoá gia đình, phẩm chất tài hoa của người cha và

thiên tính nghệ sĩ của người mẹ đã ảnh hưởng không ít đến tư tưởng thẩm mỹ của

ông. Họ Nguyễn ở Tiên Điền lại có mối quan hệ thông gia, gắn bó văn học với họ

Nguyễn Huy ở Trường Lưu nổi tiếng về văn học ở vùng Nghệ - Tĩnh. Sống trong

môi trường văn nghệ đó, năng khiếu nghệ thuật của Nguyễn Du có điều kiện nảy

nở, phát triển từ sớm và điều ấy cũng tác động mạnh mẽ tới quan niệm thẩm mỹ của

ông về sáng tạo văn chương nghệ thuật. Có thể nói, những năm tháng tuổi thơ ở đất

kinh kỳ, những ảnh hưởng của vùng văn mạch nghìn năm cùng với bản tính tài tử

của nghiêm phụ và ưu chất nghệ sĩ của thân mẫu - người con của vùng đất quan họ

Bắc Ninh đã hun đúc nên một Nguyễn Du tài hoa bậc nhất thời bấy giờ. Cùng với

“mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần 十載風塵) và những năm tháng về quê

sống “dưới chân Hồng Lĩnh”, thi sĩ có dịp hiểu biết, sống gần gũi quần chúng, ngọn

nguồn của mọi giá trị tinh thần cao quý nhất của dân tộc. Thiên tài lỗi lạc của

Nguyễn Du, những gì là của hồn thơ bất diệt ấy đã được ấp ủ và nảy nở có lẽ chủ

yếu trong những năm tháng buồn vui lẫn lộn này.

Thứ tư, Tiên Phong Mộng Liên đường chủ nhân 僊峰夢蓮堂主人 khi đề tự

Truyện Kiều đã nhận xét về tài năng của Nguyễn Du, ông cho rằng nhà thơ là người

có “đôi mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời”. Người xưa đã hết lòng

vì kẻ tri âm nên đã thốt lên những lời tri kỷ ấy vậy. Mộng Liên Đường quả là người

thấu hiểu tâm sự của Nguyễn Du và phong cách triết nhân của thi nhân. Có lẽ điều

56

ấy xuất phát từ một định mệnh, Nguyễn Du không phải là con người hành động mà

là con người tư tưởng, của sự u uất. Cái cõi đời với bao thăng trầm và cõi người với

bao buồn vui không chỉ là nỗi niềm trăn trở của ông mà còn là chỗ tìm về của tư

tưởng Nguyễn Du với Truyện Kiều, là một tuyệt phẩm đã đi đến chỗ diệu vợi.

Dường như, Nguyễn Du được sinh ra để suy tư, ông đã tự nhận điều ấy: “Phong vận

kỳ oan ngã tự cư” (Độc Tiểu Thanh ký). Một thể chất yếu đuối, nhạy cảm, một cá

tính trầm lặng, ít nói với một tâm hồn tế vi, khiến Nguyễn Du thuộc về mẫu người

nghĩ hơn là làm, suy tư nhiều hơn là hành động. Trong chuyên luận Văn hoá Việt

Nam nhìn từ mẫu người văn hoá, Đỗ Lai Thuý đã gọi “Nguyễn Du là con người

đang đi trên đường tìm kiếm sự hài hoà” [148, tr.330], là nhà thơ của những niềm

tâm sự, là con người của những miền ký ức.

Theo thống kê của chúng tôi, qua 203 bài trong Nguyễn Du toàn tập [31] - từ

Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 qua Nam Trung tạp ngâm 南中雜吟 đến Bắc hành

tạp lục 北行雜錄, hơn 100 lần xuất hiện các hình thức nghi vấn, tự vấn, cật vấn…

Có lẽ, ngoài Cao Chu Thần 高周臣 - người trí thức chưa học được phép ngủ - chưa

có nhà thơ trung đại nào lại đặt ra khá nhiều câu hỏi như Tố Như vậy. Đi qua những

trải nghiệm, những xót xa của thời cuộc, những tang thương của chính bản thân, sau

khi bị trục xuất khỏi toà lâu đài quý tộc, phiêu dạt trong cõi nhân gian và tha hương

ngay trên chính quê hương của mình, Nguyễn Du dường đã tự xây dựng cho mình

một cô đài thi ca với những hình ảnh đau thương, những vong hồn u mê lạc lối trên

đường hoá sinh. Đối tượng hướng đến của Nguyễn Du là cuộc đời, con người trong

những dằn vặt đau thương và dường như là chính bản thân mình nữa. Khi ông nói

đến cổ nhân, các bậc danh sĩ, kỳ nữ tài tình, hương sắc thì không gì khác là ông

đang tự thú về bản thân mình, là tinh thần Ngã tự cư 我自居 - một cảm thức tự thú,

hướng ngã mà ông đã từng khẳng định. Vì thế, trong quá trình vận động, tự thân nó

đã hình thành nên một hệ thống quan niệm thẩm mỹ, quan niệm của nghệ thuật rất

riêng tây của một người làm thơ đã đạt đến trình độ có mã thơ riêng của mình và vì

lẽ ấy ông cũng là phong cách văn hoá của một nhà tư tưởng đầy cá tính.

57

Tóm lại, Nguyễn Du là một con người đa cảm, đầy ưu tư, một nhà nghệ sĩ cá

tính. Với một cảm quan hiện thực và tấm lòng nhân văn đặc biệt, trong sáng tác của

mình, ông muốn hoá giải những mặc cảm bị tước đoạt bằng một hành trình đi tìm

những hoà hợp giữa tư tưởng và nghệ thuật. Nguyễn Du đã tìm sự hài hoà giữa ý

thức tôn giáo và ý thức thẩm mỹ. Điều ấy đã làm nên một hệ thống chủ đề tư tưởng

thẩm mỹ lý thú trong sáng tác của ông vậy. Trên bước đường sáng tạo ấy, dù ở bất

kỳ phương diện nào, chúng ta cũng cảm nhận được ở Nguyễn Du một nhãn quan tư

tưởng, một tấm lòng vang vọng đến ngàn đời. Ông xứng đáng được tôn vinh là thi sĩ

của nhân văn và thi phẩm Truyện Kiều của ông là những thanh âm trong trẻo của nhà

hiền triết thiên tuế trường ưu 千歲長憂, là khúc bi ca đoạn trường mang tính nhân

văn của một thời đại đầy những bất công và khủng hoảng.

1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và

Truyện Kiều

Về quan niệm thẩm mỹ của một tác gia văn học cụ thể, các nhà nghiên cứu

nhận thấy có hai hình thức thể hiện, đó là những phát biểu trực tiếp bằng những

mệnh đề lí thuyết duy lí, hoặc gián tiếp thông qua hệ thống đề tài, ngôn ngữ, hình

ảnh... Trong Văn chương, thẩm mỹ và văn hóa, Lê Ngọc Trà đã khẳng định: “Hình

tượng nghệ thuật không chỉ mang bóng dáng của hình ảnh đời sống mà còn chứa

đựng cả quan niệm của nhà văn về nó” [163, tr.298]. Các tác giả của Từ điển thuật

ngữ văn học cũng khẳng định: “Đề tài của tác phẩm là một phương diện trong nội

dung của nó, là đối tượng đã được nhận thức, lựa chọn gắn liền với dụng ý, thế giới

quan, lập trường tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ của nhà văn” [54, tr.98].

Theo khảo sát của chúng tôi, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du đã được

tác giả thể hiện khá rõ trong hai mảng sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Với từng

đối tượng, ông có cách nhìn nhận, đánh giá cụ thể, chi tiết và khách quan. Chúng ta

có thể khái quát thành các phương diện sau:

Một là, quan niệm thẩm mỹ của ông được bộc lộ rõ nét qua cái nhìn về cuộc

đời và con người. Trong thẩm mỹ quan, nhân sinh quan của Nguyễn Du, chúng ta

không chỉ thấy có sự hiện diện của tư tưởng Thiên mệnh luận 天命論 của Nho giáo

mà nó còn chịu nhiều ảnh hưởng, tác động của thế giới quan, nhân sinh quan Phật

58

giáo và Lão giáo. Ông nhìn cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ nghĩa,

yêu thương, xót xa cho thân phận con người, trong bài Giang đình hữu cảm

江亭有感, ông viết: “Bách niên đa thiểu thương tâm sự” (Cuộc đời trăm năm biết

bao nhiêu chuyện thương tâm). Một tâm tư trĩu nặng những nỗi đau dường đã dồn

chứa trên đầu ngọn bút và tâm can của nhà thơ. Xúc cảm trong mạch văn ấy biểu lộ

nỗi đau đời khôn nguôi, nỗi thương đời vô hạn do chính cảm nhận chân thực của

nhà thơ về cuộc đời, nên có sức mạnh truyền cảm, lan toả đến muôn đời sau và có lẽ

đó cũng chính là tâm sư của ông trong bài Tái thứ nguyên vận 再次原韻: “Phù thế

kỷ kinh tang lỗ biến, Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn” (Cuộc đời phù sinh đã trải qua

bao phen ruộng dâu biết thành ruộng muối, đầu giường luôn có nậm rượu đầy như

cũ). Và xuất phát từ nền tảng văn hoá, tư tưởng triết học phương Đông, Nguyễn Du

đã tự mình tạo dựng nên những cơ sở triết học, mỹ học để có thể triển khai một hệ

thống tư tưởng nhân sinh của mình theo hướng kết hợp Nho, Phật và Lão trên nền

tảng tâm thế Việt: lấy sự cảm thương, đồng điệu làm điểm tựa cho những nhận định

về nhân thế.

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du nhận định luật Tài mệnh tương đố

才命相妒 là một quy luật đắng cay của cuộc đời mà con người phải gánh chịu:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

(Câu 01 - 04)

Cái nhìn bi quan về cuộc đời như vậy đã đẩy Nguyễn Du đi tới những quan

niệm có tính yếm thế. Trong thơ chữ Hán, ông đã từng thốt lên: “Bách niên thân thế

uỷ phong trần, Lữ thực giang tân hựu hải tân” (Mạn hứng 漫興) (Cuộc thế trăm năm

phó mặc gió bụi, hết ăn nhờ ở miền sông lại ăn nhờ ở miền biển). Trong Truyện Kiều,

thông qua phương thức xử lý diễn biến số phận nàng Kiều, chúng ta thấy rõ một

Nguyễn Du đau đời, thương đời khi đưa ra thông điệp về nỗ lực tu tâm, hành thiện

con người sẽ cải hoá được số phận, từ đó có thể thay đổi được thiên mệnh.

59

“Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

(Câu 3251 - 3252)

Phải chăng trong quá trình nhận thức đó, yếu tố tâm linh trong văn hoá Việt

Nam hay tình cảm, sự duy tình, yêu thương con người đã chi phối và hướng dẫn

chiều hướng tư duy của Nguyễn Du, đưa tư tưởng ông đạt tới sự nhận thức và phản

ánh chân thực tâm nguyện, hy vọng của dân chúng. Đó là thành công lớn của

Nguyễn Du và đã khiến ông trở thành nhà thơ của nhân dân, được nhân dân tôn vinh.

Bên cạnh đó, theo quan niệm triết mỹ Đông phương, muôn vật trong giới tự

nhiên đều có thiên chân. Chính vì vậy, con người và tự nhiên có mối quan hệ tương

thông với nhau. Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là cả một thế

giới u uẩn. Ông phát hiện ra nó vừa tĩnh vừa động và có tính triết mỹ. Đặc biệt,

trong mối quan hệ với thiên nhiên và con người với nghệ thuật, nhà thơ luôn đề cao

đặc tính tự nhiên, “thiên chân” của vạn vật, nhà thơ luôn tự nhắc nhở bản mình:

“Thương tàn vật tính bi phù hĩnh,

Khắc lạc thiên chân thất mã đề.”

(Ngẫu hứng 偶興)

(Làm hại tính tự nhiên của vật, ái ngại chân con le bị nối dài ra,

Xuyên tạc chân tính thiên nhiên làm mất ý nghĩa thiên “mã đề”)

Thiên chân 天真, mã đề 馬蹄 là những ẩn dụ mà cổ nhân thường dùng để

nêu bật tinh thần vô vi, thuận theo tự nhiên của Lão Trang. Ở đây, có lẽ nhà thơ cảm

thấy bức rứt không yên vì bản thân mình đã xuất sĩ, ra làm quan với nhà Nguyễn.

Ông hoài niệm về những tháng ngày ẩn cư nơi thôn dã, sinh hoạt cùng phường săn

của thời kỳ làm Hồng sơn liệp hộ 鴻山獵戶. Dường như nhà thơ cảm nhận rằng

ông đã làm những điều trái với tính tự nhiên của mình, giống như câu chuyện “cắt

ngắn chân con hạc dài”. Bản tính tự nhiên ấy, một lần nữa được nhà thơ đề cao

trong bài Thành hạ khí mã 城下棄馬:

“Cơ lai bất tác cầu nhân thái,

Lão khứ chung hoài báo quốc tâm.

60

Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính,

Mạc giao ky trấp tái tương xâm”

(Bụng đói nhưng không tỏ ý xin người,

Già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nợ nước.

Chịu được gió sương để giữ trọn tính chất tự nhiên của mày,

Chớ để cho dàm và bịt móng lại phạm vào thân.)

Người đẹp không mong tuổi già, sợ người đời lạnh nhạt. Con ngựa hay bao

năm rong ruổi, đi qua bao dặm đường lẽ nào chịu bó thân chết già nơi góc thành.

Nhĩ tính 爾性 là bản chất tự nhiên, là vẻ đẹp tâm hồn dù có trải mấy phong sương

vẫn không hề nao núng, không sợ những tác động của ngoại cảnh, ngoại vật. Tinh

thần ấy phải chăng cũng là một tâm sự mãnh liệt của một kẻ sĩ không sợ cường quyền,

không luỵ phiền, không gò bó trong khuôn khổ nhất định.

Hai là, trong quan niệm của mình, Nguyễn Du đã xem thiên nhiên như một

cõi thiêng, một chốn đi về của tâm hồn. Có thể khẳng định, thiên nhiên được nói

đến rất nhiều trong thơ Nguyễn Du. Thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Du không

chỉ là bức tranh sơn thuỷ kỳ vĩ như các nhà thơ cổ điển khác, ông đã hướng tầm mắt

của mình đến những chốn thâm sơn, những nơi thôn dã u tịch, lặng lẽ và có vẻ bình

dân. Trong thơ Nguyễn Du có một số bài thơ viết về thiên nhiên với một vẻ đẹp

“không chỉ mơ hồ như sương khói, không chỉ bàng bạc, mông lung như mây chiều”

[07, tr.25]. Hầu hết những sáng tác đó đều là những bài thơ viết bằng chữ Hán như:

Quỳnh Hải nguyên tiêu 瓊海元宵, Sơ nguyệt 初月, Sơ thu cảm hứng 初秋感興,

Sơn trung tức sự 山中即事, Biệt Nguyễn Đại Lang II 別阮大郎 (二)... Ở những

chùm thơ này, Nguyễn Du cho thấy khuynh hướng đi tìm cái đẹp thiên nhiên hiện

hữu trong cõi đời thực, không mơ màng đến chốn thần tiên, kỳ ảo. Đúng như nhà

nghiên cứu Lê Thu Yến đã nhận xét:

Nguyễn Du cũng một vài lần đăng cao nhưng không phải để hoà nhập

vào vũ trụ mà để thấy rõ hơn con người mình. Lên lầu Nhạc Dương, ông thấy

cảnh vật hùng tráng nhưng đó chưa phải là cảm hứng chủ đạo. Nhà thơ đăng

cao chính là để mở tầm mắt nhìn về quê hương, về một góc trống không phía

61

trước để đau buồn, để than thở cho thân phận mình đang phải làm một kiếp

người xa xứ... [177, tr.25].

Với nhà thơ, thiên nhiên là tri âm, tri kỷ. Nhà thơ đến với thiên nhiên như một

sự giãi bày những u uất, tâm sự của mình. Cảm thức tha hương, nỗi buồn viễn xứ,

hay những tâm cảm về thời đại mãi hằn sâu qua những khung cảnh thiên nhiên trong

thơ chữ Hán và Nôm của ông:

“Bình sa tận xứ thuỷ thiên phù,

Hạo hạo yên ba cổ độ thu.

Nhất vọng tân nhai thông cự hải,

Lịch triều cương giới tại trung lưu.”

(Độ Linh Giang 渡 靈江)

(Cuối bãi cát phẳng là chỗ trời và nước nổi bập bềnh,

Khói sóng mênh mang, vẻ thu trên bến đò xưa.

Ngước trông bến sông thông ra biển lớn,

Cương giới các triều đại phân chia ở giữa dòng.)

(Qua đò sông Gianh)

Là vậy, dù có miêu tả đến từng chi tiết những đổi thay mà mắt ông đã nhìn

thấy về thiên nhiên nhưng nhà thơ vẫn luôn gắn bức tranh ấy với những tâm sự cố

hữu của mình. Qua bến sông Gianh, nhà thơ lại hoài niệm về tiền triều, về quá khứ -

một nỗi niềm đau đớn vẫn từng ngày chảy trong huyết quản của ông. Do vậy, thiên

nhiên dù đẹp, dù mỹ lệ đến đâu, với Thanh Hiên tiên sinh, nó vẫn mãi là một người

bạn, là một lăng kính đã khúc xạ những nỗi niềm của thi nhân.

Ba là, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du được thể hiện qua sự minh triết

của con người thanh cao, u uẩn. Cùng với thiên nhiên, con người cũng là một đối

tượng thẩm mỹ của thơ ca Nguyễn Du. Trong Bắc hành tạp lục, hình tượng con

người cũng được Nguyễn Du thường hay nhắc đến. Bên cạnh những nhân vật anh

hùng Trung Hoa tên tuổi như Tỉ Can 比干, Sở Bá Vương 楚霸王, Phạm Tăng 范曾,

Hoài Âm Hầu 淮陰候, Dự Nhượng 豫讓, Văn Thừa tướng 文丞相... những danh sĩ

tài hoa như Tam Lư đại phu 三閭大夫, Liễu Hạ Huệ 柳下惠, Âu Dương Văn Trung

62

歐陽文忠… mỹ nhân nổi tiếng như Dương Quý Phi 楊貴妃, Tiểu Thanh 小青…

người đọc cũng gặp trong thơ Nguyễn Du những khách tục hay “láng giềng mấy sĩ

nho” của ông. Nhưng, nguồn cảm hứng trung tâm của thơ Nguyễn Du không ai

khác hơn là chính bản thân ông. Bởi vậy, sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ về

phương diện con người, ở Nguyễn Du gắn với việc xét đoán, khẳng định về bản

thân của chủ thể sáng tạo và ông cho rằng, thân phận mỗi người là sự tồn tại theo

duyên cảnh, là tất nhiên và mang tính tiền định.

Khi thưởng lãm các vần thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Mai Quốc Liên viết:

“Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa

một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ

chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung

Quốc nữa” [31, tr.07]. Xét từ góc độ triết mỹ, tìm hiểu vẻ đẹp nhân bản trong thơ

chữ Hán của Nguyễn Du cũng chính là tìm hiểu nỗi lòng của một kẻ sĩ, là ý thức

thẩm mỹ của một nhà nghệ sĩ trước cảnh ngộ và những số phận người, đồng thời

cũng chính là ước mơ của ông đối với những con người ấy. Và có lẽ, mối quan tâm

này dã trở thành những trăn trở thường trực trong ông, được thể hiện qua “mái đầu

bạc, mái tóc bạc”, hình ảnh đã trở đi trở lại trong thơ chữ Hán của thi sĩ họ Nguyễn

này. Đó là hình ảnh mái đầu bạc trong bài Đối Tửu 對酒: “Niên quang ám trục bạch

đầu lai”(Tháng năm âm thầm đưa mái đầu bạc trở lại), mái tóc bạc trong bài Thu

Chí 秋至: “Trù trướng lưu quang thôi bạch phát” (Buồn rầu vì ngày tháng trôi giục

mái tóc bạc thêm). Tất cả những mối ưu tư ấy dường như xuất phát từ một tâm sự u

uất trong ông, trong Tự Thán 自嘆 ông tâm sự:

“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,

Tiêu tiêu bạch phát mô phong xuy”

(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu,

Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi)

Đọc di cảo còn sót lại của một cô gái tài hoa bạc mệnh, Nguyễn Du tự cảm

cho thân phận con người rồi liên hệ đến những dự cảm của bản thân và thầm nhủ

“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Thiên hạ còn có người khóc Tố Như chăng?”. Trong

63

nhãn quan thẩm mỹ và ý thức nhân sinh ấy, Nguyễn Du đặc biệt chú ý tới hai loại

người: người tài và phụ nữ. Chính ở hai đối tượng này, quan niệm nghệ thuật, thẩm

mỹ và nhân sinh của ông về con người chứa đựng những nét đặc sắc nhất. Đồng

thời, sắc thái tư duy Việt trong tư tưởng và ý thức thẩm mỹ của Nguyễn Du về con

người cũng bộc lộ rõ nhất khi ông thể hiện các quan niệm này. Nguyễn Du đã tôn

vinh người phụ nữ như những tinh hoa, anh tài của xã hội. Trong Truyện Kiều, ông đã

gửi gắm tất cả niềm yêu thương, xót xa và kỳ vọng vào người phụ nữ khi xây dựng

hình tượng Thuý Kiều, một người phụ nữ thanh cao, tài sắc và hiếu thuận, nghĩa

tình. Lý tưởng thẩm mỹ về đạo đức và con người của Nguyễn Du được ông gửi gắm

vào nhân vật này. Đó là hình tượng người phụ nữ đẹp nhất mà văn học Việt Nam cổ

điển đã đạt được.

Khi đề cập đến người tài, Nguyễn Du đã thừa nhận quy luật Tài mệnh tương

đố. Với Nguyễn Du, người tài không chỉ là các văn nhân, trí thức Nho giáo, mà bao

gồm cả phụ nữ; cái tài không chỉ thể hiện trong thơ phú, chính trị, cử nghiệp, mà

cả trong các năng lực nghệ thuật khác như đàn hát, hội hoạ. Theo ông, người có

tài luôn là tinh hoa của trời đất, được đồng loại coi trọng, xót thương và ca ngợi,

bởi họ đã làm cho cuộc đời ngày càng đẹp hơn, nhân ái hơn:

“Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,

Thác là thể phách còn là tinh anh”

(Câu 0115 - 0116)

Những con người tài hoa khi sống phải cam chịu phận long đong như một sự

cứu chuộc cho nhân quần, bởi họ cũng chính là những con người có tình nhất, yêu

thương đồng loại nhất và là những người cảm biết được trách nhiệm của mình trước

đồng loại. Dù có phải đi vào tử địa, họ vẫn tự nguyện chấp nhận như một tất yếu,

cũng giống như nàng Kiều coi việc bán mình chuộc cha là nghĩa vụ đương nhiên

của người con thực hiện đạo hiếu. Những người tài hoa ấy, dù thể xác đã trở về với

cát bụi, nhưng tinh thần, tài năng của họ vẫn tồn tại như những hiện hữu tất yếu.

Nguyễn Du đã dùng minh triết của sự giác ngộ về thiện tâm, phương tiện căn bản

làm chìa khoá giải mã những bất công của cuộc đời. Tuân thủ những nguyên lý minh

64

triết của Phật giáo và những sắc thái duy tình của người Việt, Nguyễn Du đã đưa ra

lời giải của ông cho vấn nạn nhân sinh.

Bốn là, ngoài ý thức về thân phận con người, thiên nhiên… nhà thơ còn quan

tâm đến bản chất, chức năng của văn chương. Nếu Độc Tiểu Thanh ký là tiếng khóc

cho số phận của những văn nhân, kỳ nữ tài hoa bạc mệnh thì Điệp tử thư trung là

triết lý về chức năng giáo hoá của văn chương, thi ca, nghệ thuật. Nhà thơ tự ví văn

nhân như những con mọt sách như lại là “Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn

hoa”. Từ tinh thần của Khổng Tử “triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ 朝聞道夕死可矣”

(Sớm nghe được đạo lý, chiều chết cũng là được), nhà thơ đã đề cao tính đạo lý,

giáo hoá của văn chương, để bản thân mình vì có duyên nên được như một cánh

bướm được chết trong sách vậy:

“Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,

Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.

Văn đạo dã ưng cam nhất tử,

Dâm thư do thắng vị hoa mang.”

(Điệp tử thư trung 蝶死書中)

(Mệnh bạc nhưng có duyên nên được lưu lại trong sách,

Hồn tàn không nước mắt để khóc văn chương.

…Nghe đạo lý cũng đành cam một chết,

Mê sách còn hơn là bận lòng vì hoa)

Bên cạnh những quan niệm ấy, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta

còn thấy ông chú trọng đến vấn đề liên quan đến nội dung mà dường như rất xem

nhẹ về hình thức. Đọc bài thơ Khổng Tước vũ 孔雀舞 (Con chim công múa), chúng

ta sẽ cảm nhận được điều đó.

“Ngoại lộ văn chương thể,

Trung tàng sát phạt ky.

Nhân khoa dung chỉ thiện,

Ngã tích vũ mao kì.”

65

(Vẻ bên ngoài vui mắt,

Bên trong độc chết người.

Người khen cái dáng đẹp,

Ta lại tiếc bộ lông ngời.)

Nhà thơ lấy hình ảnh chim công, một con vật đẹp để ám dụ vẻ đẹp của loại

văn chương chuộng hình thức đầy sáo rỗng. Nhưng nghịch lý thay, vẻ kiều diễm ấy

lại được người đời đua khen, tán tụng. Nhà thơ thở dài tiếc nuối cho vẻ đẹp nhưng

chẳng hề có giá trị, lợi ích gì cho con người, để từ đó ông ngậm ngùi thốt lên:

“Hải hạc diệc hội vũ,

Bất dữ thế nhân tri.”

(Chim hạc biển cũng biết múa,

Nhưng không cho người đời biết)

Có lẽ, từ một quan niệm cực lực lên án thứ văn chương sáo rỗng, loè loẹt,

nhà thơ đã ngầm khẳng định những chân giá trị của văn chương phụng sự nhân

sinh, văn chương viết về con người, vì con người. Ông ví thứ văn chương ấy như

một con chim hạc thanh cao và không hề nao núng bởi những lời lẽ khen chê của

người đời. Xác nhận mối quan giữa nội dung và hình thức, đề cao, khẳng định nội

dung nhân văn, văn chương đạo lý, dường như Nguyễn Du là một trong những

người đi tiên phong trong vấn đề quan niệm về chức năng, giá trị văn hoá của văn

chương trong văn học cổ điển Việt Nam.

Trong Truyện Kiều, hai câu thơ cuối và đoạn thơ 1404 - 1466 nằm trong

Truyện Kiều là những suy nghiệm hiếm hoi mà thi nhân bộc lộ về thơ ca cũng như

chức năng của nó trong toàn bộ gia tài sáng tác của ông. Theo học giả Thái Kim Lan:

Lời quê là sự lựa chọn khiêm tốn được là quê, đối nghịch với hào

nhoáng khoe khoang ồn ào, đánh bóng. Một sự nhún mình của người cầm

bút, không dán bích chương, đẩy lùi cá nhân ra phía sau, nhường cho cảm

nhận thực chứng thơ ra đàng trước, chỉ có thơ đến với người, đến với nhân

gian…Chúng chưa phải là cơ sở căn bản của thi ca mà lời quê muốn bày tỏ.

Chúng mới chỉ là sự phủ định từ bỏ mọi giả tạo bề ngoài. Tự thân của lời quê

cần được hiểu trên bình diện chân mỹ của thi ca [79, tr.41].

66

Nhận định này đã một lần nữa làm rõ hơn quan niệm mỹ học thơ ca của

Nguyễn Du. Với ông, thơ không phải là sự hào nhoáng mà là sự tỏ lời, là sự chân

chất, là một “điệu nói”, “điệu ngâm” của tâm hồn. Thông qua tuyệt phẩm này, phải

chăng một mặt Nguyễn Du ngợi ca những hồn quê chân chất trong thiên tính của

con người mà Kiều là một biểu tượng, mặt khác dường như ông muốn chối bỏ lối

sáng tác theo kiểu từ chương, không gắn kết với thực tiễn, lương tri.

Trong sáng tạo, Nguyễn Du cũng đề cao chức năng diệu dụng về thẩm mỹ và

giải trí của văn chương. Ông cho rằng “mua vui cũng được một vài trống canh”.

Thơ ca có thực sự để mua vui không? Tâm huyết một đời, sau 3.254 câu thơ lục bát,

Truyện Kiều không chỉ là một sự giải trí mà nó còn là một sự giãi bày. Người đọc

hẳn ngạc nhiên sau những lần tiếp xúc với nội dung Truyện Kiều, đổ bao nước mắt,

tổn bao tâm tư để khiến “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” mà Nguyễn Du

bảo rằng mua vui kể cũng lạ. Có thể nói, Nguyễn Du dường như là một trong những

nhà thơ đi đầu trong việc xác định và nêu bật chức năng thẩm mỹ của văn chương,

xem văn chương không chỉ là gánh nợ mà còn là cứu cánh, là cõi thiên thai để thả

hồn mộng tưởng thi sĩ vậy.

Với Tố Như, văn chương là lẽ sống, cái duyên được chết trong sách là sự hoá

thân, là sự ly khai khỏi cõi tạm, là sự khai phóng để vươn đến chân trời của năng

lực và tự do sáng tạo. Đó phải chăng là những niềm vui vi diệu của thi ca, là viễn

tượng của sự cứu rỗi, là cánh gió vượt lên mái đầu bạc của sầu muộn, là những ẩn

ức tâm tư của một cựu thần, vượt lên nỗi sầu vạn kiếp của Tố Như Tử và những nỗi

niềm ấy lặng lẽ trở thành một thứ hồn quê lặng lẽ trong cõi mộng của thi nhân. Qua

những sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, ông đã bộc bạch một cách khá rõ quan

niệm thẩm mỹ về mỹ học thi ca và khả năng sáng tạo của nhà thơ trong lãnh địa tinh

thần này. Điều đó là tạo nên niềm tin vững chãi và được ông giãi bày trong toàn bộ

gia tài nghệ thuật của mình.

Tiểu kết Chương 1.

Mối quan hệ vận động tương tác giữa ngôn ngữ và văn hoá trong lịch sử văn

minh Việt Nam là một trong những hệ quả của quá trình hình thành phát triển của

67

văn hoá bản địa và sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá Việt - Hán, là nguyên nhân trực

tiếp tác động đến sự hình thành các nét nghĩa, sắc thái văn hoá bác học, bình dân

của từ vựng, ngữ liệu văn hoá trong các tác phấm văn học, nhất là truyện Nôm bác

học. Bản thân các nét nghĩa này, từ khi mới ra đời nó đã trở thành một đối tượng

nghiên cứu của nhiều chuyên ngành khác nhau của khoa nghiên cứu Ngữ văn, Văn

hoá học. Dù tiếp cận ở phương diện nào, lớp từ ngữ này vẫn đóng góp làm phong

phú cho kho từ vựng tiếng Việt và hệ thống ngữ liệu văn học cổ điển Việt Nam.

Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ truyện Nôm là một vấn đề không chỉ được

soi rọi từ góc độ ngôn ngữ mà cần phải đặt chúng trong môi trường cụ thể là ngôn

ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam. Trong quá trình hành chức của nó, vấn đề

được đặt ra ở đây là người tiếp nhận, nghiên cứu cần phải quan tâm đến nghệ thuật

sử dụng từ ngữ, lý giải những ngữ liệu có nguồn gốc văn hoá Trung Hoa và Việt

Nam, cốt làm sao giúp cho người thưởng thức thuộc mọi thế hệ khác nhau có thể

hiểu và sử dụng đúng lớp từ này chuẩn xác và linh hoạt.

68

Chương 2. NGỮ LIỆU VĂN HÓA TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TRUYỆN KIỀU

2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa Hán, bác học và văn hoá Việt,

bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

2.1.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học đối với hệ

thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Thuật ngữ ảnh hưởng văn hoá được sử dụng khá phổ biến trong lĩnh vực khoa

học xã hội và nhân văn. Nó xuất phát từ nhu cầu đối thoại văn hoá giữa các dân tộc

khác nhau. Đó là sự vận động thường xuyên và mang tính phổ biến của nhân loại, gắn

bó với tiến bộ xã hội nhưng đồng thời cũng quan hệ hữu cơ biện chứng với sự phát

triển của văn hoá, là sự chuyển hóa thường xuyên của văn hoá trong cơ chế tồn tại của

nó. Trong tiến trình phát triển văn hoá Việt Nam, việc tiếp thu và ảnh hưởng từ văn hoá

cổ điển Trung Quốc (hay còn gọi là văn hoá Hán, bác học) vào văn hoá Việt Nam là

hiện tượng mang tính lịch sử. Điều đó được thể hiện qua quá trình Hán hoá và chống

Hán hoá trong lịch sử nước ta. Đúng như nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã nhận xét: “Sự

tiếp thu văn hoá Trung Quốc, người Việt Nam chỉ tiếp thu cái cần thiết của văn hoá

Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thôi, chứ không phải là bắt chước một

cách nô lệ, dù cho nhìn bên ngoài khó lòng bảo là không máy móc...” [100, tr.43].

Sự giao lưu và tiếp xúc văn hoá, ngôn ngữ Việt - Hán, nếu trong giai đoạn đầu

tuy mang tính cưỡng chế, áp đặt, nằm trong âm mưu đồng hoá văn hoá thì ở những

giai đoạn sau lại mang tính chủ động, tích cực. Các triều đại của Việt Nam ở thời kỳ

tự chủ đã xây dựng hệ thống chính trị, giáo dục, học thuật, thi cử... theo mô hình của

phong kiến phương Bắc. Do đó, về văn hoá, Việt Nam đã tích lũy được những kinh

nghiệm từ trong văn hoá Trung Hoa.

Lịch sử văn học trung đại Việt Nam đã phát triển trong một hoàn cảnh đặc

biệt, vừa ly tâm, vừa hướng tâm đối với văn học, văn hoá cổ điển Trung Hoa. Đó là

quá trình vừa tiếp thu học tập nhưng cũng đồng thời sáng tạo, Việt hoá và bồi đắp

những đặc điểm mang tính dân tộc ngày càng rõ nét hơn. Quá trình giao lưu tiếp xúc

văn hoá - ngôn ngữ giữa hai dân tộc đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài. Giao lưu

69

văn hoá, ngôn ngữ Việt - Hán và đặc biệt là quá trình hình thành ngôn ngữ văn

chương thời trung đại đã để lại một dấu ấn đậm nét trong các tác phẩm văn học cổ

điển Việt Nam. Đó là hai hệ thống ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong ngôn ngữ

nghệ thuật truyện thơ Nôm và Ngâm khúc của văn học cổ điển Việt Nam. Dấu ấn

thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là những dẫn chứng, dẫn liệu ngôn ngữ, nó có thể

được trích dẫn, khai thác phục vụ cho quá trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật

của một tác phẩm) có nguồn gốc từ văn hoá bác học, văn hoá, văn chương cổ điển

Trung Hoa đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngôn ngữ nghệ thuật truyện thơ Nôm bác học.

Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy (2010)

gọi đó các ngữ liệu ấy là “những hiện tượng văn hoá đặc tồn” [156, tr.215] hay “các

đơn vị đặc văn hoá” [156, tr.267]. Do đó, không chỉ các nhà Ngữ học quan tâm và

hứng thú mà các nhà Ngữ văn học cổ điển những cũng rất chú ý đến hệ thống các

đơn vị mang hàm lượng văn hoá, độc đáo này. Những ngữ liệu ấy được xem như là

một dạng tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, nó được sử dụng trong các thi phẩm như một

phương thức đặc trưng biểu đạt những tình cảm trữ tình của cá nhân, tạo nên một thế

giới mở đặc thù theo thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng hệ

thống ngữ liệu này vừa đảm bảo tính quy phạm, chuẩn mực có tính ước lệ, phản ánh

đặc trưng thể loại, vừa thể hiện chiều kích sâu rộng của văn hoá cổ điển, độ uyên

thâm và khả năng khái quát đời sống của các tác giả văn học cổ Việt Nam.

Thời trung đại, do quan niệm sáng tác chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo,

văn học được sáng tác với mục đích chính trị và giáo huấn về cách ứng xử trong cuộc

sống, nên ngôn ngữ văn chương thường mang âm hưởng trang trọng để tránh sự dung

tục bình thường. Do đó, việc sử dụng những hình thức đặc thù của ngữ liệu văn hoá

đã tạo nên một trường thẩm mỹ đặc trưng của các tác phẩm văn học cổ. Đó là hệ

thống từ ngữ đã được dẫn dụng một cách khá công phu, linh hoạt và đa dạng trong

các tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu như Hoa tiên 花箋, Sơ kính tân trang 梳鏡新妝,

Nhị độ mai 二度梅, Phan Trần 潘陳, Bích câu kỳ ngộ 璧溝奇遇... và đặc biệt là

Truyện Kiều 傳翹. Bàn về vấn đề này, Đoàn Ánh Loan trong Điển cố và nghệ thuật

sử dụng điển cố đã khẳng định, hệ thống ngữ liệu (cụ thể ở đây là điển cố, thi văn liệu

70

Hán học) trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm đã “được các tác giả truyện thơ xếp

đặt ở câu bát nhiều hơn câu lục, tuy không quá chênh lệch, nhưng cũng cần được ghi

nhận như một đặc điểm... nhưng bao giờ giữa chúng cũng có một sự kết nối chặt chẽ

nhằm thể hiện cao nhất ý nghĩa của nó” [87, tr.56].

Những tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá bác học, văn hoá Hán đã góp

phần hình thành nên tính chất quan phương, uyên bác - một đặc trưng thẩm mỹ của

ngữ liệu văn hoá. Đặc trưng này làm nảy sinh những hình tượng, biểu tượng, cách

diễn đạt cố định và mang tính truyền thống, phân định thứ bậc, tạo nên vẻ lộng lẫy

và đậm tính nghi thức. Chẳng hạn, nhà thơ đã vận dụng một chuỗi các thuật ngữ,

ngữ liệu có nguồn gốc từ binh gia, chính trị, có tính nguyên tắc cao để diễn tả các

biến cố, sự kiện có tính nghiêm trang. Đoạn thơ “báo ân báo oán” của Thuý Kiều là

một ví dụ tiêu biểu, tác giả đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ miêu tả đặc thù của

Quân lễ 軍禮 [190, tr.224], một trong Ngũ lễ 五禮 được quy định trong Thượng thư

尚書 và Chu lễ 周禮, cụ thể là Cát lễ 吉禮 (bao gồm quán 冠, hôn 婚), hung lễ

凶禮 (bao gồm tang 喪, tế 祭), quân lễ 軍禮, tân lễ 賓禮 (lễ tiếp khách) và gia lễ

嘉禮 (lễ mừng). Đó là những từ ngữ thường dùng trong quân sự như hiệu duyệt, sưu

thú, xuất sư:

“Quân trung gươm lớn giáo dài

Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi

Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi

Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân

Trướng hùm mở giữa trung quân

Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.

Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi

Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.”

(Câu 2311 - 2318)

Vệ 衛, cơ 鞿 là những đơn vị quân chính được quy định trong quân ngũ thời

phong kiến. Bác đồng 鎛銅 (hay còn gọi là đồng bác, đồng lao, đây là những bộ gõ,

được dùng để tạo âm thành hùng tráng khi xuất binh), tinh kỳ 旌旗 là hệ thống cờ

71

phướn được dùng trong đi sứ, nghi vệ thiên tử xuất hành hoặc nghi thức xuất binh

của nguyên soái hoặc đại tướng. Trướng hùm (hay còn gọi là hổ trướng 虎帳), cửa

viên (viên môn 圓門) là địa điểm bản doanh của chủ soái, có bố trí hổ ỷ 虎椅 (ghế

da hổ), trung quân 中軍 là một trong ba cánh quân (tiền, trung, hậu hoặc tả, trung,

hữu). Với những ngữ liệu đặc trưng ấy, tác giả vừa khắc hoạ thành công khung cảnh

nghiêm cẩn, hào tráng, uy nghi của “phiên toà tình đời”, vừa đáp ứng được nhu cầu

nghệ thuật chuẩn quy phạm.

Khảo sát hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật của một số

truyện Nôm bác học và Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, các dạng thức ngữ liệu

văn hoá được các tác giả sử dụng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, xét từ

phương diện nguồn gốc, các ngữ liệu văn hoá được sử dụng trong ngôn ngữ nghệ

thuật truyện Nôm bao gồm ngữ liệu nguyên dạng (ngữ liệu âm Hán Việt) và ngữ

liệu chuyển dịch (bao gồm ngữ liệu âm bán Hán Việt (là những ngữ liệu được cấu

thành bởi một yếu tố là Hán Việt, một yếu tố thuần Việt) và ngữ liệu thuần Việt).

Xuất phát từ quan điểm từ vựng học, chúng ta có thể tìm hiểu những nét nghĩa văn

hoá của từ ngữ trong ngôn ngữ truyện Nôm và Truyện Kiều, qua đó có thể phác thảo

được quá trình thâm nhập, chuyển hoá, ảnh hưởng của văn hoá bác học Trung Hoa

trong ngôn ngữ Truyện Kiều.

2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng văn hoá Việt, bình dân đối với hệ thống

ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Một số nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu đặc tính bình dị, chân chất, mộc

mạc, hấp dẫn, chuẩn xác, cụ thể của hệ thống từ ngữ bình dân (bao gồm lớp từ cổ, từ

địa phương, từ láy thuần Việt hay ngữ liệu âm Hán Việt đã được chuyển dịch và tái

cấu trúc lại theo mô hình từ pháp tiếng Việt) và những giá trị văn hoá cũng như sự

vận dụng sáng tạo và cách tân của hệ thống này trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều. Nó không chỉ phản ánh một cách khách quan nội dung, chủ đề tác phẩm mà còn

góp phần phác hoạ rõ nét một bức tranh hiện thực đa dạng, phức tạp. Ngoài ra, thông

qua các ngữ liệu văn hoá bình dân, ngôn ngữ Truyện Kiều còn được khẳng định ở

phương diện văn hoá thẩm mỹ, nó có tính chất bình dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn

72

tiếng nói nôm na, gần gũi của dân tộc nên có sức hấp dẫn đối với đông đảo bạn đọc.

Đặc biệt, đối với lối khai thác thế mạnh về tính biểu trưng của các ngữ liệu, nhà thơ

tạo nên những “tập mờ” ngữ nghĩa, góp phần phản ánh những “suy tư duy lý của các

nhân vật về những mâu thuẫn trong cuộc sống và vận mệnh con người” [42, tr.83].

Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, ngoài hệ thống từ cổ, từ địa phương, từ láy...

thì lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ quần chúng và từ thuần Việt cũng được xem

là những ngữ liệu văn hoá bình dân. Đúng như Phạm Đan Quế đã khẳng định,

“khẩu ngữ quần chúng là lời ăn tiếng nói nôm na, mộc mạc hàng ngày của cuộc

sống vô cùng phức tạp và đầy biến động của nhân dân thuộc đủ mọi tầng lớp” [122,

tr.345]. So với lớp từ ngữ Hán Việt, lớp từ ngữ này vô cùng sinh động, nhiều dáng

vẻ và luôn được bổ sung không ngừng qua các thế hệ, thời đại. Nó bao hàm cả

những lời nói dung tục, dân dã. Bằng tài năng sáng tạo ngôn từ của mình, Nguyễn

Du đã dịch chuyển lớp từ khẩu ngữ có tính chất “quặng thô ngôn ngữ” này vào kho

ngữ liệu văn hoá bình dân của Truyện Kiều, góp phần tạo nên sự đặc sắc nhiều mặt

cho Ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. Hệ thống ngữ liệu này vừa chính xác vừa gợi

cảm, hấp dẫn. Kho tàng vô tận và quý giá của khẩu ngữ quần chúng được Nguyễn

Du sử dụng để góp phần khắc hoạ đến từng chi tiết bức tranh xã hội đa sắc, nhiều

góc cạnh và thế giới nhân vật sống động, tiêu biểu trong tác phẩm. Nó được sử dụng

để thể hiện những ý nghĩ của Mã Giám Sinh, những toan tính dự phòng của hắn để

được gần gũi với Thuý Kiều trong đêm đầu tiên ở trú phường:

“Nước vỏ lựu, máu mào gà,

Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.”

(Câu 0837 - 0838)

Nước vỏ lựu, máu mào gà, còn nguyên... là những “biệt ngữ”, từ ngữ có

tính chất nghề nghiệp của lớp người chuyên làm nghề dắt mối, buôn hương đã

khiến người đọc nhận diện cái vẻ bất lương của gã họ Mã. Nếu lời chửi bới của Tú

Bà là lời của bọn chủ chứa đã ghê thì chúng ta còn thấy lời mắng nhiếc của Hoạn

Bà còn có phần “kinh khủng” hơn:

73

“Bất tình nổi trận mây mưa,

Dức rằng: Những giống bơ thờ quen thân.

Con này chẳng phải thiện nhân,

Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.

Ra tuồng mẻo mả gà đồng,

Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.

Đã đem mình bán cửa tao,

Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.

Nào là gia pháp nọ bay!

Hãy cho ba chục biết tay một lần.”

(Câu 1727 - 1736)

Qua 09 câu thơ được trích dẫn trên, ta những tưởng đó không thể nào là

ngôn ngữ của một mệnh phụ phu nhân, vợ quan Lại bộ thượng thư, một lão nhân

gia của nhà họ Hoạn. Trong lời mắng chưởi của mình, mụ dùng toàn là từ ngữ có

tính chất khẩu ngữ đậm đặc, đó là những biệt ngữ của bọn ưng khuyển giang hồ

như: Giống bơ thờ, phường trốn chúa, quân lộn chồng... gọi Kiều là con này, bản

thân mụ thì xưng là tao. Mụ còn dùng thành ngữ như mèo mả gà đồng, khủng

khỉnh làm cao... hay những từ có nguồn gốc từ thành ngữ như quen thân (quen

thân mất nết, một biến thể của thành ngữ hư thân mất nết). Nguyễn Du sử dụng

ngữ liệu mây mưa ở đây thật sáng tạo, nó không phải là chuyện gái trai mà được

dùng để ám chỉ con giận lôi đình của Hoạn lão phu nhân. Trong Truyện Kiều, các

từ ngữ có phong cách khẩu ngữ chiếm một tỷ lệ tương đối (331 ngữ liệu) so với

toàn bộ từ vựng của thi phẩm. Điều này chứng tỏ, khi viết Truyện Kiều, Nguyễn

Du đã tự trang bị cho bản thân mình một vốn từ ngữ cực kỳ phong phú và đa dạng,

ông biết tìm kiếm những nội dung ngữ nghĩa mới cho những hình thức quen thuộc

(từ mây mưa là một ví dụ). Trong những trường hợp cụ thể khác, nhà thơ đã sử

dụng cách nói, kiểu nói rất bình dân, nôm na như “có sá chi”, “cơn cớ gì”, “dơ

tuồng”, “chẳng văng vào mặt”, “giống bơ thờ” để diễn tả những dáng vẻ ngổn

ngang, đa diện cuộc sống muôn mặt, một bức tranh phức hợp, những lối nói dân

74

dã, có phần bặm trợn, hèn yếu, kém thế của các nhân vật và sự chiêm nghiệm của

chính bản thân nhà thơ trong Truyện Kiều.

Trong ngôn ngữ Thuý Kiều, ông viết:

“Nhưng tôi có sá chi tôi,

Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?”

(Câu 1145 - 1146)

Để thể hiện cái bặm trợn của ngôn ngữ của Tú Bà, ông viết:

“Lão kia có giở bài bây,

Chẳng văng vào mặt mà mầy lại nghe!”

(Câu 974 - 975)

Hoặc giả, để thể hiện sự hèn kém của Thúc Sinh, nhà thơ cũng hạ bút:

“Nhân làm sao đến thế này,

Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!”

(Câu 1825 - 1826)

Ngay cả khi thể hiện những đánh giá, suy nghĩ của mình, tác giả cũng thường

sử dụng những từ ngữ đậm phong cách khẩu ngữ:

“Đời người đến thế thì thôi,

Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay!”

(Câu 2645 - 2646)

“Ông tơ thực nhé đa đoan,

Xe tơ sao khéo vơ càn, vơ xiên?”

(Câu 2599 - 2560)

Có thể nói, hệ thống ngữ liệu văn hoá này vẫn luôn có tính xác thực, cụ thể

và hấp dẫn người đọc. Nó phản ánh được tính cách, ngôn ngữ của các nhân vật

trong những hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, nó đã giúp cho nhà thơ có được sự miêu tả

sống động một số môi trường xã hội có tính thông tục, khắc hoạ những rung động

tinh tế, diễn biến nội tâm phức tạp của một số nhân vật và kể cả những xót xa trong

tâm tư của chính tác giả.

Như đã nói, hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều là cả một thế giới

phong phú, đa dạng, sâu sắc, là một phức thể đa chiều kích, đa nghĩa và giàu giá trị

75

văn hoá. Càng đi sâu tìm hiểu, chúng ta càng phát hiện thêm nhiều điều mới lạ, độc

đáo. Do đó, một trong những nguyên nhân tạo nên sự sinh động, hấp dẫn ấy là nhờ

có sự kết hợp tuyệt diệu, nhịp nhàng, hợp lý, logic giữa hai khuynh hướng văn hoá

bình dân và văn hoá bác học trong ngôn ngữ tác phẩm. Sự tôn vinh những giá trị

văn hoá trong ngôn ngữ bình dị, dân dã của thơ ca dân gian Việt Nam đã góp phần

khẳng định Nguyễn Du là một trong những thi nhân đã đóng góp rất nhiều vào quá

trình phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc. Bởi lẽ, khi miêu tả thế giới nội tâm nhân

vật, ông thường khai thác những chân giá trị của các ngữ liệu văn hoá bình dân.

Chính sự khai thác đó đã giúp ông khái quát được những khía cạnh độc đáo, cụ thể,

chi tiết trong tâm lý nhân vật – một phương diện nghệ thuật độc đáo mà nhà thơ đã

tạo dựng được trong quá trình sáng tạo của mình. Bên cạnh đó, công lao của ông

được thể hiện qua việc ảnh hưởng, tiếp nhận một cách sáng tạo lớp ngôn ngữ dân

gian và trong việc sử dụng tài tình lớp từ ngữ có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc.

Thành tựu tuyệt vời mà tác phẩm của ông mang lại không chỉ làm phong phú, trong

sáng ngôn ngữ văn học Nôm nói riêng, mà còn có những ảnh hưởng văn hoá sâu xa

và lâu dài đến sự phát triển ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam nói chung.

Khi khảo cứu về nguồn gốc bình dân của ngôn ngữ Truyện Kiều, một số nhà

nghiên cứu đã có những nhận xét khái quát về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn

Du, họ cho rằng lời thơ của ông gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Nhà thơ đã có

sự tiếp thu và ảnh hưởng tiếng nói của dân tộc, ngôn ngữ văn chương dân gian. Đó

cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát

triển văn học dân tộc. Vì thế, văn hoá bình dân và bác học được xem là hệ quy

chiếu, xuất phát điểm của các hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ của Truyện Kiều.

Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là những nét,

yếu tố thẩm mỹ được gợi lên thông qua hệ thống những thành ngữ, tục ngữ, ca dao,

hệ thống từ ngữ thuần Việt, hoặc có yếu tố Hán Việt với một lối diễn đạt bình dị,

đơn giản đậm chất khẩu ngữ trong sinh hoạt của người Việt. Hệ thống ngữ liệu văn

hoá bình dân đã thực sự là ngôn ngữ văn học với khả năng biểu đạt, biểu cảm cực

kỳ phong phú. Nó được Nguyễn Du sử dụng, chuyển dẫn và khái quát một cách

76

thần tình, đích đáng và nhuần nhuyễn trong hệ thống Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với kết luận của Lê Đình Kỵ, “tính dân tộc của

ngôn ngữ có gốc rễ chủ yếu ở thành phần bình dân... những yếu tố bác học như điển

cố, tượng trưng, ước lệ đã được Nguyễn Du nhào nặn tái tạo và đưa vào một âm

hưởng mới, chứa chan tình điệu dân tộc...” [76, tr.428]. Và hơn thế nữa, “Truyện Kiều

là một truyện thơ Nôm có quy mô từ ngữ dân tộc khá phong phú kết hợp với chất thơ

trữ tình của ngôn ngữ văn học dân gian đã xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu có tính

dân tộc sâu sắc trong văn học cổ điển Việt Nam…” [65, tr.74].

Tóm lại, những từ ngữ mang sắc thái văn hoá bình dân trong ngôn ngữ nghệ

thuật của một tác phẩm cụ thể là một trong những nét biểu hiện những giá trị văn

hoá riêng biệt của nó so với những tác phẩm khác cùng thể loại, loại hình. Nó phản

ánh quá trình chia cắt, khái quát thực tại theo một nếp tư duy riêng biệt có nguồn

gốc sâu xa từ trong đặc tính bản địa của dân tộc cụ thể. Đó là nếp nghĩ, kiểu tư duy,

đặc trưng văn hoá. Vì thế tiềm năng sáng tạo nên các giá trị văn hoá của hệ thống từ

ngữ này là rất lớn. Và có lẽ, nhờ vào con đường này, tác phẩm đã đi vào lòng dân

tộc, được cộng đồng tiếp nhận một cách nhanh chóng và hiệu quả, chẳng hạn như

trường hợp Lục Vân Tiên với văn hoá Nam bộ. Mặt khác, hệ thống từ ngữ chịu ảnh

hưởng của văn hoá bình dân luôn có ý nghĩa xã hội, giàu hình ảnh biểu trưng và

tính biểu cảm. Nó góp phần giúp nhà thơ chuyển tải những thông điệp nhân sinh,

giãi bày những tâm tư, trăn trở, băn khoăn của mọi tầng lớp trong xã hội cũ, của

những trí thức bình dân hay những kẻ tha hương, người lạc loài với thời cuộc mong

muốn tìm một chốn bình yên hay sự đồng cảm với nhân dân, dân tộc mình.

2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ

nghệ thuật Truyện Kiều

2.1.3.1. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Hán, bác học

trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Môi trường văn hóa cổ điển thời trung đại đã được định chế trong khuôn khổ

của hệ thống lễ tục, nghi thức cụ thể. Nói cách khác, xã hội phong kiến Việt Nam là

xã hội được vận hành theo nguyên tắc các phạm trù đạo đức như Lễ, Trung, Hiếu,

77

Tiết, Nghĩa, Nhân... Đây là những đặc điểm, biểu hiện văn hoá, tư tưởng, xã hội của

các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc. Không gian và bối cảnh đời sống

văn hoá trong Truyện Kiều đã có sự gần gũi với khung cảnh lầu son gác tía, thế giới

quan chính thống, quan phương. Do đó, hệ thống ngôn ngữ mang tính nghi thức

được tác giả sử dụng trong ngôn ngữ tác phẩm phải đảm bảo những tính quy phạm,

chặt chẽ, phản ánh một cách chính xác các biểu hiện tôn nghiêm, cao quý, thanh nhã

của xã hội và con người thời bấy giờ. Điều này đã ảnh hưởng một cách cụ thể đến thế

giới nghệ thuật Truyện Kiều. Trong ngôn ngữ và tư duy của một số nhân vật, nhà thơ

cũng đã sử dụng các từ ngữ văn hoá chỉ đạo đức, chính trị, xã hội. Chẳng hạn như

những suy tư của Thuý Kiều về công danh, tư quyền cá nhân:

“Bằng nay chịu tiếng vương thần,

Thênh thang đường cái thanh vân hẹp gì...”.

(Câu 2477 - 2478)

“Cũng ngôi mệnh phụ đường đường...”

(Câu 2481)

“Một là đắc hiếu, hai là đắc trung...”

(Câu 1831)

Vương thần 王臣 là bậc đại khanh, hoàng thân quốc thích, thanh vân 青雲 là

hoạn lộ, mệnh phụ 命婦 là vợ quan đại thần (từ chánh tam phẩm trở lên), hiếu 孝 là

cung thuận với cha mẹ, trung 忠 là hết lòng với vua... những từ ngữ này không chỉ

thể hiện rõ quan điểm của nhân vật về thành bại của con người trên con đường hoạn

lộ, mà nó còn phản ánh thói quen sử dụng ngôn ngữ nặng về từ chương khá phổ

biến trong giao tế của các tầng lớp sĩ, khanh, đại phu trong xã hội Nho giáo. Và

dường như, tác giả muốn vươn đến những ước mơ đẹp về số phận con người và một

xã hội đại đồng trên nguyên tắc của tình thương yêu, tinh thần nhân đạo người trí

thức phong kiến.

Có thể nói, bức tranh nghệ thuật về nỗi đau đoạn trường, về số phận của

Vương Thuý Kiều 王翠翹 đã được Nguyễn Du chấm phá, phác hoạ bằng ngòi bút

thần của một thi sĩ - triết nhân, một con người cũng đã từng chạy đua với số mệnh,

78

mười năm dãi gió nằm sương và cũng từng bôn ba trong khổ hải ba đào. Tác giả

không chỉ tâm lý hoá ngoại hình mà ông còn đi đến xu hướng thân phận hoá phẩm

cách. Với Thúy Kiều, tác giả không sử dụng lối đặc tả mà nhà thơ đã tiến xa hơn:

khắc họa Thúy kiều bằng những đường nét đầy ấn tượng thông qua những ý nghĩa

mang tính biểu tượng của các ngữ liệu văn hoá được dẫn dụng. Không dừng lại với

những chi tiết cụ thể như đã làm, ở đây nhà thơ đã vẽ đến phần gợi cảm nhất trên

khuôn mặt là đôi mắt của giai nhân nhưng với một thủ pháp hoàn toàn khác:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh.”

(Câu 25 - 26)

Với Thúy Vân, tác giả sử dụng thủ pháp đối xứng nghệ thuật, bộ phận này

được nêu ra thông qua bộ phận kia, còn đối với Thúy Kiều, Nguyễn Du muốn tạo

nên một ấn tượng hài hòa, xinh xắn: khóe mắt long lanh như nước hồ thu, đôi mày

thanh tú như nét xuân sơn đầy quyến rũ. Và tác giả đã sử dụng các từ ngữ như thu

thuỷ, xuân sơn (những ngữ liệu có xuất xứ từ Tây Sương Ký 西廂記 của Vương

Thực Phủ 王實甫) để nhấn mạnh đến những ý nghĩa tượng trưng về vẻ đẹp của

người thiếu nữ một cách khái quát như một sự vĩnh cửu hóa cái đẹp. Nhận xét về

điểm này, Phạm Đan Quế đã viết: “Trên nói thua, nhường, sắc trung chi hiền, đến

chữ ghen, chữ hờn thì rõ là sắc trung chi thánh. Trong sắc giới mà có phân bực

thánh hiền thì mấy chữ đó chính là tác giả đã khổ tâm chọn lựa, nung nấu hun đúc

để tả ra không lẫn được với nhau” [122, tr.18].

Thúy Kiều không chỉ là một nhân vật tuyệt sắc mà còn là một kỳ nữ tuyệt tài,

nàng thành thạo về: Cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt là âm nhạc, nàng sử dụng thành thạo

cây Hồ cầm, có thể tự sáng tác Bạc mệnh khúc 薄命曲 làm não lòng người:

“Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”

(Câu 029 - 032)

79

Qua những câu thơ tả Thúy Kiều, tác giả đã kết hợp tả cả tài lẫn sắc và xen

trong đó là cái tình. Thúy Kiều không chỉ đẹp ở sắc mà trội về tài, giàu về tình. Dường

như những điều này đã dự báo một tiền đồ ảm đạm, tương lai bất hạnh của nàng. Qua

những thủ pháp, kiểu chọn lựa và trường liên tưởng cụ thể, tác giả đã dựng nên một

điển hình nghệ thuật độc đáo, gợi cảm, cá tính và có sức khái quát cao trong thiên

truyện li kỳ này.

Tư tưởng triết học phương Đông đã ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống ngữ

liệu văn hoá trong Truyện Kiều, đó là nguyên lý Nhất dĩ quán chi 一以貫之 mà

Khổng phu tử đã nhiều lần nhắc đến trong Luận ngữ 論語 (chương Lý Nhân 里仁,

Vệ Linh Công 衛靈公) [192, tr.616]. “Một mối mà thông suốt tất cả” (nhất dĩ quán

chi) là nguyên tắc từ chỗ gần mà xem xét chỗ xa, từ chỗ rõ ràng đến chỗ sâu kín,

từ một mối mà suy luận ra, từ gốc mà đi đến ngọn và ngược lại. Vì vậy, xem xét từ

chiều hướng ấy, sự hiểu biết và chiếm lĩnh nội hàm của ngữ liệu văn hoá trong

ngôn ngữ Truyện Kiều cần phải bắt đầu từ hình thức từ ngữ đi đến bản chất văn

chương và triết học của nó, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của mỗi sự kiện, nhân vật,

tính cách, triết lý mà ngữ liệu ấy khái quát. Với đặc tính ấy, ngữ liệu văn hoá tồn

tại không chỉ với tư cách là tín hiệu thẩm mỹ mà còn là công cụ diễn đạt cái lý của

văn chương một cách hoàn bị nhất. Nó mở ra cho người đọc, người tiếp nhận một

tầm đón đợi phong phú, những khả năng chiêm nghiệm, liên tưởng, người đọc

phải suy niệm thật sâu sắc mới có thể cắt nghĩa trọn vẹn câu thơ. Có lẽ đó cũng là

cái lý nghệ thuật trong miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Với nhân vật chính diện,

ông đã thống nhất và sự dụng một loạt những mỹ từ có tính văn hoa, đẹp đẽ góp

phần tôn thêm dáng vẻ phong tư hào sảng hay tài tử của nhân vật. Qua một lớp từ

ngữ như hài văn, dặm xanh, phú hậu... Nguyễn Du đã khắc hoạ nên bức truyền

thần về một Kim Trọng tác phong nho nhã: “Hài văn lần bước dặm xanh”; tài

năng chính trực: “Nền phú hậu, bậc tài danh, văn chương nết đất, thông minh tính

trời” (Câu 150 - 151).

Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, nghệ thuật sử dụng và bố trí ngữ liệu văn hoá

của Nguyễn Du vừa hấp dẫn, vừa chuẩn mực đồng thời biểu hiện một cách cụ thể cá

80

tính sáng tạo của nhà thơ. Thông qua các ngữ liệu văn hoá đã được vận dụng,

chuyển dẫn một cách khéo léo, người thưởng thức có thể tìm thấy được vẻ đẹp của

thế giới hình tượng phong phú, sinh động được diễn đạt bằng nghệ thuật ẩn dụ, biểu

trưng, uyển ngữ của văn cách trung cổ. Từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương

thảo liên thiên bích, lê chi sổ điểm hoa 芳 草 連 天 碧 梨 枝 數 點 花”, Nguyễn Du

đã để lại cho chúng ta một cặp lục bát tuyệt tác, nó không chỉ là sự chuyển dịch giản

đơn mà đã trở thành hai câu thơ rất Việt Nam:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

(Câu 041 - 042)

Hoặc như hai câu thơ Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông

phong 人 面 不 知 何 處 去 桃 花 依 舊 笑 東 風 trong bài Đề tích sở kiến xứ 題

昔 所 見 處 của Thôi Hộ 崔 護 (Đường) năm xưa đã được phỏng dịch thành:

“Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.”

(Câu 2747 - 2748)

Những mỹ từ như cỏ non (phương thảo 芳草), cành lê (lê chi 梨枝), bóng

người (nhân diện 人面), gió đông (đông phong 東風) đã được chuyển dịch rất

thành công. Nghệ thuật dịch thơ cổ của Nguyễn Du không chỉ sao phỏng từ những

ngữ liệu cổ văn trong cổ thi, Đường thi dường nhưng tác giả đã tái tạo ý thơ trên cơ

sở vốn từ ngữ và cảm quan thẩm mỹ ngôn từ của người Việt mà vẫn không đánh

mất vẻ đẹp kiêu kỳ, quý phái và có tính khái quát của ngữ liệu gốc. Chẳng hạn, từ

mấy câu cổ thi: “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu 梧 桐 一 葉 落 天 下

共 知 秋” (Một lá cây ngô đồng rụng, thiên hạ biết thu về), nhà thơ đã chuyển dịch

thành một câu thơ rất dung dị, rất Việt Nam: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”

(1594). Hoặc ở câu thơ 225 - 226:

“Cớ sao trằn trọc canh khuya,

Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?”

81

Câu thơ này đã phỏng dịch lại hai câu thơ nổi tiếng của Bạch Cư Dị 白居易

trong tuyệt phẩm Trường hận ca 長恨歌: “Ngọc dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa

nhất chi xuân đới vũ 玉容寂寞淚闌干梨花一枝春帶雨” (Mặt ngọc ủ ê, nước mắt

dầm dề như cái hoa lê mùa xuân có bám mấy giọt nước mưa). Tác giả đã sử dụng

câu thơ trên để miêu tả dáng vẻ u sầu của Thuý Kiều trong canh khuya, những giọt

lệ sầu bi ấy được ví như những giọt sương hãy còn vương đọng trên cánh hoa lê,

nghệ thuật diễn đạt theo kiểu tượng trưng đã được nhà thơ khai thác triệt để nhằm

tôn vinh vẻ đẹp của nàng Kiều vậy.

Theo Nguyễn Thuý Hồng, trong toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Du đã có 36 lần

chuyển dịch thành công các câu Đường thi tuyệt tác như vậy [65, tr.252]. Điều đó

không chỉ thể hiện sự ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá từ chương Trung Hoa đối với

nhà thơ mà còn thể hiện tài năng, bản lĩnh văn hoá Việt trong hồn cốt, phong cách

và tư duy của một thi nhân nặng tình dân tộc.

Việc sử dụng các ngữ liệu văn hoá trong các tác phẩm là một trong những

nét đặc thù của ngôn ngữ văn chương cổ điển phương Đông. Sự hình thành và vận

động của hệ thống ngữ liệu này ngoài các nhân tố mang tính lịch sử, nó còn chịu sự

chi phối của các tâm thức văn hóa truyền thống phương Đông và đặc trưng thẩm mỹ

cổ truyền Trung Hoa, Việt Nam. Quan niệm thẩm mỹ đầu tiên đã tác động đến ngữ

liệu văn hoá là tinh thần sùng cổ, thượng cổ. Khổng Tử đã phát biểu về những công

trình do mình san định chỉ là “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ 述而不作信而好古”

(Chỉ thuật người xưa lại không sáng tạo, tin tưởng và ưa chuộng cái cũ). Quan niệm

này đã được phản ánh qua ý thức hoài cổ, tập cổ của người xưa, đó là xu hướng

quay về với quá khứ, xem quá khứ là điển chương, là những bài học tinh thần sâu

sắc nhất đối với con người. Có lẽ, một ý thức nhân sinh như vậy đã dẫn đến một

quan niệm về thẩm mỹ tương ứng, thích hợp. Đó là sáng tác văn học được đánh giá

qua các điển cố, phong thái, cổ ngữ của các hiền nhân... do đó thủ pháp lặp lại ý

tưởng của người xưa được xem là đúng đắn, là hay, là đẹp. Đó là nội dung cơ bản

của nguyên lý Ôn cố nhi tri tân 溫故而知新. Điều này cũng đã tác động trực tiếp

đến phương thức hình thành, chuyển hoá của hệ thống ngữ liệu văn hoá như điển

cố, thi văn liệu, cổ ngữ, ý tượng... trong văn học cổ điển Trung Hoa và Việt Nam.

82

Như trên đã phân tích, bên cạnh tính điển phạm, tập cổ, đăng đối... hệ thống

ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng và tác phẩm văn

học trung đại nói chung còn thể hiện tính trang nhã, uyên bác phù hợp với tính chất

bác học trong quan niệm của người xưa. Đây cũng là luận cứ giải thích tại sao văn

chương bác học luôn dụng điển, dẫn sự, kê cổ. Khảo sát các ngữ liệu văn hoá trong

ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, nếu tác giả sử dụng những ngữ liệu văn

hoá bác học thì những sự việc, nhân vật, không gian thường thiếu yếu tố tả thực, đời

sống thực... mà chỉ thiên về miêu tả cái cao quý, để ngợi ca, lý tưởng hoá hay giáo

huấn hậu nhân và do đó họ tránh lối diễn đạt trực diện, thường đi vòng, sử dụng

những hình ảnh biểu trưng. Đúng như Lê Hữu Kiều (thế kỷ XVIII) đã bàn “làm

thơ... luyện cách điệu không trang nhã sẽ mắc vào bệnh quê mùa, đặt câu không sắc

sảo sẽ mắc vào bệnh quê mùa, kém cỏi...” [130, tr.51] và văn chương được quan

niệm là “để bày tỏ tình cảm, nên lời lẽ phải đẹp, trau chuốt” [130, tr.51]. Chẳng

hạn, trong văn hoá Trung Quốc và Việt Nam, hướng Đông chủ về sinh, thuộc

dương, cho nên Đông và nam giới có mối liên hệ với nhau. Trong bài Mạch thượng

tang 陌上桑 có câu: “Đông phương thiên dư kỵ, phu tế cư thượng đầu 東方千余騎,

夫婿居上頭” (Trong đám người theo hầu kia có chàng rể ở hàng đầu). Căn cứ vào

quan niệm đó, ta thấy trong văn học cổ Việt Nam, các tác giả cũng sử dụng các từ

như Đông cung, Đông sàng hay sàng Đông. Đông cung được dùng để phiếm chỉ

ngôi vị thái tử. Theo nghi lễ cổ xưa, cung thất của hoàng tử được chọn nối ngôi đều

xây dựng ở phía đông của cung vua. Hai từ Đông sàng hay sàng Đông đều có liên

quan đến điển cố Đông sàng thản phúc 東床坦腹 và dùng để phiếm chỉ chàng rể

quý. Vì sao có hiện tượng như thế? Truy nguồn gốc, xuất xứ của chữ Đông, thứ

nhất Đông thuộc dương, thứ hai Đông chủ về sinh nên có liên quan đến tư thế nằm

ngủ của con người. Thiên Ký Tịch Lễ 既夕禮 trong sách Nghi lễ 儀禮 có viết: “Sĩ

xứ thích tẩm, tẩm đông thủ vu bắc dung hạ 士處適寢寢東首于北墉下” (Phòng ngủ

của kẻ sĩ, giường được đặt ở phía Bắc, đầu quay về phía Đông) [182, tr.127]. Trong

Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dùng Đông để chỉ nam giới:

83

“Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

(Câu 035 - 038)

Tường đông có thể thực chỉ, đó là bức tường ở phía đông, nhưng nếu dừng

lại ở đây thì khó thấy được dụng ý của tác giả khi nói về tính cách đoan trinh hiền

thục của chị em Thuý Kiều. Bởi lẽ, hai nàng là thục nữ khuê môn, những chuyện

bướm ong lại qua đều bỏ ngoài tai nên Nguyễn Du mới hạ bút viết “Tường đông

ong bướm đi về mặc ai”. Do đó, tường đông còn mang nghĩa hư chỉ, nói về nơi ở

của đàn ông. Như vậy, ngữ liệu tường đông đã kết hợp một cách nhuần nhị với các

ngữ liệu như phong lưu, hồng quần, cập kê và điều đó càng tăng mỹ cảm cho ngữ

cảnh được miêu tả, vừa chuẩn thi pháp đồng thời tạo nên sự hấp dẫn cho đoạn trích.

Nhìn chung, hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều đã chịu sự tác động của bối cảnh, tư duy, tâm thức, đặc trưng thẩm mỹ của văn

hoá Trung Hoa và Việt Nam. Dưới áp lực của những tác động ấy, ngữ liệu đã trở

thành những tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, là những uyển ngữ, mỹ từ, giai cú giàu sức

khái quát và đậm tính triết học. Hệ thống ấy đã trở thành công cụ thẩm mỹ của văn

nhân thi sĩ trung đại, nó không chỉ chuyển tải những nội dung thẩm mỹ, suy tưởng về

nghệ thuật, về cuộc sống mà còn thể hiện một cách sâu sắc về tầm văn hoá, độ thâm

thuý và sở học của các tác gia văn học.

2.1.3.2. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Việt, bình dân

trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Văn hoá không phải là quá trình biểu lộ sự hơn kém mà luôn thể hiện qua

những đặc trưng đa dạng, phong phú và khu biệt. Ở ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du

đã sử dụng một hệ thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa

những tính cách, tái tạo không gian hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Nhà thơ đã

phác thảo nên một không gian thẩm mỹ đặc thù khiến cho người đọc có thể mở ra

những trường liên tưởng, những chân trời nghệ thuật mới và có thể thẩm thấu tuỳ

vào kinh nghiệm sống, sở học của mình. Song đối với ngôn ngữ bình dân, cụ thể ở

đây là hệ thống từ láy, hư từ, từ cổ, từ địa phương tiếng Việt... đã được ông sử dụng

84

để góp phần miêu tả bức tranh đa diện của hiện thực, miêu tả nhân vật, ngôn ngữ

nhân vật (đặc biệt là những nhân vật phản diện), thể hiện tính triết mỹ, văn hoá của

nghệ thuật tác phẩm...

Với hệ thống từ ngữ bình dân, tác giả dường như lách nhẹ, đi sâu phân tích

từng đặc điểm nhỏ, từng chân tơ kẽ tóc của những phẩm cách, ngoại hình của các

nhân vật phản diện. Nếu từ ngữ bác học có đặc tính biểu tượng, khái quát, hàm súc

thì với ngôn ngữ bình dân, tính cụ thể, chi tiết, rõ ràng, nặng về miêu tả là những

đặc tính khá quan trọng. Vẻ tiêu biểu, phổ biến của một lối miêu tả “sát sàn sạt” của

giới bình dân, của lối nói khẩu ngữ đã được Nguyễn Du chuyển dẫn một cách khá

thành công. Qua các trích đoạn miêu tả về Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn tham quan ô

lại... trong tác phẩm đã chứng thực điều ấy. Sở dĩ Truyện Kiều được lưu truyền và

phổ biến rộng rãi trong dân gian là vì Tố Như Tử đã sử dụng tiếng Việt một cách

linh động, thần kỳ, nhuần nhuyễn, đa dạng, thích đáng và hợp lý. Trong quá trình

sáng tạo, tác giả Truyện Kiều đã tổng hợp, điều hoà những ảnh hưởng của hai

khuynh hướng cơ bản trong ngôn ngữ tác phẩm: Ngôn ngữ văn hoá bình dân và

ngôn ngữ văn hoá bác học.

Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi thống kê được 332 thành ngữ được

sử dụng nguyên mẫu và 113 thành ngữ tách xen và được vận dụng một cách sáng

tạo. Tuy nhiên, tác giả đã sử dụng chúng như những phương tiện để khái quát hình

tượng mà không mất đi vẻ bóng bẩy, chất tu từ của một câu thơ. Nếu ở văn học dân

gian, tác giả dân gian diễn đạt sự khó khăn, tốn công vô ích của sự việc nhất định

nào đó qua thành ngữ “đáy bể mò kim” thì ở Truyện Kiều, Nguyễn Du mượn thành

ngữ này thể hiện sự chung tình, sự khó khăn của hành trình tìm kiếm những ý nghĩa

đích thực của tình yêu. Ở đây ngoài ý nghĩa chân thực của thành ngữ, nhà thơ đã cải

biến, nâng cấp nó thành những thủ pháp nghệ thuật góp phần thể hiện một cách

chân thật tâm trạng của nhân vật:

“Bấy lâu đáy bể mò kim

Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa.”

(Câu 3175 - 3176)

85

Sự sáng tạo của Nguyễn Du được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng linh hoạt

các ngữ liệu sẵn có. Khả năng am hiểu về những đặc thù của tiếng nói dân tộc đã giúp

nhà thơ có được cách sử dụng linh hoạt, dưới ngòi bút của mình, ngôn ngữ dân tộc trở

nên trong sáng kỳ lạ và trở thành lớp từ đặc biệt mà chúng tôi tạm gọi đó là hệ thống

từ ngữ văn hoá bình dân. Ở Truyện Kiều, nhà thơ không chỉ dừng lại ở sự vận dụng

có tính sáng tạo và kế thừa kho tàng ngôn ngữ dân tộc mà ông còn đưa vào trong tác

phẩm những từ ngữ Hán Việt đã được Việt hoá, giúp chúng gia nhập vào kho từ vựng

tiếng Việt. Bằng chứng là có khá nhiều thành ngữ điển cố, tập cú Đường thi đã được

Nguyễn Du chuyển dịch chuẩn xác, không cầu kỳ khó hiểu, như các cụm “Thiên nhai

hải giác" đã được tác giả Việt hoá thành “góc bể chân trời” hay “Hồng diệp xích

thằng” thành “lá thắm chỉ hồng”, “Đông ôn hạ sảnh” thành “quạt nồng ấp lạnh”…

Từ những chất liệu thô sơ của ngôn ngữ đời thường, những từ ngữ cầu kỳ khó hiểu

đối với đại đa số quần chúng (từ ngữ Hán Việt) đã được Nguyễn Du chuyển dịch và

sử dụng thành thục như một công cụ đắc lực, góp phần miêu tả tâm trạng và khắc hoạ

những thành công, bi kịch hay những mâu thuẫn cơ bản của các tuyến nhân vật.

Những thành công của ngôn ngữ nghệ thuật trong Truyện Kiều đã đánh dấu

một bước phát triển mới về chất, có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập thơ ca dân

gian và ngôn ngữ quần chúng của nhà thơ. Nguyễn Du vận dụng khẩu ngữ, ngoa

ngữ, thành ngữ, trong đó thành ngữ được vận dụng nhiều nhất. Thi nhân sử dụng cả

thành ngữ thuần Việt lẫn thành ngữ Hán Việt. Về thành ngữ Hán Việt, Nguyễn Du

thường căn cứ vào đặc điểm về âm thanh và ngữ điệu của tiếng Việt để dịch những

thành ngữ Hán ra thành ngữ Việt. Cũng có không ít trường hợp, Nguyễn Du giữ

nguyên thành ngữ Hán Việt nhằm tạo màu sắc cổ kính, uy nghiêm như “Thanh thiên

bạch nhật” trong câu “Ba quân đông mặt pháp trường/ Thanh thiên bạch nhật rõ

ràng cho coi” (câu 2395 - 2396); “Bình địa ba đào” trong câu “Gặp cơn bình địa ba

đào/ Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em”(câu 3065 - 3066). Những thành tựu

này đã đưa Nguyễn Du lên địa vị bậc thầy sử dụng ngôn ngữ, đưa ngôn ngữ thi ca

cổ điển Việt Nam đến một trình độ phát triển mới, hoàn thiện hơn và có tính bứt phá

so với giai đoạn trước đó.

86

Khác với các tác gia cùng thời, Nguyễn Du đã đưa vào tác phẩm của mình

những lời nói khẩu ngữ, có quê mùa, thô kệch, qua bàn tay đẽo gọt của thi nhân lớp từ ấy

vẫn không mất đi cái vẻ đay nghiệt của cuộc đời. Ví dụ, lời Tú Bà đay nghiến Thuý Kiều:

“Con kia đã bán cho ta,

Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.”

(Câu 0971 - 0972)

Thông qua cách sử dụng ngôn ngữ hội thoại, mang tính “chợ búa”, tác giả đã

tạo dựng nên những hình tượng chân thực với những góc cạnh trái phải của cá tính

nhân vật. Vì thế, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều trở thành điển hình nghệ thuật

của văn chương cổ điển Việt Nam.

Xưa nay, khi nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều, người ta

thường hay chú ý trước hết đến những chỗ dùng từ đắt, từ tinh tế, cũng như nghệ

thuật sử dụng hư từ, lớp từ đồng nghĩa, từ có phong cách khẩu ngữ, từ đa phong

cách, từ ngữ mang phong vị ca dao, có nguồn gốc từ thành ngữ, tục ngữ… Đào

Nguyên Phổ trong lời tựa của Đoạn trường tân thanh (1898) đánh giá tác phẩm

này là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”, Mai Thọ Truyền trong Phật giáo Việt

Nam đã khẳng định Truyện Kiều là “một quyển Việt ngữ bách khoa hay như một

kinh văn tôn quý...” [166, tr.42]. Ca dao trong Truyện Kiều được nhà thơ sử dụng

như một chất liệu nghệ thuật, ông sắp đặt, cấu tạo sao cho phù hợp với văn cảnh

trong tác phẩm. Qua lời ca, tiếng ngâm ở hội hát phường vải và Truyện Kiều, ông

đã sắp đặt những lời ăn, tiếng nói của tầng lớp bình dân bên cạnh các điển cố bác

học một cách nhuần nhị, giản dị nhưng không hề lạc điệu. Trong Truyện Kiều,

không ít câu thơ, ý thơ, nhịp thơ đã ảnh hưởng trực tiếp từ ca dao của người như:

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.”

(Câu 1525 - 1526)

Là lấy ý từ câu ca dao:

“Tiễn đưa một chén rượu nồng

Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi.”

87

Hoặc ở câu thơ:

“Bốn bề bát ngát mênh mông,

Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.”

(Câu 2735 - 2736)

Lấy ý từ câu ca dao:

“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông.”

Hoặc ở câu thơ:

“Dưới trần mấy mặt làng chơi,

Chơi hoa, đã dễ mấy người biết hoa.”

(Câu 835 - 836)

Lấy ý từ câu ca dao:

“Trách người quân từ bạc tình,

Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.”

Ở một số trường hợp khác, sự vận dụng ca dào trong ngôn ngữ văn hoá bình

dân Truyện Kiều đã được tác giả thể hiện một cách sáng tạo. Đó không chỉ là sự mô

phỏng ý tứ, lấy ý mà còn là sự diễn đạt khéo léo, hợp tình hợp cảnh. Chẳng hạn ông

viết: “Đỉnh chung ai nỡ ăn ngồi cho an” (Câu 2937) đã thể hiện khá trọn vẹn ý

nghĩa của câu ca dao xưa: “Đói no có thiếp có chàng, Còn hơn chung đỉnh giàu

sang một mình”; hoặc ở ví dụ: “Nàng rằng khoảng vắng đêm trường, Vì hoa nên

phải đánh đường tìm hoa” (Câu 441 - 442) đã học tập một cách sáng tạo lối diễn đạt

của câu ca dao sau: “Vì thuyền, vì bến, vì sông, Vì hoa nên bận cánh ong đi về”.

Trong toàn bộ 3.254 câu thơ lục bát của tác phẩm, Nguyễn Du đã 83 lần dẫn dụng ý

tứ của ca dao vào câu thơ Truyện Kiều. Sự ảnh hưởng này đã góp phần đưa ngôn

ngữ bình dân trong thi phẩm này vươn đến một tầm vóc khái quát, có khả năng bao

quát, đúc kết những vấn đề trong từng trạng huống cụ thể, xác thực của cuộc sống.

Có lẽ vì thế, trong quá trình hành thế, một số câu thơ Kiều đã có thể tác ra và tham

gia vào ngôn ngữ dân gian, ca dao, dân ca, khẩu ngữ rất tự nhiên, tồn tại như những

phương ngôn, châm ngôn thế sự, răn đời trong đời sống nhân dân. Có thể nói,

88

Nguyễn Du có đóng góp to lớn, cụ thể đối với lịch sử phát triển ngôn ngữ dân tộc.

Truyện Kiều đã đem lại cho mọi người những nhận thức về khả năng phong phú của

tiếng việt, phương diện sử dụng ngôn ngữ bình dân trong sáng tác văn chương.

Lớp từ vựng khẩu ngữ của quần chúng đã đi vào thơ Nguyễn Du một cách

chan hoà, dung dị và nhẹ nhàng, giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, trước hết là sự

gia tăng liều lượng sử dụng và sau đó là ở thành tựu nghệ thuật, phát huy tối đa tính

năng thẩm mỹ của nó bên cạnh thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca. Trong Truyện

Kiều, Nguyễn Du đã mượn những lời nói có tính triết lý và mang phong cách văn

hoá của văn học dân gian. Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy những lời đối thoại cũng

như những lời chì chiết, đay nghiến của nhân vật hết sức sống động, gần gũi. Phong

cách ngôn ngữ Nguyễn Du trong Truyện Kiều là sự súc tích, tính chính xác, là sự

giàu hình ảnh, nhạc điệu. Nguyễn Du có thể dùng một từ hoặc một vài từ bộc lộ tất

cả thái độ của tác giả. Hoàng Hữu Yên [179] đã khái quát một cách chân thực về giá

trị thẩm mỹ của lớp từ này trong Truyện Kiều. Theo nhà nghiên cứu, khẩu ngữ quần

chúng là lời ăn tiếng nói có tính chất nôm na, mộc mạc mà dồi dào sức sống động,

đa dạng, muôn vẻ và không ngừng được tăng bổ qua các thế hệ. Nó bao gồm những

lời nói thường và tục, nó như tinh chất của hàng tấn quặng thô đã qua xử lý kỹ

thuật, nó bước vào ngôn ngữ văn học từ lăng kính và bàn tay thiên tài của nhà nghệ

sĩ. Cùng với các thành phần ngôn ngữ khác, qua góc nhìn thẩm mỹ và văn hoá của

Nguyễn Du, lớp từ vựng này cũng góp phần phục dựng những bức tranh xã hội hiện

thực và thế giới nhân vật đầy rẫy những phức tạp. Đơn cử từ “mụ” trong những câu sau:

“Lầu xanh có mụ tú bà…” (Câu 809)

“Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay…” (Câu 940)

Nếu ở hai câu trên tác giả thay từ mụ bằng bà thì nhân vật Tú bà ở địa vị

được đề cao và cấu trúc của câu thơ bị phá vỡ. Thay từ như thế trong câu sẽ bị trùng

lặp từ câu thơ trở lên nhàm chán và không có tính nhấn mạnh. Như vậy từ mụ tiếng

địa phương mà Nguyễn Du ở đây vừa có nét nghĩa trung hoà chỉ người phụ nữ ở độ

tuổi trung niên trở lên, lại vừa có nét nghĩa chỉ những người đàn bà bạc ác hoặc

thiếu nhân cách với ý nghĩa xem thường. Hoàng Hữu Yên đã có lý khi xác nhận:

89

Đọc Truyện Kiều ai mà nén nổi xúc động trước mọi chặng đường khổ

ải của nạn nhân Thuý Kiều…, ai mà không thấy hiện lên trước mắt là cái

“lờn lợt màu da”, với những lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà

không ghê rợn về sự tính toán bỉ ổi của tên ma cô họ Mã! Cũng chẳng ai

quên được cái “lẻn”, cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên lừa đảo

đốn mạt Sở Khanh…” [173, tr.47].

Điểm lại các đoạn thơ sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ quần chúng,

chúng tôi nhận thấy lớp từ ấy đã tạo bức tranh chạm nổi tiêu biểu cho ngôn ngữ

nhân vật Truyện Kiều. Chẳng hạn, hai từ “này này” trong lời nói của Tú Bà đã

chứng thực rằng, nhưng từ ấy không còn là những từ mở đầu cho những câu mệnh

lệnh hay đe doạ mà nó đã trở thành những từ đay nghiến, kết tội thoát ra từ sự sụp

đổ của mọi dự tính mà Tú Bà đã sắp xếp cho Kiều nhi:

“Này này sự đã quả nhiên,

Thôi đà cướp sống chông min đi rồi!”

(Câu 0963 - 0964)

Tiếp đến là những lời mắng nhiếc, chửi rủa, thô bỉ và in đậm dấu ấn của

những biệt ngữ nghề nghiệp: đi dạo lấy người, rước khách kiếm lời, vốn liếng đi đời

nhà ma… quả là không còn lời lẽ nào thích hợp hơn cho những kẻ chuyên làm nghề

buôn hương bán phấn, đầu trộm đuôi cướp.

Về hư từ (lớp từ chỉ có ý nghĩa ngữ pháp mà không có ý nghĩa từ vựng)

trong Truyện Kiều, Phạm Đan Quế trong công trình Thế giới nghệ thuật Truyện

Kiều đã đưa ra con số thống kê là 105 từ [122, tr.181]. Dựa trên sự thống kê cụ thể

đó, chúng tôi khảo sát và ghi nhận được số lượt xuất hiện của 105 hư từ trong 3254

câu thơ Kiều là 1.736 lần. Khi khảo sát hệ thống ngôn ngữ bình dân, chúng tôi cũng

nhận thấy có một số lượng lớn hư từ được tác giả dẫn dụng. Vấn đề được đặt ra ở

đây là, nghệ thuật vận dụng khá linh hoạt, hợp lý của tác giả đã biến các hư từ, các

quan hệ từ trong ngôn ngữ lời nói thành các từ có chức năng nghệ thuật thực sự

trong ngôn ngữ văn hoá bình dân Truyện Kiều. Các hư từ như thì, rằng, mà, là…

ngay trong lời nói khẩu ngữ nếu không được sử dụng hợp lý cũng tạo nên sự rườm

90

rà không đáng có, không thông thoát, không diễn đạt được sự liên tiến, chuyển tiếp,

kế thừa các ý tưởng của phát ngôn. Song trong các đoạn hội thoại của các nhân vật

trong Truyện Kiều, hệ thống từ này đã được chuyển dẫn một cách khá tự nhiên, hợp

lý thể hiện được mạch tư duy logic của lời nói và nội dung phát ngôn.

Trong số 105 hư từ đã được Phạm Đan Quế khảo sát và kiểm chứng của

chúng tôi, hư từ “đã” xuất hiện 136 lần, “cũng” xuất hiện 69 lần, “mà” xuất hiện 27

lần, “bấy chầy” được lặp đi lặp lại 12 lần, “những là” lặp lại 06 lần… và ít nhất là

những hư từ “chi đây”, “nữa đâu”… chỉ xuất hiện 01 lần. Với 1.736 lượt xuất hiện

như vây, hệ thống này không chỉ thể hiện sự linh hoạt trong việc thể hiện cách sử

dụng hư từ mà còn góp phần làm đa dạng hoá các lớp từ trong ngôn ngữ nghệ thuật

tác phẩm, thể hiện tính chất dân dã, khẩu ngữ - một yếu tố khiến cho tác phẩm này

rất gần gũi với đai đa số người lao động. Ví dụ, hư từ “thì cũng” biểu thị ý phủ định

đối với điều sắp nêu ra ở người đối thoại, dưới hình thức gần như thừa nhận một

điều gì đó và đem điều ấy so sánh với điều ngược lại nhằm biểu bộ sự không đồng

tình. Đó là khi Kiều bị Sở Khanh vu vạ và nàng đã thốt lên:

“Nàng rằng: Thôi thế thì thôi,

Rằng không, thì cũng vâng lời rằng không.”

(Câu 1175 - 1176)

Hư từ này đã được Nguyễn Du vận dụng trong lời van xin của Hoạn Thư:

“Rằng tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”

(Câu 2365 - 2366)

Và trong lời kể tội của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã hai lần dùng từ này trong

một cặp lục bát để biểu lộ vẻ đắn đo suy tính trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng:

“Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.”

(Câu 2375 - 2376)

Nguyễn Du không chỉ là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ mà còn là một nhà

văn hoá lớn với những phương thức ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ

dân tộc và hiệu quả của nó. Đồng thời, trong quá trình tạo tác, cái khéo léo của

nhà văn là đã chuyển hoá một cách linh hoạt vốn quý bình dân ấy, đưa lời ăn

91

tiếng nói của nhân dân vào hàng ngũ những từ ngữ đẹp và đắc dụng nhất. Bao lời

ăn tiếng nói của quần chúng đã được Nguyễn Du sử dụng rất nghệ thuật, đều có

vị trí xứng đáng trong ngôn ngữ Truyện Kiều và đều phát huy tác dụng thẩm mỹ

của nó. Qua hệ thống ngôn từ của mình, Nguyễn Du đã tạo nên những câu thơ

chân thực khắc hoạ sống động hiện thực tâm trạng và hiện thực khác quan của xã

hội. Đây có lẽ là những truyền thống văn hoá mà nhà thơ đã kế thừa được từ thơ

Nôm Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và các nghệ nhân dân gian Việt Nam.

2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ

thuật Truyện Kiều

2.2.1. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học

Cho đến nay, theo sự khảo sát của chúng tôi, vấn đề phân loại hệ thống ngữ

liệu trong Truyện Kiều và một số truyện Nôm khác đã được khá nhiều nhà nghiên

cứu khoa học Ngữ văn cổ điển quan tâm, lưu ý đến. Từ góc độ lịch sử tiếng Việt,

chúng tôi nhận thấy việc xây dựng tiêu chí phân loại từ hình thức ngữ âm của ngữ

liệu là một trong những phương cách có thể khái quát được quá trình dịch chuyển từ

các ngữ liệu Hán Việt, có nguồn gốc từ ngôn ngữ văn học cổ điển Trung Hoa sang

các ngữ liệu thuần Việt hoặc ngữ liệu bán Hán Việt (chỉ những ngữ liệu có một

thành tố là Hán Việt, một thành tố là thuần Việt). Với tiêu chí này, chúng ta có thể

tìm hiểu được sự chuyển hoá, vận động ngôn ngữ văn học dân tộc từ việc tiếp nhận,

ảnh hưởng đến Việt hoá, sáng tạo.

Những tác phẩm được sử dụng để thống kê, so sánh trong mục này thuộc hai

nhóm truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Hệ thống từ ngữ được thống kê

trong bảng thống kê dưới đây đã phản ánh một cách khách quan về tình hình sử

dụng điển cố, thi liệu, nhân danh, địa danh và hệ thống từ ngữ văn hoá xã hội trong

Ngôn ngữ nghệ thuật của một thể loại nội sinh của văn học dân tộc. Việc sử dụng hệ

thống từ ngữ này là một trong những thủ pháp văn chương nhằm đảm bảo tính quy

phạm, tính cao nhã theo đặc trưng thi pháp văn học cổ điển. Sự gia giảm về ý nghĩa

văn hoá, số lượng của các ngữ liệu âm Hán Việt, âm bán Hán Việt, thuần Việt

không chỉ tuỳ thuộc vào hệ thống đề tài, chủ đề hay nội dung tác phẩm mà nó còn

có mối quan hệ mật thiết với quá trình chống Hán hoá, dân tộc hoá, tiếp thu, kế thừa

92

văn hoá dân tộc. Đó là những cách tân, sáng tạo của tác giả đối với vốn từ ngữ có

nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa và sự linh hoạt của nó trong ngôn ngữ văn học cổ

điển Việt Nam.

Để có được một cái nhìn toàn diện, khoa học về vấn đề sử dụng từ ngữ trong

truyện Nôm, theo kết quả khảo sát của Đoàn Ánh Loan [87], Nguyễn Thuý Hồng

[75], Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần [160] và kết quả thống kê của

chúng tôi, sơ bộ có thể nhận diện và phân loại các dạng thức của ngữ liệu trong

ngôn ngữ của một số truyện Nôm từ góc độ hình thức âm đọc của ngữ liệu như sau:

Bảng 2.1. Ngữ liệu văn hóa bác học trong một số truyện Nôm

Số câu Ngữ liệu âm Ngữ liệu âm Ngữ liệu âm Tác phẩm thơ Hán Việt bán Việt hoá thuần Việt

Hoa tiên 1766 37 (19,7%) 83 (44,3%) 67 (35,8%)

Bích Câu kỳ ngộ 23 (24,2%) 38 (39,1%) 33 (34%) 608

Nhị độ mai 33 (36,6%) 42 (46,6%) 15 (16,6%) 2826

Sơ kính tân trang 63 (45%) 42 (30%) 23 (16,4%) 1484

Phan Trần 34 (49,2%) 27 (39%) 08 (11,5%) 940

Quan âm thị Kính 38 (36,8%) 49 (47,5%) 14 (14,2%) 788

Thạch Sanh 11 (57,8%) 07 (36,8%) 01 (5,2%) 347

Qua khảo sát, tìm hiểu và phân tích bước đầu, chúng tôi nhận thấy, ngữ liệu

âm bán Hán Việt (hay còn gọi là âm bán Việt hoá, là những ngữ liệu được cấu tạo

từ hai thành tố, trong đó có một thành tố là Hán Việt, một thành tố là Việt, đây là

một minh chứng cho quá trình dịch chuyển từ Hán Việt sang thuần Việt) được các

tác giả sử dụng tương đối phổ biến, chẳng hạn ở Quan Âm Thị Kính là 49 ngữ liệu

trên tổng số 788 câu thơ, Hoa Tiên là 83 ngữ liệu trên tổng số 1766 câu thơ hay Sơ

kính tân trang là 42 ngữ liệu trên tổng số 1484 câu thơ. Điều đó cho thấy sự chuyển

dịch từ âm Hán Việt sang âm thuần Việt cần phải có một bước chuyển trung gian là

âm bán Hán Việt.

Bên cạnh đó, sự phân bố không đồng đều giữa các thành phần ngữ liệu trong

các truyện Nôm đã thể hiện quá trình dân tộc hoá các điển cố, thi liệu, thuật ngữ văn

93

hoá Trung Hoa, phản ánh một cách trung thực quan điểm tập cổ nhưng vẫn đảm bảo

được tính thẩm mỹ và nghệ thuật trong bối cảnh giao lưu đặc thù của văn hoá, văn học

và ngôn ngữ Việt Nam, Trung Hoa.

Khảo sát trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, từ quan điểm và nội hàm

khái niệm ngữ liệu văn hoá đã được thống nhất, trong tổng số 972 từ ngữ Hán Việt

thống kê được [65, tr.230], chúng tôi đã thống kê được 626 ngữ liệu văn hoá

nguyên dạng chiếm khoảng 67,3% từ ngữ Hán Việt xuất hiện trong Truyện Kiều và

169 ngữ liệu chuyển dịch, mô phỏng, chiếm tỷ lệ 39,5 % so với số lượng 440 từ ngữ

Việt được chuyển dẫn từ văn hoá bình dân và bác học mà tác giả Nguyễn Thuý

Hồng đã khảo sát. Sự khác biệt này là do quan niệm về từ ngữ Hán Việt.

Theo chúng tôi, từ góc độ hình thức âm đọc của ngữ liệu, những từ ngữ có

nguồn gốc trong ngôn ngữ văn chương cổ điển Trung Hoa, được đọc theo âm Hán

Việt và không thay đổi ngữ nghĩa so với từ gốc, được gọi là ngữ liệu Hán Việt. Các

trường hợp khác còn lại, chúng tôi tạm gọi đó là ngữ liệu có yếu tố Hán Việt.

Về ngữ liệu văn hoá bác học, kế thừa quan điểm nghiên cứu của một số tác

giả đi trước, chúng tôi tiến hành các bước thẩm định, phân loại thành hai thành phần

cơ bản: Ngữ liệu nguyên dạng (hay nguyên dạng Hán Việt, là những từ ngữ có

nguồn gốc từ ngôn ngữ văn học Trung Hoa và được thể hiện qua hình thức là từ

Hán Việt) và ngữ liệu chuyển dịch (hay còn gọi là ngữ liệu chuyển dịch bán Hán

Việt, thuần Việt, là những từ ngữ có nguồn gốc từ văn học cổ điển Trung Hoa, được

dịch sang tiếng Việt và thể hiện qua hình thức là những từ có yếu tố Hán Việt và

thuần Việt).

Việc phân chia ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

thành hai hệ thống bác học, bình dân là kết quả của một quá trình khảo sát văn bản

dựa vào tiêu chí kết hợp giữa nguồn gốc, xuất xứ và các dạng thức thể hiện, âm đọc

của từ ngữ. Tiêu chí phân loại được chúng tôi sử dụng trong quá trình tìm hiểu hệ

thống ngữ liệu văn hoá này là một trong những hệ quy chiếu được nhiều nhà nghiên

cứu Kiều học quan tâm. Để thấy được tiến trình phát triển và sử dụng ngôn ngữ dân

tộc, quá trình Việt hoá của các ngữ liệu văn hoá trong truyện thơ Nôm, ngoài Truyện

94

Kiều, chúng tôi chọn Hoa Tiên và Lục Vân Tiên. Đây là hai tác phẩm đại diện cho hai

giai đoạn trước và sau Truyện Kiều. Kết quả thu hoạch được như sau:

Bảng 2.2. Ngữ liệu văn hoá trong Hoa Tiên, Truyện Kiều và Lục Vân Tiên

Ngữ liệu văn hóa Số Tác phẩm Nguyên dạng Chuyển dịch lượng Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

Hoa Tiên 392 288 71,4% 103 28,6%

Truyện Kiều 795 626 87,2% 169 22,8%

Lục Vân Tiên 691 212 30,01% 479 69,99%

Căn cứ vào kết quả thống kê ta thấy, nếu ở giai đoạn 1 (tạm gọi là giai đoạn sơ

khởi), số lượng từ ngữ văn hoá nguyên dạng được sử dụng khá phổ biến (288 ngữ

liệu, chiếm tỷ lệ 71,4 %) thì ở Truyện Kiều (tạm gọi là giai đoạn cao trào) với số

lượng ngữ liệu nguyên dạng và chuyển dịch đều chiếm một tỷ lệ lớn (626 ngữ liệu

nguyên dạng, chiếm 87,2 %; 169 ngữ liệu chuyển dịch, chiếm 22,8 %) và đến Lục

Vân Tiên, hệ thống ngữ liệu này có chiều hướng giảm dần. Đó là sự thể hiện một cách

khách quan nhất của quá trình dân tộc hoá ngôn ngữ văn chương. Do đó, ngữ liệu văn

hoá bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều không chỉ được thừa nhận là đỉnh cao của

ngôn ngữ dân tộc mà nó còn là đại diện tiêu biểu cho quá trình chuyển đổi từ ngữ liệu

nguyên dạng sang ngữ liệu chuyển dịch. Có thể nói, qua số liệu thống kê, chúng ta có

thể nhận thấy một đặc điểm khá quan trọng trong hành trình dân tộc hoá ngôn ngữ văn

học dân tộc, hệ thống ngữ liệu chuyển dịch dần được thay thế cho hệ thống ngữ liệu

nguyên dạng ở giai đoạn tiếp nhận ban đầu.

Từ Hoa Tiên, qua Truyện Kiều đến Lục Vân Tiên, vốn từ vựng văn hoá trong

kho tàng ngôn ngữ văn chương Việt Nam dần trở nên phong phú, tuy chưa thoát khỏi

“bóng cả” của văn hoá cổ Trung Hoa nhưng ngôn ngữ trong những truyện Nôm bác

học càng về sau càng có ý thức dân tộc hơn trong vấn đề biểu đạt những tâm tư, tình

cảm của người Việt.

Về ngữ liệu chuyển dịch, từ 103 ngữ liệu trong Hoa Tiên đến 479 ngữ liệu trong

Lục Vân Tiên là một bước tiến của ngôn ngữ văn học dân tộc. Sự tăng trưởng về số

95

lượng ấy đã minh chứng cho quá trình Việt hoá những từ ngữ gốc Hán trong ngôn ngữ

nghệ thuật truyện Nôm bác học nói chung và Truyện Kiều nói riêng.

Trong quá trình khảo sát, thông qua các tiêu chí phân loại, khảo sát và chú giải

ngữ liệu trong ngôn ngữ Truyện Nôm, nhận thấy cần phải xây dựng những cứ liệu cụ

thể chứng minh cho sự tồn tại khách quan của các ngữ liệu văn hóa, chúng tôi đã tiến

hành phân loại, cụ thể như sau:

Bảng 2.3. Ngữ liệu văn hóa bác học trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Nguồn gốc, xuất xứ Thành phần Số lượng Thi liệu, Nhân danh, Từ ngữ văn ngữ liệu Kinh sử văn liệu địa danh hóa, xã hội...

Nguyên dạng 626 145 28 69 384

Chuyển dịch 169 61 40 8 60

Từ bảng thống kê trên, chúng ta có thể nhận thấy, dù ở dạng thức nào, ngữ

liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đều phong phú, đa dạng.

Trong hệ thống này, các từ ngữ thuộc về lĩnh vực văn hoá, tôn giáo, chính trị, quân

sự... đặc trưng của xã hội phong kiến chiếm một tỷ lệ tương đối lớn (384 ngữ liệu

nguyên dạng Hán Việt; 60 ngữ liệu chuyển dịch, bao gồm bán Hán Việt, thuần

Việt). Trong khi đó, các ngữ liệu có nguồn gốc từ kinh truyện (145 nguyên dạng, 61

chuyển dịch), điển cố, thi liệu, nhân danh, địa danh cũng chiếm một số lượng tương

đối (69 nguyên dạng, 08 chuyển dịch).

Sự có mặt của hệ thống ngữ liệu này đã góp phần khẳng định những yếu

tố văn hóa bác học đã ảnh hưởng một cách sâu sắc trong Ngôn ngữ nghệ thuật

tác phẩm. Tuy sự phân chia nguồn gốc theo các thành phần đã nêu tuy chỉ là một

sự quy ước tương đối, nhưng nó cũng có thể đảm bảo cho việc nhận thức ngữ

liệu được dẫn dụng thêm rõ ràng, phản ánh trình độ Hán học uyên bác và kế

thừa, học tập cổ nhân của Nguyễn Du trong quá trình sáng tạo trong tác phẩm.

Nó góp phần làm đa dạng hoá thành phần kiến tạo vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ

thuật Truyện Kiều.

96

2.2.2. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân

Là một tín hiệu ngôn ngữ mang tính thẩm mỹ cao, trong ngôn ngữ bình dân

Hoa Tiên, Truyện Kiều và Lục Vân Tiên, hệ thống thành ngữ, ca dao, hư từ, khẩu

ngữ, từ địa phương, từ cổ… là những thành phần tương đối linh hoạt và có tính sáng

tạo. Có thể nói, so với lớp ngữ liệu bác học, những đơn vị này có chức năng như

hoạt động như một từ cụ thể, được sử dụng trong đời sống và đi vào văn chương tạo

nên một lớp từ có sắc thái biểu cảm cao, góp phần diễn đạt thành công những cung

bậc tình cảm hay suy nghĩ, đắn đo của từng nhân vật, mô tả những không gian, tâm

cảnh khác nhau. Đặc biệt, với hệ thống này, ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn

học Nôm đã góp phần thể hiện dấu ấn văn hoá bình dân của dân tộc Việt Nam.

Theo kết quả khảo sát, số lượng cũng như thành phần nguồn gốc, xuất xứ của

hệ thống ngữ liệu trong các truyện Nôm là tương đối phong phú, đa dạng. Tuy

nhiên, theo khảo sát của chúng tôi trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm Hoa Tiên

của Nguyễn Huy Tự và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, kết quả như sau:

Bảng 2.4. Ngữ liệu văn hoá bình dân trong Hoa Tiên, Truyện Kiều và

Lục Vân Tiên

Nguồn gốc thành phần ngữ liệu

Tác phẩm Số lượng Ca Thành Từ địa phương, Khẩu Hư

dao ngữ từ cổ ngữ từ

Hoa Tiên 509 51 215 48 127 68

Truyện Kiều 1102 83 445 139 331 105

Lục Vân Tiên 614 48 244 75 126 121

Qua bảng thông kê trên, chúng ta có thể nhận thấy, số lượng ngữ liệu văn

hoá chịu ảnh hưởng của văn hoá bình dân không đồng đều trong ba tác phẩm được

khảo sát. Với 509 ngữ liệu thu thập được, số lượng từ ngữ chịu ảnh hưởng hoặc

mang phong cách của ca dao (51 ngữ liệu), thành ngữ (215 ngữ liệu), từ địa

phương, từ cổ (48 ngữ liệu) và ngữ liệu có phong cách khẩu ngữ (127) và 68 hư từ

đã tham gia vào việc xây dựng nên những nét đặc sắc của Ngôn ngữ nghệ thuật

truyện Hoa Tiên - một tác phẩm có sức ảnh hưởng khá lớn đến Truyện Kiều của

97

Nguyễn Du. Ở tác phẩm này, số lượng ngữ liệu văn hoá bình dân tuy chưa thật

phong phú nhưng hệ thống này đã đặt tiền đề quan trọng cho quá trình phát triển

ngôn ngữ bình dân trong Truyện Kiều.

Khi khảo sát truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, chúng tôi nhận

thấy, số lượng từ ngữ có sắc thái bình dân trong tác phẩm này cũng khá phong phú,

đặc biệt, các ngữ liệu chịu ảnh hưởng của văn hoá Nam bộ, cụ thể ảnh hưởng văn

hoá giao tiếp, khẩu ngữ là 75 ngữ liệu, ảnh hưởng của ca dao dân gian Nam bộ là 48

ngữ liệu. Số ngữ liệu này có ý nghĩa lớn và có tần số xuất hiện cao trong toàn bộ tác

phẩm. Nó góp phần thể hiện bản sắc văn hoá Nam bộ và cá tính bộc trực của một

nhà nho ưu thời mẫn thế. Đồng thời, hệ thống ngữ liệu đó cũng góp phần thể hiện

những yếu tố tự thuật – một đặc tính khu biệt của truyện Nôm Lục Vân Tiên so với

Hoa Tiên và Truyện Kiều.

Riêng Truyện Kiều, trong tổng số 1.102 ngữ liệu được khảo sát, số lượng 445

thành ngữ được sử dụng là một con số khá lớn. Tât nhiên trong số này, 332 thành

ngữ được sử dụng nguyên dạng và 113 thành ngữ được tác giả sáng tạo, tái tạo, vận

dụng tách xen, lắp ghép như một phương tiện tu từ mà không mất đi vẻ cân đối,

bóng bẩy của câu thơ. Chẳng hạn thành ngữ “gió táp mưa sa” được Nguyễn Du

dùng trong câu 403 và 3.099 đều không hề có ý trùng lặp:

“Tay tiên gió táp mưa sa,

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.”

(Câu 403 - 404)

Ở câu thơ này, câu thành ngữ được sử dụng trong lời khen của Kim Trọng,

dụng ý của Nguyễn Du khen tài thơ, bút lực và khả năng ứng đối nhanh của Thuý

Kiều, hai ông Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim đã dẫn câu thơ cổ Phong vũ thôi thi tứ

風雨推詩思 (Cái thi tứ xuất hiện nhanh như thể là có gió mưa đun đẩy) để nói về ý

nghĩa của thành ngữ đã nêu. Tuy nhiên đến câu:

“Bấy chầy gió táp mưa sa,

Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.”

(Câu 3099 - 3100)

98

Qua tìm hiểu, tiếp cận từ góc độ xuất xứ, ở thành ngữ “gió táp mưa sa” là

một sự chuyển dịch rất thành công và rút gọn Phong vũ thôi thi tứ. Theo sách Cổ

đại thi tứ cố sự 古代詩思故事, Lý Thương Ẩn 李商隱 (Đường 唐), Viên Mai 袁枚

(Thanh 清) và một số nhà thơ khác đã sử dụng mỹ từ phong vũ này để diễn đạt

những khái quát về cuộc đời cũng như quá trình xây dựng tứ thơ trong sáng tác

những bài thơ viết về hiện thực xã hội. Ở câu thơ 3099 - 3100 này, nhà thơ vận

dụng thành ngữ đã nêu trong ngôn ngữ của Kiều nhằm dụng ý miêu tả cuộc đời đau

khổ của nàng, dụng ý khái quát về cuộc đời phong trần “ong qua bướm lại đã thừa

xấu xa” mà Kiều đã nếm trải. Có thể nói, ở nhiều trường hợp khác, tài nghệ khéo

léo vận dụng linh hoạt thành ngữ của Nguyễn Du đã được thể hiện một cách thuần

thục. Điều đó chứng tỏ nhà thơ không chỉ nắm rõ ý nghĩa gốc của thành ngữ mà còn

có khả năng gia tăng những nét nghĩa mới, góp phần làm cho ngữ cảnh được miêu

tả thêm phần hấp dẫn. Về hệ thống thành ngữ tách xen, vận dụng sáng tạo, Nguyễn

Du không chỉ sáng tạo ra những thành ngữ mới, lần đầu tiên xuât hiện trong ngôn

ngữ văn chương cổ điển Việt Nam. Ví dụ như ở câu thơ sau:

“Não người cữ gió, tuần mưa,

Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.”

(Câu 567 - 568)

Thành ngữ “cữ gió tuần mưa” được Nguyễn Du sáng tạo và sử dụng trong

ngữ cảnh này nhằm làm tăng thêm dáng vẻ tình cảm, nỗi tương tư của Kim và Kiều

sau những lần hạnh ngộ. Sau Nguyễn Du, có lẽ chưa có một thi nhân nào sử dụng

những hình ảnh này để bộc lộ nỗi đau chia cách của những tài tử giai nhân vừa gặp

gỡ đã chia phôi. Trong một trường hợp khác, nhà thơ chỉ sử dụng một phần của

thành ngữ, hoặc tách rời các thành tố của thành ngữ nhằm diễn đạt những nghĩ suy

của nhân vật:

“Vả đây đường sá xa xôi,

Mà ta bất động, nữa người sinh nghi.”

(Câu 844 – 845)

99

Hai từ “bất động” trong thơ trên, nhà thơ đã mượn ý của câu thành ngữ “Án

binh bất động”. Nhà thơ chỉ lấy ý, dẫn từ mà không dùng trọn vẹn thành ngữ trong

suy tính của Mã Giám Sinh, để đặc tả tính cách bất lương, háo sắc, đểu giả của gã họ

Mã này. Trong quá trình sử dụng thành ngữ trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã rất chú

ý đến nguồn gốc xuất xứ của nó. Trong tổng số 445 thành ngữ được khảo sát, chúng tôi

nhận thấy có 170 ngữ cố định là những thành ngữ thường được sử dụng trong văn học

dân gian, 162 cụm từ có hình thức là thành ngữ những nội dung ý nghĩa là của văn học

từ chương như: trong nguyệt trên mây, nghiêng nước nghiêng thành, cây quỳnh cành

dao, trên Bộc trong dâu, nhả ngọc phun châu… và 113 thành ngữ được nhà thơ vận

dụng sáng tạo, có khi ông tạo ra những thành ngữ mới trên nền tảng của thành ngữ

nguyên mẫu, có khi chỉ dẫn ý, hoặc sử dụng một phần. Chẳng hạn như câu: “Tình sâu

mong trả nghĩa dày” vốn là lấy từ thành ngữ gốc là tình sâu nghĩa nặng, song có lẽ do

áp lực về gieo vần của câu thơ lục bát nên ông đã thay đổi từ nghĩa nặng thành nghĩa

dày cho hợp với vần “ay” ở chữ thứ 8 của câu bát trên và chữ thứ 6 của câu bát dưới.

Hoặc nhà thơ không viết các thành ngữ theo kiểu phổ thông như: Đau như dần, rối như

tơ vò, xấu chàng hổ thiếp…, ông chuyển thành câu thơ 8 âm tiết như sau:

“Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau.” (Câu 1252)

“Xấu chàng mà ai có khen chi mình.” (Câu 1610)

Ông cũng không viết trọn vẹn câu thành ngữ Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm, ông

đã diễn đạt thành một cặp lục bát đầy triết lý:

“Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm giết người không dao.”

(Câu 1815 - 1816)

Có lúc nhà thơ không dùng nguyên vẹn câu thành ngữ Hán Việt như Thủ khẩu

như bình hoặc thành ngữ thuần Việt Ai khảo mà xưng, ông đã linh hoạt hoá thành một

câu lục bát diễn tả những toan tính của Thúc Sinh khi về nhà:

“Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình,

Nào ai có khảo mà mình lại xưng?”

(Câu 1577 - 1578)

100

Ở một số trường hợp khác, khi cần nhấn mạnh nội dung ý nghĩa của thành ngữ,

Nguyễn Du đã tận dụng một cách hợp lý kết cấu tiểu đối của thành ngữ, tạo nên những

thành ngữ tách xen và thêm vào đó một số từ nhấn mạnh, ví dụ như ông không dùng

hẳn thành ngữ Trong ấm ngoài êm, tình sâu nghĩa dày, hoa kia cành này mà viết:

“Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.” (Câu 1506)

“Tình sâu mong trả nghĩa dày,

Hoa kia đã chắp cành này cho chưa.”

(Câu 1263 - 1264)

Bên cạnh đó, khác với một số nhà thơ đương thời, Nguyễn Du đã đưa vào

tác phẩm của mình những từ ngữ có tính chất phong cách khẩu ngữ đậm nét. Với

331 ngữ liệu văn hoá bình dân được dẫn dụng, nhà thơ đã rất táo bạo, chấp nhận đổi

mới phong vị ngôn ngữ của thơ ca đương thời. Ông thổi vào những câu thơ lục bát

đầy tính chất tự sự của mình bằng những giai điệu rất trữ tình, ngọt ngào của ca dao,

dân ca Việt Nam (83 ngữ liệu). Bên cạnh đó dường như trong vốn ngôn ngữ của

mình, ông đã không cố tình thoát ly khỏi những ảnh hưởng của phương ngữ xứ

Nghệ, của từ ngữ cổ xưa vẫn còn lưu dấu trong ngôn ngữ thường nhật, thôn quê,

ông đã sử dụng 139 ngữ liệu có nguồn gốc từ phương ngữ xứ Nghệ và hệ thống từ

cổ trong thi phẩm của mình. Sự phong phú của hệ thống từ cổ và từ địa phương

trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã không làm giảm đi giá trị phong cách, chiều sâu

nhân văn của một nhà văn hoá lớn - Nguyễn Du. Ngoài ra, đối chiếu với số liệu

thống kê của Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Khắc Thuần trong Từ điển Truyện

Lục Vân Tiên [160], so với Lục Vân Tiên, số lượng 434 thuần Việt đã được sử dụng

trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, trong đó chúng tôi nhận thấy, 351 từ láy

thuần Việt đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên những giá trị phong cách đặc

biệt qua nghệ thuật miêu tả, khắc hoạ và tạo dựng những khung cảnh, không gian

đặc sắc được thể hiện trong tác phẩm.

Trong ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm, dường như mỗi khẩu ngữ thường

chỉ được Nguyễn Du đưa vào tác phẩm một vài lần, trong đối thoại của một nhân

vật nhất định nào đấy. Có lẽ với ông, mỗi khẩu ngữ khi xuất hiện đều có những lý

do nghệ thuật của nó. Nguyễn Thuý Hồng cho rằng: “Thường trong Truyện Kiều,

101

các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ được Nguyễn Du đặt nhiều trong ngôn ngữ

nhân vật ở các hoàn cảnh có kịch tính của các nhân vật” [65, tr.35]. Qua khảo sát

cụ thể, chúng tôi nhận thấy, qua tác phẩm, nhà thơ đã để lại những câu thơ sắc sảo

mà cách dùng từ đặt câu mang hơi hướng của câu thơ hiện đại. Ví dụ như những

câu kết luận bản án cuối cùng Kiều đã phán quyết cho Sở Khanh trong một nghịch

cảnh mà Kiều là nạn nhân, Sở Khanh đã rủ nàng bỏ trốn rồi lại bỏ rơi nàng khiến

cho Kiều phải rơi vào một trạng huống mà không bao giờ nàng nghĩ đến, một tình

thế đầy bi kịch, xót xa.

“Nàng rằng: Trời nhé có hay,

Quyến anh rủ yến sự này tại ai?

Đem người giẩy xuống giếng khơi,

Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!

Còn tiên “tích việt” ở tay,

Rõ ràng mặt ấy, mày này chứ ai?”

(Câu 1179 - 1184)

Dường như nỗi căm phẫn và uất giận đã lên đến tột độ, Thuý Kiều cũng

buông những lời mà sự ghê gớm, quyết liệt của nó cũng chẳng hề kém cạnh bất kỳ

một nhân vật nào trong tác phẩm. Hay lời tâm sự của Thuý Kiều với Thuý Vân

trong màn trao duyên và thở than về hoàn cảnh trớ trêu của mình, Kiều cũng rào

trước đón sau một cách khéo léo và hợp tình lý:

“Rằng: Lòng rỗn rã thức đầy,

Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.

Hở môi ra cũng thẹn thùng,

Để lòng, thì phụ tấm lòng với ai!”

(Câu 719 - 722)

Nếu phân chia nhân vật Truyện Kiều thành hai tuyến theo sắc thái nghệ

thuật: ước lệ và hiện thực, chúng ta có thể nhận thấy các nhân vật có tính ước lệ có

số lượt sử dụng những từ ngữ có phong cách khẩu ngữ trong các đoạn đối thoại, hội

thoại ít hơn các nhân vật hiện thực. Chẳng hạn, Thuý Kiều đã sử dụng 114 từ khẩu

ngữ trong tổng số 85 lượt thoại, Tú Bà sử dụng 20 từ khẩu ngữ trong 06 lượt

102

thoại… nhưng Kim Trọng thì chỉ sử dụng 19 từ khẩu ngữ trong 19 lần lượt thoại,

Từ Hải cũng chỉ sử dụng 08 từ trong tổng số 08 lần đối thoại. Với một thế giới nhân

vật phong phú, đa dạng như vậy, việc sử dụng từ ngữ có phong cách khẩu ngữ có

vai trò to lớn đối với việc cá thể hoá các nhân vật. Có lẽ, với Nguyễn Du nguyên

tắc, nhân vật nào ngôn ngữ ấy đã được ông vận dụng triệt để và hữu lý. Thuý Kiều,

một nhân vật giàu trả nghiệm nên không lạ gì khi nàng dùng khá nhiều khẩu ngữ

như: dầu vậy cũng dầu…, thôi còn chi nữa…, thôi thế thì thôi…, đã đành…, thôi thế

là xong…, đành vậy cũng vầy… Tuy cùng là từ ngữ khẩu ngữ nhưng lớp từ này

hoàn toàn khác với những từ ngữ vô học mà Tú Bà luôn đặt ở cửa mồm của mình:

con kia, lão này, chẳng văng vào mặt, đi đời nhà ma… Có thể nói, ở những trường

hợp cụ thể này, ngôn từ của Nguyễn Du đã vươn tới một trình độ mới so với ngôn

ngữ văn học thời bấy giờ. Nghệ thuật vận dụng lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ

của Nguyễn Du đúng lúc, đúng nơi, hợp tình, hợp lý đã góp phần kiến tạo cho câu

thơ Kiều chất hiện thực, làm tăng khả năng biểu đạt, biểu cảm, khiến cho câu thơ

thêm phần cụ thể, chân thực, chính xác.

Các số liệu về từ ngữ được so sánh và phân tích trên đã góp phần thể hiện

một bức tranh ngôn ngữ đa dạng với nhiều thành phần khác nhau trong ngôn ngữ

Truyện Kiều (qua so sánh đối chiếu với Hoa Tiên, Lục Vân Tiên). Có thể nói, trong

lịch sử phát triển của tiếng Việt nói chung và ngôn ngữ thơ ca cổ điển Việt Nam nói

riêng, chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ, nhất là ngôn ngữ khẩu ngữ

mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật và có sức sống tràn trề, mãnh liệt.

Ngoài ra, cùng với sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố văn hoá bác học và bình dân

trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, sự trội bật của ngôn ngữ văn hoá bình dân

đã nâng cao giá trị, hiệu quả thẩm mỹ của ngôn ngữ tác phẩm.

2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ Truyện Kiều

2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên, biến hoá và

thích hợp với nội dung ngữ cảnh

Như đã nói, trong văn học cổ điển Việt Nam tính chất, nguyên tắc quan

phương dường như đã trở thành một đặc điểm thẩm mỹ của ngữ liệu văn hoá. Đối

103

với ngôn ngữ tác phẩm văn chương cổ điển, việc sử dụng các ngữ liệu mang tính văn

hoá là một thủ pháp, đặc trưng quan trọng. Trong kiệt tác Truyện Kiều, ngoài sự ảnh

hưởng, tác động từ văn hoá, văn học dân gian, Nguyễn Du đã vận dụng rất thiết thực,

tự nhiên, ý nhị, đa dạng và nhuần nhuyễn những từ ngữ có nguồn gốc từ văn hoá bác

học, từ ngôn ngữ văn học, triết học cổ điển Trung Hoa. Miêu tả sự xuất hiện của Kim

Trọng, tác giả đã viết:

“Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”

(Câu 0143 - 0144)

Hài văn là giày có thêu hoa vân nổi, cây quỳnh cành dao là ngữ liệu được

chuyển dẫn dụng từ sách Thế Thuyết 世說: “Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm

dao thụ phong trần ngoại vật 王衍神采如瓊林瑤樹風塵外物” (Thần thái của

Vương Diễn đẹp như cây ngọc dao trong rừng ngọc quỳnh, như ngoại vật ở cõi đời

gió bụi) [192, tr 798]. Chúng ta có thể hiểu, quỳnh và dao (còn gọi là cây xương hô)

là hai loại cây có đặc tính sinh trưởng khá kỳ lạ, nó thường nương tựa quấn quít với

nhau, tồn tại gắn bó với nhau, tạo nên một sự hài hoà, tương hỗ nên người đời

thường hay ví tình cảm vợ chồng gắn bó như cây quỳnh cành dao. Song, trong câu

thơ đang đề cập trên, có thể Nguyễn Du cũng sử dụng ngữ liệu có nguồn gốc trong

văn hoá dân gian đó. Cũng cần nói thêm rằng, ở trường hợp này, giữa Kim - Kiều

chỉ là buổi sơ giao chưa kết thành phu phụ. Do đó, hình ảnh “cây quỳnh cành dao”

chúng ta cũng có thể hiểu đó là hai thứ ngọc quý và đẹp, dùng để chỉ cho những

người có phong thái nho nhã, khiến cho nét tạo hình và sắc thái miêu tả của ngữ

cảnh được gợi tả. Có lẽ, hình ảnh có tính biểu trưng đó, không gian, phong thái của

Kim Trọng khi xuất hiện sẽ thêm phần văn hoa, thống nhất với những già mà

Nguyễn Du đã miêu tả về nhân vật này trong toàn thiên truyện. Dù không nắm vững

về ngữ liệu, nhưng qua đoạn trích người ta vẫn có thể hình dung được phong thái

trang nhã, đĩnh đạc của bậc tài tử văn nhân. Dường như, qua ngữ liệu văn hoá này,

Nguyễn Du không chỉ tạo nên một kết hợp hoàn chỉnh giữa ánh sáng, màu sắc, tạo

thành một nét thần trên một nền của một bức chân dung đẹp nhất về Kim Trọng mà

104

tác giả còn hướng người đọc đến một sự cảm nhận hài hoà về một vùng không gian

văn hoá nên thơ, trang nhã và hấp dẫn. Đặc biệt, thông qua các ngữ liệu văn hoá

trên, nhà thơ muốn lý tưởng hoá, cực tả hoá hình tượng những nhân vật có tính chất

biểu trưng cho các mệnh đề luận lý của tác giả, vĩnh viễn hoá một không gian uy

nghi cổ điển, tái tạo một xã hội luân lý được vận hành theo nguyên tắc của Lễ pháp

禮 法. Xét riêng trong lĩnh vực nghệ thuật, đó là những nguyên tắc có tính ước lệ,

tức là mọi sự miêu tả, giới thiệu đều được tổ chức theo những quy định có tính nghi

thức, câu thúc. Nếu miêu tả về người quân tử thì tướng mạo đĩnh đạc, kẻ anh hùng

vóc dáng vạm vỡ, người cơ trí thì tướng mạo nho nhã, hài hoà. Miêu tả về nữ nhân

thì chủ về đoan trang, hiền thục, cử chỉ ngôn hành đều tuân theo tứ đức, suy nghĩ,

hành động và lối sống thì luôn gắn bó với tam tòng. Điều này được ghi nhận trong

sách Ma Y tướng pháp (dành cho nam) và Liễu Trang diện tướng (dành cho nữ).

Hệ thống ngữ liệu trong Truyện Kiều phần lớn là những mỹ từ có chiều

hướng thiên về quá khứ. Đó là những hình ảnh, tư tưởng của cổ nhân, nó phải thể

hiện sự tôn sùng cái cũ, kinh nghiệm của quá khứ, suy tôn kinh, sử, thuật cổ, luận

kim. Nó được thể hiện qua hàng loạt các từ ngữ thi ca, dẫn ngữ, thi liệu, điển cố...

mà chúng tôi gọi chung là ngữ liệu văn hoá. Mở đầu cho thiên truyện, Tố Như tiên

sinh đã sử dụng khá nhiều từ ngữ thi ca, ngữ liệu thường được sử dụng trong thơ

văn cổ điển Việt Nam:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng,

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.”

(Câu 01 - 06)

Những từ ngữ như trăm năm (bách niên 百年), bể dâu (thương hải tang điền

滄海桑田), trời xanh (thanh thiên 青天), má hồng (hồng nhan 紅顏) là những từ

ngữ có nguồn gốc trong Hán ngữ, ý nghĩa của nó biểu thị kỳ hạn của đời người, sự

105

biến thiên, thói đời ấm lạnh của cuộc sống trong quan niệm của các thi nhân. Trăm

năm là một cứ liệu ngôn ngữ xuất phát từ thực tế đời sống. Thơ chữ Hán của

Nguyễn Du cũng có câu: “Bách tuế vi nhân bi thuấn tức, mộ niên hành lạc tích du

du” (Mạn hứng 漫興) (cuộc đời trăm năm buồn thay chỉ là chốc lát, tuổi già mua

vui tiếc quá ngắn). Trăm năm cũng là một cách nói đại thể diễn tả cuộc đời, ở đây

Nguyễn Du dường như muốn nói về cuộc đời của một con người cụ thể: Vương

Thuý Kiều và qua đó cũng chính là những tâm sự của đời mình. Tương tự như vậy,

các cứ liệu như bể dâu, trời xanh, má hồng cũng đã phát huy những ý nghĩa nội tại,

góp phần làm tăng thêm sự trang trọng, hấp dẫn cho câu thơ, đồng thời giúp cho

những khái quát của nhà thơ thêm sâu sắc.

Với ngôn ngữ bác học trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng một hệ

thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa những tính cách, tái

tạo không gian hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Nhà thơ đã phác thảo nên một

không gian thẩm mỹ đặc thù khiến cho người đọc có thể chiêm nghiệm hay cảm

nhận theo kinh nghiệm sống, vốn văn hoá của mình.Trong ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều, mỗi ngữ liệu đều phát huy chức năng nghệ thuật của nó. Tác giả đã sử

dụng hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học một cách hết sức tự nhiên, không câu thúc,

rất linh hoạt và thích hợp với giọng điệu trữ tình. Chẳng hạn, khi tác giả miêu tả

việc Kim Trọng đã từng nghe biết về hai chị em Thuý Kiều bằng những ngữ liệu rất

chuẩn mực, đúng phong cách:

“Nguyên người quanh quất đâu xa

Họ Kim tên Trọng, vốn nhà trâm anh.

Nền phú hậu, bậc tài danh

Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

Chung quanh vẫn đất nước nhà

Với Vương Quan trước vốn là đồng thân

Trộm nghe thơm nức hương lân

106

Một nền Đồng Tước, khoá xuân hai Kiều.

Nước non cách mấy buồng thêu

Những là trộm dấu thầm yêu chốc mồng.”

(Câu 0155 - 0158)

Với những ngữ liệu nguyên dạng Hán Việt như trâm anh, phú hậu, tài danh,

phong nhã, hào hoa, hương lân, Đồng Tước và chuyển dịch như hai Kiều, buồng

thêu, tác giả đã giới thiệu rõ danh tính, lai lịch, hành trạng, phong độ, phẩm chất của

trang tài tử hào hoa. Những ngữ liệu như trâm anh 簪 纓 vốn là cái trâm và dải mũ,

nay được linh hoạt sử dụng để chỉ nhà quyền quý, khoa bảng, có gia phong nền nếp

và truyền thống khoa cử, Đồng Tước và hai kiều là những mỹ từ được đúc rút từ câu

thơ của Đỗ Mục 杜牧 (Đường 唐): Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều 銅 雀 春 深

鎖 二 嬌 và từ buồng thêu được chuyển dịch từ ngữ liệu gốc là tú phòng 繡 房, tức

buồng riêng của con gái theo quy định của lễ giáo phong kiến. Với sự kết hợp xen

kẽ giữa điển cố và những từ ngữ bác học, Nguyễn Du không chỉ khắc hoạ chân

dung nho sĩ Kim Trọng theo tiêu chuẩn ước lệ của văn học cổ điển, mà nhà thơ còn

thể hiện dáng vẻ đa tình, đã từng ấp ủ khát vọng tình yêu đối với Thuý kiều từ

trước. Trong đoạn trích này, qua những tín hiệu thẩm mỹ cụ thể như đã phân tích,

Nguyễn Du đã miêu tả thành công những rung động tinh tế, sôi nổi ban đầu trong

trái tim tràn ngập yêu đương của chàng khi được gặp bóng dáng giai nhân.

Số lượng từ ngữ được tác giả sử dụng để diễn đạt một ngữ liệu nguyên dạng

nhất định nào đấy rất linh hoạt và thần tình, tuỳ theo yêu cầu của văn cảnh mà định

vị cho các điển, ngữ phù hợp thích đáng. Có khi đơn giản chỉ vài chữ cũng đủ nêu

lên hàm nghĩa sâu xa của một ngữ liệu văn hoá, có khi phải vận dụng hàng loạt từ

khác nhau để giải thích biện minh. Song, điều quan trọng là sức gợi của những ngữ

liệu ấy mang lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mỹ gì, giúp người đọc hiểu

thêm những vấn đề gì, nội dung nào của thi phẩm. Có nghĩa là, người đọc phải nắm

được chìa khoá về nét nghĩa phái sinh của điển ngữ. Sau khúc đàn Bạc mệnh, lại

thấy chàng Kim “xem trong âu yếm có chiều lả lơi…”, Thuý Kiều đã lên tiếng để

nhắc nhở về sự “hơi quá trớn” của tình quân:

107

“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay

Lứa đôi lại phải đẹp tày Thôi Trương.

Mây mưa đánh đổ đá vàng

Quá chiều nên đã chán chường yến anh.

Trong khi chắp cánh liền cành.”

(Câu 0511 - 0516)

Thông qua việc nhắc lại câu chuyện tình sử Thôi - Trương (tức Thôi Oanh Oanh 崔鶯鶯 và Trương Quân Thuỵ 張君瑞) trong Tây Sương Ký 西廂記 của

Vương Thực Phủ 王實甫 (Nguyên 元), Thuý Kiều có ý nhắn nhủ với Kim Trọng,

tình ý đôi ta như thể cây quỳnh cành dao, đẹp tựa mây trời, có phải đâu là chuyện

ham thú mây mưa, yêu thích việc trêu hoa ghẹo nguyệt của bọn dâm bôn trên bãi

dâu ở nước Vệ. Tuy vậy, trường liên tưởng của những câu thơ trên như được mở

rộng thêm bởi một lớp từ văn hoá được tác giả sử dụng rất sắc sảo, thông qua một

trường nghĩa của những từ ngữ như mây mưa, chắp cánh, liền cành… khiến cho lý

luận lôgic của Thuý Kiều được tăng thêm bội phần. Những hình ảnh biểu trưng ấy

đã tạo nên tính mạch lạc và thấm đẫm nỗi lòng chan chứa yêu thương, tất cả không

ngoài vòng lễ giáo, đức tính đoan trinh hiền thục của nàng một lần nữa lại được

khẳng định. Cách bố trí linh hoạt tạo trường liên tưởng ngữ nghĩa của các ngữ liệu

đề cập trên đã mang lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mỹ, tình điệu thẩm

mỹ, giúp cho trường liên tưởng văn hoá của độc giả trong quá trình tiếp nhận thêm

phong phú. Chẳng hạn, qua lời thề của Mã Giám Sinh, người đọc ngỡ hắn là một

sinh viên thực thụ của trường Quốc tử giám:

“Cạn lời khách mới thưa rằng:

Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao.

Mai sau dầu đến thế nào,

Kìa gương nhật nguyệt, nọ đao quỷ thần!”

(Câu 903 - 906)

Trong lời thề ấy, Mã Bất Tiến đã sử dụng những từ ngữ rất văn hoa có tính

chất điển cố như xích thằng 赤繩 (điển cố có xuất xứ từ trong Tục u quái lục 續 幽

怪 錄), từ ngữ xã hội như gương nhật nguyệt, đao quỷ thần. Lời thề ấy nghe có vẻ rất

108

nghiêm cẩn nhưng lại chính là chứng lý cụ thể vạch trần bản chất đểu cáng của hắn.

So với những hành động mà hắn sẽ làm tiếp sau đó, người đọc không khỏi bật cười vì

những hành vi vô luân, vô sỉ được bao bọc, nguỵ trang bằng những từ hoa mỹ.

Với ngữ liệu văn hoá bình dân, ông đã sử dụng hệ thống này với các nhân vật

phản diện, mang tính chất phê phán. Thông qua ngôn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã

sử dụng một lớp từ ngữ có sắc tái miêu tả cụ thể, chi tiết về nhân vật. Chẳng hạn:

“Thừa cơ lẻn bước ra đi,

Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.

Dù khi gió kép mưa đơn,

Có ta đây cũng chẳng can cớ gì.”

(Câu 1109 - 1112)

Một từ lẻn cũng đủ bóc trần bộ mặt trâng tráo, xấc xược, đểu giả của một kẻ

chuyên lừa gạt những cô gái nhẹ dạ, cả tin. Qua lối nói đặc phong cách khẩu ngữ

nhưng có vẻ anh hùng, kiêu dũng kiểu giang hồ “có ta đây cũng chẳng can cớ gì”,

chúng ta có thể phần nào hình dung ra được dáng vẻ điển hình của một gã điếm

đàng nói riêng và sự “na ná” giống nhau của những kẻ đưa hương dắt phấn. Với hệ

thống từ ngữ bình dân, tác giả dường như lách nhẹ, đi sâu vào bản chất thực, dè bỉu

phẩm cách, ngoại hình của các nhân vật phản diện. Nếu từ ngữ bác học có đặc tính

biểu tượng, giàu tính ước lệ thì với ngôn ngữ bình dân, tính chính xác, rõ ràng, cụ

thể là đặc tính khá quan trọng. Vẻ tiêu biểu, phổ biến của một lối miêu tả “sát sàn

sạt” của giới bình dân, của lối nói khẩu ngữ đã được Nguyễn Du dẫn dụng một cách

khá thành công. Qua các trích đoạn miêu tả về Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn tham

quan ô lại ... trong tác phẩm đã chứng thực những điều đã khái quát trên.

Với khả năng gợi cảm, thiên về miêu tả và gợi hình chi tiết, cụ thể, chúng

tôi cho rằng, từ láy thuần Việt đã được Nguyễn Du sử dụng một cách khá đắc

dụng và có vai trò quan trọng trong nghệ thuật miêu tả cảnh, thể hiện tâm trạng

nhân vật. Qua các tình huống miêu tả khác nhau, hệ thống từ láy thuần Việt đã tạo

thành một thế giới nghệ thuật ngôn từ phong phú. Từ láy thuần Việt không chỉ góp

phần tạo ra những hình ảnh cụ thể khi miêu tả mà còn thể hiện những nét tinh tế

109

trong tâm trạng của nhân vật. Cảnh vật đìu hiu, buồn bã, hoang sơ, các từ láy đầy

tâm trạng trong đoạn thơ nói về Kiều gặp mộ Đạm Tiên 淡仙 đã diễn tả một cách

thích đáng tâm trạng của nàng Kiều với một cảm giác nhân văn và tràn ngập

những nỗi niềm trăn trở:

“Tà tà bóng ngả về Tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nấm đất bên đường,

Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh.”

(Câu 051 - 058)

Một đoạn thơ chỉ có 8 câu thì đã có đến 7 câu đã sử dụng từ láy tượng hình.

Đoạn thơ đã diễn tả tâm trạng khá thoải mái, vui vẻ của hai chị em Thuý Kiều khi

chia tay với ngày xuân vào thời khắc hoàng hôn đang dần sụp xuống. Các từ láy tạo

hình như tà tà, thơ thẩn, nao nao, nho nhỏ đã phần nào gợi nên một nỗi buồn man

mác, nhẹ nhàng của thời khắc cuối ngày. Những từ láy như sè sè, dàu dàu đã giúp

người đọc như cảm nhận được sự hiu hắt của nấm mồ vô chủ Đạm Tiên qua con

mắt nhân văn của Kiều. Vị trí nằm đầu câu thơ của các từ tà tà, sè sè, dàu dàu đã

gây một ấn tượng khá mạnh cho bút pháp từ chấm phá đến phục dựng bức tranh

thanh minh vào cuối ngày xuân. Đoạn thơ như toát lên một sự dự báo về số phận

tương lai của nàng Kiều – lênh lênh, khúc khuỷu và uốn quanh. Trong Truyện Kiều,

Nguyễn Du đã đặt từ láy vào vị trí trung tâm của phát ngôn vừa tạo cảm giác

chuyển động của bánh xe lúc đăng trình nhưng đồng thời cũng mang tính tạo hình,

dường như ông đã vẽ được lộ trình phía trước của Kiều với nỗi đau đoạn trường:

“Đoạn trường thay lúc phân kỳ,

Vó câu khấp khiểng, bánh xe gập ghềnh.”

(Câu 0869 - 0870)

110

Trong câu thơ trên, các từ Hán Việt như đoạn trường 斷腸 (nỗi đau đứt

ruột), phân kỳ 分岐 (rẽ sang ngả khác, chia rẽ) đã khiến người đọc cảm nhận một

cách sâu sắc về nỗi đau cốt nhục phân ly, không hẹn ngày tái hội. Trong khi đó, các

từ láy khấp khiểng, gập ghềnh… đã biểu lộ cảm giác xót xa một cách cụ thể về nỗi

đau của Kiều và gia đình Vương ông khi Mã Giám sinh rước Kiều về Lâm Truy. Phải

chăng đến câu thơ này, người đọc dường như nghe thấy được tiếng chân ngựa bước,

tiếng bánh xe chuyển động trên con đường thiên lý xa xăm? Buồn bã, thê lương đến

nỗi cỏ cây cũng nhuốm màu tâm trạng, giọt sương cũng sa trong nỗi u hoài. Cuộc đời

Kiều cũng gập ghềnh như vó câu trong ngày đưa dâu. Trần Trọng Kim trong lời

Tựa của quyển Truyện Thuý Kiều (1925, Tân Việt tái bản năm 1960), có nhận xét

rất xác đáng về nghệ thuật sử dụng từ láy (ông gọi là tiếng đôi) trong câu thơ Kiều.

Ông cho rằng Nguyễn Du “lại khéo dùng những chữ đôi: dập dìu, lơ thơ, êm đềm,

nao nao… mà khiến cái điệu câu thơ lúc mau, lúc khoan, lúc thương nhớ, lúc buồn

rầu, nó hình dung ra được. Lắm câu thoe chỉ hay vì cái âm hưởng những tiếng của

tiên sinh (tức Nguyễn Du) dùng như:

“Lơ thơ tơ liễu buông mành,

Con oanh học nói trên cành mỉa mai”

Đọc lên thật nhẹ nhàng êm ái, nghe như tiếng đàn cầm văng vẳng bên tai

vậy.” [30, tr.22]. Miêu tả cái phong khí êm đềm ngày thu là vậy mà đến khi tả cái

cảnh vội vàng, lật đật thì ông cũng dồn dập:

“Đùng đùng gió giục mây vần,

Một xe trong cõi hồng trần như bay.”

(Câu 907 - 908)

Vì vậy, bên cạnh việc sử dụng từ láy để tả tình, vịnh cảnh, Nguyễn Du còn sử

dụng lớp từ này để miêu tả và khắc hoạ tính các nhân vật, nhất là các nhân vật phản

diện. Đối với bọn sai nha, ông miêu tả:

“Hàn huyên chưa kịp dãi dề,

Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.

Người nách thước kẻ tay dao,

111

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.”

(Câu 0575 - 0578)

Với Mã giám sinh, ông đặc tả:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”

(Câu 0627 - 0628)

Với gã Sở khanh, ông châm biếm:

“Một chàng vừa trạc thanh xuân,

Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng.”

(Câu 1059 - 1060)

Có thể nói, với Nguyễn Du, những từ láy thuần Việt không chỉ có tính tạo

hình mà còn có khả năng đặc tả. Nhờ những từ láy đó mà ở mỗi nhân vật, nghệ

thuật miêu tả của ông đều đạt đến mức điển hình. Ông sử dụng những uyển từ miêu

tả làm nền để chấm phá các từ láy tạo hình cụ thể, chi tiết, góp phần bộc lộ bức

truyền thần chân thật nhất của nhân vật. Trong 3.254 câu thơ lục bát của thiên

truyện, Nguyễn Du đã sử dụng các từ láy rất khéo léo, tinh tế và đúng mực ở những

vị trí khác nhau đã tạo nên một khả năng phối kết khá nhịp nhàng với nhịp điệu thơ

lục bát, giúp người đọc có thể khắc hoạ ấn tượng về sự chuyển đổi nhạc điệu cho

câu thơ thông qua khả năng hài âm của từ láy. Hệ thống từ láy mà Nguyễn Du sử

dụng trong tác phẩm của mình cho đến nay vẫn còn tươi nguyên những giá trị của

nó. Việc sử dụng nhiều từ láy trong Truyện Kiều là một hệ quả tất yếu của một quan

niệm nghệ thuật của Nguyễn Du mà chúng tôi đã trình bày: coi trọng lời quê, tránh

lạm dụng những từ ngữ văn chương bác học. Nhờ đó, câu thơ của Truyện Kiều có âm

hưởng linh hoạt, nhẹ nhàng, bay bổng và tạo nên ấn tượng sâu sắc đối với người đọc.

Nó không chỉ bó hẹp trong bề mặt con chữ mà ẩn sau nó cả một tấm lòng, một tài

năng và một nỗi niềm luôn thường trực trong tâm hồn thi nhân. Đúng như Lê Nhật

Ký đã nhận xét: “Trong nhiều trường hợp, Nguyễn Du chú trọng sử dụng các từ láy

đảm nhiều chức năng khác nhau…. Và các từ láy có sự dịch chuyển từ miêu tả bên

trong, nới rộng diện tích nghĩa của hình tượng thơ…” [97, tr.208].

112

2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một cách

sáng tạo

Trong kiệt tác Truyện Kiều, bên cạnh sự vận dụng sáng tạo các ngữ liệu từ

văn hoá dân gian, Nguyễn Du đã khéo léo chuyển hoá, định vị cho các ngữ liệu văn

hoá bác học một cách tài tình và sáng tạo. Ông không chỉ sử dụng lối kê cổ, dụng

điển mang phong cách từ chương của văn học cổ điển mà nhà thơ học tập, ảnh

hưởng và tạo nên những ngữ liệu đậm tính văn hoá mộc mạc, nhuần nhị. Được sinh

ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc, phong cách sinh hoạt, lề lối tư duy, các

khái niệm văn hoá lễ nghi mang tính quan phương, đẳng cấp dường như đã thấm

vào máu thịt của ông, do đó bóng dáng uy nghi của những mỹ từ kiêu sa, quý phái,

những ý tưởng mang nặng tính chất ước lệ, câu thúc của quan niệm xã hội không

thể không ảnh hưởng đến tư duy nghệ thuật và sáng tác của nhà thơ. Đó là điều kiện

cơ bản để nhà thơ hiểu đúng và vận dụng một cách đầy sáng tạo, nghệ thuật lớp

ngôn từ đặc trưng ấy.

Hệ thống ngữ liệu chuyển dịch được nhà thơ diễn nôm, chuyển dịch từ hệ thống

điển cố, thi liệu Hán học trong Truyện Kiều rất phong phú về số lượng, đa dạng, sáng

tạo về hình thức. Tất cả những ngữ liệu ấy đã được nhà thơ vận dụng trong những ngữ

cảnh rất thích đáng và thần tình. Để nói về mặt trăng với hàm ý chỉ người con gái đẹp,

người ta có thể dùng các mỹ từ như cung thiềm, cung quế, ngọc thố…, và đặc biệt là

Hằng Nga 恆 娥, Thường Nga 嫦 娥. Theo sách Hoài Nam Tử 淮南子, Hằng Nga là

vợ Hậu Nghệ 后羿, một nhân vật truyền thuyết thời đế Nghiêu, đã lấy trộm thuốc

trường sinh bất tử của chồng để được thành tiên và bỏ trốn lên cung Quảng Hàn 廣寒.

Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, ngữ liệu nguyên dạng Hằng Nga hầu như không được

nhà thơ sử dụng lần nào, khi dẫn điển này, nhà thơ đã chuyển đổi cấu trúc từ Hán sang

Việt, tạo nên một ngữ liệu chuyển dịch và sử dụng đúng vị trí của nó, chẳng hạn:

“Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao…” (Câu 1636)

“Chủ trương đành đã, chị Hằng ở trong…” (Câu 1340)

Ngoài ra, để diễn đạt ngữ liệu này, tác giả còn sử dụng rất linh hoạt các từ

ngữ khác như bóng nga, thềm quế, cung hàn... Nhận xét về tài nghệ sử dụng các

113

ngữ liệu, thi liệu, điển cố một cách nhuần nhị, nhẹ nhàng, trong sáng và ý vị, học

giả Vệ Thạch Đào Duy Anh trong Khảo luận về Kim Vân Kiều đã viết:

…Chúng ta đều hiểu rằng dùng từ thích đáng tức là dùng chữ nào

đúng nghĩa chữ ấy theo nghĩa đen của nó. Nhà thi sỹ lại vận dụng linh động

nghĩa phái sinh bổ túc không theo con mắt mộc mạc của người thường, mà

cũng không có những cảm giác thiển cận như bọn phàm phu tục tử chúng ta.

Nhà nhạc sỹ ở cái gì cũng thấy thanh âm, nhà hoạ sỹ ở cái gì cũng nhìn thấy

hình sắc, nhà thi sỹ thì thấy cả thanh âm, hình sắc, cùng những điều huyền bí

kín ngầm. Cho nên, nhiều khi thi sỹ không biểu diễn tư tưởng tình cảm một

cách giản đơn thô lỗ, mà lại dùng những lời, những chữ mà ta cảm thấy

bóng bẩy, thâm trầm... [02; tr.223].

Trong Truyện Kiều, mỗi chữ, mỗi câu đều in đậm dấu ấn của sự sáng tạo của

nhà thơ. Một hình ảnh thơ không phải tự nhiên xuất hiện mà nó luôn là sự kết tinh

của tri thức và tài năng của nhà nghệ sỹ. Chẳng hạn:

“Đêm thu, gió lọt song đào…” (Câu 1637)

“Nàng thì chiếc bóng song mai ...” (Câu 2231)

Các ngữ liệu như song đào là cửa sổ có trang trí sắc đỏ của hoa đào, song

mai là cửa sổ có vẽ hoa mai, lấy ý từ cổ thi “độc lập vô tình tự, ỷ song điểm mai

hoa” (Đứng một mình buồn bã, dựa song đếm hoa mai), song trăng là cửa sổ tròn

hình nguyệt, nó còn có thể hiểu là ban đêm. Các từ như song đào (cửa sổ có vẻ hình

hoa đào), song mai (cửa sổ có vẻ hình hoa mai), song the (cửa sổ làm bằng vải the),

song mây (cửa sổ làm bằng dây mây) đều phiếm chỉ cửa sổ. Có thể nói, Nguyễn Du

đã linh hoạt hoá việc phác hoạ những không gian văn hoá truyền thống phương

Đông trong Truyện Kiều. Với ông, khuê phòng của tú nữ Kiều nhi là không gian cá

nhân, là nơi hạn chế ra vào theo quan niệm của lễ giáo phong kiến, đồng thời cũng

là nơi mà nhân vật trữ tình của thiên truyện có thể bộc bạch những tâm sự, trút bỏ

những nỗi niềm cay đắng trong cuộc đời, hoặc suy nghiệm những lý lẽ, nghiệm

chứng những việc đã xảy ra. Đó cũng là nơi mà nỗi nhớ luôn tràn về trong ký ức

của nàng. Có lẽ, tác giả sáng tạo nên những lối diễn đạt mới nhằm làm phong phú

hoá những lối diễn đạt về một đối tượng cụ thể một cách bóng bẩy, giàu hình ảnh,

114

làm tôn thêm vẻ đẹp văn hoá cho ngữ cảnh được miêu tả, khắc hoạ. Nhưng trong

câu “Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời…” (Câu 2746), hình ảnh “song trăng

quạnh quẽ” lại “gợi lên khung cảnh đêm trường cô đơn, không gian trống rỗng,

buồn bã của ngôi nhà, của sổ mặc để trăng quạnh soi vào...” [02, tr. 480].

Hoặc ở một ví dụ khác, Nguyễn Du cũng rất sáng tạo trong việc dẫn dụng các

ngữ liệu bác học có liên quan đến hình ảnh trăng, cụ thể như trong các câu thơ sau:

“Sắn bìm chút phận con con,

Khuôn viên biết có vuông tròn cho chăng?

Thân sao nhiều nỗi bất bằng,

Liều như cung Quảng ả Hằng, nghĩ nau…”

(Câu 1633 - 1636)

Trong đoạn thơ này, tác giả đã chuyển dẫn một cách linh hoạt các ngữ liệu

văn hoá bác học trong văn chương cổ điển Trung Hoa khiến cho câu chuyện tâm

tình của nàng Kiều về thân phận lẻ mọn của mình khi gá nghĩa với Thúc Sinh. Ngữ

liệu sắn bìm đã được nhà thơ Việt hoá từ các điển cố Hán học như Cát luỹ 葛藟 có

xuất xứ từ câu Nam hữu cù mộc, cát luỹ oanh chi 南有欋木葛藟縈之 (Bên Nam có

cây to, dây cát luỹ leo lên) trong kinh Thi, phiếm chỉ thân phận của người vợ lẽ.

Cung Quảng ả Hằng là thi liệu xuất phát từ trong bài thơ cổ Thất tịch ca 七夕歌:

Do thắng Hằng nga bất giá nhân, dạ dạ cô miên Quảng hàn điện 猶勝恆娥

不嫁人, 夜夜孤眠廣寒殿 (Bởi nàng Hằng Nga không lấy chồng, đêm đêm ngủ một

mình trong cung Quảng Hàn), chỉ sự cô đơn, sầu lẻ bóng. Hai ngữ liệu bác học này

kết hợp với khuôn viên (có bản chép là khuôn duyên), một ngữ liệu do Nguyễn Du

đã sáng tạo ra, phiếm chỉ sự sắp đặt duyên phận của tạo hoá. Đặc biệt, ở câu thơ

1633, Nguyễn Du đã kết hợp ngữ liệu sắn bìm (chỉ thân phận lẻ mọn) với từ láy con

con tạo nên một cảm giác tự ti của một người vợ lẻ khiến cho người đọc càng thêm

chua xót. Hơn ai hết, Thuý Kiều đã thực sự đánh đổi số phận của mình trong một

canh bạc này. Với tổ hợp phận con con ấy, người đọc dường như cảm nhận được sự

cam chịu, chấp nhận mọi chuyện của Kiều nhi. Có lẽ trong thẳm sâu ý thức của

mình, nàng cũng thực sự cảm nhận một viễn cảnh bất hạnh lại đến với bản thân

mình. Tương tự ở một ngữ cảnh khác, Nguyễn Du cũng sử dụng ngữ liệu này để

115

bộc bạch nỗi nhớ nhung của Kiều với Từ Hải, một nỗi nhớ nhung rất mực sâu đậm

của người vợ xa chồng.

“Nàng rằng: “Chút phận ngây thơ,

Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.”

(Câu 2279 - 2280)

Hình ảnh dây cát ở đây là một sự sử dụng có tính linh hoạt, một sự chuyển

dịch rất hay. Nhà thơ cũng mượn những nét nghĩa văn hoá của ngữ liệu để diễn đạt

nỗi nhớ nhung sầu muộn của người đàn bàn chờ chồng, trong mong chồng. Hình

ảnh bóng cây cũng là một lối mượn ý từ ngữ liệu Tùng quân 松筠 (tùng là loại cây

họ thông, quân là cật tre già), một ngữ liệu phiếm chỉ tính cách, khí phách, hành

động quang minh của người quân tử, bậc trượng phu và người chồng. Như vậy,

trong ngữ cảnh nảy, Nguyễn Du đã chuyển dẫn và vận dụng một cách linh hoạt các

ngữ liệu văn hoá trong văn học cổ điển Trung Hoa để diễn đạt tình và ý của Kiều

một cách văn hoá, hợp lý nhất.

Với lối sử dụng hình ảnh vừa tả thực, vừa giàu khả năng gợi tả, không gây

tâm lý nhàm chán, tác giả đã góp phần làm phong phú thêm những hình ảnh thơ,

đậm tính biểu trưng và làm phong phú cho sự liên tưởng, đó là sự sáng tạo độc đáo

và cũng chính là đóng góp lớn của Nguyễn Du vào kho tàng ngôn ngữ Việt Nam.

Bên cạnh việc sử dụng những hình ảnh có tính chất đặc tả ấy, nhà thơ còn vận dụng

một cách tối đa những hiểu biết của mình về nhân tình thế thái trong những năm

tháng sinh sống ở phủ đệ của cha anh, hơn mười năm gió bụi nơi viễn xứ (thập tải

phong trần) và cả kinh nghiệm sống của cả một đời người. Sự từng trải ấy đã khiến

cho các dữ liệu văn hoá đã được sử dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều thêm sâu sắc và

mang tầm triết học, ví dụ như ngữ liệu trăm năm:

“Trăm năm trong cõi người ta...” (Câu 01)

“Trăm năm biết có duyên gì hay không...” (Câu 0182)

“Trăm năm để một tấm lòng từ đây...” (Câu 0880)

Như một tín hiệu thẩm mỹ đã được mã hoá, ông đã 8 lần dẫn dụng ngữ liệu

có tính triết luận trên, dường như tác giả đã chiêm nghiệm từ chính cuộc đời của

116

bản thân mình. Hơn một lần, Tố Như Tử đã đọc bản kinh Kim Cương mà chưa thật

hiểu rõ về nó, đến với Nho học và thuyết Tài mệnh tương đố, nhà thơ vẫn chưa thật

thấu triệt những ý nghĩa uyên áo của nó… thế nhưng chỉ trong “thập tải phong

trần”, dường như tác giả Truyện Kiều đã ngộ ra tất cả. Vì vậy, đoạn thơ được trích

dẫn trên đã ẩn chứa trong nó những nội hàm văn hoá đặc sắc của cả một thời đại, ẩn

tàng những “giác ngộ” của nhà thơ về thân phận con người. Có lẽ vì thế, nhà thơ

Đinh Hùng đã tôn vinh ông là thi sỹ của đau thương, kẻ lạc loài tha hương.

Bên cạnh hệ thống từ ngữ có tính định danh, miêu tả, Nguyễn Du còn sử

dụng một cách thần tình và khéo léo liên kết trường ngữ nghĩa của các từ ngữ để tạo

ra những nét nghĩa phái sinh, nhằm tạo nên tính đa nghĩa cho những ngữ cảnh đang

miêu tả, vừa chuẩn về thi pháp, vừa tích hợp được vốn văn hoá cổ truyền bác học

dân tộc, vừa làm phong phú thêm về tính chất thẩm mỹ cho ngôn từ. Chẳng hạn,

trong cuộc đối thoại giữa hồn ma Đạm Tiên và Thuý Kiều, Đạm Tiên đã giới thiệu

về nguyên cớ của cuộc hội ngộ là do thanh khí, tức tình ý hợp nhau mà tìm gặp

nhau, cảm ứng với nhau:

“Thưa rằng: “Thanh, khí xưa nay

Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?

Hàn gia ở mé tây thiên

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu…”

(Câu 0193 - 0196)

Ngữ liệu Thanh khí 聲汽 được dẫn từ Dịch kinh 易經: “đồng thanh tương

ứng, đồng khí tương cầu 同聲相應同汽相求”. Hàn gia 寒家 có nghĩa là nhà lạnh,

nhà mọn, là cách nói khiêm xưng trong nghi thức giao tiếp của người phương Đông.

Trong một số ngữ liệu, Thanh Hiên tiên sinh đã sử dụng một số phương vị từ như

Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng lại hàm chứa những hàm nghĩa văn hoá khác nhau. Nó

có thể thực chỉ, nhưng có thể hư chỉ. Khảo sát trong đoạn trích trên ta thấy, Hàn gia

lại ở mé tây thiên, thiên 阡 ở đây là con hẻm nhỏ hoặc đường bờ ruộng. Tây thiên

西阡 là con đường nhỏ ở phía Tây. Nhưng vì sao lại dùng Tây mà không dùng

Đông? Có thể Tây là thực chỉ, nhưng cũng có thể là hư chỉ. Vì lẽ Đạm Tiên lúc bấy

117

giờ là một hồn ma, ma quỷ thuộc cõi âm, vả lại Đạm Tiên cũng là một nữ nhi, phụ

nữ cũng thuộc âm tính, nên Tây đi với âm là hợp lý. Và do đó, hàn gia trong ngữ

cảnh này có thể hiểu đó là nấm mồ hoang mà Kiều đã gặp và mé Tây thiên cũng

chính là bãi tha ma, nơi đã chứng kiến cuộc gặp gỡ định mệnh ấy. Đối lập với chữ

Tây, chữ Đông thuộc Dương, chủ về sinh, thường chỉ nam giới, do đó chữ Đông đi

vào ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều nó còn mang những nét nghĩa hư chỉ. Chẳng

hạn trong câu thơ sau:

“Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

(Câu 038 - 039)

Nguyễn Du dùng từ tường đông có lẽ vì có câu văn trong sách Mạnh Tử

孟子: “Du đông lân nhi lâu kỳ xử tử 踰東鄰而摟其處子” [267, tr 267] (trèo tường

nhà hàng xóm phía Đông mà chọc ghẹo con gái người ta), Đường thi cũng có câu

“Đông lân Tống Ngọc tường 東鄰宋玉牆” ám chỉ chàng Tống Ngọc nước Sở,

người thanh tú, tài hoa, tính tình trăng hoa, ong bướm khiến cho bao người đẹp phải

ôm mối hận tình với anh ta. Thi nhân Lý Bạch 李白 cũng có câu: “Tự cổ hữu tư sắc,

Tây Thi do Đông lân 自古有斯色西施猶東鄰” (Từ xưa đã có người có nhan sắc

ấy, đó là nàng Tây Thi ở xóm Đông). Tuy nhiên, nhìn lại đoạn trích, ở đầu tác

phẩm, nhà thơ đã giới thiệu đây là hai chị em nhà lễ giáo, yểu điệu thục nữ khuê

môn, tuy đến tuổi cập kê nhưng vẫn chưa có ý trung nhân nên để mặc “tường đông

ong bướm đi về mặc ai”, tường đông có thể là thực chỉ bức tường ở phía đông,

nhưng đoạn trích này lại đề cập đến đức hạnh của Thuý Kiều nên tường đông có thể

ám chỉ nơi ở của nam nhân. Thế nhưng, sau hội Thanh Minh, trai tài gái sắc, cá

nước sum vầy gặp gỡ, thi sỹ Tố Như đã diễn tả một cách rất tài hoa tình cảm, cảm

xúc của Kiều khi bắt đầu bước vào chốn yêu:

“Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà.”

(Câu 0175 - 0176)

118

Đông lân như đã phân tích, nó có thể thực chỉ nhà hàng xóm phía đông,

nhưng cũng có thể hiểu là chỗ ở của nam giới, từ đặc chỉ cho nam giới. Bàn về

đoạn trích này, trong cuốn Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện [35], Tản Đà

Nguyễn Khắc Hiếu có dẫn lời hai ông Hồ Đắc Đàm và Bùi Khánh Diễn như sau,

hai ông cho rằng cái bóng của cây hoa Hải đường đã lả ngọn sang tường. Vì lẽ,

trăng đã xế về tây nên đã chiếu ngọn cây lả bóng sang đông. Song e rằng, nếu nối

tiếp hai câu dưới, một hư một thực không được, liền nghĩa, mà ở đây thi nhân đã

dùng theo lối ước lệ, tượng trưng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, ở câu thơ này, bằng

những tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt, người đọc có thể cảm nhận được những xúc cảm

đầu đời của Kiều. Nếu ví Thuý Kiều như đoá hoa Hải đường 海棠 trong trắng,

tinh khôi và đông lân (người hàng xóm phía đông) àm ý chỉ Kim Trọng thì câu thơ

trở nên thanh thoát, ý vị hơn. Bởi cái tình ý quấn quít cả hai, nên ngọn Hải đường

có ý ngả sang mái đông lân và gieo nặng cả cành xuân tình tứ. Đôi khi, nhà thơ

còn sử dụng ngữ liệu này để chỉ đích danh, hay miêu tả những nhân vật nam giới

cụ thể trong tác phẩm:

“Song hồ nửa khép cánh mây,

Tường đông nghé mắt, ngày ngày hằng mong…”

(Câu 0240 - 0241)

Tường đông ở đây thực sự chính là Kim Trọng. Tương tự như vậy, ông cũng

dùng chữ tường đông để ám chỉ Sở Khanh:

“Tường đông lay động bóng cành,

Dẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào…”

(Câu 1308 - 1309)

Tương tự theo chiều hướng ấy, ta cũng có các ngữ liệu đặc chỉ nữ giới như

tây hiên, mái tây, tây phòng, cung tây. Thông qua kiểu hệ thống ngữ liệu này, tác

giả đã hình thành một dạng thức tư duy mang tính biểu tượng sâu sắc và có tính

khái quát cao trong thơ văn cổ điển.

Ngoài ra, trong hệ thống mỹ từ văn hoá được dẫn dụng, Nguyễn Du đã đưa

vào tác phẩm của mình những lời nói thông tục, quê mùa đến thô kệch, qua bàn tay

119

đẽo gọt của thi nhân lớp từ ấy vẫn không mất đi cái vẻ đay nghiệt của cuộc đời,

chẳng hạn như lời Thuý Kiều nói "mát" với Hoạn Thư :

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan.

Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”

(Câu 2358 - 2361)

Thông qua cách sử dụng ngôn ngữ hội thoại, tác giả đã tạo dựng nên những

hình tượng chân thực với những góc cạnh của cá tính. Vì thế, mỗi nhân vật trong tác

phẩm đều trở thành điển hình nghệ thuật của văn chương cổ điển Việt Nam.

Về thành ngữ thuần Việt, chúng tôi nhận thấy có nhiều loại thành ngữ đã được

Nguyễn Du dẫn dụng. Cụ thể như thành ngữ ba âm tiết: Nói như ru trong câu “Lặng

nghe lời nói như ru/ Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng” (câu 347-348); Bạc như

vôi trong câu “Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”(câu

753-754). Thành ngữ 4 âm tiết: Nửa ở nửa về trong câu “Dùng dằng nửa ở nửa về/

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần” (câu 133-134); Đội trời đạp đất trong câu

“Đội trời đạp đất ở đời/ Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông” (câu 2171- 2172).

Về mặt nghệ thuật, kết cấu của thành ngữ, tục ngữ chặt chẽ, điều đó qui

định cách sử dụng nó khi đưa vào tác phẩm thường là liền một khối. Trong Truyện

Kiều, không ít trường hợp, Nguyễn Du giữ nguyên thành ngữ mà câu thơ vẫn uyển

chuyển, hấp dẫn:

“Ra tuồng mèo mả gà đồng

Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.”

(Câu 1731 - 1732)

“Bề ngoài thơn thớt nói cười

Mà trong nham hiểm giết người không dao”

(Câu 1815 - 1816)

120

Điều dễ nhận thấy là ngôn ngữ trong Truyện Kiều hết sức phong phú và điêu

luyện. Bắt nguồn từ vốn sống dân gian trực tiếp và kế thừa tinh hoa văn hoá của dân

tộc, Nguyễn Du có ý thức sử dụng giá trị biểu đạt của vốn từ địa phương Nghệ

Tĩnh. Theo kết quả thống kê của chúng tôi, trong 3.254 câu thơ lục bát, ông đã sử

dụng 135 từ địa phương xuất hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Có những

từ tần số xuất hiện nhiều lần như từ chi (gì) tới 64 lần; mụ (bà) 17 lần; ả (chị) 5

lần… Hệ thống từ cổ, từ địa phương trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã được tác giả

lựa chọn rất sáng tạo, linh hoạt trong cách sử dụng. Chẳng hạn, với ngữ liệu “vắt

nóc” (tư thế ngồi vắt chân chữ ngũ) trong câu thơ: “Lễ xong hương hoả gia đường,

Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” (Câu 0949 - 0950), tác giả đã bóc trần vẻ trịch

thượng, cao ngạo của mụ chủ chứa, của những kẻ chuyên ăn bám trên thân xác của

những cô gái trong các thanh lâu ngày xưa. Hoặc với từ “dan”, một từ cổ có nghĩa

là nắm tay nhau trong câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây, chị em thơ thẩn dan tay ra

về.” (Câu 051 - 052), người đọc có thể cảm nhận tình cảm trong sáng, vô tư của hai cô

gái trẻ trong buổi chiều tà của ngày Thanh minh.

Như vậy, bên cạnh từ thuần Việt, hư từ, từ láy… những tiểu hệ thống từ ngữ

mang sắc thái bình dân, vốn từ cổ, từ địa phương là một trong những phương tiện

nghệ thuật giúp Nguyễn Du thể hiện tối ưu nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều.

Sau khi về Liêu Dương hộ tang chú, đúng hẹn chàng Kim qua lại tìm Thuý Kiều,

nhưng cảnh cũ còn đây, người xưa giờ đã không còn nữa. Ở ngữ cảnh này, Nguyễn

Du đã tạo nên cái không khí bất an, gấp gáp, ông viết:

“Hỏi ông, ông mắc tụng đình,

Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.

Hỏi nhà, nhà đã dời xa,

Hỏi chàng Vương, với cùng là Thuý Vân.”

(Câu 2757 - 2760)

Cũng trong khung cảnh ấy, có lúc Nguyễn Du đã thay chữ hỏi bằng chữ han

(một từ cổ cũng có nghĩa là hỏi thăm):

“Vội han di trú nơi nao?

121

Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.”

(Câu 2765 - 2766)

Từ han xuất hiện trong ngữ cảnh này vừa tránh được sự lặp từ ở những câu

trên, đồng thời cũng phần nào phản ánh được sự vận dụng vốn từ cổ trong câu thơ

của Truyện Kiều. Từ han kết hợp với lối nói “đánh đường…” (tìm đường, dò lối) -

một cách nói bình dân trong tiếng Việt chúng ta đã tạo nên sắc thái khẩu ngữ, dân

dã nhưng không quê mùa luộm thuộm. Điều đó cũng là một cứ liệu chứng tỏ ông là

bậc thầy về ngôn ngữ khẩu ngữ đời thường và đầy sức sáng tạo trong việc gắn kết

một cách nhuần nhuyễn văn phạm từ pháp Hán và Nôm. Tài năng của ông đã đưa

tiếng nói bình dân lên tầm bác học, rất tinh nhạy trong việc khám phá ra bao điều kỳ

diệu trong tiếng mẹ đẻ của mình. Phải có một tầm văn hoá cao, ý thức dân tộc mạnh

mẽ và tài năng nghệ thuật tuyệt vời, Nguyễn Du mới làm được điều đó. Nhờ vai trò

của ngôn ngữ và văn hoá mà Nguyễn Du đã chuyển được từ một cốt truyện giản

đơn - Kim Vân Kiều truyện 金雲翹傳 của Trung Quốc thành một truyện thơ đặc

sắc, phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam. Từ đó nhân dân ta, đặc

biệt dân xứ Nghệ dường như không ai không biết và thuộc Truyện Kiều.

Khảo sát giá trị biểu đạt và sắc thái ngữ nghĩa của những từ địa phương Nghệ

Tĩnh được sử dụng trong tác phẩm chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Ví dụ, từ “ả”

trong câu: Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này (Câu 0406). Từ ả tiếng địa phương

Nghệ Tĩnh được Nguyễn Du sử dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều với nhiều sắc

thái ngữ nghĩa khác nhau. Có lúc mang ý nghĩa xem thường: Bên thì mấy ả mày

ngài (câu 0927) nhưng chủ yếu mang giá trị đề cao: ả nghĩa là bậc chị ở bề trên:

“Đầu lòng hai ả tố nga” (câu 014); “Lại thua ả Lý bán mình hay sao” (câu 0672).

Từ ả lại vừa có khả năng tạo nên tính gần gũi, khi đã tin nhau mới xưng hô như vậy:

“Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này” (câu 0406). Những từ địa phương này phải đặt

trong ngữ cảnh mới thấy được cái hay của nó. Ngay ở câu: Đầu lòng hai ả tố nga,

từ ả rất hợp với cách kể chuyện của người Nghệ Tĩnh. Hai ả nghĩa là hai cô gái

nhưng đồng thời chỉ sự tương xứng giữa hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân. Từ ả sẽ

tránh được sự lặp lại từ chị ở câu sau: “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân” (câu

122

015). Trước đây một số người coi thường những từ địa phương, từ cổ nhưng với

nhà thơ nhân dân tài hoa như cụ Tiên Điền, vốn từ ấy đã góp phần không nhỏ trong

việc chuyển một cốt truyện có nguồn gốc từ nước ngoài thành một câu chuyện bằng

thơ tràn đầy sức sống mới, trở nên gần gũi với tâm tư, tình cảm, cách ứng xử văn

hoá của con người Việt Nam.

Ngữ liệu văn hoá bình dân, bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã Nguyễn

Du dùng một cách hết sức hợp lý. Ở đó cái giá trị cá thể hoá độc đáo nhất của nó

được sử dụng và thể hiện rõ. Cũng cần phải thấy rằng sự xuất hiện của những từ ngữ

văn hoá ấy được hợp với cấu trúc của câu thơ lục bát, hợp cả về nội dung lẫn hình

thức và âm hưởng của nó. Qua một vài cứ liệu vừa nêu dẫn trên, chúng ta có thể nhận

thấy Nguyễn Du đã khai thác khả năng biểu đạt và biểu cảm độc đáo của vốn từ ngữ

văn hoá, đồng thời vẫn giữ được âm hưởng, giọng điệu của câu thơ lục bát. Nhờ tính

chất khái quát, triết lý, cô đọng của lớp ngôn ngữ bác học và dáng vẻ dung dị, gần gũi

với lới ăn tiếng nói của nhân dân đã góp phần làm phong phú thế giới tâm trạng, khắc

hoạ tính cách nhân vật, nâng Truyện Kiều lên tầm tiểu thuyết tâm lí hiện đại. Điều đó

chứng tỏ Truỵện Kiều là một tác phẩm giàu bản sắc văn hoá dân tộc chắc chắn sẽ

sống mãi với non sông đất nước tươi đẹp, sống mãi với muôn đời.

2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ liệu bác

học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ Truyện Kiều, người ta thường hay chú ý trước

hết đến những chỗ dùng từ chính xác, từ hay, tinh tế thường được gọi là lối dùng từ

đắt của Nguyễn Du, cũng như cách dùng hư từ, khối lượng từ đồng nghĩa, từ có

phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao, thành ngữ, tục ngữ… Đào Nguyên

Phổ 陶元溥 trong lời tựa của Đoạn trường tân thanh (1898) đánh giá tác phẩm này

là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”. Về phương diện ngôn ngữ, công đóng góp của

Nguyễn Du có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với lịch sử. Truyện Kiều đã đem lại

cho mọi người về khả năng phong phú của tiếng việt, phương diện sử dụng ngôn

ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương. Cũng giống như tất cả những tác phẩm văn

học đương thời, ngôn ngữ trong Truyện Kiều gồm hai thành phần ngữ liệu thuần

123

Việt và Hán Việt, bình dân và bác học. Dùng hệ thống ngữ liệu Hán Việt trong tác

phẩm giai đoạn này là một phong cách có tính thời đại, văn học thời kì này phát

triển chữ Hán, chữ Nôm. Theo thống kê của tổ Tư liệu Viện Ngôn ngữ thì Truyện

Kiều có 1310 từ Hán Việt, tức là từ Hán Việt chiếm tỷ lệ 35% trong số tổng số từ

của tác phẩm. Trong số 35% từ Hán Việt của Truyện Kiều không tránh khỏi những

từ, những điển cố khó hiểu nhưng tác giả đã Việt hoá bằng cách dựa vào từ Hán để

tạo ra từ mới cho tiếng Việt [135]. Để tạo ra những từ ngữ mới đôi khi chúng ta vay

mượn tiếng nước ngoài những cấu trúc về từ pháp, cú pháp, một sự vay mượn như

thế có khả năng làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc tạo ra những từ mới cho tiếng Việt

có tính nhạy cảm, có tính chất ngôn ngữ học. Cách tạo từ mới của Nguyễn Du là

căn cứ vào đặc điểm, âm thanh, ngữ điệu của từ tiếng việt, ông đã dịch những từ

ghép và thành ngữ tiếng Hán ra thành những từ thuần Việt. Chẳng hạn: Bạch nhật là

ngày bạc; thiên nhai hải giác: chân trời góc bể; hồng diệp xích thằng: lá thắm chỉ

hồng. Và cũng có khi ông không dịch cả câu, cũng có khi ông dịch một từ và giữ

nguyên một từ gốc Hán, chẳng hạn: Hiên sau treo sẵn cầm trăng thì nguyệt cầm là

cầm trăng; hà bôi: chén hà; xuân miên: giấc xuân… trong trường hợp này từ Hán

được giữ lại thường là một từ dễ hiểu. Như vậy nhà thơ đã tránh được bệnh trùng

lặp, đơn điệu, có thể gieo vần một cách uyển chuyển, có thể làm cho âm hưởng của

câu thơ được dồi dào sinh động. Đọc Truyện Kiều, ta còn bắt gặp được nhiều câu

thơ, nhiều từ ngữ đặc sắc. Nhìn chung, từ ngữ của tác phẩm này không chỉ hay mà

còn rất đắt và độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với

một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân,

59 lần dùng từ xuân, 70 lần dùng hư từ cũng, 60 lần dùng hư từ này. Ngay như hư

từ đã là một từ rất khó dùng, thế mà Nguyễn Du sử dụng được 140 lần như thế.

Điều đó cho thấy, trong quá trình sáng tạo của mình, Nguyễn Du đã vận dụng một

cách tối đa các khái niệm, hệ thống từ ngữ đơn giản nhưng hợp lý và khó thay thế.

Chẳng hạn, từ đã trong các câu sau là những hư từ kết hợp, có tính ngữ pháp khó có

thể thay thế bằng những phó từ khác:

124

“Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa.” (Câu 336)

“Ngày xuân đã dễ mấy khi tình cờ.” (Câu 338)

“Đã lòng quân tử đa mang,

Một lời, vâng tạc đá vàng thỉ chung.”

(Câu 351 - 352)

Các thủ pháp chọn lựa ấy đã phần nào minh chứng thêm về thiên tài ngôn

ngữ của Nguyễn Du. Dưới ngòi bút của của mình, ngôn ngữ dân tộc trở nên trong sáng

lạ kỳ và trở thành một lớp từ đặc biệt, thể hiện rõ phong cách văn hoá của đại thi hào

Nguyễn Du. Ví dụ ở trường hợp ông đã kết hợp hài hoà từ thuần Việt “chi” với những

từ ngữ Hán Việt, thuần Việt khác tạo nên những tổ hợp, cấu trúc cú pháp có ý nghĩa

nghi vấn, hay phủ định tu từ đặc sắc. Từ “chi” xuất hiện 64 lần, nó có những từ đồng

nghĩa như: gì, không, đâu…Nguyễn Du đã không tuỳ tiện trong việc dùng từ địa

phương. Chẳng hạn câu thơ: Phũ phàng chi bấy hoá công. Nếu thay từ chi bấy bằng

từ gì bấy: Phũ phàng gì bấy hoá công thì câu thơ nghe có vẻ không hay và có gì đó

không được lôgic. Khi tác giả dùng từ chi, câu thơ trở nên đúng nhịp điệu, đúng

giọng điệu riêng của nhân vật. Đây là tấm lòng cảm thương chân thành của Thuý

Kiều trước nấm mộ Đạm Tiên - người con gái nổi tiếng tài sắc mà bạc mệnh. Đó là

sự đồng cảm quá lớn khiến nàng phải thốt lên tự đáy lòng. Chi bấy là một cảm thán

từ, có cái gì đó nghe xót xa, thổn thức, lại vừa có cái gì đó trách móc sự bất công

của cuộc đời. Qua nội dung của câu thơ cho thấy, Thuý Kiều là người con gái giàu

cảm xúc, sống rất nội tâm. Để chứng tỏ Thuý Kiều là người con gái đoan trang, hiền

thục, Nguyễn Du đã cho Thuý Kiều trả lời chàng Kim khi chàng có chiều đắm đuối, lả

lơi bằng văn cảnh sau:

“Vẻ chi một đoá yêu đào

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh…

(Câu 0503 - 0504)

“Ra tuồng trên bộc, trong dâu

Thì con người ấy ai cầu làm chi!”

(Câu 0507 - 0508)

125

Trong văn cảnh này từ chi xuất hiện khá nhiều, âu cũng có lý do của nó. Nếu

thay từ “chi” bằng từ “gì” thì âm điệu của nó không phù hợp với câu thơ lục bát và

nhất là không phù hợp với văn cảnh. Từ “chi” tiếng địa phương ngoài nghĩa “gì”

còn có khả năng biểu hiện rõ rệt tính chất khiêm tốn, thành thật và cũng hết sức

duyên dáng trong lời ăn tiếng nói của Thuý Kiều, càng khẳng định nàng là người

con gái biết cư xử, biết giữ gìn phẩm chất của mình.

Có thể nói, cách dùng từ Hán việt của Nguyễn Du vẫn là một bài học sinh

động và sáng tạo về cách sử dụng ngôn từ trong tiếng Việt, làm phong phú thêm thế

giới ngôn từ. Tuy xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng nhà thơ lại rất chú ý đến vốn

ca dao, dân ca trong ngôn ngữ của quần chúng. Qua năm tháng của tuổi thơ, có thể

ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ tài hoa với những khúc hát ru đầy

những ân tình. Về sau, ông lăn lộn trong cuộc sống dân dã với mọi tầng lớp người

trong xã hội và càng chịu ảnh hưởng của văn học dân gian. Nguyễn Du cũng sử

dụng rất nhiều tục ngữ, thành ngữ trong tác phẩm đôi khi chúng ta cũng khó nhận ra

đâu là tục ngữ, thành ngữ dân gian, đâu là những cụm từ có phong cách thành ngữ

do ông sáng tạo trong thi phẩm. Chẳng hạn như những câu sau:

“Dùng dằng nửa ở nửa về…” (Câu 133)

“Quản chi lên thác xuống ghềnh…” (Câu 1951)

“Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu…” (Câu 656)

Những cụm từ như Nửa ở nửa về, lên thác xuống ghềnh, máu sa ruột dàu…

là những thành ngữ do Nguyễn Du sáng tạo, đặt vào trong những ngữ cảnh ấy.

Những câu thành ngữ này đã tạo nên những giá trị thẩm mỹ cao độ trong ngôn ngữ

tác giả. Với nhà thơ, giá trị của ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt là ngôn ngữ địa phương

có đủ sức biểu đạt hình tượng nghệ thuật, cảm xúc dồi dào, tự nhiên, tinh tế và có độ

chính xác cao.

Trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, khẩu ngữ đã giữ một vị trí đặc biệt

quan trọng. Biểu hiện cụ thể của nó được thể hiện trước hết là ở sự gia tăng liều lượng

sử dụng so với các tác phẩm khác như Hoa Tiên, Lục Vân Tiên và sau đó là ở thành tựu

nghệ thuật và phát huy hiệu quả thẩm mỹ của hệ thống thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân

ca... Trong Truyện Kiều, ngữ liệu văn hoá bình dân được sử dụng một cách hữu hiệu

126

khi tác giả mượn cách nói giàu triết lý, mang phong cách dân dã của văn học dân gian,

đời sống bình dân. Chẳng hạn, nếu ở ca dao, tác giả dân gian muốn diễn đạt sự tốn

công vô ích của một sự việc cụ thể nào đó qua thành ngữ “đáy bể mò kim”, “mò kim

đáy bể”, nhưng với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vay mượn thành ngữ này để thể hiện

sự chung tình, sự khó khăn trong hành trình tìm kiến những ý nghĩa đích thực của một

tình yêu chân thành. Ở đây ngoài ý nghĩa thực chỉ của thành ngữ, Tố Như đã nâng cao,

cải biến và mở rộng trường nghĩa của nó thành những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, thể

hiện tâm trạng nhân vật:

“Bấy lâu đáy bể mò kim,

Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa.”

(Câu 3175 - 3176)

Cùng với thành ngữ “đáy bể mò kim”, từ trăng hoa cũng được nhà thơ vận dụng

một cách linh hoạt, không thể hiểu theo lẽ thường vậy. Sáng tạo của Nguyễn Du là ở

chỗ đó. Khả năng nắm bắt, am hiểu về những nét đặc thù, khả năng mở rộng trường

nghĩa và nắm vững những nét khu biệt về nghĩa của các từ ngữ trong vốn sống dân

gian đã được nhà thơ thể hiện quan nghệ thuật sử dụng rất linh hoạt, theo một trật tự

hợp lý. Tổng số 162 thành ngữ có nguồn gốc văn hoá bác học, từ chương Hán học đã

được nhà thơ Việt hoá cao độ và hợp lý, chẳng hạn như: Nàng Ban ả Tạ, hàm én mày

ngài, chắp cánh liền cành, nhả ngọc phun châu, thưa hồng rậm lục…, đây là những

thành ngữ có xuất xứ từ trong thư tịch cổ Trung Hoa. Nó là những điển cố có dạng

thành ngữ nhưng hình thức được tổ chức theo khuôn hình thành ngữ Việt và mang ý

nghĩa biểu trưng cao, ý tứ cao sâu. Để ngợi khen tài thơ của Kiều, Kim Trọng đã dùng

để hai thành ngữ có nguồn gốc bác học nhưng đã được tác giả Việt hoá rất hay và hấp

dẫn, hợp lý:

“Khen: Tài nhả ngọc phun châu,

Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế vầy!”

(Câu 405 - 406)

Nguyễn Du đã phú cho ngôn ngữ chàng Kim một sự nhã nhặn, uyên bác. Lối

diễn đạt ấy hoàn toàn có thể chấp nhận được trong phong cách giao tiếp của người

Việt, vừa dung dị, vừa gần gũi. Nó giúp cho chàng Kim có thể bộc bạch được lời yêu

127

thương đồng thời cũng thể hiện sự đề cao tài năng của Kiều một cách tế nhị, nhẹ

nhàng. Ở điểm này, chúng ta có thể khẳng định sự hoà quyện giữa hai nguồn gốc văn

hoá, ngôn ngữ bác học, bình dân trong ngôn từ nghệ thuật của nhà thơ, một nội dung

kiến thức uyên nhã, bác học được thể hiện qua một hình thức dân tộc, bình dị và phù

hợp với tư duy ngôn ngữ của người Việt Nam.

Hai hệ thống từ ngữ văn hoá được sử dụng trong Ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều chủ yếu thuộc vào các lĩnh vực văn hoá, xã hội thời trung đại. Bên

cạnh các điển cố thi liệu, nhân danh địa danh hay từ ngữ có nguồn gốc từ kinh điển

Nho gia (tức Tứ thư, Ngũ kinh, Chư tử), các thuật ngữ văn hoá xã hội trong ngữ liệu

văn hoá Truyện Kiều là những từ phổ thông, dễ hiểu, đó là những cứ liệu, chỉ dẫn

nghệ thuật giúp tác giả có thể tái hiện một cách hoàn chỉnh bức tranh về đời sống

văn hoá cổ điển phương Đông, tạo nên những giá trị thẩm mỹ vừa uyên bác, trang

nhã, vừa gọn gàng và giàu tính dân tộc. Trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều,

Nguyễn Du đã tận dụng khả năng phản ánh, dung chứa và hàm nghĩa sâu sắc của từ

ngữ để tạo nên bối cảnh văn hoá đặc sắc qua những không gian sinh hoạt văn hoá

đặc thù như tiết thanh minh, hội đạp thanh. Nó không chỉ mô tả thiên nhiên cụ thể

mà nó còn là những bức tranh tâm trạng lưu luyến, da diết thiết tha.

Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều như đã nói, không chỉ khắc hoạ

những khung cảnh hay thể hiện chiều sâu triết mỹ trong tâm hồn, phong thái của thi

nhân, mà còn là những cơ sở thể hiện những tính cách, dòng suy tưởng của nhân

vật, là căn cứ để khái quát văn hoá về phong cách, ngoại hình của nhân vật, tạo nên

những tuyến nhân vật đại diện cho tư tưởng sùng cổ, trọng mỹ góp phần thể hiện tư

tưởng, tình cảm về nhân tình thế thái, cuộc tang thương dâu bể của cuộc đời. Cũng

như Hoa Tiên trước đó và Lục Vân Tiên sau này, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã

vận dụng chúng để biểu đạt những suy nghĩ của nhân vật. Chẳng hạn, để bộc bạch

lý tưởng về chủ nghĩa anh hùng và phẩm cách nhân văn của người anh hùng Từ Hải,

nhà thơ đã sử dụng một lớp từ vựng “biệt ngữ” của tầng lớp nho học như quốc sĩ, tri

kỷ, anh hùng… trong lời phân trần của nhân vật này:

“Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,

128

Chọn người tri kỷ, một ngày được chăng?

Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!...”

(Câu 2427 - 2430)

Trong văn chương bác học, ngữ liệu quốc sĩ 國士 được dùng để chỉ người trí

thức có tầm cỡ quốc gia. Trong Sử ký 史記, Tư Mã Thiên 司馬遷 dẫn lời Tiêu Hà

蕭何 nói với Hán Vương 漢王 Lưu Bang 劉邦 để nói về vai trò của Hàn Tín trong

cuộc chiến Hán Sở: “nhược Hàn Tín giả, quốc sĩ vô song 若韓信者國士無雙”

[189, tr.389] (Như Hàn Tín là bậc quốc sĩ có một không hai trong nước). Ngoài ra,

nhà thơ đã dành riêng cho Từ Hải, con người có tài thao lược danh hiệu cao quý

nhất: văn võ toàn tài, quốc sĩ vô song. Tiếp theo đó là những mỹ từ ngợi ca về lý

tưởng anh hùng của Từ:

“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.”

(Câu 2429 - 2430)

Ngữ liệu anh hùng là từ tôn xưng kính trọng những người có “chí tại tứ

phương”, thiên Học Nhi 學而, sách Luận ngữ 論語 có câu: “Kiến nghĩa bất vi vô

dũng dã 見義不為無勇也” [192, tr.422] và phương châm “kiến nghĩa bất vi vô

dũng dã, kiến nguy bất cứu mạc anh hùng 見義不為 無勇也見危不救莫英雄” của

chủ nghĩa anh hùng phong kiến Trung Hoa. Trong Thuỷ Hử truyện 水滸傳, nhà văn

Thi Nại Am 施耐庵 (đời Minh 明) cũng viết: “Lộ kiến bất bình thành khả nộ, bạt

đao tương trợ thị anh hùng 路見不平成可怒 拔刀相助是英雄” (giữa đường thấy

nỗi bất bình nên giận dữ, giơ đao trợ giúp ấy mới là người anh hùng vậy) [192,

tr.882]. Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Du không chỉ kế thừa từ quan

điểm của cổ nhân mà ông còn bàn rộng thêm ấy là người phải có tấm lòng nhân

đạo, trân trọng cái đẹp, nghĩa cử và tấm lòng đón nhận Thuý Kiều của Từ Hải là

minh chứng cao đẹp nhất cho tinh thần nhân văn của quan niệm về người anh hùng

trong tư tưởng của Tố Như. Sự kết hợp ngữ liệu anh hùng và bất bằng trong câu thơ

trên đã thể hiện rõ những điều vừa phân tích trên.

129

Bên cạnh hệ thống ngữ liệu nguyên dạng, trong ngôn ngữ tác phẩm, những ngữ

liệu chuyển dịch cũng đóng một vai trò quan trọng, không chỉ làm giàu cho từ vựng

văn hoá của tác phẩm về số lượng, khả năng biểu đạt, biểu cảm mà còn tạo nên một ý

nghĩa xã hội rộng lớn. Nhà thơ đã đưa các ý niệm triết học, khái niệm luân lý, bài học

đạo lý trong sách vở bác học đến với quảng đại quần chúng độc giả, góp phần nâng cao

chất lượng tiếp nhận của bạn đọc mà không đánh mất vẻ đẹp cổ điển của Đường thi,

Tống Từ… Đồng thời, nó cũng đánh dấu sự trưởng thành về chất của ngôn ngữ văn

học dân tộc trên phương diện tiếp thu sáng tạo vốn liếng văn hoá, văn học Trung Quốc.

Là một người uyên thâm về nho học, thấy rõ sự thăng hoa và ảnh hưởng mạn mẽ của

chữ Hán và văn hoá từ chương Hán học, nhưng Nguyễn Du lại sử dụng chữ Nôm, thể

thơ lục bát truyền thống để viết nên thiên truyện đặc sắc này.

Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi trong dân gian là vì Nguyễn Du đã đã

sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sinh động, đa dạng, kết hợp một cách thuần thục

hai hệ thống từ ngữ Việt và Hán Việt. Với chữ Nôm - một sáng tạo độc đáo của

người Việt, đó là thứ văn tự giúp cho nhà thơ dễ dàng tiếp cận với vốn từ ngữ có

nguồn gốc từ lời ăn tiếng nói của tầng lớp bình dân và ngôn ngữ đời sống. Trong

quá trình sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật, tác giả đã tổng hợp, điều hoà những ảnh

hưởng của cả hai khuynh hướng bình dân và bác học. Trong những từ chỉ chung

khái niệm phụ nữ của nhà thơ dùng với một dụng ý tu từ học rất rõ, đặc biệt là hai

từ thuần Việt là đàn bà và gái tơ:

“Đau đớn thay, thân phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

(Câu 083 - 084)

“Cớ sao chịu tốt một bề,

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

Phải làm cho biết phép tao!

Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay.”

(Câu 975 - 978)

Rõ ràng nhà thơ phải nói là phận đàn bà mới diễn tả thấm thía cái số phận

chua cay, cực nhục của người phụ nữ trong xã hội cũ trong nửa đầu thế kỉ VIII- XIX.

130

Con người không có quyền được tự do, được khao khát hạnh phúc, khao khát quyền

lợi cho mình. Nguyễn Du dùng gái tơ, phép tao và động tác rắp sấn trong lời nói và

hành động của Tú bà đối với Thuý Kiều. Gái tơ chỉ người phụ nữ còn trẻ vì bản thân

cái ngôn ngữ ấy đã tố cáo tính chất con người Tú bà một cách hết sức cụ thể và sinh

động. Tương tự, từ rắp sấn cũng cho thấy hành động côn đồ độc ác của bọn chủ

chứa. Tác giả đã sử dụng đúng từ thuần Việt nôm na như thế mới diễn tả đúng ngữ

cảnh, hành động, lời nói của nhân vật mà không thể thay thế bằng một từ nào khác.

Ở một trường hợp khác, sắc thái bình dân của những từ ngữ màu sắc đã được

nhà thơ thể hiện qua một thao tác chuyển dịch khá chuẩn xác. Tuy vẫn giữ được nét

từ chương, uyển nhã vốn có của ngôn ngữ bác học nhưng nó vẫn thể hiện được sự

mộc mạc, gần gũi và bình dị của lớp ngôn ngữ quần chúng. Bên cạnh đó, sự sáng

tạo của Nguyễn Du còn được hiện lên ở phương diện sử dụng từ ngữ chuyển dịch

một cách chính xác, thần tình, linh động để khắc hoạ, miêu tả ngoại vật, ngoại cảnh

và nhân vật trong Truyện Kiều. Những từ ngữ ấy không hề xa lạ mà còn phần thân

thuộc với người đọc. Khi tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây;

làn da trắng mịn hơn cả tuyết (mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da). Tả nàng

Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt

khiến liễu phải hờn (hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh). Ngoài những từ ngữ

chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà thiên nặng về tính biểu trưng. Dường như, tác

giả đã sử dụng những từ ngữ chỉ màu sắc, hoặc kiểu định danh sự vật để miêu tả

cảnh vật, khơi gợi tình cảm của con người. Trong Truyện Kiều, chúng ta thấy có cái

“nhờn nhợt màu da” của mụ Tú bà, có cái mặt ngây dại như đổ “chàm xám xịt” của

Thúc Sinh, có những vẻ hình dong chải chuốt của những anh chàng họ Sở hay dáng

vẻ sỗ sàng, vô phép của những tay trí thức rởm đời làm nghề đưa mối bán hương.

Có lẽ với Nguyễn Du, màu sắc là cầu nối giữa tâm và cảnh, giữa vật và người. Màu

cỏ non xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh thanh tân của cuộc đời.

Nguyễn Du không chỉ nắm bắt cái thần thái, ý nghĩa màu sắc của sự vật mà còn

nắm bắt và diễn tả sắc màu tình cảm nhuộm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho

phong cảnh trở lên sinh động, có hồn. Đặc biệt, những từ ngữ chỉ màu sắc ấy, ngày

nay đã trở thành những kiểu định danh khá đặc biệt và điển hình cho những hạng

131

người trong xã hội, cho những ngữ cảnh và gợi tứ cho các văn thi sĩ đời sau trong

quá trình sáng tác.

Cùng với ngôn ngữ bác học, lớp từ ngữ bình dân đã tồn tại trong Truyện

Kiều với tư cách là một phương diện cơ bản của ngôn ngữ tác phẩm. Nguyễn Du đã

vận dụng và sáng tạo chúng một cách tự nhiên, biến hoá, ý vị, linh động, gọn gàng,

đa dạng và phù hợp từng ngữ cảnh, nhân vật. Đó là sự hoà quyện giữa các yếu tố

chủ quan và khách quan theo nguyên tắc của mỹ học cổ điển. Dường như nhà thơ đã

phát hiện được dáng vẻ thần kỳ, hấp dẫn của các quy luật di chuyển từ ngữ văn hoá

vào ngôn ngữ tác phẩm và lý giải, tái cấu trúc ngôn ngữ bình dân trong một dáng vẻ

mới để chúng tự toát lên những ý nghĩa biểu đạt mới mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa

ban sơ và nhạc điệu cơ bản của nó.

Tiểu kết Chương 2.

Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều không chỉ mang tính điển

phạm, quy chuẩn, lôgíc mà nó còn phải đảm bảo tính đăng đối, khái quát, mang tính

biểu trưng sâu sắc và giàu khả năng sáng tạo. Khả năng đăng đối về ngữ nghĩa của

các cứ liệu gốc và chuyển dịch được sử dụng trong ngôn ngữ vẫn đảm bảo được

những đặc tính về thẩm mỹ của ngữ liệu, đặc biệt nó cũng phản ánh một đặc trưng

tư duy, quan niệm thẩm mỹ của thi nhân, góp phần xây dựng những hình tượng

không thời gian định tính mang màu sắc đông phương, hình tượng nhân vật với

những tính cách đa dạng, có đời sống, diễn biến tâm lý nổi bật. Nguyễn Du sử dụng

một hệ thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa những tính

cách, tái tạo không gian hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Hệ thống đó đã góp phần

giúp nhà thơ phác thảo một không gian văn hoá, thẩm mỹ đặc thù khiến cho người

đọc có thể mở ra những trường liên tưởng, những chân trời nghệ thuật mới và có thể

thẩm thấu theo kinh nghiệm, sở học của mình.

Bằng tài hoa và chiều sâu văn hóa, nhà thơ đã làm cho các ngữ liệu văn hóa

trong tác phẩm đảm trách tốt vai trò diễn đạt, biểu hiện những sắc thái, cung bậc

tình cảm của con người. Nguyễn Du đã làm toát lên những sắc thái ý nghĩa của các

ngữ liệu ấy và đặt nó vào đúng vị trí, chức năng thẩm mỹ của nó. Do đó, dù duy lý

132

hay hình tượng, hệ thống ngữ liệu này vẫn đóng một vai trò quan trọng đối với khả

năng tự sự, trữ tình của tác phẩm, góp phần tăng thêm tố chất hàm súc, tinh tế cho

thi pháp ngôn ngữ Truyện Kiều, đưa nghệ thuật thơ ca cổ điển và tiếng Việt văn học

lên một đỉnh cao chưa từng có, trở thành những mẫu mực cho mọi thế hệ bạn đọc và

sáng tác văn chương.

133

Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HOÁ

TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU

3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện nhãn quan và bức tranh thời đại

qua ngôn ngữ tác giả

3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hóa qua ngôn ngữ trữ tình

Như đã nói, ngôn ngữ là một trong những yếu tố cấu thành văn hoá, nó có

sức lan toả sâu rộng không chỉ trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt của cộng đồng

mà còn ảnh hưởng đến quá trình tư duy của từng cá nhân cụ thể. Từ góc độ văn hoá,

Nguyễn Đức Tồn đã nhận định “ngôn ngữ là yếu tố văn hoá hàng đầu và rõ ràng

nhất.” [156, tr.49]. Để có thể tìm hiểu về nhân sinh quan, phong cách nghệ thuật của

Nguyễn Du, thiết nghĩ chúng ta không thể không tìm hiểu về vai trò của tính triết luận

và trầm tích văn hoá trong các ngữ liệu văn hoá được khảo sát cũng như sự thể hiện nó

trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.

Tính triết luận ở đây được hiểu như là chiều sâu văn hoá, những tác động văn

hoá đến sự lựa chọn, sử dụng các ngữ liệu bình dân, bác học trong ngôn ngữ trữ tình

hay tự sự của tác phẩm, tác giả. Hệ thống ngữ liệu này là một sự kết tinh văn hoá

trong quá trình phát triển của ngôn ngữ văn chương trung đại. Về hiệu quả thẩm

mỹ, chiều sâu văn hoá còn được thể hiện qua nghệ thuật hoà phối vốn từ và các từ

ngữ tương đương, khai thác và sử dụng vốn từ ngữ thuần Việt, Hán Việt và các đơn

vị tương đương như thành ngữ, quán ngữ… để phát huy một cách tối đa các hàm

nghĩa văn hoá của ngữ liệu. Do đó, theo chúng tôi, tính triết luận của lớp từ ngữ văn

hoá trong một tác phẩm văn học cổ điển đã góp phần không nhỏ giúp tác giả phản

ánh, nghiền ngẫm về hiện thực, cuộc sống, quan niệm nhân sinh, miêu tả nhân vật,

biểu đạt tình cảm trữ tình cá nhân qua thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng, đặc

biệt là khắc hoạ các bức tranh thiên nhiên đa thanh sắc. Với Nguyễn Du, trong thế

giới ngôn ngữ trữ tình của mình, hình ảnh thiên nhiên như được hiện lện với bao sự

ngổn ngang của tâm trạng nhân vật. Đỗ Minh Tuấn trong Nghệ thuật trữ tình của

Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1995) đã có lý khi cho rằng:

134

Thiên nhiên trong Truyện Kiều được nhuốm một màu cảm xúc đặc

biệt của nhân vật, một cảm xúc đã được trái tim nhà thơ nhận thức lại, đánh

giá lại tâm trạng của nhân vật truyện trước khi nghiễm nhiên vào thiên nhiên

để trở thành trạng thái của cảnh vật được nhà thơ đồng cảm và bình luận.

[161, tr.160].

Người đọc có thể sẻ chia với tâm tư của chàng Kim khi trở lại vườn thuý sau

những tháng ngày về Liêu Dương hộ tang chú:

“Từ ngày muôn dặm phù tang,

Nửa năm ở chốn Liêu Dương lại nhà.

Vội sang vườn Thuý dò la,

Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa.

Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,

Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời.

Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Xập xoè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về, này những lối này năm xưa.”

(Câu 2741 - 2752)

Trong đoạn trích trên, chúng ta có thể nhận thấy tác giả đã sử dụng khá nhiều

ngữ liệu thuần Việt để miêu tả một bức tranh tâm trang đầy những ngỡ ngàng của

chàng Kim. Ngữ liệu phù tang kết hợp với từ muôn dặm được sử dụng như một cái

cớ để tác giả phác thảo bức tranh tâm cảm ấy. Động từ dò la, kết hợp với những từ

láy thuần Việt như quanh quẽ, rã rời, xập xoè trong trường miêu tả đã khiến cho

khung cảnh đang được miêu tả, thêm phần trống trải, thê lương và buồn bã. Đặc

biệt, cũng cần nói thêm rằng, nghệ thuật dịch thơ Đường của tác giả đã được phát

huy một cách tối đa khi ông chuyển dịch rất chuẩn xác và có phong cách rất Việt

hoá một bài thơ nổi tiếng của Thôi Hộ, đó là thi phẩm Đề tích sở kiến xứ (còn có tên

135

là Đề đô thành nam trang). Đọc câu thơ “Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào

năm ngoái còn cười gió đông.”, người đọc vẫn không hề cảm thấy băn khoăn, khó

hiểu hay có một rào cản nào đó khiến cho quá cảm nhận những ngữ liệu Đường thi

bị hạn chế. Bởi lẽ ngữ liệu ấy đã được Việt hoá cao độ, hoà lẫn vào ngôn ngữ trữ

tình của nhà thơ. Và có lẽ, đỉnh cao của sự đớn đau mà Kim Trọng đã phải chịu

đựng là một nghịch cảnh nghiệt ngã đã bày ra trước mắt. Cảnh vẫn đấy nhưng

người đã mất hút, tình vẫn còn sâu đậm nhưng người xưa giờ đã không còn. Qua hai

lần sử dụng đại từ chỉ định này, có lẽ tác giả muốn thay nhân vật thốt lên những lời

thống thiết nhất. Dường như kỷ niệm xưa đã tràn về trong ký ức của một kẻ tình si,

luôn mong mỏi được gặp người yêu của mình: “Đi về, này những lối này năm xưa”.

Hoặc đọc một số câu thơ sau, chúng ta cứ ngỡ như đang đọc những câu thơ hoàn toàn

thuần Việt nhưng thực chất tứ thơ, ý thơ đều được đúc rút từ trong cổ thi Trung Hoa.

“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng.”

(Câu 2241 - 2242)

Lấy tứ từ bài Khứ phụ 去婦 của Mạnh Giao 孟郊 đời Đường: “Thiếp tâm ngẫu

trung ti, Tuy đoạn do khiên liên.” (Lòng thiếp như tơ trong ngó, dẫu đã đứt đoạn nhưng

hãy còn vương trên cành). Hoặc như câu:

“Thiếp như con én lạc đàn,

Phải cung rày đã sợ làn cây cong.”

(Câu 2117 - 2118)

Lấy tứ từ trong Nhạc phủ 樂府 đời Hán 漢: Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc

nhi cao phi (con chim bị trúng tên, thấy cành cong vội bay đi). Việc lựa chọn những

ngữ liệu có nguồn gốc từ văn học tư chương của Trung Hoa và Việt hoá nó trên tinh

thần dân tộc không chỉ tạo nên sự phong phú trong sự miêu tả, khắc hoạ không gian

mà còn giúp cho tác giả có thể khái quát các luận đề triết học tạo nên tính khái quát

cho thi phẩm, tạo nên chiều sâu văn hóa cho ngôn ngữ của các nhân vật trong

Truyện Kiều. Ngoài ra, trong một số trường hợp nhà thơ đã sử dụng các ngữ liệu

bình dân như tục ngữ, thành ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ để

136

nhấn mạnh ý nghĩa của tục ngữ, thành ngữ hoặc để cho phù hợp với vần điệu của

câu thơ hay phát ngôn trữ tình của nhân vật. Những thành ngữ trong ấm ngoài êm,

tình sông nghĩa bể, khổ tận cam lai, đau như dần, ai khảo mà xưng, rút dây động

rừng được bẻ vụn đan cài vào câu thơ sau:

“Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình

Nào ai có khảo mà mình lại xưng”

(Câu 1577 - 1578)

“Những là e ấp dùng dằng,

Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi”

(Câu 2241 - 2242)

Các ngữ liệu bình dân có nguồn gốc từ tục ngữ, thành ngữ và lời ăn tiếng nói

hàng ngày đi vào thơ Nguyễn Du, chan hoà, tan biến trong phong cách của nhà thơ.

Vì vậy, trong Truyện Kiều có nhiều trường hợp khó phân biệt đâu là tục ngữ, thành

ngữ Nguyễn Du học tập quần chúng, đâu là thành ngữ, tục ngữ do nhà thơ sáng tạo

ra. Đối với việc học tập thơ ca dân gian và ngôn ngữ sinh hoạt khẩu ngữ, chúng ta

thấy Nguyễn Du thường lấy chất liệu từ ca dao hoặc chịu ảnh hưởng của ca dao

không chỉ là miêu tả thiên nhiên và tâm trạng nhân vật còn khi cá thể hoá nhân vật

qua ngôn ngữ trữ tình của nó, chủ yếu là nhân vật có tính cách hiện thực chủ nghĩa.

Hoặc có lúc, ông dường như đã sử dụng những từ ngữ rất đỗi quê mùa nhưng thật

sự đã nói lên nỗi long của con người, chẳng hạn ở câu thơ: “Khách đà lên ngựa

người còn nghé theo” (Câu 168). Nghé là một động từ, có nghĩa là nhìn theo nhưng

nhìn một cách kín đáo, lưu luyến có ý trông mong. Từ nghé hay hơn, đặc sắc hơn từ

nhìn vì nó có tính tạo hình, diễn đạt được những cung bậc tình cảm ấn tượng, mến

mộ của Thuý Kiều đối với chàng Kim sau phút đầu gặp gỡ. Nếu Nguyễn Du dùng

từ nhìn không những không bộc lộ hết những diễn biến phức tạp trong thế giới nội

tâm của Thuý Kiều, mà còn phá vỡ cấu trúc câu thơ lục bát.

Khi đi vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong Truyện Kiều, Phan Ngọc đã

cảm nhận “đối với Nguyễn Du, bản thân sự việc không có giá trị nghệ thuật. Giá trị

của nó là cách đánh giá sự việc” [100, tr.80]. Giá trị đích thực của hệ thống hình

137

tượng nghệ thuật, của bức tranh sống động của cuộc sống trở nên phong phú và đa

dạng hơn thông qua hệ thống ngôn ngữ triết lý, trữ tình của nhà thơ. Với cái nhìn

tinh tế, tư duy nhạy bén và lăng kính thẩm mỹ độc đáo, Nguyễn Du đã phác thảo

chiều kích văn hoá phức hợp qua một hệ thống ngôn ngữ trữ tình đặc sắc giàu tính

triết mỹ. Và có lẽ, thiên tài Nguyễn Du được hình thành không chỉ từ học vấn, gia

đình, thời đại hay bối cảnh xã hội mà còn được hun đúc từ một khoảnh khắc nào đó

của vũ trụ, một “sát na” ưu tư bất chợt của tạo hoá. Mỗi câu thơ của ông chẳng

những nhuốm một vẻ đẹp u tịch, bình đạm, thanh khiết và triết mỹ của thơ ca

phương Đông mà còn hiển hiện những đường nét lung linh, sâu sắc của văn hoá Á

Đông nhẹ nhàng và sâu sắc. Và dường như, trong bức tranh thuỷ mặc trầm mặc ấy

của thơ ca cổ điển, ngôn ngữ nghệ thuật trong Truyện Kiều đã rực rỡ lên những ánh

mày tươi sáng, sống động trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Nếu lời thơ trong

Kiều là “lời lời châu ngọc, hàng hành gấm thêu” thì những từ ngữ chỉ màu sắc

trong lời thơ là nghìn hồng vạn tía, là quần trân hiến thuỵ đa thanh sắc. Những câu

thơ sử dụng những từ ngữ chỉ màu sắc như những bông hoa thêu kim tuyến đính cài

trên những đường nét sắc sảo của một bộ y phục hoàn hảo. Bức tranh xuân trong

màu xanh tươi nõn, tinh khôi:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

(Câu 041 - 042)

Không gian đằng đẵng của tâm trạng hoặc hiện thực quá ư tàn nhẫn lại được

hiện rõ qua các sắc màu vàng, hồng, thắm, lục...:

“Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

(Câu 1035 - 1036)

“Thịt da ai cũng là người,

Lòng nào hồng rụng, thắm rời, chẳng đau.”

(Câu 1137 - 1138)

138

Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc tượng tương cho ngoại hình, tính cách của nhân

vật, màu không gian, cuộc đời đầy tính ước lệ trong Truyện Kiều cũng là một biểu

hiện của tính triết mỹ trong ngôn ngữ thi phẩm. Đó là những màu sen, màu hoa lê

tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ:

“Hương càng đượm, lửa càng nồng

Càng xôi vẻ ngọc, càng hồng màu sen.”

(Câu 1383 - 1384)

“ Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?”

(Câu 226)

Ngoài ra trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng màu sắc để định danh tính

cách của một số nhân vật, ta có cái mặt sắt đèn sì của viên quan xử án, mặt như

chàm đổ của anh Thúc sợ vợ nhưng lại thích ăn vụng, có cái lờn lợt màu da của mụ

chủ chứa Tú Bà... Hoặc có những sắc màu ước lệ dụng ý chỉ không gian như màu

bao la:

“Cửa bồng vội mở rèm châu,

Trời cao sông rộng một màu bao la.”

(Câu 2627 - 2628)

Hay đó còn là những mảng màu của cuộc chia ly tê tái đầy trớ trêu của Thúc

Sinh và Thuý Kiều:

“Người lên ngựa kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”

(Câu 1519 - 1520)

Bên cạnh những dạng thức ngôn ngữ đã nêu rõ ở trên, trong Truyện Kiều, vẻ

đẹp của màu sắc trữ tình vẫn sáng lên cùng với những khái quát triết lý nhưng giàu

tính thẩm mỹ qua ngôn ngữ tác giả đã mang đến cho thi phẩm chiều sâu văn hoá,

cái mà các nhà nghiên cứu gọi là lớp trầm tích văn hoá trong Truyện Kiều. Về vấn

đề này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với cách hiểu và biện giải của nhà nghiên cứu

Hoàng Kim Ngọc. Trong chuyên luận So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình của

người Việt (dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học) (2011), tác giả đã đưa ra cách

139

hiểu về trầm tích văn hoá, đó là “những dấu ấn, những chứng tích văn hoá được lưu

giữ, tàng ẩn sâu kín, bị che lấp bởi lớp bui thời gian trong những câu, những chữ

mà mới xem qua không dễ gì phát hiện được.” [98, tr.213]. Lớp ngôn ngữ ẩm hàm

những giá trị văn hoá ấy rất đắc dụng, tạo chiều sâu cho việc khắc hoạ bức tranh

phong cảnh hay tâm lý, những trải nghiệm hiện sinh và nói lên tiếng nói nhân văn,

nhân đạo sâu sắc.

Có thể hình dung cuộc đời Thuý Kiều là một bài thơ trữ tình đầy xúc cảm

đoạn trường, trầm luân mà tác giả là người chứng kiến và cùng chung một chuyến

đò số phận đầy oan trái. Dường như, ngôn ngữ của tác giả dành cho Kiều là những

lời tâm huyết nhất mà ngay cả trong những thi phẩm Hán văn ông cũng chưa bao

giờ nhắc đến. Bởi đó là nỗi đau, cũng là nỗi uất hận muôn đời mà người phụ nữ

phải gánh chịu. Nguyễn Du đã đi hết hành trình của một nhà xã hội học và ông đã

đến lãnh địa của nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Ông viết về kiếp đoạn trường của kẻ

hồng nhan nhưng cũng chính là chép nhật ký của một cõi thăng trầm nơi “hoạn

hải ba đào”, “sóng bể trầm luân” của kiếp người du ca, kẻ lạc loài, tha hương trên

chính quê hương mình. Những câu thơ mở đầu tác phẩm Nguyễn Du đã khái quát

cả một hành trình đo đoan dài đằng đẵng như một sự dự đoán, tiên nghiệm về

thiên mệnh:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.”

(Câu 01 - 06)

Trăm năm là từ chỉ thời gian, là chu kỳ sống của đời người, và cũng là một

kiếp người. Cõi người ta (nhân gian) là không gian. Câu thơ mở đầu như gói trọn cả

vũ trụ (không gian - thời gian), dồn nén trong sự vĩnh cửu của cõi người. Chữ Tài

才là tài năng, là năng lực cá nhân, là ước nguyện của muôn người, Mệnh 命 là điều

140

kiện khách quan, mà khách quan thì có đáp ứng, có hạn chế. Tài mệnh theo quan

niệm nho gia thì cụ thể, ấy là kinh bang tế thế (tài), là thuận thiên mệnh, phụng quân

vương, trạch ân huệ cho muôn dân (mệnh). Song đối với bậc tài hoa, xã hội và điều

kiện cá nhân đã là một sự hạn chế lớn rồi, bởi tư tưởng, tấm lòng, sự khát vọng đã

vượt qua tầm thời đại. “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn

lòng” là thế sự, là toàn bộ chuyện đời. Do đó, Truyện Kiều không chỉ là chuyện tình

mà là một luận đề về cuộc sống, triết lý tồn sinh, sự vô thường của hiện hữu. Hai câu

thơ như một chiếc cầu tâm trạng dẫn xuống hai câu sau: “Lạ gì bỉ sắc tư phong, trời

xanh quen thói má hồng đánh ghen...”. “Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương

古來才命兩相妨” (Lý Thương Ẩn 李商隱) không chỉ là quan niệm theo chủ trương

của Nho gia mà còn là một “niềm tin bình dân” và rất người.. Ấy là lẽ đời, là cuộc chơi

của tạo hoá vậy. Qua triết lý đó, tinh thần nhân văn, nhân đạo của tác giả cũng được

bộc lộ một cách rõ ràng nhất, giọng điệu cảm thương giàu tính trữ tình và khái quát của

ông đã làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc, chan chứa tình người hơn. Ông không chỉ

chịu ảnh hưởng của tôn giáo hay học thuyết về đạo của người quân tử trong cõi tang

bồng, ông đã đứng trước bờ vĩnh cửu, trong cõi trăm năm, dùng tâm để đối đãi, một

triết lý sâu xa không chỉ nhuốm màu tôn giáo mà là những tinh hoa, tư tưởng Nguyễn

Du đã tiếp thu được cộng hưởng với trải nghiệm cá nhân. Tiếng nói ấy, giọng điệu ấy

trở nên cảm thương, đa thanh, giàu sắc thái, khắc hoạ và chỉ rõ những vết loang lổ

của số phận, của đời người như chính tác giả đã từng thốt lên: “phũ phàng chi bấy

hoá công, ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha...” Do đó, khi đọc Nguyễn Du,

Xuân Diệu có cảm giác như đang ở trong một buổi chiều thu rất dài và tê tái. Quả

thực khó tìm thấy một sắc màu tươi sáng, một tâm trạng tươi vui, một ý nghĩ nhẹ

nhỏm. Bóng hình, nét mặt, mái tóc bạc, tâm tình khôn tả xiết, suy nghĩ của Nguyễn

Du dường như đều ẩn chứa nỗi buồn đau. Không chỉ buồn đau cho số phận của bản

thân, cho thời cuộc, gia đình, Nguyễn Du còn là người tự chuốc lấy cho mình nỗi

đau của bao kiếp người trong xã hội với cảm quan thường trực: Cuộc đời trăm năm

có biết bao chuyện thương tâm.

141

Nhà thơ như nhận thức được nỗi đau về thân phận con người trong xã hội,

ông xót xa trước nỗi đau thất cơ lỡ phận: “Xót nàng chút phận thuyền quyên, cành

hoa đem bán vào thuyền lái buôn”. Thuyền (thiền) quyên 嬋娟 là từ văn hoá được

dùng để phiếm chỉ những khuê nữ tiết hạnh của các gia đình có nền nếp gia phong.

Ở trong ngữ cảnh này, Kiều nhi là hiếu tử, tiết trinh thục nữ nhưng lại rơi vào chốn

thanh lâu, đó là cái đáng thương và cũng là sự đáng trọng. Ngữ liệu thuyền quyên

như một lời xót xa trước số phận dâu bể của Kiều. Nghịch cảnh ấy của Kiều dường

như đè nặng trên ngòi bút của nhà thơ và có lẽ nguyên nhân sâu xa hơn là “trong thế

giới nghệ thuật ấy, tư duy siêu hình của nhà tư tưởng Nguyễn Du không kể đến thế

giới hiện tượng và thế giới này nhờ ngòi bút thiên tài của nhà thơ đã làm lu mờ

chân lý của thế giới siêu hình” [100, tr.349]. Nhà thơ đã suy nghĩ bằng trái tim phúc

hậu, bằng nỗi lòng cảm thương. Ông đã giải thích cuộc đời bằng số mệnh, nhưng

đồng thời ông lại đứng về phía con người để cưỡng thiên, đoạt mệnh. Ông đã thi vị

hoá số mệnh con người bằng những ngữ liệu văn hoá như trời xanh, hoá nhi, hoá

công, trăng già... Nhưng trên hết, nhà thơ vẫn đến với các nhân vật trữ tình của mình,

đặc biệt là Thuý Kiều bằng tấm lòng sẻ chia, cảm thương, bằng một trái tim vĩ đại của

bậc triết nhân. Cùng với những nỗi niềm ấy là những nghịch cảnh, những mảnh ghép

của số phận mà ông đã chứng kiến, tiếng nói của ông là tiếng nói của trái tim nhận

thức. Phía cuối của đoạn đường là bến bờ của ảo vọng nhưng dù thế nào đi chăng

nữa nhà thơ cũng tạo nên những bức tranh vui tươi để làm đẹp cho cuộc sống.

Những ảo ảnh của cuộc đời có thể làm tăng thêm những nỗi đau nhân thế và do đó

những lời trữ tình, triết lý của nhà thơ không chỉ tạo nên sắc thái mới mẻ của cuộc

biến thiên, những khái quát đậm tính triết học, mà còn là sắc diện cụ thể của mỗi

nhân vật, âm thanh của mỗi ngoại cảnh, sự sắc sảo của mỗi tính cách. Nhưng vượt

lên trên tất cả vẫn là một bề dày vững chắc, độ thâm thuý và uyên áo văn hoá của

một tâm hồn đa cảm, giàu nghị lực, học thức và dạt dào của một trái tim nhân ái

đậm tính hồn hậu, thâm trầm của văn hoá Việt Nam.

Theo Doãn Quốc Sĩ, Việt Tử trong Khảo luận về Đoạn trường tân thanh

(1964), dường như bóng dáng của Nguyễn Du trong các sáng tác của ông là sự “tồn

142

tại của con người là một trạng huống đau thương” [126, tr.45], những biểu hiện của

thể của nó vừa bi quan yếm thế, vừa xót xa đầy thương cảm. Nhà thơ của chúng ta

đã đi đến tận cùng của nỗi đau của nhân thế, đã thấm hết nỗi ấm lạnh của nhân tình

thế thái, nỗi hờn ghen của hoá nhi qua bức tranh tâm lý của hệ thống nhân vật trong

thế giới nghệ thuật khá phức tạp nhưng vô cùng hấp dẫn của mình. Sự kết hợp, hoà

lẫn hai yếu tố triết luận và trầm tích văn hoá trong ngôn ngữ trữ tình của Nguyễn Du

không chỉ góp phần làm sáng rõ cơ sở tư tưởng, là phong phú hoá khả năng tiếp

cận, khái quát hiện thực, miêu tả không gian nghệ thuật, tâm trạng nhân vật trong

Truyện Kiều. Ngoài ra, nếu tính triết luận làm cho vấn đề được trình bày được mạch

lạc, có luận đề và khái quát thì trầm tích văn hoá khiến cho những nội dung được

nhà thơ khái quát đó thêm sự hấp dẫn, thẩm mỹ và sâu sắc. Trong tư duy nghệ thuật

và quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ, hai đặc trưng này chuyển hoá, tác động qua lại

một cách thần tình khiến cho ngôn ngữ trữ tình của nhà thơ luôn sinh động, có tính

triết mỹ, không có sự lặp lại, điều đó đã tạo nên sự trong sáng, hài hoà cho ngôn

ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong thiên truyện.

3.1.2. Bức tranh văn hóa thời đại qua ngôn ngữ tự sự

Ngôn ngữ tự sự (hay còn gọi là ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện) là

ngôn ngữ của tác giả, góp phần bổ sung những quan điển của mình đối với những

hiện tượng được miêu tả. Bên cạnh chiều sâu triết mỹ của ngôn ngữ triết lý, trữ tình,

sự có mặt của ngôn ngữ tự sự đã cố kết và làm cho tác phẩm trở thành một chỉnh thể

trọn vẹn, chặt chẽ, hợp lôgíc. Trong truyện thơ Nôm nói chung và Truyện Kiều nói

riêng, hệ thống này không chỉ đóng vai trò then chốt trong mô tả diễn biến cốt

truyện, thể hiện tài năng và sự sáng tạo của tác giả mà còn biểu lộ chiều sâu thẩm

mỹ của ý thức văn hoá trong quá trình phản ánh đời sống văn hoá một thời đại.

Qua ngôn ngữ tự sự, tác giả thể hiện một cái nhìn, một giọng điệu, một

phông văn hoá riêng của mình trước những vấn đề của cuộc sống và nghệ thuật.

Ngôn ngữ tự sự của tác giả, xét ở bình diện hẹp, nó có thể mang đến cho nhân vật,

không gian, thời gian nghệ thuật của tác phẩm những nét đẹp riêng, qua đó bộc lộ

một cách khái quát nhất tư duy thẩm mỹ và khả năng khái quát đời sống của tác giả.

143

Ngôn ngữ tự sự, nếu xét từ phương diện trần thuật, được hiểu là những lời kể

của tác giả nhằm nêu lên một vấn đề nào đấy. Để mở đầu cho tác phẩm của mình,

Nguyễn Du đã khai mở một không - thời gian văn hoá đặc trưng của những tác

phẩm trung đại, ấy là không - thời gian của triều đại, gia cảnh hay bất kỳ một khung

cảnh nên thơ, nơi gặp gỡ, đoàn viên, là phát đoan của những nỗi đoạn trường.

Chẳng hạn, Nguyễn Du đã giới thiệu:

“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương

Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.”

(Câu 09 - 012)

Ở đoạn thơ trên, nhà thơ đã cung cấp cho người đọc những thông tin về nội

dung câu chuyện đang được kể. Căn cứ vào nguyên tác Kim Vân Kiều truyện

金雲翹傳 của Thanh Tâm tài nhân 青心才人, thời gian diễn ra câu chuyện được

Nguyễn Du giới thiệu là vào niên hiệu Gia Tĩnh 嘉靖 của Minh Thế Tông 明世宗 ở

Trung Hoa. Qua hai từ láy phẳng lặng, vững vàng trong ngôn ngữ kể của tác giả,

người đọc có thể hình dung đây là một thời kì thịnh trị “Bốn phương phẳng lặng,

hai kinh vững vàng”. Tiếp đến, nhà thơ đã giới thiệu về gia cảnh của Kiều nhi. Một

gia đình trung lưu có nền nếp “thường thường bậc trung”. Nhà thơ không chỉ nêu

bật những nội dung cần thông báo bằng một lối tự sự đơn thuần mà tác giả còn bộc

lộ những điểm nhìn của mình về sự vật, hiện tượng, qua đó đánh giá những yếu tố

cần miêu tả trong thi phẩm. Lời giới thiệu tưởng chừng như có vẻ khuôn cách

nhưng cũng đủ khiến cho độc giả có thể hiểu được phần nào về gia thế và thời đại

của Kiều. Tiếp đến, Nguyễn Du miêu tả khung cảnh tài tử giai nhân tao ngộ qua sự

xuất hiện của Kim Trọng trong buổi Thanh minh:

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm, một vài bông hoa

144

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.”

(Câu 039 - 044)

“Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha mầu áo nhuộm non da trời.”

(Câu 0139 - 0140)

“Hài văn lần bước dặm xanh

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”

(Câu 0143 - 0144)

Một bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội được nhà thơ phác thảo qua

những hình ảnh rất đặc trưng của văn hoá Trung Hoa, Việt Nam. Con người trong tiết

thanh minh đi sửa phần mộ và tìm đến những bóng hình quá khứ tạo nên một dạng

thức của không gian hồi cố trong tâm cảm. Khung cảnh thiên nhiên diễm lệ ấy cũng

chính là cái cớ để nhà thơ miêu tả một bức chân dung hoàn chỉnh về người nho sĩ tài

hoa theo quan niệm nho gia. Có lẽ, ở đoạn thơ này, Nguyễn Du đã chọn bức tranh

thanh minh làm nền cho chân dung của nhân vật Kim Trọng trở nên nổi bật và sinh

động hơn. Trong bức tranh ấy, vẻ đẹp thiên nhiên trở nên thơ mộng hơn nhờ có hình

ảnh con người và hình ảnh con người trở nên cụ thể hơn nhờ có thiên nhiên vậy.

Thiên nhiên là chuẩn mực, con người là điểm son. Tất cả những ngữ liệu miêu tả Kim

Trọng đều gắn liền với thanh sắc (màu xanh): hài văn lần bước dặm xanh, cỏ pha

màu áo nhuộm non da trời, một vùng như thể cây quỳnh cành dao... những ngữ liệu

như hài văn, dặm xanh, cây quỳnh , cành dao... đều mang tâm thức văn hoá, dễ liên

tưởng qua lại và chính điều đó đã mang lại cho đoạn thơ và ngôn ngữ tự sự tác giả

chất trữ tình, nhẹ nhàng và có chiều sâu văn hoá. Đồng thời, cách thức liên tưởng và

sử dụng ấy cũng tạo nên chuỗi thanh âm phức điệu, những hoà điệu mang tính ngữ

cảnh của thể loại truyện Nôm, của xu hướng cao nhã, của cảm thức văn hoá cá nhân

tác giả. Bản thân nó (tức thanh âm phức điệu) có thể tạo nên một tiềm năng văn hoá

mà mỗi độc giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo cho mình những mô thức riêng, tuỳ thuộc

vào “tầm đón nhận”, vốn học, vốn đọc, vốn sống và phông văn hoá cá nhân.

145

Truyện Kiều là một tác phẩm có cốt truyện đa chủ đề, có cấu trúc mạch tự sự

đa dạng. Nguyễn Du đã viết thiên truyện này bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, đó là

những luận lý mà ông đã rút ra được từ triết thuyết đầy tính siêu hình, bí ẩn của Nho

giáo, từ cái nhìn nhận cuộc đời theo quan niệm chữ Nghiệp, luật Nhân quả của Phật

giáo và có chút lãng mạn trong quan niệm về nhân sinh của Lão Trang. Đó cũng là

bức tranh văn hoá chung cho tất cả các tác phẩm ở giai đoạn này. Nhìn từ góc độ

ngôn ngữ tự sự và văn hoá, đặc biệt là văn hoá tâm linh, chúng ta có thể nhận thấy,

những cách nhìn nhận, cắt nghĩa đó của Nguyễn Du đó đều có tính định hướng cho

tác phẩm, tạo nên những ấn tượng, ám ảnh lớn đối với người đọc, tiếp nhận. Mạch

kể chuyện của tác giả đi theo mạch song hành theo từng cặp của thế giới mơ - thực,

hiện hữu - hư vô, chập chờn hoang tưởng - đắng cay hiện thực, và ánh sáng - bóng

tối. Câu chuyện gặp gỡ giữa Thuý Kiều và Đạm Tiên, một cuộc gặp gỡ có tính tiền

định của những con người tài hoa, giữa thực - hư, giữa thực tại - mộng mị, đã được

tác giả kết hợp, lồng ghép kiểu tự sự theo trật tự tuyến tính và cấu trúc trùng điệp.

Quan điểm của Nguyễn Du về thân phận của những con người tài hoa đã được ông

phát biểu qua nhận định của Thuý Kiều:

“Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,

Thác là thể phách, còn là tinh anh.”

(Câu 0115 - 0116)

Dường như ở lời nhận định này, với những ngữ liệu tài hoa, thể phách, tinh

anh, nhà thơ đã thể hiện quan điểm cụ thể của mình về vấn đề con người nói chung

và người tài hoa nói riêng. Trong mạch tư duy đó, ông đã tỏ bày nhận định của

mình về cuộc sống, về hiện thực phũ phàng lúc bấy giờ. Khi bàn về số phận của

người phụ nữ, nhà thơ đã thốt lên:

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

(Câu 083 - 084)

Nếu ở những nhận định về thân phận của những con người tài hoa bạc mệnh,

nhà thơ đã khái quát thành một định đề bằng những ngữ liệu văn hoá có tính trang

146

trọng thì ở tấm lòng thương cảm cho số phận cụ thể của người phụ nữ, nhà thơ như

chua xót thốt lên những lời cay đắng qua một số ngữ liệu bình dân, thuần Việt rất

gần gũi, bình dị, dễ khơi gợi sự xúc động ở người đọc. Đó là từ láy đau đớn, là từ

thuần Việt đàn bà và cách diễn đạt cũng rất khẩu ngữ, gần với lối nói của người

bình dân như đau đớn thay, lời rằng, cũng là. Trong câu thơ trên, một ngữ liệu Hán

Việt duy nhất là bạc mệnh được đặt ở câu bát như một lý lẽ cao nhất mà nhà thơ

muốn dẫn dụng để chứng minh cho một triết thuyết phổ biến lúc bấy giờ tài hoa

hoa bạc mệnh.

Như vậy, về mô hình tự sự và vai trò của ngôn ngữ tác giả trong Truyện

Kiều, chúng ta nhận thấy dường như Nguyễn Du đã viện dẫn đến yếu tố tâm linh để

tạo tính linh hoạt cho câu chuyện được kể, tạo sự hợp lý nhất quán khi lý giải về số

phận của nàng Kiều. Đặc biệt, nhà thơ đã đan xen, lồng ghép ngôn ngữ tác giả và

ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện một cách khéo léo, tinh thế khiến cho

người đọc cảm thấy sự vô tư, chân tình và trăn trở của tác giả đối với những con

người tài hoa bạc mệnh, đối với thân phận người phụ nữ mà chính tác giả và nàng

Kiều của ông là hiện thân cho những điều ấy.

Bên cạnh tính phức điệu, ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể hiện một khả

năng đối chiếu và tương phản đặc biệt. Để có được những chân dung nhân vật sắc

nét, hai tuyến nhân vật tương phản nhau trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng

tối đa những ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ tự sự, thuật truyện, tái hiện các khuôn

hình khác nhau của một không gian văn hoá trung đại. Dưới lăng kính mỹ học cổ

điển, ngòi bút nhân đạo cảm thương, tuyến nhân vật chính diện được nhà thơ xây

dựng theo quan điểm tích cực hoá, đạo đức hoá và thẩm mỹ hoá theo những công

thức điển phạm, quy củ và chịu sự ràng buộc của thi pháp văn học cổ. Trong bức

tranh văn hoá ấy, các nhân vật của Truyện Kiều được phác thảo qua những nét ký hoạ

thuỷ mặc của quốc hoạ Trung Hoa. Kim Trọng “phong tư tài mạo”, Thuý Vân như

“hoa cười, ngọc thốt”, Thuý Kiều tựa “làn thu thuỷ, nét xuân sơn” và tướng mạo uy

nghi, dũng mãnh của bậc hổ tướng “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” - Từ

Hải. Những ngữ liệu gắn liền với hệ thống nhân vật này cũng là những mỹ từ ước lệ,

147

mang tính biểu trưng. Giọt nước mắt của Kiều là “hạt châu”, “giọt hồng” hay “màu

hoa lê đã dầm dề hạt mưa”. Những ngữ liệu ấy khiến người đọc liên tưởng đến hình

ảnh thiếu nữ Lâm Đại Ngọc 林黛玉 nhỏ từng giọt châu khóc thương cho hoa lê đã

sớm lìa cành trong Hồng Lâu Mộng 紅樓夢 của Tào Tuyết Cần 曹雪芹 (Thanh 清).

Những từ ngữ giàu tính biểu đạt, tượng trưng và mang sắc thái thẩm mỹ cao độ ấy

hoàn toàn phù hợp với những nhân vật mang tầm tư tưởng, khát vọng và ý nguyện

của nhà thơ. Đối với những nhân vật phản diện, đối lập, phản đề, nhà thơ sử dụng

hàng loạt những từ ngữ thuần Việt (ngữ liệu chuyển dịch) một cách đắc địa. Mã Giám

Sinh trong cuộc mua bán oan nghiệt của Thuý Kiều, hắn tỏ ra biết người biết của

nhưng với bản chất con buôn, hắn luôn thận trọng đắn đo, thương lượng. Mọi cử

chỉ, ngôn ngữ vẫn hết sức từ tốn, thể hiện sự cân nhắc tính toán chi li, chặt chẽ. Tuy

nhiên, Mã Giám Sinh biết rõ đây là một “món hời” nên hắn tỏ ra lịch thiệp với

những từ ngữ cực kỳ hoa mỹ:

“Rằng: Mua ngọc đến Lam kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường...”

(Câu 0643 - 0644)

Sự đề cao Thuý Kiều (ngọc đến Lam Kiều), coi đây là việc cưới sinh hợp lễ,

nghiêm túc (sinh nghí) và thái độ nhũn nhặn (xin dạy...cho tường) vẫn không giấu

được bản chất con buôn của hắn khi chạm đến mùi tiền:

“Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”

(Câu 0647 - 0648)

Qua những mỹ từ văn hoá như Lam kiều, sính nghi, các biệt ngữ thể hiện các

mánh khoé, chiêu thức, mánh lới buôn bán như cò kè, bớt một thêm hai, ngã giá…

của gã họ Mã, ngòi bút trực tả của Nguyễn Du đã kịp lật tẩy mối quan hệ mập mờ,

vẻ ngoài chải chuốt, cử chỉ vô học, ngôn ngữ tiểu nhân, đặc biệt là bản chất con

buôn của Mã Giám sinh và kịp đưa hắn lên màn diễn của sân khấu cuộc đời, một

lớp, một màn nhỏ của vở kịch đoạn trường mà Thuý Kiều sẽ phải lặn ngụp suốt

mười lăm năm đằng đẵng. Có thể nói, ngôn ngữ tự sự của tác giả tuy không đi sâu

148

vào thế giới nội tâm của nhân vật, nhưng qua lớp ngôn ngữ đặc trưng ấy, nhà thơ

như muốn giới thiệu một cách trang trọng những bức chân dung, những biểu tượng

về những đức tính, số phận và hình tượng con người theo quan điểm triết học đông

phương. Đồng thời, Nguyễn Du cũng khắc họa thành công những bức truyền thần

cụ thể bằng những nét vẽ và chất liệu từ chính bản thân cuộc đời tác giả.

Có thể thấy, qua lời kể của tác giả và trực tiếp đọc Truyện Kiều, dường như

như bất kỳ độc giả nào cũng đồng ý với nhận định của Hoàng Hữu Yên:

Ai mà nén nổi xúc động trước mọi chặng đường khổ ải của nạn nhân

Thuý Kiều…, ai mà không thấy hiện lên trước mắt là cái “lờn lợt màu da”,

với những lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà không ghê rợn về

sự tính toán bỉ ổi của tên ma cô họ Mã! Cũng chẳng ai quên được cái

“lẻn”, cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên lừa đảo đốn mạt Sở

Khanh…” [173, tr.47].

Đến như Từ Hải một tay gây dựng nên một góc giang sơn, khi đáp lời Thuý

Kiều cũng sử dụng những từ ngữ rất đỗi quen thuộc như:

“Huống chi việc cũng việc nhà,

Lọ là thâm tạ, mới là tri ân.”

(Câu 2431 - 2432)

“Sao cho muôn dặm một nhà,

Cho người thấy mặt, là ta cam lòng.”

(Câu 2435 - 2436)

Điểm lại trong tác phẩm, các đoạn thơ sử dụng các ngữ liệu mang tính khẩu

ngữ quần chúng tuy rất tục nhưng rất hợp lý và chuẩn mực. Qua lớp từ ấy, Nguyễn

Du đã miêu tả thành công một bức tranh điêu khắc chạm nổi tiêu biểu cho ngôn ngữ

nhân vật Truyện Kiều.

Ngoài ra, khi bàn đến ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du, nhà thơ ít sử dụng

bạch miêu, tức là cách kể mộc, miêu tả trực diện, trực tiếp, miêu tả rõ ràng. Ông

thường tuân thủ theo lối vẽ mây nẩy trăng, kiểu vẽ bóng đầy những dụng ý sâu xa.

Chẳng hạn ở đoạn thơ sau:

149

“Hàn huyên chưa kịp dãi dề,

Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao:

Người nách thước, kẻ tay dao

Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi.

Già giang một lão một trai,

Một dây vô lại buộc hai thâm tình.

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,

Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai.

Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.”

(Câu 0575 - 0584)

Bình luận về đoạn này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhận định của tác giả

Thi pháp Truyện Kiều, ông cho rằng: “Mọi sự vật đi vào Truyện Kiều đều mang

theo một cái bóng mờ của sự cảm thụ chủ quan trong tương quan của các sự vật.

Cách gọi gọi tên sự vật ở đây là cách gọi tên của hoán dụ, ẩn dụ theo kiểu thơ.”

[132, tr.191]. Đoạn thơ miêu tả cảnh sai nha đến nhà bắt Vương ông và Vương

Quan, tuy không có cái chất thời sự, trực tiếp nhưng có lẽ người đọc cũng khó lòng

cảm nhận được cái gấp gáp, nhốn nháo của một khung cảnh bất thường của gia đình

qua các thành ngữ, từ ngữ thuần Việt, từ láy như đầu trâu mặt ngựa, ào ào, sạch

sành sanh, hoặc lối dùng từ có những định ngữ trang sức kẻ nách thước, kẻ tay dao,

tiếng ruồi xanh, rụng rời khung dệt, tan tành gối mai…Nhìn từ góc độ văn hoá, qua

các ngữ liệu bình dân, bác học, chúng ta có thể nhận thấy tài năng cũng như sự đa

dạng trong cách tiếp cận, thuật chuyện của nhà thơ rất đa dạng, linh động. Điều ấy

không chỉ thể hiện tài năng và phong cách nghệ sĩ mà còn thể hiện phông văn hoá sâu

sắc của Tố Như. Đó là sự tích hợp, lắng đọng những “vỉa văn hoá” mà nhà thơ đã ảnh

hưởng, thu thập được trong hành trình sống và chiêm nghiệm của mình. Ông thể hiện

nó một cách tài nghệ, điêu luyện, súc tích trong tác phẩm của mình.

Sáng tạo của Nguyễn Du trong ngôn ngữ tự sự của thi phẩm mày được thể

hiện ở chỗ ông đã tái tạo lại các cấu trúc, mô hình ngữ liệu có nguồn gốc từ văn

150

hoá, cốt truyện Trung Hoa, ông thổi hồn Việt, nhân văn Việt vào các lớp từ ngữ ấy

qua cách cách diễn đạt, ngữ nghĩa hoặc sắc thái phong cách của nó. Không có ở đâu

mà tiếng Việt trở nên trong sáng, linh hoạt, tinh vi và xác thực như trong ngôn ngữ

nghệ thuật Truyện Kiều. Sự xuất hiện của các ngữ liệu văn hoá bình dân như tục

ngữ, ca dao, thành ngữ thuần Việt, các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ Việt là một

sự biểu hiện cao độ của quá trình dân chủ, dân tộc hoá ngôn ngữ văn chương cổ

điển Việt Nam. Việc linh hoạt hoá, Việt hoá các hình thức biểu hiện của các ngữ

liệu văn hoá bác học, Hán Việt đã giúp cho các ngữ liệu bác học này có khả năng

biểu đạt phù hợp, gần gũi và thống nhất với tâm hồn, văn hoá Việt. Trong thực tế,

ông đã sử dụng một lớp từ đồng nghĩa thay thế theo cấu trúc kết hợp Việt - Hán rất

hấp dẫn khiến cho câu thơ không hề có sự nhàm chán, tẻ nhạt. Để nói về những giọt

nước mắt, có lúc ông dùng từ lệ hoa (Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng - câu

634), giọt lệ (Tưới xin giọt lệ cho người thác oan - Câu 748), giọt châu (Giọt châu

lã chã khôn cầm - câu 1857), giọt hồng (Nhìn càng lã chã giọt hồng - câu 875)...

hoặc để nói về giấc ngủ, ông cũng dùng khá nhiều từ đồng nghĩa thay thế như giấc

hoè (Tiếng sen sẽ động giấc hoè - câu 437), giấc hương quan (Giấc hương quan

luống lần mơ canh dài - Câu 1266), giấc nồng (Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng -

câu 759), giấc xuân (Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân - câu 713), giấc mai (Giật mình

thoắt tỉnh giấc mai - câu 2727)... Hầu hết những từ thay thế đồng nghĩa này đều là

những điển cố hoặc là những từ ngữ văn hoá được nhà thơ tạo ra. Tất cả được ông

tổ hợp xây dựng theo nguyên tắc mỹ học nhất định chứ không phải là một sự lắp

ghép thông thường. Lối sử dụng này cũng có tính trau chuốt, có nguồn gốc xuất xứ

phong phú, có chức năng gợi cảm khác nhau nhưng căn bản vẫn giữ được hồn cốt

dân tộc. Đó là một đóng góp lớn của Tố Như tiên sinh.

Tựu trung, trong lịch sử phát triển của tiếng Việt và thơ ca cổ điển Việt Nam,

chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ, đặc biệt là lớp từ ngữ mang phong

cách khẩu ngữ mới thực sự được xem là lớp ngôn từ nghệ thuật đặc sắc, có sức sống

tràn trề, mãnh liệt. Xét từ góc độ văn hoá nhân văn, Nguyễn Du không chỉ là nhà

151

nghệ sĩ lớn về ngôn từ mà còn là một nhà văn hoá lớn với những phương thức ứng

xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó. Điều này có ý

nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca mà Nguyễn Du là một tấm

gương tiêu biểu. Đồng thời, trong quá trình tạo tác, cái khéo léo của nhà thơ là đã

đồng hoá một cách cao độ cái vốn quý bình dân ấy, đưa lời ăn tiếng nói của nhân

dân vào lớp từ ngữ đẹp, đắc dụng nhất. Bao lời ăn tiếng nói của quần chúng được

nhà thơ sử dụng rất điêu luyện, đều có vị trí xứng đáng trong ngôn ngữ Truyện Kiều

và phát huy tác dụng một cách sắc sảo.

3.2. Ngữ liệu văn hóa với sự thể hiện chiều sâu triết mỹ qua ngôn ngữ nhân

vật trong Truyện Kiều

3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn và

Hải hạc văn

Đặc tính của tư duy phương Đông nói chung là lối tư duy cầu tính, mang tính

chủ toàn, thiên về cảm xúc, trọng sự đăng đối, nặng về thẩm mỹ và đề cao cái đẹp

hài hoà. Đặc tính này đã tạo nên một bức tranh ý niệm mang tính biểu tượng về thế

giới, hiện thực khách quan và được thể hiện một cách sâu sắc trong ngôn ngữ văn tự

Hán và Việt. Người xưa lấy cái lý về thái cực, tính đối xứng, khả năng đối trọng

giữa ngữ nghĩa và hình thức của câu chữ để diễn đạt những ý tưởng thẩm mỹ, phác

hoạ thế giới hình tượng đặc trưng của văn chương cổ điển. Do đó, các ngữ liệu văn

hoá trong Truyện Kiều, không đơn thuần là sự so sánh, đăng đối tạo nên những thần

cú nhãn tự mà đằng sau nó là những bài học triết lý, giáo huấn sâu xa, nó giúp cho ý

nghĩa câu thơ thêm phong phú. Một trong những đặc trưng cơ bản của văn chương

trung đại là tính chất cao quý, thanh nhã, giàu khả năng tượng trưng, linh hoạt và đa

nghĩa, từ ít ý nhiều, thi ảnh mang tính biểu trưng, khái quát cao độ. Ở thời trung đại,

người cầm bút hầu hết đều là những bậc trí thức nho học có trình độ học vấn uyên

thâm. Mỹ học trung đại quy định khuôn khổ diễn đạt chung, phải tuân thủ theo

hướng thanh nhã, quý tộc, cao sang, từ đề tài, hình tượng nhân vật, hình ảnh đến

giọng điệu, ngôn ngữ, từ các biện pháp tu từ học như ẩn dụ, tượng trưng đến điển

cố, mỹ từ văn hoá, thi văn liệu được dẫn dụng... Thái độ thẩm mỹ này đã ảnh hưởng

rất lớn tới hoạt động sáng tạo của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều.

152

Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về đặc trưng thẩm mỹ của ngôn ngữ nhân vật

Truyện Kiều, Nguyễn Lộc đã nhấn mạnh:

Chỉ riêng về ngôn ngữ nhân vật, yếu tố truyền thống và những sáng

tạo riêng của nhà thơ vẫn biểu hiện rõ nét. Trong ngôn ngữ các nhân vật

Truyện Kiều, có yếu tố hiện thực chủ nghĩa, nhưng có tính chất ước lệ mà

chúng ta thường thấy trong ngôn ngữ văn học của thế kỷ XVIII và nửa đầu

thế kỷ XIX. Có một điều phải tính đến, là ngôn ngữ trong thơ ca, cả xưa lẫn

nay bao giờ cũng có tính chất cách điệu hoá. Đây là một đặc điểm thuộc loại

hình... tính chất ước lệ trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều có phần là do

cách điệu hoá của loại hình thơ lục bát, với số chữ và vần điệu chặt chẽ.

Nhưng chủ yếu nó là một đặc điểm có tính chất loại biệt trong nghệ thuật

biểu hiện của văn học phong kiến... [89 ; tr.46]

Khảo sát trong thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 của Nguyễn Du,

chúng tôi nhận thấy có một chùm ba bài rất đáng chú ý, đó là Khổng tước vũ

孔雀舞, Điệp tử thư trung 蝶死書中 và Độc Tiểu Thanh ký 讀小青記. Ở Điệp tử

thư trung, tác giả sử dụng hình ảnh cái chết của con bướm để ví như sứ mạng của

nhà thơ, dù thế nào cũng cháy hết mình cho nghệ thuật. Trong Độc Tiểu thanh ký,

nhà thơ đã nêu rõ sự sứ mệnh của văn chương và tâm sự của một thi nhân ưu thời

mẫn thế. Cùng với hai bài thơ trên, bài Khổng tước vũ cũng được xem là một phát

ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Qua hai hình ảnh chim Khổng Tước với một bộ lông

sặc sỡ và chim Hải hạc với dáng vẻ điềm tĩnh thanh tao, nhà thơ như muốn thông

điệp đến độc giả những thông tin về mối quan hệ giữa hình thực và nội dung thẩm

mỹ của văn chương nói chung và ngôn ngữ tác phẩm nói riêng. Hơn thế nữa, nhà

thơ đã kế thừa sự phá vỡ của nguyên lý thẩm mỹ đồng nhất trong sáng tạo các hình

tượng, ngôn ngữ nhân vật trong văn học dân gian và truyện Nôm truyền thống. Đó

là cái đẹp không chỉ bao hàm nội dung tích cực và vẻ ngoài xấu xí cũng không chỉ

là bộc lộ cái ác và tiêu cực. Hình ảnh những nhân vật chính diện, phản diện trong

nghệ thuật tuồng, chèo hay một số truyện cổ tích của Việt Nam đã minh chứng cho

luận lý đó. Qua ý kiến của một số nhà nghiên cứu, từ góc độ nội dung thẩm mỹ và

153

phương hướng định danh cho những đặc trưng thẩm mỹ, chúng tôi xem ba bài thơ

trên là những tự sự nghệ thuật của ông, trong đó bài Khổng tước vũ nói về phong

cách và giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nhân vật:

“Khổng Tước phủ hoài độc,

Ngộ phục bất khả y.

Ngoại lộ văn chương thể,

Trung tàng sát phạt ky.

Nhân khoa dung chỉ thiện.

Ngã tích vũ mao kỳ.

Hải hạc diệc hội vũ,

Bất dữ thế nhân tri.”

(Phủ tạng chim công rất độc

Ăn nhầm không có thuốc chữa.

Bên ngoài lộ vẻ rực rỡ,

Bên trong giấu sự nguy hiểm thay.

Người ta khen dáng nó dịu dàng,

Ta tiếc cho bộ lông lạ của nó.

Loài chim hạc biển cũng biết múa

Nhưng không để cho người đời biết)

Đúng như Lê Quế đã nhận xét: “Giọng văn của Nguyễn Du trong Đoạn

trường tân thanh có cả sự lộng lẫy như vũ điệu chim công và cả sự thanh thoát, kín

đáo, tế nhị như vũ điệu của loài hạc biển...” [109, tr.61]. Dựa trên việc lý giải mối

quan hệ giữa hình thức và nội dung đã nêu, trong Truyện Kiều, tác giả đã tạo nên

hai tuyến nhân vật với hai kiểu phát ngôn và giọng điệu riêng biệt. Giọng điệu và

ngôn ngữ của các tuyến nhân vật đó thể hiện phong phú, đa dạng nhưng cũng khá

thống nhất: nhân vật nào ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ nào giọng điệu ấy. Giọng văn của

Nguyễn Du nói chung và chất giọng đặc trưng cho từng tuyến nhân vật nói riêng

trong Truyện Kiều có sự kiêu kỳ, rộn ràng, âm độc như vũ điệu và phủ tạng chim

công nhưng cũng có sự rắn rỏi, chân tình, kiên trì, nhân nghĩa, tinh tế của loài hạc

154

biển. Căn cứ vào sự liên tưởng, ước lệ và thống nhất trong ngôn hành của các nhân

vật trong tác phẩm, chúng tôi tạm sử dụng hai khái niệm Khổng tước văn 孔雀文và

Hải hạc văn 海鶴文để bước đầu định danh cho những giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa văn

hoá và đặc trưng giọng điệu cho những nhân vật trong Truyện Kiều. Đó là chất

giọng xảo trá, điêu ngoa, toan tính, hèn kém được bọc trong một vẻ đẹp lộng lẫy

như những cánh lông thuý vũ như lại nguy hại, hiểm độc như tạng phủ của khổng

tước, đó là lớp ngôn từ và giọng điệu ngôn ngữ của Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hoạn

Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh và Thúc Sinh - giọng Khổng Tước văn. Và một chất giọng

trầm tĩnh, đĩnh đạc như dáng vẻ phong nhã của con hạc biển, đó là những biểu hiện

chân tình, hiếu nghĩa và đường bệ, tích cực của lớp ngôn từ và giọng điệu ngôn ngữ

Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải – giọng Hải Hạc văn.

Cũng cần nói thêm rằng, văn phong, ngôn ngữ và giọng điệu trong Truyện Kiều

khá linh hoạt. Có lúc ông sử dụng lối diễn đạt, giọng văn hàn lâm với đầy rẫy những

điển cố Hán học, có lúc ông viết bằng một chất giọng rất bình dân, dung dị khá mộc

mạc có thể gọi tạm đó là lời mộc, giọng quê. Từ góc nhìn văn hoá, chúng tôi nhận thấy,

hai chất giọng bác học và bình dân ấy cũng là một sự biểu hiện linh hoạt của giọng điệu

Khổng tước văn và Hải hạc văn. Ngoài ra, sử dụng hai khái niệm này, chúng tôi còn

hướng đến việc khái quát phương thức tự sự, ngôn ngữ cũng như những lập luận

ngôn ngữ không chỉ của các nhân vật mà còn là của người kể chuyện trong quá trình

dẫn dắt nội dung tác phẩm. Những lập luận và sự thể hiện ấy đôi khi cũng có những

khéo léo, tinh tế và chân chất, quê mùa. Dù có thể hiện tính chất nào đi nữa, những

đặc tính ấy vẫn góp phần làm nên sự đa dạng trong giọng điệu và ngôn ngữ nhân vật

Truyện Kiều.

3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều

Để nhận chân cái vẻ bề ngoài của phong cách Khổng Tước văn tưởng cũng

thật dễ dàng, bởi ngoại diện của nó đã được phô ra hết bên ngoài, nhưng vấn đề là

nhận ra được sự ẩn hàm những tàng độc của nó như mối quan hệ giữa vẻ đẹp bên

ngoài của công lại dung chứa một hệ thống lục phủ ngũ tạng đầy chất độc. Tác giả đã

khéo léo sử dụng mối quan hệ ấy qua bộ lông sặc sỡ của chim Khổng Tước. Trong

155

tác phẩm ở ngay phần đầu, Nguyễn Du dùng những lời lẽ khoa trương, ồn ào để miêu

tả sự xuất hiện của những kẻ chuyên sống bằng xác thịt con người, bằng mưu mô và

thủ đoạn, những lừa dối, sự tầm thường hoặc chưa hoàn thiện. Lối nói phóng đại, sử

dụng nhiều ngoa từ, ngoa ngữ, từ ngữ kiểu cách trong ngôn ngữ của Mã Giám Sinh

như sính nghi, lam kiều, lối nói khách sáo xin dạy là những chiếc thuý vũ sặc sỡ, là

những bước đi kiểu cách của con công. Đặc biệt, trong đêm ở trú phường, Mã Giám

Sinh đã suy tính thiệt hơn đối với món hàng vô giá này, bản chất phong tình càng

trỗi dậy, càng thôi thúc hắn:

“Mừng thầm: Cờ đã đến tay,

Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.

Đã nên quốc sắc, thiên hương,

Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. ”

(Câu 823 - 826)

Ở đây, với những ngữ liệu văn hoá như “cờ đã đến tay”, “vẻ ngọc”, “quốc

sắc”, “thiên hương”, “một cười... nghìn vàng” có nguồn gốc từ thành ngữ thuần

Việt như Cờ đến tay ai người đó phất, Hán Việt như Tư nhan như ngọc, quốc sắc

thiên hương, nhất tiếu thiên kim (phiếm chỉ vẻ đẹp của người con gái), hoặc “khúc

vàng” (khúc lòng vàng, tấm lòng tốt, phiếm chỉ bụng dạ của họ Mã lúc bấy giờ) là

mỹ từ thường xuất hiện trong truyện Nôm (Một mình trong dặm rừng xanh, Châu

chan má phấn tằm oanh khúc vàng - Phan Trần). Sau cái đêm ở trú phường, khi đã ở

ngoài mươi dặm trường đình, Thuý Kiều tâm sự với Vương Bà trước lúc chia tay, đã

nhận xét về Mã:

“Khác màu kẻ quý người thanh,

Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.”

(Câu 0887 - 0888)

Tại đây dù chưa cạn chén, Mã vội cũng vội giục xe đi ngay tức thì (giục liền

ruổi xe) nên Vương Ông nài nì nhờ hắn chăm sóc Kiều và trước khi rút khỏi kịch

trường này, hắn đã khoa trương với một câu thề độc nhưng rất văn hoa và đây cũng

là những câu cuối cùng Nguyễn Du viết về Mã Giám sinh:

156

“Cạn lời khách mới thưa rằng,

Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.

Mai sau dầu có thế nào,

Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần...”

(Câu 0903 - 0907)

Những câu văn hoa kèm theo những từ ngữ hoa mỹ như xích thằng, nhật

nguyệt, quỷ thần như thể hắn đem cả đất trời vào trong ngôn từ của mình. Nguyễn

Du đã sử dụng những hình thái ngôn ngữ rất trực diện để diễn đạt ngôn ngữ của Mã

Giám Sinh. Ở chốn lầu xanh của đất Lâm Truy có ba nhân vật với những cái tên khá

văn hoa, bóng bẩy đã trở thành những điển hình tiêu biểu trong văn học và đời

sống: Mã Giám Sinh, Tú Bà và Sở Khanh.

Nhân vật Sở Khanh cũng là một trong những nhân vật điển hình cho giọng

văn này. Khi Kiều nhờ hắn ra tay tế độ và xin hắn quyết một bài cho xong thì giọng

lưỡi hắn trở nên đại ngôn, khoa trương, khoác lác nhưng vẫn lòi đuôi đểu giả:

“Rằng: Ta có ngựa truy phong,

Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.

Thừa cơ lẻn bước ra đi,

Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn...”

(Câu 1107 - 1110)

Các ngữ liệu văn hoá có xuất xứ từ ngôn ngữ giao tiếp xã hội nhưng có tính

biểu trưng như truy phong (nguyên gốc là Truy phong mã, phiếm chỉ con ngựa giỏi,

ngựa hay), kiện nhi (chỉ những người đánh xe giỏi) xuất hiện trong lời nói của Sở

Khanh như càng làm tăng thêm vẻ hào nhoáng, chải chuốt và dịu dàng của một gã

lưu manh giang hồ. Sở Khanh cố tỏ ta vẻ khí khái anh hùng, trượng phu nên hắn đã

05 lần tự xưng bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất ta nhưng kế hoạch “lấp bể trầm

luân” của Sở kết lại ở: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng kế 三十六計走為上計

(Trong 36 kế, chạy là kế hay nhất). Hoài Thanh, khi bàn về nhân vật này đã hạ bút:

“Sở Khanh có vẻ một nhà nho. Nhưng ngay trong dáng hình chải

chuốt dịu dàng, đã có một cái gì đó tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là nhà

157

nho chân chính... lời lẽ nghe như một giọng hát rất điêu luyện mà rỗng

không, hiệp khách nhưng không phải hiệp khách...” [139, tr.406].

Đặc biệt, trong đoạn trích trên, Nguyễn Du đã bóc tách bản chất ma cô của

một tên đàng điếm nổi tiếng khắp thành Lâm Truy qua một động từ “lẻn”. Đây là

một từ có tính tạo hình cao. Lần trước, khi giới thiệu khung cảnh mà Sở Khanh

bước vào cuộc đời Kiều, Nguyễn Du cũng dùng từ “lẻn”:

“Tường đông lay động bóng cành,

Dẫy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”

(Câu 1093 - 1094)

Một ngữ liệu thuần Việt được lặp lại trong trong hai ngữ cảnh đã giúp cho

người đọc dễ dàng nhận chân được bản chất của kẻ bất lương, đưa đường dắt mối,

hãm hại biết bao cành phù dung này. Ngoài ra, những lời hoa mỹ che đậy bản chất

giả dối của kẻ lừa đảo, vừa lên gân, nói cứng vừa tỉ tê, dịu dàng như mật ngọt không

giấu vẻ giả dối của những kẻ mạo danh quân tử. Bên cạnh những nhân vật như Sở

Khanh, Mã Giám Sinh... nhà thơ còn dùng giọng văn này để châm biếm, ẩn dụ về

sự hời hợt, hèn kém, thấp cơ thua trí, nhút nhát, thiếu sự tính toán chặt chẽ, sâu sắc

của chàng Thúc Sinh 束 生 - “liệu mà cao chạy xa bay”. Ngôn ngữ của chàng Thúc

cũng hoa mỹ không kém các nhân vật khác:

“Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong

Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên.”

(Câu 1831 - 1832)

Bởi chàng Thúc “sợ quen, dám hở ra lời…” (câu 1828), cái sự hèn nhát ấy

đã đẩy Kiều vào cảnh trớ trêu, thế nhưng khi trả lời Hoạn Thư về lý do về nhà thì

chàng ta cũng viện đủ lý do rất “hoành tráng”, nào là vì “hiếu phục vừa xong”, vì

“lòng trắc dĩ”, “đau lòng chung thiên”. Những ngữ liệu văn hoá này đều có nguồn

gốc từ văn hoá bác học, hiếu phục là trách nhiệm của người làm con, trắc dĩ là lòng

thương nhớ mẹ già, đây là điển cố được lẩy từ kinh Thi “trắc bĩ Dĩ hề, chiêm vọng

mẫu hề 陟彼屺兮瞻望母兮” (Lên núi Dĩ kia trông ngóng mẹ), chung thiên là suốt

ngày, cả ngày. Cụm từ “đau lòng chung thiên” diễn tả tình cảm luôn mong ngóng

158

ngày được trở về của Thúc Sinh. Ai cũng hiểu rằng ấy là những lời nói đãi bôi, đánh

lạc hướng chú ý của Hoạn nương. Đến đây, người đọc hẳn là không còn lời nào

bình phẩm về dũng khí can trường của một đấng trượng phu mà Kiều đã hết lòng

nương tựa, tin tưởng.

Ở một minh chứng khác, từ ngữ văn hoa đã được tác giả sử dụng như là

những lời lên gân, nói cứng mà không giấu được sự kém cỏi, nhút nhát của một kẻ

quen thói phong tình không đáng để người đời quan tâm đến. Chàng Thúc cũng lên

giọng anh hùng:

“Đường xa chớ ngại Ngô Lào,

Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.

Đã gần chi có đường xa,

Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.”

(Câu 1363 - 1366)

Với Ngô Lào (một điển cố Việt Nam) và các ngữ liệu có xuất xứ từ trong

khẩu ngữ xã hội như đá vàng, phong ba, ngôn điệu có vẻ rất rắn rỏi của một anh

chàng sợ vợ nhưng thích ăn vụng như Thúc Sinh, người đọc khi theo dõi câu

chuyện có lẽ cũng không khỏi bật cười bởi sự mâu thuẫn giữa ngôn ngữ và hành

động của nhân vật này.

Xét từ phương diện thẩm mỹ, giọng Khổng tước văn là công cụ vạch trần chỉ

rõ bản chất xấu xa, đê tiện của các nhân vật phản diện trong tác phẩm. Hệ thống

ngữ liệu văn hóa được các nhân vật này sử dụng như những chứng lý để chúng có

thể dễ dàng thực hiện những mưu ma, chước quỷ. Lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành

động lúc cường điệu, lúc điêu ngoa, lúc hùng dũng, lúc rụt rè của chúng luôn được

bao bọc trong một lớp vỏ khá hoàn bị. Với kiểu cách ngụy quân tử, ngôn ngữ đầy

những ẩn dụ, ngoa dụ, văn hoa, bản chất thâm độc của các nhân vật phản diện

dường như được che lấp, được đánh bóng, tô vẽ càng khiến cho người đọc kinh sợ

và ghê tởm. Dường như ai cũng nghĩ rằng thưởng thức được cái đẹp của Khổng

tước văn là điều thật giản đơn, dễ dàng, nhưng thực chất đằng sau sự hoa mỹ đó,

dường như nhà thơ đã sử dụng thủ pháp tương phản ngôn ngữ, ông sử dụng vẻ đẹp,

159

trang trọng, uyên nhã của các ngữ liệu văn hoá bác học như một công cụ để dần bóc

trần các mặt nạ thư sinh, dáng vẻ phong lưu, tao nhân mặc khách của chúng một

cách tinh tế và làm cho chúng hiện nguyên hình, lộ rõ bản chất đểu giả, lừa lọc.

Tất cả những minh chứng đa phân tích cứ như những khúc biến tấu trên một

khuôn nhạc có giai điệu, tiết tấu dồn dập, hối hả. Bên cạnh đó, đối với bọn nhà

chứa, ngòi bút của Nguyễn Du không tò mò, ông chỉ lách nhẹ và đi vào những

đường nét cụ thể của chiếc mặt nạ của bọn nhân diện thú ấy. Ngôn từ văn hoa, điệu

bộ giả tạo được những kẻ lừa đảo sử dụng để che đậy bản chất của mình. Như đã

nói, ngôn ngữ của các nhân vật phản diện, hay có tính tiêu cực đã phân tích trên đã

chỉ rõ vẻ đẹp của những chiếc thuý vũ rực rỡ, là những điệu múa của con công và sự

tàng độc của gan công. Có lẽ vũ điệu đẹp nhất, những chiệc lông đẹp nhất chính là

kỹ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ náo nhiệt nhất mà tác giả đã sử dụng để viết về cái

“không khí Từ Hải” (chữ dùng của Xuân Diệu).

“Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan,

Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.

Triều đình riêng một góc trời,

Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.

Đòi cơn gió quét, mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam.

Phong trần, mài một lưỡi gươm,

Những loài giá áo, túi cơm sá gì!

Nghênh nganh một cõi biên thuỳ,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Trước cờ ai dám tranh cường,

Năm năm hùng cứ một phương hải tần.”

(Câu 2439 - 2450)

Bình luận về vấn đề này, Xuân Diệu đã cho rằng:

Nhà thi sĩ phối hợp nghĩa chữ với nhịp văn (tiểu đối), với âm thanh

mà tạo nên cái không khí Từ Hải... Nhà thi sĩ kể ra cũng biết lên khung sự

160

việc: Nếu viết văn theo lối “thông tấn xã” thì chỉ là: “Từ Hải đã lấy được

năm huyện ở phía Nam”, nói như thế thật là bằng phẳng, vừa vừa, tẹt đi chả

có gì to tát lắm...” [25, tr.229].

Từ góc độ ngôn ngữ, qua thống kê trong 12 câu thơ được trích trên, chúng tôi

nhận thấy có lẽ nhà thơ đã vận dụng hết những gì là tinh tuý nhất của hai lớp ngữ

liệu bình dân và bác học để phục dựng cái không khí rất hào tráng của đội quân Từ

Hải. Thứ nhất, các thành ngữ gốc Hán, thành ngữ Việt được dùng để phác hoạ uy

thế, sức mạnh của nghĩa quân do Từ Hải lãnh đạo như: trúc chẻ ngói tan, gió quét

mưa sa, giá áo túi cơm. Thứ hai, những ngữ liệu bác học Hán Việt góp phần kiến

tạo không khí trang trọng, khẳng định thành quả, chiến thắng mà đội quân đã đạt

được như: Binh uy, triều đình, văn võ, sơn hà, phong trần, biên thuỳ, cô quả, bá

vương, tranh cường, hùng cứ, hải tần. Thứ ba, những từ thuần Việt kết hợp với

phong cách khẩu ngữ được dùng để diễn đạt những xúc cảm cụ thể của lời bình mà

tác giả muốn nhấn mạnh: Từ ấy, sấm ran, trong ngoài, rạch đôi, đòi cơn, đạp đổ,

những loài, sá gì, thiếu gì, một cõi,...

Sự kết hợp nhuần nhuyễn những ngữ liệu bác học và bình dân đã giúp nhà

thơ như muốn thể hiện cái oai hùng rất lớn của cái không khí ấy. Chẳng hạn, khi sử

dụng từ cô quả 孤 寡 (tiếng vua chư hầu tự xưng), bá vương 霸 王 (vừa ám chỉ

những người đứng đầu có tài năng, sức mạnh, vừa ám chỉ việc làm của Từ Hải

giống như Sở Bá Vương năm xưa) có nguồn gốc từ văn hoá khiêm xưng của Trung

Hoa (cô gia, cô vương, quả nhân) hoặc thời kỳ lịch sử Hán sở tranh hùng, tác giả

muốn đề cao vai trò to lớn của người anh hùng Từ Hải. Thế nhưng, cái không khí ấy

càng hùng tráng bao nhiêu thì khi sự thất bại của họ Từ diễn ra, người đọc càng cảm

thấy thấm thía bấy nhiêu. Đúng như Lê Quế đã nhận định: “Đó là tài lên khung sự

việc, sân khấu hoá thành công, làm cho mọi thứ to lên, cao hơn như con côn xoè bộ

lông ra vậy. Đó chính là Khổng tước văn của Nguyễn Du, một giọng văn có ngôn từ

hào nhoáng, rực rỡ.” [109, tr.64].

Tóm lại, bên cạnh việc tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ tiếng Việt, Nguyễn Du

còn sử dụng ngôn ngữ như một công cụ để đả kích, vạch trần bản chất đê hèn, đốn

161

mạt hoặc chỉ rõ những khuyết nhược trong tính cách, ngôn hành của các tầng lớp

người trong xã hội Truyện Kiều. Lớp từ ngữ được sử dụng theo phong cách Khổng

tước văn không chỉ tạo nên những dư ba đặc biệt trong lòng người mà còn khẳng

định tính hàm súc, đầy ý vị của ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoài ra, phong cách này

còn góp phần giúp cho giọng điệu tự sự của tác giả, của các nhân vật thêm phần sâu

sắc, giàu tính văn hoá. Nó kiến tạo nên một lớp sương phủ nhẹ trên từng nhân vật.

Nét đặc sắc ẩn hàm trong phong cách này là nó đã dùng hư để nói thực, dùng cái

lộng lẫy để diễn tả cái xấu xa, dùng hiện tượng để khái quát bản chất của vấn đề.

Hơn thế nữa, đặt trong thế tương quan so sánh, phong cách Khổng tước văn sẽ làm

nền để người đọc có thể đi sâu hiểu rõ hơn về dụng ý căn bản của tác giả là ở phong

cách, giọng Hải hạc văn.

3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều

Xét từ góc độ văn hoá, ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều, giọng Khổng Tước

văn chỉ là phụ, Hải Hạc văn mới là cơ bản. Chính yếu tố này đã làm nên giọng điệu

cảm khái, hùng tráng, chân chính quân tử nhưng cũng có phần bi thương của các

nhân vật chính diện. Theo chúng tôi, có lẽ đây cũng chính là ngôn ngữ tâm đắc nhất

của Nguyễn Du, ngôn ngữ đại diện cho phong cách nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn

Du. Điều ấy không chỉ trong Truyện Kiều mà nó đã lan toả khắp trong toàn bộ gia tài

sáng tác của ông. Khi nghiên cứu vấn đề này, Lê Đình Kỵ đã nhận xét ngôn ngữ nhân

vật Truyện Kiều: “ …đã đạt đến cái bình đạm mà nồng hậu, giản dị mà hàm súc, từ

thiển mà ý thâm, lời hết mà ý vô cùng…” [130, tr.112]. Đó cũng chính là những nét

đặc trưng của chất giọng Hải Hạc văn vậy. Nổi bật nhất là ở những lời lẽ chí tình của

Kiều. Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều:

Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi duyên ưa

kim cải non biển thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi

rừng tía cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải

nghĩ càng tê lưỡi…” [30, tr.12].

Thuý Kiều đã trải qua hết tất cả những đau khổ của nhân gian, là người luôn có

ý thức về kiếp đoạn trường và luôn hướng đến cuộc sống hạnh phúc, do đó ngôn ngữ

162

của nàng có vẻ rắn rỏi, khái quát, vững chắc và đủ độ thâm trầm. Khi đối diện với tai

biến, nàng đã đi theo con đường của Đề Oanh 緹縈, Lý Kỳ 李奇 và trao lại mối tình

oan trái với chàng Kim cho Thuý Vân:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

(Câu 0731 - 0734)

Những mong đem chữ nghĩa đền đáp người yêu, nhưng tự chiều sâu của lôgic

cuộc sống, nàng hiểu rằng không bao giờ mối nhân duyên ấy trọn vẹn đối với Kim

Trọng và có lẽ hành động ấy không thể khiến nàng ngậm cười nơi chín suối được.

Trong tuyệt vọng khổ đau, Kiều vẫn ý thức về cái hiện hữu, bi kịch của nàng càng

sâu sắc khi ý thức về hiện tại vỡ tan không thể vãn hồi giữa nàng và Kim Trọng, vì

thế nàng mới cay đắng thốt lên:

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.”

(Câu 0737 - 0738)

“Ôi Kim lang, hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”

(Câu 0755 - 0756)

Tiếng kêu như ai oán, nặng trĩu trong những nỗi dằn vặt của Kiều trước nỗi

đau sinh ly tử biệt. Nhưng khi đối thoại với Thúc Sinh, ngôn ngữ của Kiều lại càng

thêm hoa mỹ, ước lệ, biểu hiện mối quan hệ gá nghĩa Thúc Sinh - Thúy Kiều, một mối

quan hệ nửa công khai, nửa lén lút:

“Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non

Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không.

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân.”

(Câu 2327 - 2330)

163

Đó là lớp ngôn ngữ quý phái, thứ bậc và kiểu cách, đó là lời lẽ của một mệnh

phụ với những quan niệm đạo đức phong kiến như Nghĩa, Tòng và những từ ngữ

ước lệ như Sâm Thương… tuy mượt mà nhưng vẫn đằm thắm thiết tha. Có thể nói,

với nhân vật Thúy Kiều, hệ thống từ ngữ được dẫn dụng trong sách vở luôn xuất

hiện trong ngôn ngữ của nàng, đặc biệt là trong những lúc đối diện với chính mình.

Các từ ngữ như ngày xuân, mệnh bạc, Kim Lang, Nghĩa, Tòng, Sâm Thương…

không chỉ phản ánh một phong cách tao nhân trong con người Thúy Kiều mà còn

thể hiện một cách đẹp nhất vẻ đẹp tâm hồn trung trinh, nhân nghĩa như băng tuyết

của người con gái được giáo dưỡng trong môi trường phong kiến và trưởng thành

trong phong ba bão táp của cuộc đời.

Nhạc khúc Từ Hải bước vào Truyện Kiều, bước vào đời Kiều có tiết tấu hùng

mạnh như một dũng tướng đang gióng trống chuẩn bị nghênh địch trên chiến

trường, cái cảm giác vuông trọn không chỉ ở cấu trúc đăng đối của những câu thơ

mà còn ở những ngữ liệu mà Từ công đã sử dụng trong ngôn ngữ của mình. Xét từ

phương diện giọng điệu và tính chất của ngôn từ, nếu Thuý Kiều ôn nhu thì Từ Hải

mạnh mẽ, nếu Thuý Kiều thanh cao thì Từ Hải quân tử, nếu Thuý Kiều đáng thương

thì Từ Hải đáng trọng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc chơ rằng: “Ngôn ngữ của Từ

Hải là tuyên ngôn của lý tưởng anh hùng là sự biểu hiện của một phẩm cách anh

hùng.” [89, tr.55]. Khi khẳng định Từ Hải là kẻ quốc sĩ, Nguyễn Du muốn thông

qua ngôn ngữ của nhân vật này đề cao phẩm giá của Kiều - người phụ nữ từng trải,

có số phận “cỏ nội hoa hèn”, cách dùng từ “tri kỷ” đã thể hiện rõ điều đó:

“Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,

Chọn người tri kỷ một ngày được chăng.”

(Câu 2427 - 2428)

Từ không ngần ngại thổ lộ những lời tâm tình với Kiều:

“Sao cho muôn dặm một nhà

Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”

(Câu 2435 - 2436)

164

Lời lẽ rất đỗi thân tình, những ngữ liệu bình dân, bác học, cách thức diễn đạt

có phần nôm na, khẩu ngữ đã được sử dụng trong lời nói của Từ chứng tỏ Từ không

chỉ là kẻ võ biền, suốt đời ngồi trên yên ngựa mà qua đây ta có thể thấy được sự tồn

tại kép của hai con người trong Từ, một con người đầy khí phách hiên ngang, có

sức mạnh bạt sơn cử đỉnh như Sở Bá Vương Hạng Vũ năm xưa đứng trước ngàn

quân và một con người nhân nghĩa, đạo lý biết cảm thông, biết thương yêu trân

trọng cái đẹp, tình người. Phải chăng đó là sự biểu hiện, chuyển hoá cao độ của hai

mặt đối lập mang tính nhân văn của con người. Có thể nói, qua ngôn ngữ chân

thành của Từ Hải, Nguyễn Du không những đã sử thi hoá nhân vật này, mà đồng

thời ông cũng phác hoạ thành công bức chân dung một nhân vật anh hùng xuất

chúng, một tâm hồn bầu bạn, một trái tim yêu thương, kính trọng của Thuý Kiều.

Hiểu văn Nguyễn Du qua Khổng Tước văn chỉ là mới tiếp cận bên ngoài của

cái vẻ hào nhoáng, chỉ thấy được giọng điệu cay độc, mỉa mai của tác giả dành cho

những kẻ độc ác, gian ma nhiều khi được che đậy trong một lốt vẻ hào hoa, phong

nhã. Khi tiếp cận với giọng Hải Hạc văn, người đọc dường như mới tiếp cận được

cái trọn vẹn, hoàn mỹ của một thiên tài.

Vẻ đẹp của Hải Hạc văn được thể hiện qua ngôn ngữ của các nhân vật chính

diện là vẻ đẹp kín đáo, tế nhị và mộc mạc, thân tình. Qua nhiều đoạn triết lý, độc

thoại nội tâm của những nhân vật như Thuý Kiều, chúng ta mới thấy được dáng vẻ

thâm trầm, kín đáo, nhẹ nhàng của thi nhân.

Từ góc độ ảnh hưởng và tiếp nhận, trên nguyên tắc của mỹ học cổ điển, hệ

thống ngữ liệu bình dân và bác học đã được Nguyễn Du vận dụng một cách khéo

léo tạo nên sự khái quát, ước lệ, trang nhã, hàm súc và dư ba. Nó đã tạo nên một ưu

thế trội bật của ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều mà các truyện thơ Nôm cùng

thời khó lòng so bì kịp, nó đã làm cho mạch thơ trở nên tao nhã, ý thơ hàm súc

không rơi vào khô cứng, thô tục hoặc quá cầu kỳ. Tiếp cận từ phương diện này,

chúng tôi nhận thấy, nhà thơ đã vận dụng một cách linh hoạt, hợp lý hai hệ thống

ngữ liệu văn hoá đó trong việc miêu tả ngoại hình, tính cách, ngôn hành của nhân

vật Kim Trọng, Thuý Vân.

165

Một biểu hiện khá rõ nét của giọng Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật

Truyện Kiều đó là khả năng khái quát hoá, triết lý hoá nhằm mục đích thể hiện các

luận đề triết học, xã hội mà tác giả muốn bộc lộ. “Trong Truyện Kiều có 68 ngữ liệu

có nguồn gốc từ Phật giáo, có những từ ngữ được sử dụng với tần số cao như

Duyên 51 lần, phận 37 lần, hồng trần 08 lần, phúc 06 lần…” [89, tr.85]. Với số

lượng ngữ liệu có xuất xứ từ kinh điển phật giáo đó, nhà thơ đã bố trí, sắp đặt hệ

thống này vào ngôn ngữ của các nhân vật như Thuý Kiều, Đạm Tiên, Vãi Giác

Duyên, Tam hợp đạo cô, khiến cho ngôn ngữ của họ trở nên triết lý, mạch lạc, có

sức khái quát cao, chẳng hạn ngôn từ luận về nhân quả, Thuý Kiều nói :

“Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,

Hại nhân nhân hại sự nào tại ta…”

(Câu 2381 - 2382)

Ở câu nói này, Thuý Kiều đã sử dụng 1 từ láy thuần Việt “lồng lộng” và thành

ngữ Hán Việt : “Hại nhân nhân hại” (có xuất xứ từ kinh Kim Cương của nhà Phật) để

khái quát nên kết cục mà ngày nay bọn buôn ngươi như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc

Bà, Bạc Hạnh phải nhận lấy. Đó là cái quả phải nhận khi xưa chúng đã gieo nhân.

Hoặc trong ngôn ngữ của Tam Hợp đạo cô khi luận về nghiệp số của Thuý Kiều:

“Lấy tình thâm, trả tình thâm,

Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.

Hại một người, cứu muôn người

Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng .

Thửa công đức ấy ai bằng ?

Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi !”

(Câu 2683 - 2688)

Với các ngữ liệu bác học như công đức (là những quả báo có được nhờ làm

việc thiện), túc khiên (tội nghiệp của kiếp trước), những ngữ liệu này có xuất xứ từ

Cảnh Đức truyền đăng lục 景德傳燈錄, ngữ liệu bình dân như lâng lâng, các từ

ngữ có phong cách khẩu ngữ như phải chăng, ai bằng, ấy, rồi…, Tam Hợp đạo cô

đã khái quát được lối đoạn trường mà Kiều đã đi và công thành viên mãn đợi ngày

đoàn viên, tái hợp gia đình.

166

Như đã nói, văn phong, giọng điệu và phong cách ngôn ngữ Nguyễn Du rất

đa dạng, linh hoạt và có ảnh hưởng nhất định đến các tác giả, tác phẩm đời sau. Tuy

nhiên, vì đây là một tác phẩm viết tặng cho phần đông quần chúng lao động, do đó

trong thi phẩm còn có một chất giọng nhẹ nhàng, gần gũi và rất bình dân. Đó là

giọng quê, lời quê. Có thể nói, ngôn điệu này và những biểu hiện của nó cũng là là

một minh chứng rõ ràng, thuyết phục cho phong cách Hải hạc văn. Đến với tác

phẩm, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều câu thơ có dáng vẻ mộc mạc, nhẹ nhàng, tầng

tầng lớp lớp. Đó là những câu nói có tính khẩu ngữ thường nhật như giọng điệu có

vẻ kể lể của Bạc bà nói với Thuý Kiều:

“Nơi gần thì chẳng tiện nơi,

Nơi xa thì chẳng có người nào xa.

Nay chàng Bạc Hạnh cháu nhà,

Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai!

Cửa hàng buôn bán Châu Thai,

Thật thà có một đơn sai chẳng hề.

Thế nào nàng cũng phải nghe,

Thành thân rồi sẽ liệu về Châu Thai.

Bấy giờ ai lại biết ai,

Dầu lòng biển rộng sông dài thênh thênh.”

(Câu 2101 - 2110)

Ngoài một số ngữ liệu Hán Việt khá quen thuộc như: Tiện, thân thích, thành

thân, liệu và Châu Thai, một địa danh Trung Quốc mà Nguyễn Du đã vay mượn, về

cơ bản đoạn thơ là một tổ hợp của khá nhiều câu chữ có phong cách bình dân, khẩu

ngữ rất tự nhiên và có vẻ rất gần với lớp từ ngữ của mọi tầng lớp nhân dân như: Thì

chẳng (02 lần), ruột rà, chẳng ai, chẳng hề, biển rộng sông dài (thành ngữ Việt),

thênh thênh (từ láy). Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng những câu nói bình thường,

âm điệu có vẻ chậm rãi, dềnh dàng theo phong cách dân dã, có phần hơi thô kệch.

Vì thể khiến cho lý luận và lời lẽ của Thuý Vân trong buổi tiệc đoàn viên có vẻ trôi

chảy, bóng bẩy theo lối lập luận bình dân.

167

Trong trích đoạn từ câu 3061 đến câu 3076, các dẫn chứng, điển cố được

Thuý Vân sử dụng cũng khá quen thuộc và được xem như là những minh chứng cụ

thể để nhấn mạnh việc tái hợp Kim – Kiều là một kết cục tất yếu. Từ các tổ hợp có

tính điển cố như tác hợp cơ trời, bình địa ba đào, phận cải duyên ki, máu chảy ruột

mềm, rày ước mai ao, gương vỡ lại lành... đến các từ có phong cách khẩu ngữ như

buộc vào, cũng là, chớ sao, những là, lừa lọc, kịp thì... đều gắn liền với tu duy ngôn

ngữ văn hoá của người bình dân, giản dị, mộc mạc nhưng cũng có phần đanh thép.

Nếu loại trừ một vài điển cố có tính bác học như quả mai ba bảy, đào non... được

trích dẫn từ bài thơ Phiếu hữu mai 標有梅 (phần Thiệu Nam 召南, nói về việc con gái lo được gả kịp thời) và bài Đào yêu 桃夭 (phần Chu Nam 周南, những lời khen

cho thục nữ được lập gia đình) trong Thi kinh, hầu hết từ ngữ được dùng đều có tính

hợp lý, dễ hiểu, góp phần bộc lộ một cách thiết thân những tình cảm, sự hàm ơn của

Thuý Vân đối với Thuý Kiều.

So sánh, đối chiếu và kết hợp hai giọng văn tiêu biểu trong giọng điệu nghệ

thuật Truyện Kiều, bạn đọc có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp toàn mỹ của bức

tranh ngôn ngữ trong tác phẩm. Lúc nhanh, lúc chậm, lúc triết lý trữ tình, lúc tự sự

miêu tả nhưng tất cả đều quyện vào nhau tạo nên một thể thống nhất ngôn ngữ, góp

phần húc đúc nên tiếng nói đa thanh, khả năng đa diện và sự thể hiện hấp dẫn, lôi

cuốn của một khúc ca tuyệt xướng. Nó không chỉ biểu đạt những giá trị ngữ nghĩa

trong từng ngữ cảnh cụ thể mà còn thể hiện chiều sâu văn hoá của tác giả.

Qua hai giọng điệu ấy, tài năng và nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du

một lần nữa được khẳng định. Bức tranh ngôn ngữ của Truyện Kiều như một viên

ngọc toàn bích, không tỳ không vết và bản thân nó đã xác định được vị trí của mình

trong lịch sử phát triển ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam.

3.3. Âm hưởng của ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống xã hội,

văn chương Việt Nam

3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống

văn hóa, xã hội Việt Nam

Giao lưu và ảnh hưởng văn hóa, văn học là một trong những quy luật phổ biến

cho mọi nền văn học, nó đánh dấu sự học tập, cách tân, sáng tạo của các tác giả trong

168

mối quan hệ ảnh hưởng và tiếp nhận. Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều

Truyện 金 雲 翹 傳 của Thanh Tâm Tài Nhân 清心才人 là ví dụ tiêu biểu cho mối

quan hệ ấy. Đúng như Phan Mậu Cảnh đã nhận xét: “Ở Việt Nam 200 năm đã trôi

qua kể từ ngày Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời. Thử hỏi có tác phẩm nào ở nước

ta được bàn luận và đánh giá nhiều như Truyện Kiều, có tác phẩm nào có sức sống

lâu bền, đi vào ngôn ngữ và sinh hoạt văn hoá quảng đại hơn Truyện Kiều ?” [09,

tr.1213]. Trong sáng tác của mình, Nguyễn Du tái hiện một thế giới nghệ thuật sinh

động qua một hệ thống từ ngữ mang tính phúng dụ sâu sắc, dung chứa những quan

niệm văn hóa, văn chương và đậm hơi thở của cuộc sống. Từ sự giao lưu và chịu ảnh

hưởng của văn hóa bác học đến vấn đề quan niệm về nghệ thuật cùng phong cách tài tử

của cá nhân nhà thơ đã tạo nên những tiền đề văn hóa, văn học cho sự tiếp nhận ngôn

ngữ Truyện Kiều của độc giả. Ngôn ngữ của Truyện Kiều, nói như nhà nghiên cứu

Phan Mậu Cảnh, “không chỉ chiếm lĩnh ở đỉnh cao về nghệ thuật sử dụng tiếng Việt

mà còn có vai trò hiếm có trong việc đóng góp vào kho tàng từ vựng tiếng Việt một

hệ thống từ ngữ mới, đi vào lời ăn tiếng nói hằng ngày của mọi tầng lớp nhân dân.”

[09, tr.1215].

Từ những đặc trưng về văn hóa, xã hội và phương pháp tiếp cận liên ngành

đã tạo nên một phương thức tư duy, nhận thức mới đối với việc tiếp cận hệ thống

ngữ liệu văn hóa, mã văn hóa hay thế giới nghệ thuật sống động trong Truyện Kiều,

đó là kiểu tư duy song trùng hệ hình văn hóa. Tư duy theo hệ hình văn hóa đã tạo ra

những tiền đề cơ bản không chỉ giúp tác giả thể hiện vốn sống, lớp trầm tích văn

hóa và con người cá nhân của mình trong tác phẩm mà còn giúp độc giả tiếp nhận

tác phẩm trong môi trường, bối cảnh văn hóa, để từ đó độc giả có thể phát huy tốt

hơn vai trò là một tác nhân đồng sáng tạo.

Đến đây, qua quá trình tìm hiểu ngữ liệu văn hóa trong Truyện Kiều, chúng

tôi đã sử dụng hai hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học, bình dân như là những thành

phần cơ bản tham gia kiến tạo ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều. Đây không chỉ là

một hệ thống ngôn ngữ dung chứa nhiều tính chất như tính khái quát, tính hình

tượng, gợi mở, kích thích sự liên tưởng ở người đọc mà bản thân chúng được thể

169

hiện qua một hình thức cô đọng, hàm súc, trang nhã, linh hoạt, đa dạng. Những nền

tảng đó đã phú cho ngôn ngữ tác phẩm những lớp nghĩa đặc thù tác động đến tư duy

thẩm mỹ, quá trình tiếp nhận của người đọc. Chẳng hạn, nếu so với Thúy Vân,

Thúy Kiều tự nhận mình là “người bạc mệnh”, thì sánh với Kim Trọng nàng tự

nhận là “người thác oan”. Nhận thức được quy luật biến thiên của cuộc sống, lẽ tồn

sinh của chính bản thân mình, Thúy Kiều như một triết nhân tự chiêm nghiệm cho

chính đời mình. Hình ảnh “trâm gãy bình tan” là một tín hiệu thẩm mỹ được tập thi

từ bài thơ Tỉnh để dẫn ngân bình 井底引銀瓶 của Cố Huống 顧況: “Thạch thượng

ma ngọc trâm, ngọc trâm dục thành trung ương chiết, tỉnh thượng vãn ngân bình,

ngân bình dục thượng, ti thằng tuyệt… 石 上 磨 玉 簪 玉 簪 欲 成 中 央 折, 井 上

挽 銀 瓶, 銀 瓶 欲 上 絲 繩 絕” (mài trâm ngọc trên đá, trâm chưa thành, nửa

chừng gãy, kéo bình bạc trên miệng giếng, bình bạc chưa lên, dây tơ đứt) [192,

tr.920], ngữ liệu văn hoá này dùng để nói về số phận của giai nhân bạc mệnh, hoặc

sự việc nửa chừng bị đứt gãy. Ngữ liệu văn hóa được Nguyễn Du vận dụng ở đây đã

có ý nghĩa khái quát, tô đậm cho tính chất bi thương của một tình yêu tan vỡ, không

những thế, nó đã trở thành một công cụ văn hóa để giải mã số phận của Kiều nhi.

Xét từ góc độ tri nhận, qua hệ thống ngữ liệu bình dân và bác học trong

Truyện Kiều, người đọc như đang rảo những bước thâm trầm, dung dị, xúc cảm và

sâu lắng trong văn hoá phong kiến Trung Hoa, Việt Nam. Chính kiểu tư duy theo hệ

hình văn hóa trung cổ đã tạo nên một mã văn hóa đặc biệt cho thi phẩm. Hơn bất kỳ

một tác gia nào khác, Nguyễn Du không chỉ ký họa một cách nhanh chóng bức

tranh hiện thực xã hội phong kiến mà còn thể hiện nó bằng những nét bút uyển

chuyển qua những gam màu sáng tối như thể sự biến thiên, thăng trầm của thế sự,

của nhân sinh. Nhà thơ đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ của một tông đồ

suốt đời phụng thờ lý tưởng của mình, chuyển tải và minh chứng cho các triết

thuyết, tinh thần khoáng đạt nhân sinh. Nhà thơ dường như đã xác lập một cuộc đối

thoại văn hóa trong một thế giới đầy những biến động và tương tác.

Sự tương hợp và dung hòa giữa tư tưởng Lão Trang, Khổng Mạnh và Phật

giáo trong thế giới nghệ thuật của Truyện Kiều đã thể hiện điều đó. Hai chữ Tài

170

mệnh trong tác phẩm như một điểm sáng văn hóa di động trong toàn tác phẩm, cái

quan niệm “tài mệnh tương đố” mà Nho gia gọi là Mệnh 命, nhà Phật gọi là Nghiệp

業, Đạo gia gọi là Thiên 遷 (dịch chuyển), ấy là sự biến hóa, tương sinh tương khắc

của âm và dương đã tạo ra tư tưởng tòng quyền, thuận thiên, bất nghịch mệnh. Phải

chăng số phận Kiều nhi từ chốn buồng khuê, qua mười lăm năm lặn ngụp trong bể

đoạn trường và đến lúc đoàn viên trong nỗi đau khổ đã phản ảnh một cách chân

thực nhất những mâu thuẫn, bất mãn và hạn chế của nhà thơ đối với chính những

điều ấy. Câu hỏi mang tầm tư tưởng triết học, nặng quan niệm văn hóa cổ xưa ấy

không chỉ là bài toán cho Nguyễn Du mà còn cả bao thế hệ thi nhân trung đại.

Có thể nói thêm rằng, về vấn đề chuyển dịch những ngữ liệu từ trong nguyên

tác Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là

một vấn đề tiếp biến khá đặc biệt. Xét riêng hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong ngôn

ngữ văn học cổ điển nói chung và Truyện Kiều nói riêng khá phong phú và đa dạng,

nó không chỉ là lớp từ ngữ mang tính biểu trưng, là phương tiện biểu đạt, khái quát

những vấn đề của hiện thực cụ thể qua lăng kính thẩm mỹ của nhà nghệ sĩ. Trong

Truyện Kiều, nhà thơ đã 119 lần sử dụng những từ ngữ chỉ màu sắc, chiếm tỷ lệ

0,52% (119/ 22.778 chữ), gấp 5 lần so với Kim Vân Kiều truyện, với nhiều màu sắc

khác nhau. Nguyễn Du dùng những từ ngữ chỉ màu sắc để kiến tạo các hình tượng

có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ. Vì thế, Trần Đình Sử đã

nhận định: “xét về mặt này, Truyện Kiều cũng cho thấy những bằng chứng về sáng

tạo độc đáo của thi hào Nguyễn Du..” [132, tr.257].

Với Nguyễn Du, qua Truyện Kiều, một lần nữa ông đã gắn kết cộng đồng,

gắn kết các thế hệ độc giả trong một mạch ngầm văn hoá của dân tộc. Người Việt

Nam dù ở đâu, làm gì vẫn chung nhau tấm lòng Việt, tiếng Việt, những giá trị bất

biến ấy đã được thể hiện một cách tinh tế trong từng câu thơ lục bát Truyện Kiều.

Đúng như nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên đã tâm đắc: “Nguyễn Du là mái ấm của

ngôi nhà tổ phủ, là nơi những đứa con khắp bốn phương trời trở về sau những

chặng đường lữ thứ…” [84, tr.210]. Và Trần Đình Sử đã khái quát:

171

Giá trị của Truyện Kiều trước hết là một giá trị sáng tạo văn hoá, văn

chương tuyệt đỉnh...” và “vị trí của Truyện Kiều trong văn học Việt Nam là ở

chỗ nó đánh dấu sự xuất hiện của thi ca nghệ sĩ, sự thăng hoa của thiên tài

lên trên chủ nghĩa giáo huấn, biến văn học trung đại trở thành văn học nghệ

thuật, biến tiếng Việt thành tiếng Việt văn học đích thực, biến truyện Nôm

của ông thành một thể loại nghệ sĩ... [132, tr.05].

Quả vậy, sức hấp dẫn, ảnh hưởng và lan toả của Truyện Kiều rất đa dạng và

phong phú, nó vươn đến mọi giai tầng trong xã hội, khi tập thơ của Nguyễn Du còn

chép bằng chữ Nôm, nhiều người tuy không được đi học, chỉ nhớ thuộc lòng Truyện

Kiều nhưng đã mò mẫm tự học để đọc được tất cả các bản sách chữ Nôm. Đánh giá

về hiện tượng này, Đặng Thai Mai đã cho rằng:

Người dân Việt Nam bất kỳ thuộc về tầng lớp nào, không ai là không

thích nghe kể Truyện Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều. Người ta nhớ từng đoạn và

dẫn dụng vào câu chuyện hằng ngày, khi nói đến nhân tình thế thái… và Truyện

Kiều được xem như một bản linh kinh có thể báo cho người ta những may rủi trên

đường đời. [05, tr. 165 - 166].

Sau khi ra đời, Truyện Kiều đã thực sự trở thành món ăn tinh thần cho bao

thế hệ người đọc Việt Nam, là một tác phẩm có vị trí đỉnh cao trong lịch sử phát

triển của văn học Việt Nam, là sách giáo khoa quốc văn cần phải đọc ở các bậc

học, là một đối tượng nghiên cứu của các chuyên luận khoa học. Cùng với Lục

Vân Tiên ở Nam Bộ, Truyện Kiều đã trở thành hai đại diện tiêu biểu cho thể loại

truyện Nôm bác học. Sự ra đời của Truyện Kiều đã góp phần to lớn làm phong phú

đời sống văn hóa dân tộc. “Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà Chính Thái, xem

nôm Thúy Kiều” đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt. Ngôn

ngữ Truyện Kiều đã đạt đến độ tinh xảo, chính xác, là điển hình tiêu biểu cho sự

phát triển toàn thịnh của ngôn ngữ văn học dân tộc và những tác động của nó, đặc

biệt là lớp từ ngữ văn hóa Truyện Kiều đã đi vào ca dao dân ca như những ngữ

liệu, chất liệu là tô đậm thêm vẻ đẹp duyên dáng của văn học dân gian, văn học

bình dân Việt Nam. Do vậy, trong cuốn Thơ văn quanh Truyện Kiều (1996) nhà

172

nghiên cứu Thái Kim Đỉnh cho biết, “lúc Truyện Kiều mới được in ra chưa bao

lâu, Nguyễn Văn Thắng 阮文勝, tác giả tập văn Kim Vân Kiều án 金雲翹案, cũng

đã viết: Không những chỉ những bậc văn tài tử đọc truyện, lòng vui sướng, trí

thảnh thơi mà cho đến những bố cu mẹ đĩ hễ miệng đọc cũng khoa chân múa

tay...” [39, tr. 06 - 07].

Trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, những hình thức sinh hoạt như đố Kiều,

lẩy Kiều, bình Kiều, hoạt cảnh, ca tài tử, cải lương liên quan các tuồng tích trong

Truyện Kiều đều in đậm dấu ấn ngôn ngữ văn hóa Truyện Kiều. Có thể nói rằng,

dấu ấn của sinh hoạt dân gian xứ Nghệ “địa linh nhân kiệt”, đất Hồng Sơn văn hiến,

phong cách thi văn của dòng họ Nguyễn Tiên Điền và đô thành Thăng Long đã hun

đúc nên vẻ đẹp đài các nhưng mộc mạc, quý phái nhưng chân chất của các khung

cảnh không gian, thời gian trong tác phẩm. Và một lần nữa, những nét đẹp văn hóa

ấy đã bước ra từ những trang văn Kiều và đi vào đời sống dân tộc, tạo nên những

cung bậc tiếp nhận mới cho việc thưởng thức một tuyệt phẩm của mọi thời đại. Các

nhà Kiều học Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân…và

nhất là Phạm Đan Quế, người đã tâm huyết một đời với văn hóa Kiều đã chứng

minh được những ảnh hưởng sâu đậm của Truyện Kiều đối với các sinh hoạt văn

hóa dân tộc. Từ trong nền văn hóa Kiều, các hình thức bình Kiều, vịnh Kiều, bói

Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều đã trở thành những thú chơi tao nhã. Nghệ thuật chiết tự

được trích từ những câu thơ Kiều vẫn được các cụ dẫn dụng để chúng minh cho khả

năng chiết tự chữ Hán, một lối chơi mang tính quan phương và cao nhã. Chẳng hạn

trong thư Sở Khanh gửi Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích:

“Mở xem một bức tiên mai,

Rành rành “tích việt” có hai chữ đề.”

(Câu 1087 - 1088)

Và Thúy Kiều đã giải bài toán này một cách dễ dàng:

“Lấy trong ý tứ mà suy,

Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng.”

(Câu 1089 - 1090)

173

Chữ tích 昔 trong Tích việt 昔越 vốn trong chữ Hán được cấu tạo từ các chữ

Trấp 廿, nhất -, nhật 日 có nghĩa là ngày hai mươi mốt. Chữ Việt 越 gồm có các

chữ Tuất 戌 (Chi Tuất hoặc giờ Tuất) và Tẩu 走 (chạy), có nghĩa là vào giờ Tuất,

chạy trốn. Hoặc ở một trường hợp khác, có một câu thơ nữa nếu đem chiết tự thì lại

được tên của Thúc Sinh, người tình mà Thúy Kiều đang mong ngóng ngày đêm khi

chàng về Vô Tích thăm Hoạn Thư:

“Đêm thu gió lọt song đào,

Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời.”

(Câu 1637 - 1638)

Đó chính là chữ tâm 心, tên tự của Thúc Sinh - Thúc Kỳ Tâm 束奇心.

Hoặc giả, từ những câu thơ cụ thể, người đọc có thể phán đoán các chữ Hán ẩn

chứa trong đó:

“Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.”

(Câu 0185 - 0186)

Đây là chữ Bào 胞 (gồm bộ nhục, có dáng vẻ như chữ Nguyệt, và chữ Bao),

không những thế, có khi người ta tổ chức các cuộc thi lẩy Kiều để so tài văn

chương, chẳng hạn cuộc thi lẩy Kiều do Lê Hoan 黎歡 chủ xướng (1905) và hai vị

túc nho Nguyễn Khuyến 阮勸 và Dương Khuê 楊珪 làm đồng chủ khảo. Ngôn ngữ

Truyện Kiều có lẽ từ đó đã trở thành ca từ, tuồng tích, ngữ liệu cho các loại hình văn

hoá dân gian như tuồng chèo, cải lương, hay buổi hát ví giặm, ca bài chòi của nam

thanh nữ tú trong những buổi sinh hoạt văn hoá hay những đêm hò hẹn tình tứ.

Ngòi bút hoạ chân dung Tú Bà của Nguyễn Du thật tuyệt diệu. Có lẽ Truyện

Kiều để lại trong dân chúng, gần hai trăm năm qua, bức chân dung này sâu đậm hơn

cả, bên cạnh các chân dung Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải. Mấy ai quên bức hoạ

miêu tả dáng vóc, thể xác của mụ chủ nhà chứa này:

“Thoắt trông nhờn nhợt màu da

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!”

(Câu 0923 - 0924)

174

Đặc biệt là những câu thơ miêu tả nghề nghiệp của mụ: "Giữa thì hương án

hẳn hoi, Trên treo bức tượng trắng đôi lông mày” (câu 0929 - 0930), cử chỉ, dáng

điệu ngỗ ngược của mụ: “Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” (câu 0950),

mụ “nổi tam bành mụ lên” (câu 0962). Rồi, tiếng than, tiếng đay nghiến của mụ, dễ

mấy ai quên: “Mầu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” (câu 0969 -

0970) và “cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao” (câu 0975 –

0976). Mỗi câu lục bát này thường được dân chúng dẫn ra hàng ngày.

Sau Truyện Kiều, không ít người đã nói đến cái gọi là lục bát hậu Truyện

Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, văn Kiều, thơ Kiều, bói Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều.

Sự ảnh hưởng ấy vẫn còn vang vọng đến các thi nhân hiện đại. Lê Thu Yến, người

đã cất công tìm kiến và phác thảo diện mạo thơ hiện đại ảnh hưởng Kiều đã tâm đắc

“đối với thế giới thi ca, thế giới của cảm xúc thì Nguyễn Du và Truyện Kiều hầu

như là nguồn cảm hứng vô tận” [175, tr.7]. Nói như Lưu Trọng Lư “Truyện Kiều là

một sự không cùng” [91, tr.92]. Ngôn ngữ Truyện Kiều dường như đã in vào máu

thịt của các thi nhân, Nguyễn Đăng Tuyển 阮登選 (tức Tiên phong Mộng liên

đường chủ nhân 僊峰夢蓮堂主人) viết Đào hoa mộng ký 桃花夢記 (hay còn gọi là

Tục Đoạn trường tân thanh 續斷腸新聲) (dài 20 hồi) là một sự lý giải về giấc

mộng đoạn trường, một nỗi khổ mà con người sẽ phải trải qua, hay đó cũng là lời

chiêu tuyết, chiêm nghiệm cho số phận nàng Kiều, Tuệ Không Phạm Thiên Thư khi

viết Đoạn Trường Vô Thanh như một sự lý giải, sự tiếp nối, phân tích về hậu thân

của Kiều theo luật Nhân quả của nhà Phật vẫn không thoát khỏi bóng cả của câu thơ

Kiều: “Đoạn trường sổ gói tên hoa, xưa là giọt lệ nay là hạt châu”. Bên cạnh đó,

cũng có người diễn xuôi thơ Kiều như một sự ngược dòng, nhưng đó là một cuộc lội

ngược văn hóa, dường như những câu thơ đã không đủ để cho họ hiểu rõ về Truyện

Kiều và để dễ dàng thuyết phục lòng người, chứng minh cho các chủ thuyết của

Phật môn. Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh bên cạnh Thả một bè lau, ông còn phóng

tác Truyện Kiều văn xuôi (dành cho người trẻ tuổi) (2007). Tác phẩm của Phạm

Thiên Thư và Thích Nhất Hạnh, các bản dịch Trung văn của Hoàng Dật Cầu, La

Trường Sơn, bản dịch pháp văn của Nguyễn Văn Vĩnh, đặc biệt số lần xuất bản của

175

Truyện Kiều cũng đã minh chứng cho sự thành công và sức sống của Truyện Kiều

trong đời sống văn hóa. Tính đến đầu năm 2014, Truyện Kiều đã qua 27 lần xuất

bản bằng chữ Nôm, 84 lần xuất bản bằng chữ Quốc Ngữ, 4 lần bằng tiếng Pháp, 2

lần bằng tiếng Anh, 1 lần bằng tiếng Hunggari, Đức, Ý và 6 lần bằng tiếng Trung

Quốc. Các văn nhân sĩ trí thức của Việt Nam đã không ít lần tự dịch tác phẩm đặc

sắc này sang Hán Văn, có thể liệt kê các bản như Vương Kim Hán tự truyện 王 金

漢 字 傳 (Nguyễn Kiên), Thuý Kiều quốc âm dịch xuất Hán tự 翠 翹 國 音 譯 出

漢 字 (Lê Mạnh Điềm), Kim Vân Kiều Hán tự lục bát ca 金 雲 翹 漢 字 六 八 歌

(Lê Dụ), Việt Nam âm Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi 越 南 音 金

雲 翹 歌 曲 譯 成 漢 字 古 詩 (Từ Nguyên Mạc), Kim Vân Kiều bình giảng 金 雲

翹 評 講 (Lý Văn Hùng), Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập 漢 譯 金 雲 翹

南 音 詩 集 (Trương Cam Vũ).

Những cuộc tranh luận cũng như lịch sử tiếp nhận ngôn ngữ Truyện Kiều đã

ghi được những dấu mốc lớn trong hành trình văn hóa, văn học cổ điển Việt Nam.

Tuy nhiên, dù tồn tại những quan điểm khác, song đứng trên những lập trường khác

nhau, người ta vẫn thấy ở Truyện Kiều có hơi ấm của tình dân tộc, của tình người,

tài năng và tâm huyết của người thi sĩ, suốt đời rong ca vì tiếng đau thương cho số

phận con người và Nguyễn Du, kẻ du ca, tha hương lạc loài trên chính mảnh đất

chôn nhau cắt rốn đã để lại cho quê hương xứ sở một thi phẩm sâu sắc và tuyệt vời.

Do vậy, hiện tượng Truyện Kiều được hoan nghênh ở Việt Nam là một thực tế văn

hoá hiển nhiên. Trong Văn chương Truyện Kiều, mục Lịch sử vấn đề Truyện Kiều,

Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa đã nhấn mạnh: “có người cải biên thành hý kịch,

quay thành điện ảnh, có người xuất bản tập kỷ niệm và có những bài diễn giảng, có

người chú giải, vẽ tranh minh hoạ, thậm chí có người còn dùng sách bói và cũng có

người sưu tầm tư liệu về Truyện Kiều làm thú vui...” [72, tr.45].

Trong những năm gần đây, sau khi thành lập Hội Kiều học Viêt Nam quy tụ

những học giả, chuyên gia Hán Nôm, người yêu mến Nguyễn Du, Truyện Kiều, các

nhà nghiên cứu và nhà xuất bản Thanh niên lần lượt cho xuất bản các ấn phẩm

nghiên cứu, bình luận về Truyện Kiều trong bộ Tùng thư Truyện Kiều, cùng với

176

những công trình công phu của học giả Phạm Đan Quế, Thế Anh, Bùi Hạnh Cẩn,

Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn, Lê Thu Yến...

đây được xem là một bộ sách góp phần thay đổi diện mạo của “văn hoá Kiều”. Đến

nay (2015), 14 công trình lớn nhỏ đã được biên tập, sưu tập, bổ sung và cho tái bản.

Có thể nói, đây không chỉ là một công việc thuần tuý khoa học mà còn là một cách

thức rất cơ bản khuyến khích việc tuyên truyền quảng bá “văn hoá Kiều” đến các

thế hệ, tầng lớp bạn đọc trong và ngoài nước. Lợi ích thiết thực của việc làm này đã

mang lại cho các bạn đọc trẻ tuổi một cái nhìn đầy đủ hơn về lịch sử hình thành

khoa Kiều học và những kết quả cụ thể của các thế hệ nghiên cứu lão thành, của

những người tâm huyết với Truyện Kiều và Nguyễn Du. Và sức lan toả, sự đồng

vọng ngân xa của ngôn ngữ Truyện Kiều đã thực sự đi vào trong tâm hồn của mỗi

con người Việt Nam. Nó không chỉ là câu hát, lời ru, là những khái quát triết lý hay

những câu chuyện kể của bà và cháu. Ngôn ngữ của Truyện Kiều đã đi sâu vào kho

từ vựng của người Việt, trở thành một lớp từ văn hoá đặc sắc trong ngôn ngữ Việt

Nam – Từ ngữ văn hoá Kiều. Đúng như Lô Uý Thanh trong Trung Quốc thông tục

tiểu thuyết tại Việt Nam đã xác thực:

Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài nhân tuy không chiếm vị trí

quan trọng trong văn học sử Trung Quốc nhưng Truyện Kim Vân Kiều của

Nguyễn Du lại có sức ảnh hưởng rất sâu, truyền bá rất rộng trong văn học

sử Việt Nam, không một tác phẩm nào khác sánh ngang được. Người ta

không chỉ thuộc lòng nội dung mà còn có thể ngâm nga, thậm chí đến cả con

nít, người mù chữ cũng có thể thuộc lòng từng đoạn, từng đoạn một. Những

người mẹ trẻ thường ru con như khúc hát ru, những bà già tóc bạc phơ cũng

thường kể cho cháu nghe Truyện Kiều trong những đêm sao sáng đầy trời

[102, tr.265 - 266].

Tiếp nhận Truyện Kiều trong một bối cảnh giao lưu văn hoá không chỉ giúp

cho người đọc các thế hệ hiểu thêm về một tuyệt tác văn học, một điển hình tiêu

biểu cho văn chương Việt Nam. Dù có nhiều cách luận bình khác nhau, tiêu cực hay

tích cực, Truyện Kiều vẫn là mạng sống của dân tộc, là món ăn tinh thần quý giá

177

của nhân dân ta, đúng như học giả Phạm Quỳnh đã nhận xét “Truyện Kiều còn …thì

nước ta còn” Và do đó, Nguyễn Du và Truyện Kiều suốt hai thế kỷ qua đã trở thành

nguồn cảm hứng của biết bao thế hệ thi nhân, là đề tài cho các hoạ gia, nhạc sỹ và nó

vẫn tiếp tục chảy mãi trong mạch nguồn văn hóa dân tộc.

3.3.2. Sự lan tỏa và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

đến đời sống văn chương Việt Nam

Tiếp cận văn học theo phương pháp liên ngành, tích hợp ngôn ngữ - văn hóa

đã mang lại cho giới nghiên cứu những hướng đi mới, đặc biệt là ở trường hợp

Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khảo sát ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều trong

bối cảnh giao lưu văn hóa, văn học Trung Hoa, Việt Nam không chỉ thể hiện mối

quan hệ về lịch sử, cũng như những cách tân sáng tạo từ phương diện văn học giữa

Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà còn nêu bật

những ảnh hưởng văn hóa, xã hội trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. Trong quá

trình tồn tại lịch sử của tác phẩm này, giá trị nghệ thuật của nó dường như đã có

một sự lan tỏa, vang vọng và không bao giờ có điểm tận cùng. Từ một nhãn quan

văn hoá đặc biệt đến một phong cách văn hoá thâm thuý, qua những giọng văn đặc

trưng, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hoàn thành sứ mệnh văn hoá cao cả của nó.

Truyện Kiều đã hình thành nên một nền văn hoá Kiều trong dòng chảy văn hoá Việt

Nam. Nó đã mang đến cho văn hoá, văn chương cổ điển Việt Nam những hương vị

mới, đậm đà và sâu sắc.

Nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng, lan toả và vang vọng của ngôn ngữ văn hoá

trong Truyện Kiều đến đời sống văn chương nghệ thuật, quá trình sáng tác cũng như

các tác phẩm cụ thể của các thế hệ thi nhân hậu Nguyễn Du, hậu Truyện Kiều, chúng

tôi nhận thấy cần phải xem xét trên hai phương diện. Một là các sáng tác, tác phẩm cụ

thể lấy cảm hứng từ những vấn đề xung quanh câu chuyện về hệ thống nhân vật, nội

dung tư tưởng, nghệ thuật của Truyện Kiều. Hai là sự ảnh hưởng, tiếp nhận kiểu sáng

tác, mô hình sáng tác, kiểu dùng từ đặt câu... có vận dụng các ngữ liệu văn hoá trong

Truyện Kiều đến các nhà văn, nhà thơ sau khi tác phẩm này hành thế.

178

Trong truyền thống văn chương Việt Nam, đề vịnh về các danh tác là một

hiện tượng không hiếm. Nhưng có lẽ chưa có một tập sách nào lại cho sức cuốn hút

các giới như Truyện Kiều. Hơn 200 năm đã trôi qua, số lượng đề vịnh về câu

chuyện tình Kim - Kiều, về nỗi đoạn trường của Kiều nhi đã có số lượng hàng ngàn

bài. Có lẽ cho đến ngàn sau, câu chuyện oan trái, hiếu tình của Vương Thuý Kiều

vẫn luôn là đề tài ngâm vịnh cho biết bao thế hệ. Cao Bá Quát trong Hoa tiên truyện

tự 花箋傳序 (1848) cho rằng “Kim Vân Kiều đạt thế ngữ 金雲翹達世語” (Kim

Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời), nói về Kiều là nói về cuộc đời, viết về Kiều cũng

chính là viết về cuộc đời vậy. Đúng như nhà nghiên cứu Lê Thu Yến đã nhận xét, từ

góc độ ngôn ngữ văn hoá, từng câu chữ trong “Truyện Kiều bắt mọi người phải suy

nghĩa, phát hiện, giải thích, cắt nghĩa... nên đã có nhiều tác phẩm phê bình nghiên

cứu từ thời này qua thời khác.” Và “Truyện Kiều như có hấp lực bắt người đọc phải

làm theo, nỗ lực sáng tạo... vì vậy mà có các hình thức lẩy Kiều, tập Kiều... Nhiều

cuộc cuộc thi tập Kiều với những hình thức khác nhau được tổ chức từ sau Truyện

Kiều ra đời và kéo dài đến bây giờ.” [175, tr.06]. Trong chương VI, tiết 04 của

chuyên luận Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều, nhà nghiên cứu Trần Ích

Nguyên (Đài Loan) đã cho rằng:

Chúng ta có thể nhìn ra ảnh hưởng của Kim Vân Kiều Truyện do

Thanh Tâm Tài Nhân sáng tác đối với văn học Trung Quốc, còn ảnh hưởng

của nó đối với văn học nước ngoài thì càng tỏ ra xuất sắc hơn....Sau khi

truyền sang Việt Nam và cải tạo lại của nhà thơ thiên tài Nguyễn Du, sáng

tác mới thành truyện thơ Nôm Truyện Kim Vân Kiều tiếng tăm vang dội và

được dịch ra nhiều thứ tiếng, bước lên văn đàn thế giới, ảnh hưởng càng

thêm sâu xa...” [102, tr.267].

Nhận xét của nhà nghiên cứu Đài Loan này đã chứng thực một điều rằng,

tầm ảnh hưởng của Truyện Kiều đã vượt khuôn khổ của một quốc gia và bắt đâu đi

vào hành trình trở thành tinh tuý của nhân loại. Ông tiếp tục khẳng định: “Điều thú

vị là, Truyện Kim Vân Kiều Truyện mượn đề tài chữ Hán, sau khi nổi tiếng hơn

người đi trước thì nhân sĩ Việt Nam lại dịch thành nhiều bản bằng chữ Hán...”

[102, tr.267]. Những ảnh hưởng của Truyện Kiều có thể được xem xét trên nhiều

179

phương diện khác nhau. Theo Nguyễn Văn Y trong Thơ vịnh Kiều [172], Trần Đình

Sử trong Thi pháp Truyện Kiều [138], Thái Kim Đỉnh trong Thơ văn xung quanh

Truyện Kiều [39], với tư cách là một truyện thơ Nôm, Truyện Kiều có nhiều mối

quan hệ với thơ ca cổ điển Trung Quốc. Có thể trước khi viết tác phẩm này, nhà thơ

Nguyễn Du đã tự hình thành một nhãn quan thi ca cổ điển Đông phương độc đáo và

thể hiện nó một cách sâu sắc trong các thế giới nghệ thuật của mình. Nguyễn Du

dẫn dụng nhiều ngữ liệu văn hóa có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc nhưng vẫn

không làm cho thi phẩm trở nên cầu kỳ, khó hiểu, sự dẫn dụng đó được thể hiện qua

lăng kính văn hoá Việt, đó cũng là sự Việt hoá có ý thức cao độ của một danh gia

giàu tính dân tộc. Chính điều này đã tác động một cách sâu sắc và mạnh mẽ đến

ngôn ngữ văn học giai đoạn này. Ngoài ra, trong một chừng mực nhất định nó cũng

góp phần tạo nên một phong cách nghệ thuật theo trường phái tập Kiều, hậu Truyện

Kiều, lẩy Kiều và kể cả bói Kiều trong văn hoá Việt Nam.

Theo nhà nghiên cứu Lê Thu Yến trong công trình sưu tuyển Nguyễn Du và

Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau (Nxb Giáo dục, 2001), “Truyện

Kiều là một cuốn sách của nhiều tâm trạng. Những tâm trạng ấy lại được thể hiện

một cách cô đọng trong một, hai dòng thơ, vì thế người đi tìm lời giải đáp về những

ẩn số của cuộc đời dễ bắt gặp mình ở trong đấy. Truyện tuy là một mắc xích các sự

kiện nhưng vẫn có thể bứt rời nó ra đặt vào những chỗ khác cũng rất hợp tình, hợp

cảnh.” [175, tr.06]. Đó cũng chính là cội nguồn, căn nguyên của hiện tượng bói

Kiều trong giới văn nhân và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt, đối với thi ca, Truyện

Kiều và hệ thống ngôn ngữ văn hoá trong thi phẩm này là nguồn cảm hứng vô tận

cho các văn thi sĩ cùng thế hệ và các thế hệ sau Nguyễn Du. Từ Phạm Quý Thích,

Vũ Trinh, Nguyễn Dực Tông Anh hoàng đế, Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh,

Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Bùi Kỷ... đến Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Tố

Hữu, Hồ Văn Hảo, Lê Thu Yến, Đằng Phương, Vương Trọng... mạch nguồn cảm

hứng ấy vẫn chưa bao giờ vơi cạn.

Vịnh Kiều bằng chữ Hán có những thi phẩm tổng vịnh, đề từ, tự vịnh, ngâm

vịnh của Phạm Quý Thích (Đề từ), Chu Doãn Trí (Vịnh Thuý Kiều), Hà Tôn Quyền,

Nguyễn Văn Chi (mỗi vị đều có 30 bài vịnh về các đoạn, các tích trong Kiều), Tự

Đức (Dực Tông Anh Hoàng đế ngự chế tổng từ). Vịnh Kiều bằng chữ Nôm có các

180

tác giả như Hà Tông Quyền, Nguyễn Văn Chi, Nguyễn Công Trứ, Bùi Hữu Nghĩa,

Tôn Thọ Tường – Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Tri. Về tập Kiều, theo

chúng tôi có các tác giả tiêu biểu như Lý văn Phức, Bùi Viện, Nguyễn Khuyến,

Nguyễn Thượng Hiền. Về tuồng tích Kim Vân Kiều, chúng tôi thu thập được các tài

liệu như Quan tiểu thuyết Vương Thuý Kiều ngẫu hứng, Độc Thuý Kiều truyện cảm

tác, Văn tế Thuý Kiều, Bài biểu Thuý Kiều, Từ khúc khóc Kiều, bài hậu tự Truyện

Thuý Kiều, một chùm thơ vịnh Kiều đầu thế kỷ XX của Chu Thấp Hy (qua bản dịch

của Bùi Giáng, 1956).

Thống kê thư mục nghiên cứu Truyện Kiều từ sau năm 1945, có lẽ Nguyễn

Văn Y với Thơ vịnh Kiều (sưu tập) (Lạc Việt, Sài Gòn, năm 1973) là người đầu tiên

ý thức về việc nghiên cứu những ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến

giới văn nhân hậu Nguyễn Du. Ông cho rằng: “Bây giờ tôi có thể nói mà không sợ

lầm là xưa nay trong lịch sử văn học Việt Nam không có một tác phẩm nào được

người ta bàn giải, tán tụng và làm thơ đề vịnh nhiều như quyển Đoạn trường tân

thanh mà ta quen gọi là Truyện Kiều. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật tuyệt vời

của Truyện Kiều, đồng thời nó còn cho ta thấy Truyện Kiều là một tác phẩm đã

thực sự đi sâu vào quảng đại quần chúng, nhứt là giới trí thức... một tác phẩm đã đi

sâu vào mạch sống dân tộc, vào tiếng nói quê cha đất mẹ... ” [172, tr.02].

Đến Lê Thu Yến qua Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ đời sau

(2001), 126 bài thơ tiêu biểu nhất lấy cảm hứng từ Nguyễn Du và Truyện Kiều

được sưu tuyển. Ở tập này, soạn giả đã chú ý đến 04 tác giả người Hoa Kỳ, Pháp và

Hunggari. Một bức tranh bằng thơ xinh đẹp với những ảnh hưởng sâu đậm từ một

nguyên mẫu văn hoá – Kiều và câu chuyện của nàng, đã thực sự được tái hiện, được

lan toả và vang vọng trong ý thức thẩm mỹ của các thi nhân đời sau. Đúng như nhà

thơ Tố Hữu đã khẳng định :

“Nỗi niềm xưa nghĩa mà thương,

Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng...

Mai sau dù có bao giờ,

Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay.

181

Tiếng đàn xưa đứt ngang dây,

Hai trăm năm lại càng say lòng người...

Đau đớn thay phận đàn bà,

Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân! ”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du)

Qua Duyên nợ với Kiều, Lê Thu Yến đã dẫn dụng khá nhiều ý tứ có trong

ngôn ngữ Truyện Kiều, đó là những lời chia sẻ cũng là tiếng đồng điệu của những

tâm hồn đa cảm trước những “nỗi bất tình” của nhân thế :

“Lần đầu tôi giở trang Kiều,

Thấy cay, thấy đắng, thấy nhiều xót xa.

Thuý Kiều sắc sảo mặn mà,

Sao trong cuộc sống phong ba bất kỳ.

Thuý Kiều tình hiếu ai bì,

Mà đời ganh ghét, khinh khi phũ phàng.

Phải chi tôi gặp được nàng,

Cảm thông một chút... đôi hàng thơ rơi. ”

Khi nghiên cứu lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, Phan Công Khanh đã cho

rằng “có một điểm nhìn lưu động xuyên suốt làm nên cái nền tảng cho quá trình

biển đổi. Đó là ý thức văn hoá Việt Nam trước những đổi thay của lịch sử…” [70,

tr.187]. Theo chúng tôi, từ góc độ ngôn ngữ văn hoá, tiếp nhận Truyện Kiều chính là

một quá trình hồi nguyên, một quá trình tự nhận thức, tìm về và khám phá, tái tạo

vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc. Những giá trị ngữ cảm và chiều kích văn hoá mà nó

mang lại luôn được tái sinh và phát triển mạnh mẽ trong dòng thời gian, đưa tiếng

Việt lên một tầm cao mới. Sức sống mãnh liệt của Truyện Kiều, sự ảnh hưởng to lớn

của nó không chỉ như là tiếng mẹ ru mà nó đã thực sự đi sâu vào trong lời ăn, tiếng nói

hằng ngày của mọi người dân. Quả thật, nhiều câu Kiều đã đi vào những ngữ cảnh giao

tiếp cụ thể. Nhiều người Việt Nam đã đọc Kiều, ngâm Kiều, thuộc Kiều, rất hay dùng

những từ ngữ, tứ thơ, ngữ điệu thơ, những tâm trạng, tình huống trong Truyện Kiều để

diễn đạt những cung bậc tình cảm cá nhân. Hiện tượng này các nhà nghiên cứu thường

182

gọi là lẩy Kiều. Đọc các bài viết, bài nói chuyện và thơ văn của chủ tịch Hồ Chí Minh,

chúng ta thấy Người rất thuộc Truyện Kiều và hay lẩy Kiều - như một ứng xử văn hoá

trước bạn bè quốc tế. Cách lẩy Kiều của Bác độc đáo và sáng tạo, có khi Người dùng

nguyên cả câu lục bát, có khi là lấy một cụm từ hoặc thay đổi một vài từ.. để diễn đạt ý tứ

của mình. Năm 1928, khi Bác từ châu Âu về Xiêm (tức Thái Lan), Bác tạm trú tại Na

Khon, trong một quãng đường Bác đã nói với một người bạn là ông Trần Lam:

“Xa nhà chốc mấy mươi niên,

Tối qua nghe giọng mẹ hiền ru con. ”

Câu lục bát này lấy ý tư từ câu 2239 - 2240 của Truyện Kiều:

“Chốc đà mười mấy năm trời,

Còn ra khi đã da mồi tóc sương. ”

Trên Báo Việt Nam độc lập (số 122, ngày 01 tháng 04 năm 1942), Bác có viết

bài Ca sợi chỉ, trong tác phẩm này Bác đã 06 lần mô phỏng lại Kiều, cụ thể như sau:

“Xưa tôi yếu ớt vô cùng,

Ai vò cũng đứt, ai rung cũng rời. ”

Câu này tập lại câu 2521 - 2522 trong Truyện Kiều:

“Trơ như đá, vững như đồng

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. ”

Hoặc ở một trường hợp khác, Bác viết:

“Mạnh gì sợi chỉ con con,

Khuôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng? ”

Ở câu này, Bác đã mượn ý câu thơ 1633 - 1634 trong Truyện Kiều :

“Sắn bìm chút phận con con,

Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? ”

Tóm lại, những đặc nét trưng và hiệu quả thẩm mỹ của hệ thống ngôn ngữ

văn hóa trong Truyện Kiều đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình tiếp nhận tác

phẩm trong bối cảnh giao lưu văn hóa Việt Hoa. Nó góp phần thể hiện giọng điệu

tiêu biểu như Khổng Tước văn, Hải Hạc văn của Nguyễn Du. Ngoài ra, nó còn tác

động đến đời sống sinh hoạt văn hóa của dân tộc, các hình thức Bình Kiều, Đố Kiều,

183

Lẩy Kiều, Bói Kiều đã trở thành những thú chơi tao nhã của văn nhân, mặc khách.

Tác động của nó còn lưu dấu trong tâm thức thẩm mỹ của các nhà thơ qua các thế

hệ. Dù đã tồn tại nhiều cuộc tranh luận khác nhau về giá trị của Truyện Kiều nhưng

những đặc điểm nổi bật về ngôn ngữ vẫn là những yếu tố nổi trội trong diễn trình

vận động, tồn tại của tác phẩm.

Hệ thống ngữ liệu văn hoá bình dân và bác học trong Truyện Kiều đã mang

vẻ đẹp của sự giản ước, cô đọng. Bản thân các từ ngữ này đã thâu tóm trong nó

những quan điểm về triết học, lịch sử, tư tưởng, thói quen, kiểu tư duy, kinh nghiệm

sống...có thể bác học có thể bình dân của mọi tầng lớp trong xã hội và phạm vi hoạt

động, ý nghĩa và tính chất tối giản của các mỹ từ ấy đã thể hiện một cách khái quát

hàm súc và truyền vẻ đẹp trong sáng, giản dị đến những câu thơ đã sử dụng nó.

Tiểu kết Chương 3.

Tính triết lý và lớp trầm tích văn hoá trong hai hệ thống ngữ liệu bình dân,

bác học của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều là sự minh chứng xác thực cho phong

cách văn hoá của Nguyễn Du. Nó đã giúp nhà thơ tiếp cận, tái hiện hiện thực một

cách khá sâu sắc, hợp lý, có tính vượt trội so với các nhà thơ cùng thời. Bên cạnh

đó, với sự kết hợp hài hoà giữa hai chất giọng Khổng tước và Hải hạc trong ngôn

điệu của tác phẩm đã tạo nên một tính chất đa thanh trong thế giới nghệ thuật

Truyện Kiều. Khả năng liên tưởng và chiều kích văn hoá của người viết lẫn người

được kiểm chứng qua quá trình lưu truyền tiếp nhận và lan toả ngôn ngữ đầy sống

động, tươi rói của đời sống đến sinh hoạt văn hoá trong xã hội Việt Nam hơn hai

trăm năm nay.

Trong quá trình giao lưu và hội nhập ngày nay, trước những đổi thay của các

hệ quy chiếu thẩm mỹ, chúng ta vẫn cảm nhận được rằng đến với Truyện Kiều có

“đường đi muôn ngả” và đại thi hào Nguyễn Du luôn là niềm tự hào, là lời kêu gọi,

khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân, các thế hệ bạn đọc quay trở về với truyền

thống, làm sống lại những giá trị vĩnh hằng của văn học cổ điển mà Truyện Kiều là

một điển hình tiêu biểu. Dù những giá trị cơ bản của tác phẩm này, nhất là ở

phương diện ngôn ngữ, nhưng sự lan toả, vang vọng của Truyện Kiều vẫn mãi đồng

184

hành với lịch sử phát triển ý thức nhân văn, tinh thần nhân đạo của dân tộc ta. Là

một kiệt tác văn chương, Truyện Kiều - Đoạn trường tân thanh (tiếng kêu mới đứt

ruột) cùng nàng Kiều đã đi vào mọi nẻo đường sinh hoạt văn hoá của dân tộc từ án

sách, bờ tre đến những cánh đồng, nông trường, công trường hiện đại và kể cả mọi

ngóc ngách trong tâm hồn dân Việt. Do đó, khúc Nam âm tuyệt xướng diệu kỳ này

từ ngày chào đời đến nay vẫn luôn được nhân dân tôn quý, là nơi tụ hội của những

cảm xúc và thử thách của trí tuệ, tài năng của bao thế hệ độc giả.

185

KẾT LUẬN

1. Truyện Kiều là tác phẩm kỳ diệu của văn chương Việt Nam, một thi phẩm

tuyệt vời mang đậm tính dân tộc. Tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm bất hủ này là một

công việc hết sức khó khăn nhưng cũng vô cùng thú vị. Tinh hoa, thành tựu văn hóa

đặc sắc của đất nước Trung Hoa và vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc đã hun đúc nên

chiều sâu triết mỹ, sức lan tỏa, vang vọng của tác phẩm đối với các thế hệ bạn đọc văn

hóa Việt Nam. Có thể nói ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đã tạo nên những bước

tiến thần kỳ đối với ngôn ngữ văn học dân tộc. Xét trong tiến trình phát triển, vẻ

trang nhã quý phái của hệ thống ngôn ngữ bác học cũng như sự chân chất mộc mạc

của lớp ngôn ngữ bình dân trong thi phẩm đã quyện vào nhau trong một thể thống nhất

vừa đa dạng, vừa mẫu mực cho ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Thế giới nghệ

thuật của thi ca trung đại là một thế giới phức điệu bởi những đặc trưng mang tính

quy phạm. Người sáng tác không chỉ là một thi nhân mà còn phải đảm trách vai trò

là một triết nhân. Về hình thức, thế giới nhân vật trong thi phẩm được hoạt động

trong môi trường của những quan niệm nệ cổ, quan điểm trung hiếu, tiết nghĩa, đạo

cang thường, tình thủ túc, nhưng trong chiều sâu văn hóa của nó, mỗi một nhân vật

đều là một sự tích hợp cao độ các nét đẹp, độ thâm trầm và sự uyên nhã của tinh

thần nhân văn, nghĩa hiệp Đông phương.

Lịch sử tiếp nhận ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá tuy

không có bề dày như nhiều hướng tiếp cận khác nhưng nó đã mở ra được một

hướng nghiên cứu mới về một đối tượng đặc biệt của văn học dân tộc. Khảo sát

nguồn ngôn ngữ văn hoá bác học trong tác phẩm này sẽ là những tiền đề cần thiết

trong quá trình phác thảo hành trình giao lưu văn hoá, văn học Trung Hoa, Việt

Nam. Khảo sát hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại nói chung và

Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một công việc vô

cùng lý thú và hấp dẫn. Với hệ thống ngữ liệu văn hóa, chúng ta có thể đi vào tìm

hiểu bức tranh “muôn hình muôn vẻ” về thế giới nghệ thuật, xã hội, con người và

những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những trải nghiệm

của một thi nhân, triết nhân luôn nặng nợ với đời.

186

2. Có thể nói, trong văn học cổ điển Việt Nam, ngôn ngữ đời sống bình dân,

ngôn ngữ từ chương bác học là nguồn ngữ liệu vô cùng quý giá cung cấp cho các

nhà thơ một vốn từ vựng để sáng tác. Nó cũng chính là phương tiện dễ nhận thấy

nhất về đặc tính dân tộc cho một tác phẩm văn học cụ thể, là thước đo trình độ và

kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của một nhà thơ. Nguyễn Du là người đã tôn vinh xứng

đáng những giá trị của ngôn ngữ quần chúng và dạy ngôn ngữ cho quần chúng trong

việc chuyển dịch các chức năng giáo tiếp cụ thể trong xã hội thành các giao tiếp

nghệ thuật và ngược lại. Tất cả những khả năng ấy đã giúp cho ngôn ngữ của

Truyện Kiều vượt trội hẳn các tác phẩm trước và sau nó.

Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ trước đến nay phần lớn chỉ

nhấn mạnh phương diện tài năng của nhà thơ, khẳng định Nguyễn Du là một người

sành và giỏi tiếng Việt, mà ít quan tâm đến ông với tư cách là nhà văn hóa. Hướng

tiếp cận phong cách đối với ngôn ngữ tác phẩm đã chỉ ra những nguyên tắc chân,

thành, tín, nhã, đạt của thi pháp cổ điển nhưng vẫn không khái quát được những

đặc trưng văn hóa của hệ thống này. Mối quan hệ biện chứng, tương tác giữa ngôn

ngữ và văn hoá trong lịch sử văn hoá cổ điển Việt Nam là một trong những hệ quả

của quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hoá Việt - Hán, là nguyên nhân trực tiếp tác

động đến sự hình thành các sắc thái, hàm nghĩa văn hoá của từ vựng, ngữ liệu văn

hoá trong tác phẩm văn học, nhất là truyện Nôm bác học.

Việc xử lý, dẫn dụng thành thạo, chuyển dịch hợp lý các ngữ liệu văn hoá này

trong các thể loại, tác phẩm văn chương đã trở thành tiêu chí đánh giá về sự uyên bác,

độ thâm thuý và khả năng chiếm lĩnh đời sống thông qua những nguyên tắc thi pháp

thể hiện đặc thù. Hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ nói chung và ngôn ngữ truyện Nôm

nói riêng là một vấn đề không chỉ được soi rọi từ góc độ ngôn ngữ mà cần phải được

đặt chúng trong môi trường hành chức cụ thể, tức ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển

Việt Nam. Trong quá trình hành chức của các thi liệu văn hoá, vấn đề được đặt ra ở

đây là người tiếp nhận, nghiên cứu cần phải quan tâm đến nghệ thuật sử dụng từ ngữ,

lý giải những ngữ liệu có nguồn gốc văn hoá bác học Trung Hoa và Việt Nam, cốt

làm sao giúp cho người thưởng thức thuộc mọi thế hệ khác nhau có thể hiểu đúng và

sử dụng đúng lớp từ này sao cho thật chính xác và linh hoạt.

187

3. Đề tài Ngôn ngữ Truyên Kiều từ góc nhìn văn hóa được khai triển dựa

trên những thành tựu về ngôn ngữ học, thi pháp học và văn hóa học. Đặc biệt, từ

mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn học và văn hóa, chúng tôi đã tiếp cận ngôn ngữ

Truyện Kiều, từ nguồn gốc đến đặc trưng thẩm mỹ, những nét nghĩa văn hóa cụ thể

ẩn tàng trong từng câu chữ nếu không được thống kê, mô tả, lý giải thì người

thưởng thức khó lòng có thể tìm thấy được vẻ đẹp, sự hấp dẫn của nó. Hệ thống từ

ngữ văn hóa trong Truyện Kiều đã tồn tại với tư cách là một phương tiện đặc thù của

ngôn từ tác phẩm. Nguyễn Du đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn, cách tân, sáng

tạo, linh động, thần tình, đích đáng, tự nhiên, gọn gàng, ý vị thanh nhã và thuyết phục

người đọc. Đó còn là nhờ có sự hòa quyện giữa những yếu tố khách quan và chủ quan

theo đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam, là sự tiếp nhận những ảnh hưởng

từ văn học cổ điển Trung Hoa. Bên cạnh đó, Nguyễn Du đã phá vỡ quy luật tạo dựng

ngôn ngữ văn chương thông thường để tạo nên một hệ thống mới diễn đạt một trạng

thái mang tính phổ quát và bắt nguồn từ mạch sống của dân tộc. Và có lẽ, tác giả đã

phát hiện ra được dáng vẻ thần kỳ, hấp dẫn của quy luật di chuyển từ văn hóa vào

ngôn ngữ và lý giải cấu trúc của chúng một cách khách quan từ phương diện tri nhận,

làm cho các tiểu cấu trúc ngôn ngữ văn hóa ấy tự nói lên ý nghĩa của bản thân mình

và góp phần tạo nên bức tranh ngôn ngữ toàn cảnh đa nghĩa và chuẩn xác.

4. Xét từ phương diện hiệu quả thẩm mỹ, trải qua nhiều thăng trầm của ngôn

ngữ văn hoá Truyện Kiều đã khẳng nhận mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Nó chính

là công cụ để tái hiện bức tranh đa dạng của hiện thực cũng như tâm tình con người

đòi hỏi sự thể hiện cao độ. Sự phong phú, chính xác, điêu luyện, uyển chuyển và sâu

sắc của ngôn ngữ văn hoá tác phẩm đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ

văn học dân tộc. Bức tranh ngôn ngữ được Tố Như tiên sinh gợi mở qua một mã văn

hóa đặc biệt, đó là sự vận hành, bổ túc và cân đối của thi phú từ chương trung đại, lối

sử dụng điến cố, thi tứ, văn liệu cổ xưa, là sự biểu hiện của các quan niệm, hành vi

văn hóa trong sinh hoạt xã hội. Trong Ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều, nếu tiếp

cận từ góc độ văn hóa, chúng ta sẽ thấy lớp ngữ liệu văn hóa sẽ vận hành theo nguyên

tắc vừa ly tâm vừa hướng tâm. Nó không chỉ mang dáng vẻ đài các của thi liệu Trung

188

Hoa mà nó còn có sự biểu hiện ở bản sắc dân tộc. Tuy không rõ ràng như lớp ngôn

ngữ bình dân, nhưng ngôn ngữ bác học, đặc biệt là hệ thống từ Hán Việt gần gũi với

lời ăn tiếng nói nơi thôn đã được vận dụng linh hoạt, thần tình, đích đáng và nhuần

nhuyễn trong tác phẩm. Hệ thống từ ngữ này đã đóng vai trò không nhỏ đối với vấn

đề dân tộc hóa, đại chúng hóa và cá tính sáng tạo của nhà văn. Điều đó đã góp phần

tạo nên tâm thế gần gũi với độc giả, khiến cho hệ thống ngữ liệu văn hóa của tác phẩm

không xa lạ đối với các thế hệ, tầng lớp bạn đọc.

5. Hơn 200 năm tiếp nhận, nghiên cứu và bình luận, với nhiều khuynh hướng

tiếp cận và đánh giá khác nhau về Truyện Kiều, tựu trung lại, chúng ta vẫn nhận thấy

một tấm lòng của các thế hệ nghiên cứu, độc giả luôn trân trọng những di sản mà nhà

thơ đã để lại cho nền văn học dân tộc. Từ khi ra đời đến nay, đứa con tinh thần này

của Nguyễn Du đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn

dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng... Tập đại thành của văn

hoá nước Việt ta đi qua hai thế kỷ tồn tại nhưng những vấn đề nghiên cứu về văn bản,

nội dung và thế giới nghệ thuật của nó vẫn để lại những tồn nghi, cần tiếp tục bổ sung

và khảo cứu thêm. Tuy vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định

những thành tựu về ngôn ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và những đóng góp

của ông đối với tiến trình phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc.

Tiếp nhận Truyện Kiều trong một bối cảnh giao lưu văn hoá không chỉ giúp

cho người đọc các thế hệ hiểu thêm về một tuyệt tác văn học, một điển hình tiêu

biểu cho văn chương Việt Nam. Dù có nhiều cách luận bình khác nhau, tiêu cực hay

tích cực, Truyện Kiều vẫn luôn được tồn tại với tư cách là một sinh mệnh văn hoá

của dân tộc, là món ăn tinh thần quý giá của nhân dân ta, đúng như học giả Phạm

Quỳnh đã nhận xét “Truyện Kiều còn …thì nước ta còn”. Và do đó, Nguyễn Du và

Truyện Kiều suốt hơn hai trăm năm qua đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao

thế hệ thi nhân, là đề tài cho các nghệ sĩ và nó vẫn tiếp tục trong mạch nguồn văn

hóa dân tộc, vẫn liên tục tiếp diễn, bền bỉ và dài lâu.

189

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Võ Minh Hải (2009), “Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá trong

Truyện Kiều”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (4), tr. 17 - 23.

2. Võ Minh Hải (2012), “Hàm nghĩa văn hóa của hai chữ Nam và Bắc trong

văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (1+2), tr. 13 - 23.

3. Võ Minh Hải (2013), “Phong cách văn hoá Nguyễn Du qua ngôn ngữ

nhân vật Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (9), tr. 76 - 83.

190

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

A. Tiếng Việt

1. Phạm Quang Ái (2011), Họ Nguyễn Tiên Điền qua gia phả, sử sách và tư

liệu điền dã, Nxb Nghệ An.

2. Đào Duy Anh (1988), Khảo luận về Truyện Kiều (Tái bản lần 3), Nxb Văn

nghệ, HN.

3. Đào Duy Anh (1989), Từ điển Truyện Kiều (Tái bản lần 2), Nxb Khoa học

Xã hội, HN.

4. Đào Duy Anh (2004), Nghiên cứu Văn hóa và Ngữ văn, Nxb Giáo dục, HN.

5. Đào Duy Anh (2011), Truyện Kiều, tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học, HN.

6. Trần Gia Anh, Trần Đình Tuấn (2012), Truyện Kiều dưới cái nhìn con số

và thành ngữ số dân gian, Nxb Thanh Hoá.

7. Trần Ngọc Anh (1999), Hồng Sơn văn phái - Nguồn thi ca Nôm một vùng

quê, Nxb Giáo dục, HN.

8. Thế Anh (2010), Một cách hiểu khác về chữ “Mã thượng” trong bài thơ

Lương Châu từ của Vương Hàn, Thông báo Hán Nôm học năm 2009, Nxb Thế

Giới, HN.

9. Phan Mậu Cảnh (2005), Góp phần lý giải ảnh hưởng của Truyện Kiều đối

với ngôn ngữ và văn hoá dân tộc, in trong Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu

thế kỷ XXI (Nguyễn Xuân Lam sưu tầm, biên soạn), Nxb Giáo dục, HN.

10. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học, HN.

11. Bửu Cầm, Lê Ngọc Trụ (1967), Thư mục Nguyễn Du, Bộ Quốc gia

Giáo dục xuất bản, SG.

12. Lê Nguyên Cẩn (2008), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá, Nxb

Giáo dục, HN.

13. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục, HN.

14. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.

15. Hoàng Thị Châu (2009), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG TP. HCM.

191

16. Nguyễn Huệ Chi (2013), Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn

hoá đến các mã nghệ thuật (Đặng Thị Hảo giới thiệu, tuyển chọn), Nxb Giáo dục

Việt Nam, HN.

17. Nguyễn Đình Chú (1998), “Nguyễn Du trong thời đại Hồ Chí Minh”,

Tạp chí Văn học (6), tr. 31 - 41.

18. Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa...(1960), Chân dung Nguyễn Du, Nxb

Nam Sơn, SG.

19. Nguyễn Đăng Cư (1932), Kiều vận tập thành, Trung Hưng thư quán, Huế.

20. Phan Mạnh Danh (1953), Bút hoa (thơ tập cổ), Trí Đức thư xã, HN.

21. Diêm Ái Dân (2001), Gia giáo Trung Quốc cổ (Cao Tự Thanh dịch),

Nxb Trẻ, TP. HCM.

22. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1993), Tục ngữ Việt

Nam, Nxb Khoa học Xã hội, HN.

23. Phạm Văn Diêu (1970), Việt Nam văn học giảng bình, Nxb Hoành Sơn, SG.

24. Xuân Diệu (1966), Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nxb Văn học, HN.

25. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập 1 và 2), Nxb Văn

học, HN.

26. Trần Trí Dõi (2005), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Nxb Văn

hoá thông tin, HN.

27. Nguyễn Du (Thành Thái, Bính Ngọ, trọng hạ), Kim Vân Kiều tân truyện,

Quán Văn Đường tàng bản, Lê gia trân dụng.

28. Nguyễn Du (1952), Truyện Kiều chú giải (Vân Hạc Lê Văn Hoè chú giải

- Hiệu đính - Bình luận), Quốc học thư xã, HN.

29. Nguyễn Du (1960), Kim Vân Kiều (Đoạn trường tân thanh) (Bùi Khánh

Diễn chú thích), Nxb Sống Mới, SG.

30. Nguyễn Du (1960), Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu

khảo), Tủ sách Cổ văn, Nxb Tân Việt, SG.

31. Nguyễn Du (1996), Nguyễn Du toàn tập (Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng

Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến sưu tập), Nxb Văn học, HN.

192

32. Nguyễn Du (1999), Truyện Kiều tập chú (Trần Văn Chánh, Trần Phước

Thuận, Phạm Văn Hoà chú thích), Nxb Đà Nẵng.

33. Nguyễn Du (2013), Đoạn trường tân thanh (Đối chiếu Nôm - Quốc ngữ)

(Thế Anh phiên âm khảo dị), Nxb Văn học, HN.

34. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb

Văn học, HN.

35. Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1952), Vương Thúy Kiều chú giải tân

truyện, Nxb Hương Sơn, HN.

36. Trần Thanh Đạm (2000), “Suy nghĩ về “Trên đỉnh Trường Sơn kể Truyện

Kiều”, Trên đỉnh Trường Sơn kể Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, HN.

37. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nxb

Văn hoá thông tin, HN.

38. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, HN.

39. Thái Kim Đỉnh (1996), Thơ văn xung quanh Truyện Kiều, Nxb Nghệ An.

40. Trịnh Bá Đĩnh (2000), Bình giải Truyện Kiều, Nxb Văn học, HN.

41. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Phê bình văn học Việt Nam, Nxb Văn học, HN.

42. Trịnh Bá Đĩnh (2013), Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, HN.

43. Phan Huy Đông (2013), Giai thoại tổ nội - tổ ngoại của đại thi hào

Nguyễn Du, Nxb Văn học - Trung tâm văn hoá Tràng An, HN.

44. Nguyễn Đình Giang (1959), “Thử tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều

theo phương pháp mới”, Tạp chí Đại học (8), tr. 87 - 129.

45. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (1999), Nguyễn Du - Tác phẩm và

lịch sử văn bản, Nxb Tổng hợp TP. HCM.

46. Nguyễn Thạch Giang (2001), Lời quê chắp nhặt (Tập 1, 2), Nxb Khoa

học Xã hội, HN.

47. Nguyễn Thạch Giang (2005), Đoạn trường tân thanh dưới cái nhìn Nho

gia - Thiền gia, Nxb Văn hoá Sài Gòn.

193

48. Trần Văn Giàu (1962), “Thảo luận với ông Nguyễn Văn Trung về vấn đề

Truyện Kiều hay là phê bình bài “Phê bình văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học

(1), tr. 35 - 59.

49. A.Ja Gurevich (1996), Các phạm trù văn hoá trung cổ (Hoàng Ngọc

Hiến dịch), Nxb Giáo dục, HN.

50. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo

dục xuất bản, SG.

51. Hoàng Văn Hành (1991), “Từ nhiều nghĩa trong Truyện Kiều, một biểu

hiện phong phú về vốn từ vựng của Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học (6), tr. 77 - 83.

52. Hoàng Văn Hành (2010), Tuyển tập Ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã

hội, HN.

53. Vũ Hạnh (1989), Đọc lại Truyện Kiều, Nxb Đà Nẵng.

54. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2010), Từ điển

thuật ngữ nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.

55. Lê Văn Hảo (1965), “Nguyễn Du và Truyện Kiều trong truyền thống dân

gian”, Tạp chí Bách Khoa (209), tr, 32 - 41.

56. Lê Văn Hảo (1965), “Ảnh hưởng qua lại giữa Truyện Kiều và dân ca”,

Tạp chí Bách Khoa (211), tr. 13 - 24.

57. Hoàng Ngọc Hiến (1966), “Triết lý Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu

văn học (2), tr. 21 - 34.

58. Nguyễn Văn Hiếu, Trần Mộng Chu, Phạm Tảo (1953), Việt Văn diễn

giảng (Phần cổ văn), Nhà in Văn Hồng Thịnh xuất bản, HN.

59. Nguyễn Trung Hiếu (1986), “Truyện Kiều trong yêu cầu đổi mới của

khoa nghiên cứu văn học hiện nay”, Tạp chí Văn học (6), tr. 128 - 134.

60. Kiều Thu Hoạch (1990), Truyện Nôm, nguồn gốc và đặc trưng thể loại,

Nxb Khoa học Xã hội, HN.

61. Nguyễn Văn Hoàn (1960), “Bước đầu kiểm điểm kết quả thảo luận

Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (11), tr. 34 - 54.

194

62. Nguyễn Văn Hoàn (1974), “Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều”, Tạp

chí Văn học (1), tr. 43 - 57.

63. Nguyễn Văn Hoàn (1999), “Hoài Thanh với việc nghiên cứu Nguyễn Du

và Truyện Kiều năm 1924”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (7), tr. 33 - 38.

64. Nguyễn Thuý Hồng (1995), “Tìm hiểu sự gặp gỡ về nghệ thuật sử dụng

ngôn từ giữa ca dao và Truyện Kiều”, Tạp chí Văn hoá dân gian (2), tr. 76 - 78.

65. Nguyễn Thúy Hồng (1995), Từ ngữ Việt và Từ ngữ Hán Việt trong Ngôn

ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP1 HN.

66. Huỳnh Chương Hưng (2002), Từ vựng Hán ngữ với nền văn hóa Hoa

Hạ, Đề tài NCKH cấp Trường, Trường ĐHSP Quy Nhơn.

67. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam, Nxb Văn hoá

thông tin, HN.

68. Nguyễn Thị Ly Kha (1995), “Bước đầu tìm hiểu về hiện tượng giao thoa

từ ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt (Qua cứ liệu Đoạn trường tân thanh)”, Kỷ yếu Hội

nghị khoa học, Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM.

69. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.

70. Phan Công Khanh (2001), Lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, Luận án Tiến

sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP TP. HCM.

71. Nguyễn Bách Khoa (1951), Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb Thế giới, HN.

72. Nguyễn Bách Khoa (1953), Văn chương Truyện Kiều, Nxb Thế giới, HN.

73. Hàn Triệu Kỳ (2001), Ẩn sĩ Trung Hoa (Cao Tự Thanh dịch và chú

thích), Nxb Trẻ, TP. HCM.

74. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,

Nxb Khoa học Xã hội, HN.

75. Lê Đình Kỵ (1986), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Ban Vận động thành

lập Hội văn nghệ Đồng Tháp xuất bản.

76. Lê Đình Kỵ (1986), “Sắc thái bác học, sắc thái bình dân và tính thống

nhất của ngôn ngữ Truyện Kiều”, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ

phương Đông, Viện Ngôn ngữ học - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, HN.

195

77. R. Lado (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội.

78. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb

Giáo dục, HN.

79. Thái Kim Lan (2008), “Nguyễn Du nghĩ gì về thơ, thử tìm một lý giải”,

Tạp chí Tia Sáng (12), tr. 41 - 53.

80. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa

học Xã hội, HN.

81. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận (1999), Văn học Việt Nam

nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, HN.

82. Đặng Thanh Lê (1999), Giảng văn Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.

83. Mai Quốc Liên (1966), “Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ

Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (6), tr. 50 - 57.

84. Mai Quốc Liên (1999), Tạp luận, Nxb Hội Nhà văn - Trung tâm nghiên

cứu Quốc học.

85. Lê Xuân Lít (2001), Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều, Nxb ĐHQG TP. HCM.

86. Lê Xuân Lít (tuyển chọn) (2005), Hai trăm năm bàn luận nghiên cứu

Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.

87. Đoàn ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb

ĐHQG TP. HCM.

88. Iu.M. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh

Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thuỷ dịch, Trần Ngọc Vương hiệu đính), Nxb ĐHQG HN.

89. Nguyễn Lộc (1965), “Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học (11), tr. 46 - 67.

90. Nguyễn Lộc (1978, tái bản 2006), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ

XVIII đến hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, HN.

91. Lưu Trọng Lư (1992), Nhật ký đọc Kiều, Nxb Hội Nhà văn, HN.

92. Phương Lựu (1995), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo

dục, HN.

196

93. Mai Hiền Lương (1997), Tiếng lòng của Nguyễn Du (Khảo luận), Nhà in

Nhân Duyên xuất bản, Gia Nã Đại.

94. Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung, Đặng Quốc Cơ (1998), Truyện Kiều và

tuổi trẻ, Làng văn xuất bản, Paris.

95. Nguyễn Đăng Na (2006), Giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo

dục, HN.

96. Nhiều tác giả (1986), Những vấn đề về ngôn ngữ học về các ngôn ngữ

phương Đông, Kỷ yếu hội thảo Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, HN.

97. Nhiều tác giả (2012), Dòng chảy văn hoá xứ nghệ từ Truyện Kiều đến

phong trào Thơ Mới, Nxb Văn học, HN.

98. Hoàng Kim Ngọc (2011), So sánh ẩn dụ trong ca dao trữ tình của người

Việt (Dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học), Nxb Lao động – Hội Văn nghệ dân

gian Việt Nam, HN.

99. Phan Ngọc (1991), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, Nxb Đà Nẵng.

100. Phan Ngọc (1998), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,

Nxb Thanh niên, HN.

101. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du, tình người và Nguyễn Du, người

tình, Nxb Khoa học Xã hội - Nxb Mũi Cà Mau.

102. Trần Ích Nguyên (2004), Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều

(Phạm Tú Châu dịch chú), Nxb Lao động - Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, HN.

103. Trần Ngọc Ninh (1972), “Ý nghĩa Truyện Kiều trong dân gian”, Tạp chí

Bách Khoa (381), tr. 13 - 22.

104. Thuần Phong Ngô Văn Phát (1965), “Tuý Kiều với đại chúng”, Tạp chí

Bách Khoa (211), tr. 59 - 66.

105. Vũ Tiến Phúc (1974), Việt Nam văn học giảng minh, Nhà in Alpha xuất

bản, Sống Mới phát hành, SG.

106. Nguyễn Đình Phức (2013), Thi pháp thơ Đường, Nxb ĐHQG TP. HCM.

107. Hằng Phương (1955), “Ảnh hưởng về ngữ ngôn của ca dao đến Truyện

Kiều”, Văn Sử Địa, (8), tr. 47 - 56.

197

108. Huỳnh Như Phương (2014), Nhập môn Lý luận văn học, Nxb ĐHQG

TP. HCM.

109. Lê Quế (2004), Tìm hiểu Truyện Kiều, Nxb Nghệ An.

110. Phạm Đan Quế (1991), Bình Kiều, Vịnh Kiều, Bói Kiều, Nxb Hà Nội.

111. Phạm Đan Quế (1994), Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ XIX, Nxb

Văn nghệ TP. HCM.

112. Phạm Đan Quế (1999), Tập Kiều - Một thú chơi tao nhã, Nxb Văn hoá

thông tin, HN.

113. Phạm Đan Quế (2000), Từ Lẩy Kiều, Đố Kiều…đến các giai thoại về

Truyện Kiều, Nxb Văn học, HN.

114. Phạm Đan Quế (1999), Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều, Nxb Văn học, HN.

115. Phạm Đan Quế (1999), Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn

chương Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.

116. Phạm Đan Quế (2000), Truyện Kiều đọc ngược, Nxb Thanh niên, HN.

117. Phạm Đan Quế (2000), Lục bát hậu Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, HN.

118. Phạm Đan Quế (2004), Đố Kiều, nét đẹp văn hóa, Nxb Thanh niên, HN.

119. Phạm Đan Quế (2004), Bói kiều như một nét văn hóa, Nxb Thanh niên, HN.

120. Phạm Đan Quế (2004), Truyện Kiều trên báo chương thế kỷ XX, Nxb

Thanh niên, HN.

121. Phạm Đan Quế (2005), Thế giới nhân vật Truyện Kiều, Nxb Thanh

niên, HN.

122. Phạm Đan Quế (2013), Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, Nxb Thanh

niên, HN.

123. Phạm Quỳnh (1919), “Truyện Kiều”, Nam Phong tạp chí (30), tr. 34 – 56.

124. F.D. Sausure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cao Xuân

Hạo dịch, tái bản lần 2), Nxb Khoa học Xã hội, HN.

125. Ngô Quốc Quýnh (2010), Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện

Kiều, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.

198

126. Doãn Quốc Sĩ, Việt Tử (1964), Khảo luận về Đoạn trường tân thanh,

Nxb Nam Sơn, SG.

127. Đặng Đức Siêu (1996), Ngữ liệu văn học, Nxb Giáo dục, HN.

128. Đặng Đức Siêu (2009), Tinh hoa văn hoá Đông phương, Nxb Giáo dục, HN.

129. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Nguyễn Du, về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo

dục, HN.

130. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du, từ thơ chữ Hán đến kiệt

tác Truyện Kiều, Nxb Trẻ, TP. HCM.

131. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề về Thi pháp văn học trung đại Việt

Nam, Nxb Giáo dục, HN.

132. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, HN.

133. Trần Đình Sử (2003), Văn học và thời gian, Nxb Giáo dục, HN.

134. Văn Tân (1956), “Một vài nhận xét chính về quyển Truyện Kiều và thời

đại Nguyễn Du của ông Trương Tửu”, Tập san Văn Sử Địa (21), tr. 22 - 23.

135. Đào Thản (1966), “Đi tìm một vài đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều”,

Tạp chí Văn học (1), 65-77.

136. Đào Thản (1988), Từ ngôn ngữ chung đến Ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb

Khoa học Xã hội, HN.

137. Khâu Chấn Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung

quốc (Mai Xuân Hải dịch), Nxb Văn học, HN.

138. Nguyễn Hằng Thanh (2003), Nghệ thuật tái tạo nhân vật Kiều trong

Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, Nxb Thanh niên, HN.

139. Hoài Thanh (1999), Hoài Thanh toàn tập (Tập 1), Nxb Văn học, HN.

140. Thích Nhất Hạnh (2000), Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn

thiền quán, Lá Bối, Paris.

141. Thích Nhất Hạnh (2001), Kiều và văn nghệ đứt ruột, Lá Bối, Paris.

142. Phạm công Thiện (1996), Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, Viện Triết lý

Việt Nam và Triết học thế giới xuất bản, California, Hoa Kỳ.

199

143. Đàm Quang Thiện (1965), Ý niệm bạc mệnh trong đời Thuý Kiều, Nam

Chi tùng thư xuất bản, SG.

144. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục, HN.

145. Lê Đức Thụ (2004), “Định hướng ngôn ngữ học văn hóa trong giảng

dạy ngoại ngữ giai đoạn hiện đại”, Tạp chí Khoa học, ĐHQG HN, (4), tr 49 - 62.

146. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh Thi, SG.

147. Đỗ Lai Thuý (1999), Từ cái nhìn văn hoá, Nxb Văn hoá, HN.

148. Đỗ Lai Thuý (2005), Văn hoá Việt Nam - Nhìn từ mẫu người văn hoá,

Nxb Văn hoá thông tin - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, HN.

149. Phạm Thiên Thư (1972), Đoạn trường vô thanh (Hậu Truyện Kiều), Lá

Bối xuất bản, SG.

150. Chu Quang Tiềm (2005), Tâm lý văn nghệ (Khổng Đức Đinh Tấn Dung

dịch), Nxb Thanh niên, HN.

151. Đặng Tiến (1972), Vũ Trụ thơ, Giao Linh xuất bản, SG.

152. Trịnh Huy Tiến (1965), “Yếu tính của Đoạn trường tân thanh – Thử đặt

đúng chỗ giai phẩm Nguyễn Du (1965 - 1820)”, Văn hoá nguyệt san (10 + 11), tr.

155 - 173.

153. Bùi Đức Tịnh (1999), Ngôn ngữ học và văn học (tập 1, 2), Nxb Văn

nghệ TP. HCM.

154. Nguyễn Sỹ Tế (1959), Luận đề về Nguyễn Du và Đoạn trường tân

thanh (tập 1, 2), Nxb Thăng Long, SG.

155. Bùi Minh Toán (2012), Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Giáo dục Việt

Nam, HN.

156. Nguyễn Đức Tồn (2001, tái bản 2012), Đặc trưng văn hoá - dân tộc của

ngôn ngữ và tư duy, Nxb ĐHQG HN.

157. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN.

158. Nguyễn Quảng Tuân (1994), Chữ nghĩa Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã

hội, HN.

200

159. Nguyễn Quảng Tuân (2000), Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb

Văn học, HN.

160. Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần (2004), Từ điển Truyện Lục

Vân Tiên, Nxb Thanh niên, HN.

161. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện

Kiều, Nxb Văn hoá thông tin, HN.

162. Vũ Thị Tuyết (1996), Vấn đề Truyện Kiều qua các thời kỳ lịch sử (từ

khi tác phẩm ra đời đến nay), Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP 1 HN.

163. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hoá, Nxb Giáo dục, HN.

164. Nguyễn Văn Trung (1963), Lược khảo văn học (3 tập), Nxb Nam Sơn, SG.

165. Nguyễn Văn Trung (1966), Ngôn ngữ văn chương và phê bình văn học,

Tài liệu giáo khoa, Đại học Văn khoa, SG.

166. Mai Thọ Truyền (1974), Phật giáo Việt Nam, Tài liệu giáo khoa Đại

học Vạn Hạnh, SG.

167. V.Varob (2004), “Bảng hình thái văn hóa của tiếng Nga” (Hoàng Dung

dịch), Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP TP. HCM, (5), tr. 48 - 55.

168. Lê Trí Viễn (1978), “Nguyễn Du”, Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3, tái

bản lần 5), Nxb Giáo dục, HN.

169. Lê Trí Viễn, Đoàn Thu Vân, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Phúc

(1997), Văn học trung đại Việt Nam, Trường ĐHSP, ĐHQG TP. HCM.

170. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn

nghệ TP. HCM.

171. Viện Văn học (1971), Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Nxb

Khoa học Xã hội, HN.

172. Nguyễn Văn Y (1973), Thơ vịnh Kiều (sưu tầm), Nxb Lạc Việt, SG.

173. Hoàng Hữu Yên (2003), Cái hay cái đẹp của tiếng Việt trong Truyện

Kiều, Nxb Nghệ An.

174. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb

Thanh niên, HN.

201

175. Lê Thu Yến (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng sáng

tác của người đời sau (từ 1930 đến nay), Nxb Giáo dục, HN.

176. Lê Thu Yến (2003), Văn học Việt Nam - Văn học trung đại, những công

trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, HN.

177. Lê Thu Yến (2005), “Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn

Du”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr. 23 - 28.

178. Lê Thu Yến (2008), Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb

Văn học, HN.

B. Tiếng Hán

179. 清平 (1963), 成 語 故 事, 香港偉青書店出版, 中國 香港.

180. 趙錫如 (1968), 辭 海, 中華書局, 台彎.

181. 張元濟 (1978), 康 熙 字 典, 中華書局, 台彎.

182. 楊琳 (1996), 漢語詞匯與華夏文化, 語文出版社, 北京.

183. 楊寬 (1997), 戰國史, 上海人民出版 社, 中國上海.

184. 謝光輝 (2000), 漢語字源字典, 北京大學出版社, 中國北京.

185. 朱淵清 (2001), 中 國出 土文 獻 與 傳 統 學 術, 華東師范出版社.

186. 吳玉貴 (2001), 中國風俗通史, 上海文藝出版社, 中國上海.

187. 劉綱紀, 范明華 (2002), 周易與美學, 國文史出版社, 北京.

188. 賴力行, 李清良 (2003), 中國文學批平史, 湖南教育出版社.

189. 韓兆琦 (2006), 史 記, 中華書局, 台彎

190. 云中天 (2006), 禮儀, 百花洲文藝出版社, 中國北京

191. 毛慶耆 (2006), 中國文學通義, 岳麓書社, 中國 湖南

192. 吳 新勳 (2007), 成 語 典, 幼福文出版社, 台彎

193. 李道湘,于銘松 (2007),中華文化概要,上海三聯出版社, 中國上海

194. 錢仲聯 (總主編) (2008), 中國文學大辭典, 上海辭書出版社, 中國上海

195. 楊利慧 (2009),中國民俗文化大觀, 延邊人民出版社, 中國北京

196. 劉叔新 (2010), 詞匯研究, 外語教育與研究出版社, 中國北京

197. 符淮青 (2013), 詞義的分析和描寫, 外語教育與研究出版社, 中國北京

202

PHẦN PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Ngữ liệu nguyên dạng trong trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện

Kiều (p.1)

Phụ lục 2. Ngữ liệu chuyển dịch trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

(p.23)

Phụ lục 3. Hệ thống thành ngữ nguyên mẫu trong ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều (p.30)

Phụ lục 4. Hệ thống thành ngữ dẫn dụng linh hoạt trong ngôn ngữ nghệ thuật

Truyện Kiều (p.44)

Phụ lục 5. Từ cổ, từ địa phương xứ Nghệ trong Truyện Kiều (p.48)

P.1

Phụ lục 1

NGỮ LIỆU NGUYÊN DẠNG TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TRUYỆN KIỀU

Stt Ngữ liệu

Câu thơ Lĩnh vực

Dẫn giải

A Hoàn

1

1719

Từ ngữ xã hội

Người đầy tớ nữ búi tóc chữ Y

Ái ân

2

750

Từ ngữ xã hội

Chỉ tình cảm nam nữ

Anh hào

3

2169

Từ ngữ xã hội

Tài năng hơn người, quán thế

Anh hoa

4

415

Từ ngữ xã hội

Vẻ đẹp của cỏ cây, vẻ đẹp bề ngoài

Anh hùng

5

1071

Từ ngữ xã hội

Người có tài hơn người

Âm công

6

2720

Kinh Truyện

Thủy Sám Kinh, công đức

Âm cực

7

2646

Kinh Truyện

Dịch, Khí âm cùng cực

Âm khí

8

113

Kinh Truyện

Dịch, Khí âm

Ân oán

9

2320

Từ ngữ xã hội

Ơn huệ và cừu thù, lòng căm giận

Ân tình

10

2322

Từ ngữ xã hội

Tình nghĩa đối với người có ơn

Ba đào

11

2238

Từ ngữ xã hội

Sóng cả, chỉ gian nan

Bá vương

12

2485

Từ ngữ xã hội

Kẻ đứng đầu chư hầu

Bách chiến

13

2088

Từ ngữ xã hội

Trải trăm trận trăm thắng

Bạc Bà

14

2103

Nhân danh

Tên nhân vật

Bạc Hạnh

15

1159

Nhân danh

Tên nhân vật

Bạc mệnh

16

2131

Kinh truyện

Phận mỏng hèn, tên một nhạc khúc

Bạc Sinh

17

738

Nhân danh

Tên gọi khác của Bạc Hạnh

Bạc tình

18

2045

Từ ngữ xã hội

Sự bội bạc tình cảm

Bài vị

19

2195

Từ ngữ xã hội

Lễ cổ, tấm gỗ đỏ ghi tên người mất

Bản sư

20

2628

Từ ngữ xã hội

Tên gọi tôn kính thầy dạy

Bao dung

21

1519,

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng rộng lượng

Bảo lĩnh

22

3015

Từ ngữ xã hội

Nhận trách nhiệm giữ gìn

Báo ân

23

1150

Từ ngữ xã hội

Đền ơn đáp nghĩa

Báo đáp

24

2309,

Từ ngữ xã hội

Đền bù trả lại

Báo phục

25

2397

Từ ngữ xã hội

Đền đáp, trả nghĩa

Báo thù

26

2323

Kinh truyện

Trả thù

2309,

Kinh Truyện

Kinh Thư, đánh dẹp phản loạn

Bát tiễu

27

2397

Kinh Truyện

Huỳnh Đình Kinh, nhàn dật

Bát tiên

28

630

Địa danh

Kinh đô

Bắc kinh

29

2352

Kinh Truyện

Tấn Thư, chỉ người mai mối

Băng nhân

30

2454

Thi liệu

Thơ Lý Bạch, chỉ sự trinh tiết

Băng tuyết

31

2210

Kinh Truyện

Trang Tử, anh hùng có đại nghiệp

Bằng

32

332

Từ ngữ xã hội

Chỉ người không có tình nghĩa

Bất nghĩa

33

2207

Từ ngữ xã hội

Chỉ kẻ vô nhân đức

Bất nhân

34

332

Từ ngữ xã hội

Chỉ kẻ không tình lý

Bất tình

35

2230

Thi liệu

Đường Lý Bạch, Buồn vui

Bi hoan

36

1186

Từ ngữ xã hội

Roi bằng da, hình phạt

Bì tiên

37

976

Từ ngữ xã hội

Triều đình cát cứ nơi biên ải

Biên đình

38

1511

Từ ngữ xã hội

Biên giới hai nước

Biên thùy

39

3140

Từ ngữ xã hội

Nói rõ ràng, phân tích sáng rõ

Biện bạch

40

978

Thi liệu

Thơ Đỗ Phủ, Sự chia ly, tiễn biệt

Biệt ly

41

2166

Từ ngữ quân sự

Quân lính dùng trong chiến tranh

Binh

42

2447

Từ ngữ quân sự

Áo giáp, chỉ chiến tranh

Binh cách

43

1391

Từ ngữ quân sự

Chuyện chiến tranh

Binh đao

44

2799

Từ ngữ xã hội

Uy thế về quân sự

Binh uy

45

46

Bình địa (ba đào)

2438

Thi liệu

Cảnh bình yên, đối lập với ba đào

2542

47

Bình Khang

Địa danh

Chốn kỹ viện, nơi trăng gió

Bình Nguyên Quân

2493

48

Nhân danh

Chiến Quốc sách, người hào phóng

Bình thành

2440

Kinh Truyện

Kinh Thư, Bình thiên thành địa

49

Bố kinh

3065

Kinh Truyện

Hậu Hán Thư, chỉ người vợ hiền

50

Bồ đề

1335

Kinh Truyện

Kim Cương Kinh, sự giác ngộ

51

Bồ liễu

2129

Kinh Truyện

Tình sử, sự yếu mềm của phụ nữ

52

Bút giá

2491

Từ ngữ xã hội

Chỉ sự học hành

53

Bút pháp

505

Từ ngữ xã hội

Chỉ người tài hoa, viết chữ đẹp

54

Ca ngâm

2989

Từ ngữ xã hội

Hát xướng

55

Ca nhi

746

Từ ngữ xã hội

Con hát, kỹ nữ

56

Cam lai

397

Từ ngữ xã hội

Vận may bắt đầu

57

P.2

1987

Văn liệu

Sử ký, Chỉ chiến tranh

Can qua

58

30

Can trường

59

Từ ngữ xã hội

Chỉ lời gan ruột tâm sự

62

Canh

60

Từ ngữ xã hội

Khoảng khắc thời gian

3210

Canh thiếp

61

Kinh Truyện

Lễ Ký, thiếp ghi lễ vấn danh

2491

Cao đình

62

Địa danh

Tên núi ở Chiết Giang, chỗ tiễn biệt.

2188

Cáo

63

Từ ngữ xã hội

Báo quan, thông báo sự việc lên trên

717

Cảo táng

64

Kinh Truyện

Sơn Hải Kinh, bó cỏ chôn sơ sài

650

Cát đằng

65

Kinh Truyện

Kinh Thi, chỉ người vợ bé

1500

Cát lũy

66

Kinh Truyện

Kinh Thi, chỉ người vợ bé

Nơi Bá Nha, Tư Mã Tương Như đánh đàn

1404

Cầm đài

67

Địa danh

Lã Thị Xuân Thu, thịnh trị, thanh liêm

2564

Cầm đường

68

Kinh Truyện

Kinh Thi, chỉ vợ chồng hòa hợp

2280

Cầm sắt

69

Kinh Truyện

Nghi Lễ, phẩm phục triều nghi

1480

Cân đai

70

Kinh Truyện

Kinh Lễ, tuổi lấy chồng

463

Cập kê

71

Kinh Truyện

Kinh Lễ, đính ước hôn nhân

2875

Cầu thân

72

Kinh Truyện

Hậu Hán Thư, ngọc quý

3110

Châu

73

Kinh Truyện

Thơ Bạch Cư Dị, chỉ sự hôn ước

2273

Châu Trần

74

Thi liệu

Sử Ký, giữ phép thường

36

Chấp kinh

75

Kinh Truyện

Tỉnh phía nam sông Trường Giang

1440

Chiết Giang

76

Địa danh

Chùa của sư Giác Duyên

198

Chiêu ẩn am

77

Địa danh

Chiêu dụ giặc hàng, lập lại an ninh

1458

Chiêu an

78

Từ ngữ xã hội

Tục u quái lục, gọi hồn người chết

2105

Chiêu hồn

79

Kinh Truyện

Vỗ về, an ủi, lập lại trị an

2308

Chiêu phủ

80

Từ ngữ xã hội

Sửa sang bề ngoài

2954

Chiêu tập

81

Từ ngữ xã hội

Khai Nguyên Thiên Bảo di sự, khoa thi

2457

Chế khoa

82

Kinh Truyện

đặc biệt, gọi là ân khoa

Chiến thuật dụng binh pháp

2967

Chiến hòa

83

Từ ngữ quân sự

Sử Ký, Hạng Vũ bản kỷ, nơi đánh nhau

2509

Chiến trường

84

Kinh Truyện

Yên ngựa đi đường xa, chỉ sự tiễn hành

2859

Chinh an

85

Từ ngữ xã hội

Chiến Quốc Sách, Tần Sách, chỉ việc

1373

Chỉnh nghi

86

Kinh Truyện

chỉnh đốn nghi lễ tiếp đón thiên tử

P.3

Nhân danh

Tên nhân vật

473

87

Chung Công

Nhân danh

Tên nhân vật

1521

88

Chung Lão

Từ ngữ xã hội

Trọn đời, cả cuộc đời

2501

89

Chung thân

Từ ngữ xã hội

Hết ngày trời, trọn đời, cả ngày

2125

90

Chung thiên

Từ ngữ xã hội

Trọn tình, trọn nghĩa

2448

91

Chung tình

Từ ngữ quân sự

Quân tướng nói chung

2416

92

Chư tướng

Kinh Truyện

Đại Tạng Kinh, làm cho rõ ràng

1832

93

Chứng minh

Kinh Truyện

Lễ Ký, tiếng vua chư hầu khiêm xưng

3090

94

Cô quả

Thi liệu

Tùy Viên thi thoại, Thơ cổ

2353

95

Cổ thi

Kinh truyện

Nhạc kinh, âm thanh dùng tay tạo ra

2125

96

Cổ xúy

gọi là cổ, dùng hơi thổi gọi là xúy

Từ ngữ xã hội

Chỉ quê cũ, đất tổ

2448

97

Cố hương

Từ ngữ xã hội

Người xưa, tri âm tri kỷ

132

98

Cố nhân

Thi liệu

Thơ Lý Bạch, chỉ quê cũ, sự ly tán

1467

99

Cố quốc

Từ ngữ xã hội

Gậy gộc, chỉ bọn côn đồ Khuyển Ưng

2480

100

Côn quang

Từ ngữ xã hội

Chỉ nghề đánh võ

1797

101

Côn quyền

Từ ngữ xã hội

Sự nghiệp và danh vọng

1788

102

Công danh

Kinh Truyện

Kinh Thư, ơn của vua đối với dân

1624

103

Công đức

Kinh Truyện

Hán thư, ngũ tước, chỉ danh vọng

2170

104

Công hầu

Từ ngữ xã hội

Chốn công đường, công sở

2498

105

Công nha

Từ ngữ xã hội

Sức lực làm việc, công sức đầu tư

2491

106

Công phu

Từ ngữ xã hội

Việc chung, viêc riêng

2468

107

Công tư

Từ ngữ xã hội

Mức độ dụng sức

2595

108

Công trình

Từ ngữ xã hội

Dáng điệu, khuôn vẻ người

1201

109

Cốt cách

Từ ngữ xã hội

Chỉ tình thân anh em

1379

110

Cốt nhục

Kinh Truyện

Hồng Vũ hình luật, một đơn vị quân sự

699

111

đội ở cấp Tỉnh

Kinh Truyện

Pháp Hoa Kinh, máy tạo nhânduyên

2412

112

Cơ duyên

Kinh Truyện

Tam Quốc Chí, cơ nghiệp đã dựng nên

2463

113

Cơ đồ

Kinh Truyện

Kinh Thi, công ơn của mẹ cha

2312

114

Cù lao

Kinh Truyện

Kinh Thi, ví người vợ cả

2412

115

Cù mộc

P.4

Từ ngữ xã hội

Khai tội, nhận tội lỗi

2463

116

Cung chiêu

Kinh Truyện

Kinh Nhạc, ngũ âm, thông hiểu âm luật

601

117

Cung thương

Kinh Truyện

Sử ký, nơi chôn các quan khanh, đại

3238

118

Cửu nguyên

phu nước Tấn, dụ chỉ âm phủ

Văn liệu

Đông Chu liệt quốc, hồi 4, chỉ âm phủ

1150

119

Cửu tuyền

Tấn Lục Sơ, Tống tử trường dạ đài, cõi chết

Thi Liệu

31

120

Dạ đài

Chỉ nhà quyền quý

Từ ngữ xã hội

3000

121

Danh gia

Danh dự và tiết tháo

Từ ngữ xã hội

1685

122

Danh tiết

Xương khô còn còn lại khi cải táng

Từ ngữ xã hội

747

123

Di hài

Hình hài còn sót lại

Từ ngữ xã hội

1529

124

Di hình

Phong thái tốt đẹp, dung mạo đẹp

Từ ngữ xã hội

3186

125

Dung quang

Kinh Dịch, quẻ Càn, khí Dương, mùa xuân

Kinh Truyện

1667

126

Dương hòa

Đường Vương Duy, chỉ nơi tống biệt

Thi liệu

2564

127

Dương quan

Công ơn sinh dưỡng của cha mẹ

Từ ngữ xã hội

409

128

Dưỡng sinh

Phụng dưỡng cha mẹ

Từ ngữ xã hội

319

129

Dưỡng thân

Đoan là đầu mối, sự lôi thôi

Từ ngữ xã hội

1502

130

Đa đoan

Bận rộn, bận lòng, thương yêu

Từ ngữ xã hội

228

131

Đa mang

Binh Pháp Tôn Tử, quân chủ lực

Kinh Truyện

2824

132

Đại doanh

Quan lại cao cấp

Từ ngữ xã hội

1599

133

Đại quan

Quân chủ lực của một viên tướng

Từ ngữ xã hội

351

134

Đại quân

Hồng Vũ di sự, trên tước vương

Kinh Truyện

2270

135

Đại vương

Màu xanh nhạt, cuộc sống giản di

Từ ngữ xã hội

2512

136

Đạm thanh

Tên của một tài nữ bạc mệnh

Nhân danh

2925

137

Đạm Tiên

Lương Hoàng Sám kinh, chỉ đàn cầu siêu

Kinh Truyện

2919

138

Đàn tràn

Đào hoa nguyên ký, nơi ở ẩn

Thi liệu

398

139

Đào nguyên

Người nữ tu đắc đạo

Từ ngữ xã hội

68

140

Đạo cô

Giẫm lên cỏ xanh, du xuân

Từ ngữ xã hội

2968

141

Đạp thanh

Vâng mệnh vua hành sự

Từ ngữ xã hội

192

142

Đặc sai

Kinh Thi, loài dây leo, chỉ vợ lẽ

Kinh Truyện

2651

143

Đằng la

Vu Lan Bồn Kinh, chốn âm ty

Kinh Truyện

44

144

Địa ngục

Đường Ôn Đình Quân, cảnh thanh bình

Thi liệu

2453

145

Điếm nguyệt

P.5

Kinh Truyện

Kinh Dịch, chỉ hướng Tây, mặt trời lặn

1350

146

Đoài

Từ ngữ xã hội

Chỉ người phụ nữ trinh thục, đẹp

1706

147

Đoan chính

Từ ngữ xã hội

Chỉ người phụ nữ đẹp

2030

148

Đoan trang

Từ ngữ xã hội

Sum họp đông đủ, vui vẻ trọn vẹn

426

149

Đoàn viên

Kinh Truyện

Sưu Thần Ký, đứt ruột, sự đau đớn

523

150

Đoạn trường

Kinh Truyện

Hoàn Vũ Ký, chim cuốc, tiếng ai oán

21

151

Đỗ Quyên

Kinh Truyện

Pháp Hoa Kinh, cứu sống lại

3060

152

Độ sinh

Thi liệu

Sở Tống Ngọc Phú, chỉ nơi con trai ở

200

153

Đông lân

Từ ngữ xã hội

Bạn cùng học, buôn cùng phường

3202

154

Đồng môn

Từ ngữ quân sự

Nguyên soái đốc thúc việc quân

3055

155

Đổng nhung

Từ ngữ xã hội

Một lòng một dạ, cùng quyết tâm

175

156

Đồng tâm

Từ ngữ xã hội

Bạn học, bằng hữu thâm giao

2088

157

Đồng thân

Tam Quốc Chí, nơi cấm cung của nữ giới

Văn liệu

2454

158

Đồng Tước

Tiếng vọng lại, sự cảm thông

Từ ngữ xã hội

555

159

Đồng vọng

Huyền Trung Ký, phòng của vợ chồng

Kinh Truyện

154

160

Động phòng

Người giúp việc trong nhà

Từ ngữ xã hội

156

161

Gia đồng

Nhà lớn, chỉ cha mẹ

Từ ngữ xã hội

1074

162

Gia đường

Thực hiện tội hình, xử phạt

Từ ngữ xã hội

3135

163

Gia hình

Quê hương, chỉ quê cha đất tổ

Từ ngữ xã hội

530

164

Gia hương

Người giúp việc, người nhà

Từ ngữ xã hội

2147

165

Gia nhân

Quy định của gia đình

Từ ngữ xã hội

1419

166

Gia pháp

Niên hiệu của vua Minh Thế Tông

Nhân danh

1799

167

Gia Tĩnh

Kinh Thi, chỉ vợ chồng, vợ tố

Kinh Truyện

1615

168

Gia thất

Của cái trong nhà

Từ ngữ xã hội

1735

169

Gia tư

Pháp hiệu của sư thầy

09

170

Giác Duyên

Nhân danh

Tin tức tốt

Từ ngữ xã hội

3091

171

Giai âm

Người đẹp

Từ ngữ xã hội

12

172

Giai nhân

Chấm dứt chiến tranh

Từ ngữ quân sự

2884

173

Giải binh

Huyền Trung Ký, chỉ việc nhân duyên

Kinh Truyện

47

174

Giải kết

Đường Thư, Học trò trường Quốc Tử Giám

Kinh Truyện

2502

175

Giám sinh

Khó khăn, gian khổ, lao đao, lận đận

Từ ngữ xã hội

421

176

Gian truân

P.6

625

Kinh Truyện

Thủy Kinh Chú, vốn là chỉ Tam Giang,

177

Giang hồ

Ngũ hồ, chỉ người thích ngao du

2476

Từ ngữ xã hội

Vái chào lẫn nhau, tình thâm

178

Giao bái

1595

Từ ngữ xã hội

Vui vẻ với nhau, chuyện ân ái

179

Giao hoan

3133

Từ ngữ quân sự

Đồ binh khí, chỉ chiến tranh

180

Giáp binh

3190

Kinh Truyện

Bắc sử, chỉ quan phục, quan lại

181

Hà y

2252

Từ ngữ xã hội

Lối nói khiêm xưng, ghé thăm

182

Hạ cố

2266

Từ ngữ xã hội

Mừng công, mừng chiến thắng

183

Hạ công

197

Từ ngữ xã hội

Lời chúc tụng

184

Hạ từ

2565

Kinh Truyện

Kinh Thư, vua ban cho quần thần

185

Hạ tứ

591

Từ ngữ xã hội

Giày thêu, công tử con nhà giàu

186

Hài văn

198

Kinh Truyện

Thái Chân ngoại truyện, chỉ một loài

187

Hải đường

hoa đẹp, chỉ người đẹp

143

Từ ngữ xã hội

Lối nói khiêm xưng,nhà cửa nghèo hèn

188

Hàn gia

175

Từ ngữ xã hội

Sự ấm lạnh, lời tâm sự

189

Hàn huyên

195

Kinh Truyện

Hậu Hán Thư, tết ăn đồ lạnh, lễ hội

190

Hàn thực

394

Từ ngữ xã hội

Cảnh nghèo hèn

191

Hàn vi

942

Địa danh

Thủ phủ tỉnh Chiết Giang

192

Hàng Châu

2290

Từ ngữ xã hội

Kẻ thất bại, chịu hàng phục

193

Hàng thần

2957

Kinh Truyện

Tống Sử, Tô Đông Pha, tài văn học

194

Hành vân

2466

Từ ngữ xã hội

Nhà thổ, nơi hoan lạc

195

Hành viện

478

Từ ngữ xã hội

Đối xử hào hiệp, rộng rãi, lịch sự

196

Hào hoa

3139

Nhân danh

Pháp hiệu của sư huynh Giác Duyên

197

Hằng Thủy

152

Từ ngữ xã hội

Sự linh ứng khi cầu nguyện

198

Hiển linh

2050

Từ ngữ xã hội

Giao nộp tù binh, người có tội

199

Hiến phù

118

Từ ngữ xã hội

Yêu thích sự sống, làm phúc

200

Hiếu sinh

2352

Kinh Truyện

Lễ ký, áo tang cha mẹ, việc trả hiếu

201

Hiếu phục

1750

Từ ngữ xã hội

Người con có hiếu với cha mẹ

202

Hiếu tử

1831

Từ ngữ xã hội

Người đẹp

203

Hoa khôi

1833

Nhân danh

Tên Thúy Kiều do Hoạn Thư đặt

204

Hoa Nô

1279

Kinh Truyện

Chu Lễ, mũ miện của vương hầu

205

Hoa quan

P.7

Đường Lý Thương Ẩn, ông trời, tạo hoá

Thi liệu

1854

206

Hóa công

Đường Lý Bạch, chỉ ông trời, tạo hoá

Thi liệu

2266

207

Hóa nhi

Nguyên Vương Thực Phủ, Tây Sương

Văn liệu

85

208

Hoài xuân

Ký, chỉ sự nuối tiếc tuổi trẻ

Mẹ của Hoạn Thư

Nhân danh

1120

209

Hoạn Nương

Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh

Nhân danh

1456

210

Hoạn Thư

Chẩm Trung Ký, cuộc đời như cõi mộng

Kinh Truyện

1833

211

Hoàng lương

Đường, thủ lĩnh, người anh hùng

Nhân danh

1844

212

Hoàng Sào

Đàn của người Hồ, đàn Nhị

Từ ngữ xã hội

1716

213

Hồ cầm

Nam Hoa Kinh, cuộc sống như cõi mộng

Kinh Truyện

2496

214

Hồ Điệp

Chỉ Hồ Tôn Hiến, tôn xưng

Nhân danh

32

215

Hồ Công

Tên nhân vật

Nhân danh

3200

216

Hồ Tôn Hiến

Cư tang cha mẹ

Từ ngữ xã hội

2507

217

Hộ tang

Sắm sửa hành lý

Từ ngữ xã hội

2452

218

Hồi trang

Người đứng đầu Hội Đoạn Trường

Từ ngữ xã hội

534

219

Hội chủ

Thái Bình Quảng Ký, hôn nhân

Kinh Truyện

1496

220

Hồng diệp

Nước gỗ mai già, mùi sen, sắc đỏ

Từ ngữ xã hội

199

221

Hồng mai

Chỉ người đàn bà đẹp

Từ ngữ xã hội

45

222

Hồng nhan

Cái bàn xoay lớn, chỉ ông trời

Từ ngữ xã hội

1991

223

Hồng quân

Chỉ loại quần đỏ của phụ nữ

Từ ngữ xã hội

65

224

Hồng quần

Bụi đỏ, chỉ cuộc đời

Từ ngữ xã hội

2157

225

Hồng trần

Hậu Hán Thư, nơi có ngọc trai, cố cư

Kinh Truyện

35

226

Hợp Phố

Chiếm đóng vững chắc

Từ ngữ xã hội

908

227

Hùng cứ

Kinh Thi, Huyên thảo, chỉ mẹ

Kinh Truyện

306

228

Huyên

Thờ cúng gia tiên

Từ ngữ xã hội

2450

229

Hương hỏa

Phòng ở của phụ nữ

Từ ngữ xã hội

3017

230

Hương khuê

Làng xóm, láng giềng

Từ ngữ xã hội

949

231

Hương lân

Đường Thôi Hiệu, chỉ quê nhà

Thi liệu

1280

232

Hương quan

Kinh Thư, kính cẩn tuân theo

Kinh Truyện

155

233

Khâm

Kinh Thư, kính cẩn tuân mệnh vua ban

Kinh Truyện

1266

234

Khâm ban

Lễ Ký, chuẩn bị cho người chết

Kinh Truyện

2948

235

Khâm liệm

P.8

2948

Từ ngữ xã hội

Đơn xin phép

236

Khất từ

1668

Từ ngữ xã hội

Chốn ở của phụ nữ quyền quý

237

Khuê các

654

Nhân danh

Tên thuộc hạ của Hoạn Thư, kẻ ác

238

Khuyển

239

Khuynh thành

Thi liệu

Hán Lý Diên Niên, người đẹp

296

258

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng son sắt của người phụ nữ

240

Kiên trinh

2893

Từ ngữ xã hội

Người trẻ tuổi có sức mạnh

241

Kiện nhi

1108

Nhân danh

Tên gọi khác của Thúy Kiều

242

Kiều Nhi

1279

Nhân danh

Tên gọi thân mật của Kim Trọng

243

Kim Lang

775

Địa danh

Tên cửa cung Vị Ương (Hán), nơi các

244

Kim Mã

quan đợi chiếu chỉ, hạng quyền quý

245

Kim môn

2870

Địa danh

Nói tắt của Kim Mã môn

410

Nhân danh

Tên nhân vật

246

Kim Trọng

148

Từ ngữ xã hội

Trâm cài tóc bằng vàng

247

Kim thoa

294

Kinh Truyện

Pháp Cú kinh, kinh điển phật giáo

248

Kinh (kệ)

Kinh là gỡ tơ, luân là xe tơ lại, tài chính trị

1789

Từ ngữ xã hội

249

Kinh luân

Loài cá dữ, quân lính hùng mạnh

2452

Từ ngữ xã hội

250

Kình ngạc

Tên Tự của Thúc Sinh

2252

Nhân danh

251

Kỳ Tâm

Kiếp sau, hậu kiếp

1167

Từ ngữ xã hội

252

Lai sinh

Cơ quan chuyên trách cất nhắc quan lại

2788

Từ ngữ xã hội

253

Lại Bộ

Đường Lý Thương ẩn, địa danh sản

1530

Thi liệu

254

Lam Điền

sinh nhiều ngọc quý, nơi quyền quý

Thái Bình Quảng Ký, chỉ nơi tiên ở

255

Lam Kiều

3204

Địa danh

Tên một cái hiên đẹp, chỗ ở của phụ nữ

266

Địa danh

256

Lãm Thúy

Tiếng gọi người chồng

120

Từ ngữ xã hội

257

Lang quân

Tên một huyện thuộc Sơn Đông

258

Lâm Thanh

2783

Địa danh

Tên một huyện thuộc Sơn Đông

626

Địa danh

259

Lâm Tri

Bà con láng giềng

920

Từ ngữ xã hội

260

Lân lý

Thương xót

311

Từ ngữ xã hội

261

Lân tuất

Thái độ nghiêm khắc

592

Từ ngữ xã hội

262

Lập nghiêm

Quy định và tiến trình một buổi lễ

1410

Từ ngữ xã hội

263

Lễ nghi

Quần áo quy định trong hội lễ

2510

Từ ngữ xã hội

264

Lễ phục

P.9

265

Lệnh tiễn

2213

Từ ngữ quân sự

Cờ lệnh có gắn mũi tên sắt, quân lệnh

266

Liêu Dương

2303

Địa danh

Quê của Kim Trọng

Tên một loài liễu, sự yếu mềm của nữ giới

267

Liễu Bồ

533

Từ ngữ xã hội

Giường thờ người mới chết

268

Linh sàng

999

Từ ngữ xã hội

Bài vị ghi tên người chết

269

Linh vị

1674

Từ ngữ xã hội

Phòng vợ chồng mới cưới

270

Loan phòng

2975

Từ ngữ xã hội

Lộ trình đi trên đường, đi xa

271

Lục trình

1871

Từ ngữ xã hội

Chết chưa chôn nơi đất khách, sự lẻ loi

272

Lữ thấn

1670

Từ ngữ xã hội

Lục thao tam lược, tài dụng binh

273

Lược thao

532

Kinh Truyện

Tha hương nơi đất khách

274

Lưu lạc

2170

Từ ngữ xã hội

Chiến Quốc Sách, tên khúc nhạc

275

Lưu thủy

1056

Kinh Truyện

Tên nhân vật

276

Mã Giám Sinh

Nhân danh

478

Phận mỏng, chỉ người phụ nữ

277

Mệnh bạc

625

Từ ngữ xã hội

Mai Hoa dịch số, số Tử vi

278

Mệnh cung

738

Kinh Truyện

Vợ quan tòng tam phẩm trở lên

279

Mệnh phụ

1695

Từ ngữ xã hội

Kinh Lễ, tôn miếu, Thái miếu

280

Miếu đường

2481

Kinh Truyện

Cõi âm và cõi dương

281

Minh dương

2543

Từ ngữ xã hội

Cửa nhà, chỗ ở

282

Môn phòng

2999

Từ ngữ xã hội

Chu Công mộng đàm, điều xấu

283

Mộng huyễn

1713

Kinh Truyện

Chu Công mộng đàm, điềm báo

284

Mộng triệu

235

Kinh Truyện

Tên huyện thuộc Phúc Kiến

285

Nam Bình

233

Địa danh

Sơn trại do Từ Hải lập nên

286

Nam đình

2949

Địa danh

Lầu gác ở phía Nam

287

Nam lâu

2270

Địa danh

Kinh Thi, con gái đi lấy chồng

288

Nghi gia

778

Kinh Truyện

Bách Hiếu đồ thuyết, chỉ người cha, vì

289

Nghiêm đường

2224

Kinh Truyện

làm cha quý ở tính nghiêm

Bách Hiếu đồ thuyết, lời dạy của cha

290

Nghiêm huấn

1278

Kinh Truyện

Chỉnh đốn quân ngũ

291

Nghiêm quân

1393

Từ ngữ quân sự

Huyền Trung Ký, đón dâu

292

Nghinh hôn

2297

Kinh Truyện

Hán Thư, nơi làm việc quan, cảnh phú quý

293

Ngọc Đường

822

Kinh Truyện

Ông bà bên ngoại

294

Ngoại gia

2870

Từ ngữ xã hội

P.10

295

Ngoại hương

371

Từ ngữ xã hội

Quê ngoại, quê hương

296

Ngô Lào

574

Địa danh

Ngô tức Trung Quốc, Lào tức Ai Lao,

thường tỷ dụ đường xa xôi

Hai nước thời Xuân Thu, nay đây mai đó

297

Ngô Việt

1363

Địa danh

Gặp trắc trở, khó khăn

275

Từ ngữ xã hội

298

Ngộ biến

Gửi gắm tình cảm, ký thác tình cảm

600

Từ ngữ xã hội

299

Ngụ tình

Nhạc kinh, chỉ âm luật

1314

Kinh Truyện

300

Ngũ âm

Đại Tạng Kinh, năm thức cúng phật:

31

Kinh Truyện

301

Ngũ cúng

Hương, hoa, đăng, trà, quả

Tỳ Kheo giới luật, năm điều răn: Sát sinh,

302

Ngũ giới

1918

Kinh Truyện

trộm cắp, tà dâm, nói càn, uống rượu

Người nộp đơn kiện cáo

1920

Từ ngữ xã hội

303

Nguyên đơn

Đường Thư, tết Thượng Nguyên

1415

Kinh Truyện

304

Nguyên tiêu

Người đánh cá

942

Từ ngữ xã hội

305

Ngư ông

Người đánh cá

2705

Từ ngữ xã hội

306

Ngư phủ

Tên cái lầu, nơi Thúy Kiều bị nhốt

2699

Địa danh

307

Ngưng Bích

Người giúp việc trong dinh quan

1033

Từ ngữ xã hội

308

Nha dịch

Việc xẩy ra trước mắt

608

Từ ngữ xã hội

309

Nhãn tiền

Hoa Nghiêm kinh, chỉ duyên nợ vợ chồng

1551

Kinh Truyện

310

Nhân duyên

201

Từ ngữ xã hội

Chỉ cõi đời, cõi người

311

Nhân gian

1706

Kinh Truyện

312

Nhân quả

Nhân Quả kinh, ngũ uẩn, nguyên nhân

và kết quả của vạn vật

995

313

Nhật nguyệt

Từ ngữ xã hội

Mặt trời, mặt trăng, chỉ thời gian

906

314

Nhi nữ

Từ ngữ xã hội

Chỉ con gái nói chung

315

Nho gia

2176

Kinh Truyện

Chiến Quốc Sách, chỉ những người theo

học phái, tư tưởng của Khổng Tử

1498

Từ ngữ xã hội

316

Ninh gia

Về thăm nhà, con gái về thăm nhà

2220

Từ ngữ xã hội

317

Nữ nhi

Con gái

1234

Từ ngữ xã hội

318

Oan gia

Thù hằn làm việc dữ thì bị điều dữ báo lại

Khí oan uẩn chưa siêu thoát

1013

Từ ngữ xã hội

319

Oan khí

Oan uổng khổ ải

2535

Từ ngữ xã hội

320

Oan khổ

P.11

Từ ngữ xã hội

Oan uổng khổ sở

1641

321

Oan khốc

Từ ngữ xã hội

Cái gây nên oan nghiệp

1433

322

Oan nghiệt

Từ ngữ xã hội

Nghiệp báo do kiếp trước để lại

986

323

Oan nghiệp

Kinh Truyện

Pháp Hoa kinh, vật quý của nhà Phật

1753

324

Pháp bảo

Từ ngữ xã hội

Người làm bùa phép theo Đạo gia

2046

325

Pháp sư

Từ ngữ xã hội

Nơi hành hình phạm nhân

2984

326

Pháp trường

Từ ngữ xã hội

Bày lộ ra ngoài

2395

327

Phát tiết

Từ ngữ xã hội

Nơi thờ phật

415

328

Phật đài

Từ ngữ xã hội

Nơi thờ phật

1639

329

Phật đường

Kinh Truyện

Tứ khố toàn thư, lời phẩm bình nghệ

1919

330

Phẩm đề

thuật hội họa cổ điển

Từ ngữ xã hội

Chia đường, chia tay

402

331

Phân kỳ

Từ ngữ xã hội

Trình bày rõ ràng, cụ thể

869

332

Phân minh

333

Phi phù

2915

Kinh Truyện

Thái ất huyền kinh, đốt bùa thỉnh tiên,

bùa phép trừ tà

Từ ngữ xã hội

Khác với người thường

1684

334

Phi thường

Kinh Truyện

Mao thi thảo trùng kinh, tên hai loài rau

1485

335

Phỉ phong

nhà nghèo ăn, chỉ tư chất bình thường,

Từ ngữ xã hội

332

336

Phiếu hồng

Tờ trát của quan

Kinh Truyện

1406

337

Phiếu Mẫu

Sử Ký, Hoài Âm Hầu liệt truyện, người tốt

Từ ngữ xã hội

2348

338

Phong ba

Sóng gió, ám chỉ khó khăn gian khổ

Từ ngữ xã hội

1366

339

Phong lưu

Thái độ nhàn nhã, lịch sự

Từ ngữ xã hội

35

340

Phong nguyệt

Trăng gió, chỉ tình cảm yêu đương

Từ ngữ xã hội

396

341

Phong nhã

Tính cách phong lưu, chuộng văn thơ

Từ ngữ xã hội

152

342

Phong sương

Gió sương, chỉ sự chịu đựng

Từ ngữ xã hội

399

343

Phong tư

Hình dáng, vẻ người xinh đẹp

Từ ngữ xã hội

151

344

Phong tình

Tính lẳng lơ

Từ ngữ xã hội

806

345

Phong trần

Gió bụi, chỉ cõi đời trần tục

Từ ngữ xã hội

986

346

Phong vận

Duyên dáng đoan trang

Từ ngữ xã hội

188

347

Phồn hoa

Giàu có, đô hội

Từ ngữ xã hội

180

348

Phu nhân

Vợ vua , quan từ nhị phẩm trở lên

P.12

349

Phú Dương

1621

Địa danh

Tên huyện thuộc Chiết Giang

350

Phù dung

1160

Từ ngữ xã hội

Một loại sen, chỉ người phụ nữ đẹp

351

Phủ đường

1160

Từ ngữ xã hội

Nhà làm việc của quan

352

Phù tang

2471

Từ ngữ xã hội

Hộ tang cha mẹ

353

Phú hậu

2002

Từ ngữ xã hội

Nhà nền nếp giàu có

354

Phúc Kiến

149

Địa danh

Tên một tỉnh ở Trung Quốc

355

Phúc lộc

2954

Từ ngữ xã hội

Sự may mắn

356

Phục thư

3225

Từ ngữ xã hội

Hồi đáp thư, trả lời thư

357

Phương diện

1086

Từ ngữ xã hội

Thể diện, danh dự

358

Phượng liễn

2591

Từ ngữ xã hội

Nghi thức trang trọng

359

Phượng loan

2265

Kinh Truyện

Quảng Nhã, chỉ chim quý, người tài đẹp

360

Quá quan

2276

Kinh Truyện

Khúc nhạc của Vương Chiêu Quân

361

Quan âm các

479

Địa danh

Tên một gác ở nhà Hoạn Thư

362

Quan gia

1913

Từ ngữ xã hội

Người sang trọng

363

Quan hà

3236

Từ ngữ xã hội

Cửa ải và sông, chỉ đường xa

364

Quan nha

1499

Từ ngữ xã hội

Quan lại và nha dịch, bọn cường quyền

3059

365

Quan phòng

Từ ngữ xã hội

Chỉ nơi quan ải bảo vệ biên cương

366

Quan san

1935

Từ ngữ xã hội

Chỉ cương thổ, biên ải

367

Quan tái

1520

Thi liệu

Đường Vương Hàn, cảnh chia ly

368

Quản huyền

1596

Từ ngữ xã hội

Ống sáo, dây đàn, chỉ tiếng nhạc

369

Quán gia

780

Từ ngữ xã hội

Chủ quán trọ, quán trọ

370

Quán khách

2231

Từ ngữ xã hội

Nhà trọ

371

Quảng Lăng

287

Kinh Truyện

Tấn Thư, tên khúc nhạc của Kê Khang

372

Quân lệnh

477

Từ ngữ quân sự

Lệnh của tướng lệnh, điều binh

373

Quân trung

2378

Từ ngữ quân sự

Giữa doanh trại, nơi ở của nguyên soái

374

Quân tử

2437

Kinh Truyện

Luận Ngữ, chỉ người có học

375

Quốc gia

351

Kinh Truyện

Hán Thư, chỉ giang sơn, tổ quốc

376

Quốc sắc

2591

Từ ngữ xã hội

Người đẹp nổi tiếng trong nước

377

Quốc sỹ

163

Kinh Truyện

Sử Ký, người tài giỏi trong nước

378

Quy liệu

2427

Từ ngữ xã hội

Thu xếp, an bài mọi việc

379

Quy ninh

614

Kinh Truyện

Kinh Thi, con gái đã lấy chồng về thăm

P.13

nhà cha mẹ đẻ

380

Quỷ thần

1606

Kinh Truyện

Sưu Thần Ký, chỉ bậc thần tiên

381

Quyên sinh

906

Từ ngữ xã hội

Tự làm cho mình chết

Quảng Nhã, nước ngọc, chỉ loại rượu quý

382

Quỳnh tương

858

Kinh Truyện

Người làm việc trong phủ nha

383

Sai nha

453

Từ ngữ xã hội

Nơi làm việc của quan, nhà chính

384

Sảnh đường

576

Từ ngữ xã hội

Cái khí chém giết, sự hung dữ

385

Sát khí

1711

Từ ngữ xã hội

Kinh Thư, giấy tờ do vua ban

386

Sắc chỉ

2251

Kinh Truyện

Kinh Thi, tên đàn, thê tử hảo hợp

387

Sắt cầm

2948

Kinh Truyện

Thông Điển,tên sao, chỉ sự xa cách

388

Sâm Thương

3178

Kinh Truyện

Kim Cương Kinh, Tam độc, chỉ dục vọng

389

Sân si

2329

Kinh Truyện

Sự chia cắt, nỗi khổ

390

Sinh ly

1166

Từ ngữ xã hội

Huyền Trung Ký, đồ dẫn cưới

391

Sính nghi

780

Kinh Truyện

Ngày sinh

392

Sinh nhật

844

Từ ngữ xã hội

Công ơn sinh dưỡng của cha mẹ

393

Sinh thành

371

Từ ngữ xã hội

Sự sống chết

394

Sinh tử

604

Từ ngữ xã hội

Điều mong muốn

395

Sở cầu

3169

Từ ngữ xã hội

Kẻ đàng điếm

396

Sở Khanh

2123

Nhân danh

Dàn hai, xếp theo thứ tự chầu vua

397

Song phi

1223

Từ ngữ xã hội

Chỉ cha mẹ

398

Song thân

2312

Từ ngữ xã hội

Chỉ đất nước, tổ quốc

399

Sơn hà

862

Từ ngữ xã hội

Hòn giả sơn và hồ nước, phong cảnh

400

Sơn hồ

2442

Từ ngữ xã hội

Núi và khe, đường đi khó khăn

401

Sơn khê

1915

Từ ngữ xã hội

Bạn học cùng thầy

402

Sư huynh

533

Từ ngữ xã hội

Thầy dạy

403

Sư trưởng

2046

Từ ngữ xã hội

Dâm đãng, bậy bạ

404

Tà dâm

2341

Từ ngữ xã hội

Trả ơn

405

Tạ ân

2682

Từ ngữ xã hội

Từ biệt

406

Tạ từ

2421

Từ ngữ xã hội

Người tài giỏi, danh tiếng

407

Tài danh

2418

Từ ngữ xã hội

Chỉ tài giỏi biểu lộ ra ngoài

408

Tài hoa

149

Từ ngữ xã hội

Tài năng và sắc đẹp, chỉ phụ nữ

409

Tài sắc

115

Từ ngữ xã hội

P.14

Từ ngữ xã hội

Người tài giỏi

24

410

Tài tử

Từ ngữ xã hội

Sinh ra một lần nữa, sống lại

47

411

Tái sinh

Từ ngữ xã hội

Sống lại

707

412

Tái thế

Kinh Truyện

Ba La Mật Đa Tâm Kinh: Bành Kiêu,

3039

413

Tam bành

Bành Cứ, Bành Chất; sự nổi giận

Kinh Truyện

Thần Tiên Truyện, cõi tiên

962

414

Tam đảo

Nhân danh

1685

415

Tam Hợp

Kinh Truyện

Quy y Phật, Pháp, Tăng, xuất gia

2563

416

Tam quy

Kinh Truyện

Lễ Ký, lễ tang, giải oan, cầu siêu

1920

417

Tang trai

Kinh Truyện

Hậu Hán Thư, chỉ người vợ hiền

1668

418

Tao khang

Từ ngữ xã hội

Sửa sang phần mộ

1480

419

Tảo mộ

Từ ngữ xã hội

Quan hệ khắng khít

44

420

Tâm giao

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng trong sáng

3085

421

Tâm hương

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng trung thục

1930

422

Tâm minh

Từ ngữ xã hội

Người trung thành

2124

423

Tâm phúc

Địa danh

Tỉnh Sơn Tây, nơi phát tích của nhà

3183

424

Tấn Dương

Đường, chỉ nghiệp đế vương

425

Tất giao

2196

Kinh Truyện

Hán Sử, keo sơn, sự gắn bó

359

426

Tây thiên

Kinh Truyện

Phổ Đà Kinh, đất phật

195

427

Tẩy oan

Từ ngữ xã hội

Rửa oan

428

Tẩy trần

2438

Từ ngữ xã hội

Tục xưa khi đi xa về thường làm tiệc

rượu tẩy trần (rửa bụi), cầu may

429

Tế độ

1571

Kinh Truyện

Kim Cương Kinh, cứu rỗi chúng sinh

thoát khỏi phiền não, bể khổ

430

Tế nhuyễn

1080

Từ ngữ xã hội

Đồ cúng tế

583

431

Tha hương

Từ ngữ xã hội

Lưu lạc nơi đất khách, ly hương

532

432

Thanh cao

Từ ngữ xã hội

Phong cách cao nhã

3244

433

Thanh khí

Kinh Truyện

Dịch Kinh, cùng cảnh ngộ

193

434

Thanh lâu

Từ ngữ xã hội

Chỉ nhà quyền quý, nhà thổ

2668

435

Thanh minh

Từ ngữ xã hội

Tiết khí, khoảng tháng 3 ÂL

43

437

Thanh nhàn

Từ ngữ xã hội

Thong dong, thoải mái

P.15

437

Thanh tân

2875

Từ ngữ xã hội

Thanh tú, mới mẻ, đẹp đẽ

438

Thanh vân

188

Kinh Truyện

Cựu Đường Thư, chỉ hoạn lộ đắc ý

439

Thanh xuân

2478

Từ ngữ xã hội

Tuổi trẻ, sức sống

440

Thanh y

1059

Từ ngữ xã hội

Đầy tớ gái

441

Thành thân

1745

Từ ngữ xã hội

Kết hôn

442

Thánh đế

2108

Kinh Truyện

Thư kinh, chỉ vua Nghiêu Thuấn

443

Thảo am

2489

Từ ngữ xã hội

Lều cỏ

444

Thảo đường

2990

Từ ngữ xã hội

Nhà cỏ, nơi ẩn dật

445

Thảo lư

2697

Văn liệu

Tam Quốc diễn nghĩa, nhà cỏ, ẩn dật

446

Thăng đường

2732

Từ ngữ xã hội

Lên công đường làm việc quan

447

Thâm giao

2885

Từ ngữ xã hội

Có mối giao hảo sâu sắc

448

Thần hôn

3085

Kinh Truyện

Hiếu Kinh, sớm hôm, chăm sóc cha mẹ

449

Thần mộng

918

Từ ngữ xã hội

Nằm mộng

450

Thất bảo

1017

Từ ngữ xã hội

7 loại của quý, vật quý

451

Thê nhi

1724

Từ ngữ xã hội

Vợ con, chỉ gia đình

452

Thể phách

2874

Từ ngữ xã hội

Linh hồn

453

Thệ sư

116

Kinh Truyện

Người làm phép, Vu sư

454

Thể nữ

2307

Từ ngữ xã hội

Người đầy tớ gái

455

Thi đồng

2263

Từ ngữ xã hội

Ống để thơ

456

Thi họa

397

Từ ngữ xã hội

Tài làm thơ, vẽ tranh

457

Thị hùng

30

Từ ngữ xã hội

Cậy sức ra oai

458

Thị lập

1178

Từ ngữ xã hội

Đứng hầu quan trên, hầu vua

459

Thị yến

2312

Từ ngữ xã hội

Hầu tiệc

460

Thiên đường

2567

Từ ngữ xã hội

Cõi trời

461

Thiên hạ

1774

Kinh Truyện

Kinh Thi, chỉ giang sơn đất nước

462

Thiên hương

1962

Từ ngữ xã hội

Hương trời, vẻ đẹp phụ nữ

463

Thiên quan

66

Kinh Truyện

Chu Lễ, quan đứng đầu triều

(trủng tể)

464

Thiên Thai

1722

Thi liệu

Đường Thi, cõi tiên

465

Thiên tài

392

Từ ngữ xã hội

Tài năng trời phú

466

Thiên tải

163

Từ ngữ xã hội

Ngàn năm

P.16

Kinh Truyện

Lục độ tập kinh, thanh tĩnh, tịch mịch

467

Thiền

2399

Từ ngữ xã hội

Gốc nhân từ, sự hiền lành

468

Thiện căn

1933

Từ ngữ xã hội

Người làm việc thiện

469

Thiện nhân

3251

Từ ngữ xã hội

Lập bàn thờ

470

Thiết vị

1729

471

Thiều quang

Từ ngữ xã hội

Ánh sáng múa xuân

2967

Kinh Truyện

Thuật dị ký, mặt trăng

472

Thỏ

40

Từ ngữ xã hội

Thần coi sóc một vùng

473

Thổ công

79

Từ ngữ xã hội

Quan lại địa phương (vùng cao)

474

Thổ quan

2132

475

Thông huyền

Kinh Truyện

Huỳnh Đình Kinh, thông hiểu huyền

2589

cơ, biết được ý trời

Từ ngữ xã hội

Giỏi giang

476

Thông minh

1684

Từ ngữ xã hội

Thông minh, hiền lành

477

Thông tuệ

150

Thi liệu

Ánh mắt của người con gái đẹp

478

Thu ba

2059

Từ ngữ xã hội

Không gian về đêm, tiếng chuông chiều

479

Thu không

1323

Từ ngữ xã hội

Hồn bị thu về địa phủ, chết

480

Thu linh

172

Từ ngữ xã hội

Ánh mắt phụ nữ

481

Thu thủy

2960

Từ ngữ xã hội

Mời rượu, uống rượu

482

Thù tạc

25

Nhân danh

Tên gọi Thúc Sinh

483

Thúc Lang

1835

Từ ngữ quân sự

Bó giáp, đầu hàng

484

Thúc giáp

1464

Nhân danh

Cha Thúc Sinh

485

Thúc ông

2502

Nhân danh

Tên nhân vật

486

Thúc Sinh

1452

Từ ngữ xã hội

Em bố, ông chú

487

Thúc phụ

1397

Kinh Truyện

Sưu Thần Ký, chỉ kẻ mất nước

488

Thục Đế

531

Từ ngữ xã hội

Con gái con nhà gia giáo

489

Thục nữ

3202

Nhân danh

Tên nhân vật

490

Thúy Kiều

3219

Nhân danh

Tên nhân vật

491

Thúy Vân

16

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng son sắt từ đầu đến cuối

492

Thủy chung

16

352

493

Thuyền quyên

Từ ngữ xã hội

Chỉ người con gái đẹp

494

Thư hiên

819

Từ ngữ xã hội

Phòng sách

495

Thư hương

395

Từ ngữ xã hội

Dòng dõi sĩ hoạn

496

Thư phòng

1061

Từ ngữ xã hội

Phòng đọc sách

P.17

Từ ngữ xã hội

Gánh vác việc nhà

2849

497

Thừa gia

Từ ngữ xã hội

Hóng mát, nơi nhàn dật

3237

498

Thừa lương

Từ ngữ xã hội

Đau buồn

1371

499

Thương tâm

Từ ngữ xã hội

Ký hiệu Sở Khanh gửi cho Kiều

1084

500

Tích việt

Từ ngữ quân sự

Hồi trống đầu khi xuất quân

2317

501

Tiên nghiêm

Từ ngữ quân sự

Chỉ đội quân, viên tướng đi đầu

2509

502

Tiên phong

Từ ngữ xã hội

Chỉ người thầy (đã qua đời)

932

503

Tiên sư

Từ ngữ xã hội

Đón trước được sự việc

2406

504

Tiên tri

505

Tiền Đường

Địa danh

Tên sông Hàng Châu (Chiết Giang)

1000

Thi liệu

Đường, Đỗ Phủ, đường đời

2269

506

Tiền lộ

Từ ngữ xã hội

Cánh chim Hồng hộc, gửi thư

1084

507

Tiện hồng

Từ ngữ xã hội

Tài mọn, khiêm tốn

465

508

Tiện kỹ

Từ ngữ xã hội

Tùy tiện, tự làm theo ý mình

2454

509

Tiện nghi

Từ ngữ xã hội

Đất xấu, chỗ chôn người chết

2561

510

Tiện thổ

Kinh Truyện

Nam Hoa Kinh, chỉ cảnh nhàn dật

2876

511

Tiêu dao

Từ ngữ xã hội

Tin tức, sự trông mong, nhớ nhung

1489

512

Tiêu hao

Từ ngữ xã hội

Tiêu điều, thê lương, buồn bã

491

513

Tiêu tao

Từ ngữ xã hội

Con suối nhỏ, phong cảnh đẹp

53

514

Tiểu khê

Từ ngữ xã hội

Người con gái đẹp

187

515

Tiểu kiều

Từ ngữ xã hội

Tiểu ni sư

2043

516

Tiểu thiền

Nhân danh

Tên nàng Phùng Phục Thi, vợ vua Tề,

2586

517

Tiểu Lân

chỉ tấm lòng chung thủy

1557

Từ ngữ xã hội

Con gái nhà quyền quý

518

Tiểu thư

Từ ngữ xã hội

Sao nhỏ, chỉ người vợ lẽ

954

519

Tiểu tinh

Kinh Truyện

Lễ Ký, kỳ rước dâu

694

520

Tinh kỳ

Từ ngữ xã hội

Sáng sủa, linh lợi

116

521

Tinh anh

522

Tinh binh

2965

Từ ngữ quân sự

Đội quân tinh nhuệ

523

Tinh thành

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng thành khiết

126

524

Tinh thần

Từ ngữ xã hội

Yếu tố vô hình , đối lập với thể xác

17

525

Tinh Vệ

2972

Kinh truyện

Thuật Dị Ký, con gái vua Viêm Đế, chỉ

công vô ích, công dã tràng

P.18

Từ ngữ xã hội

Chuyện tình Nam nữ

2682

526

Tình ái

Từ ngữ xã hội

Nhân duyên vợ chồng

3139

527

Tình duyên

Từ ngữ xã hội

Người tình

3143

528

Tình nhân

Từ ngữ xã hội

Người tình, người chồng

751

529

Tình quân

Từ ngữ xã hội

Nơi thanh tịnh thờ Phật, Thánh

1689

530

Tĩnh đàn

Kinh Truyện

Liệt nữ truyện, Tam tòng, đạo làm vợ

506

531

Tòng phu

Từ ngữ xã hội

Sự ứng biến, xoay sở

600

532

Tòng quyền

Từ ngữ xã hội

Gia tộc

1953

533

Tông đường

Kinh Truyện

Chiến Quốc Sách, chàng trai đẹp

1232

534

Tống Ngọc

Từ ngữ xã hội

Quan đầu tỉnh, hàm nhị phẩm

2451

535

Tổng đốc

Từ ngữ xã hội

Tên loài hoa, chỉ người con gái đẹp

1092

536

Trà mi

Nhân danh

Pháp hiệu của Thúy Kiều

1922

537

Trạc Tuyền

Từ ngữ xã hội

Nơi ở của những người tu hành

2056

538

Trai phòng

Nhân danh

Chỉ Trang tử, mộng hão huyền

3200

539

Trang Sinh

Kinh Truyện

Thi Kinh, lòng nhớ thương mẹ

1832

540

Trắc Dĩ

Từ ngữ xã hội

Con nhà quyền quý

148

541

Trâm anh

Từ ngữ xã hội

Khổ sở

1080

542

Trầm luân

Từ ngữ xã hội

Thức ăn ngon, quý hiếm

1258

543

Trân cam

Từ ngữ xã hội

Bụi bặm, chỉ cõi đời

1380

544

Trần ai

Từ ngữ xã hội

Bụi bặm, cấu ghét, thân nhơ nhuốc

3104

545

Trần cấu

993

546

Trần duyên

Từ ngữ xã hội

Duyên nợ ở cõi trần

Từ ngữ xã hội

Bày tỏ lời cảm tạ

3032

547

Trần tạ

Kinh Truyện

Thuật Dị Ký, Bá Nha - Tử Kỳ truyện,

1248

548

Tri âm

tình bạn gắn bó, hiểu rõ lẫn nhau.

Từ ngữ xã hội

Biết ơn

386

549

Tri ân

Từ ngữ xã hội

Biết lỗi

2377

550

Tri quá

Từ ngữ xã hội

Cầm bình rượu hầu tiệc, hầu hạ

1836

551

Trì hồ

Từ ngữ xã hội

Xua đuổi ma quỷ

1684

552

Trí quỷ

Từ ngữ xã hội

Chính phủ thời phong kiến

2441

553

Triều đình

Từ ngữ xã hội

Ngay thẳng, trong trắng

1148

554

Trinh bạch

Từ ngữ xã hội

Quan lại cao cấp, dự hàng quân cơ

2451

555

Trọng thần

P.19

556

Trú phường

Từ ngữ xã hội

Nơi ở của kỹ nữ, kỹ viện

785

557

Trụ trì

2038

Từ ngữ xã hội

Người quản lý cao nhất ở chùa

558

Trúc mai

708

Thi liệu

Đường Lý Bạch, chỉ tình bạn đẹp

559

Trúc viện

1371

Từ ngữ xã hội

Nhà nghỉ, nơi nhàn dật

560

Trung đường

1673

Từ ngữ xã hội

Nhà giữa, nơi thờ tổ tiên

561

Trung khúc

423

Từ ngữ xã hội

Điều ẩn uất, quanh co trong lòng

562

Trung quân

2315

Từ ngữ quân sự

Đội quân ở giữa, quân chủ lực

563

Trùng phùng

795

Từ ngữ xã hội

Gặp lại , niềm vui

564

Trùng sinh

3049

Từ ngữ xã hội

Sống lại, niềm vui

565

Truy hoan

1299

Từ ngữ xã hội

Vui chơi, hoan lạc

566

Truy phong

1107

Từ ngữ xã hội

Đuổi gió, tên ngựa, nhanh

567

Trường giang

2636

Địa danh

Tên sông lớn ở Trung Quốc

568

Trường đình

871

Kinh Truyện

Sử Ký, nơi đưa tiễn, nghỉ chân

569

Trường Khanh

Nhân danh

Sử Ký, Tư Mã Tương Như

1232

Trước hổ trướng ở doanh trại, bàn quân cơ

570

Trướng tiền

2378

Từ ngữ xã hội

Chỉ người đàn ông, người chồng

571

Trượng phu

2214

Từ ngữ xã hội

Tên nhân vật, chủ nhà chứa

572

Tú Bà

882

Nhân danh

Miệng thêu, tài văn chương

573

Tú khẩu

208

Từ ngữ xã hội

Vu Lan Kinh, tội ở tiền kiếp nay phải trả

574

Túc khiên

2688

Kinh Truyện

Chỉ người đàn ông, người chồng

575

Tùng quân

901

Từ ngữ xã hội

Nơi pháp đình xét xử

576

Tụng đình

2757

Từ ngữ xã hội

Ngày giờ hẹn xét xử

577

Tụng kỳ

692

Từ ngữ xã hội

Cõi âm phủ

578

Tuyền đài

710

Từ ngữ xã hội

Chỉ sự từng trải

579

Tuyết sương

384

Từ ngữ xã hội

Nhà riêng

580

Tư gia

480

Từ ngữ xã hội

Sử Ký, tên nhạc khúc của Tư Mã

581

Tư Mã (Phượng

4751

Kinh Truyện

Tương Như, sự đồng cảm

Cầu)

Kim Cương Kinh, lòng bác ái

582

Từ bi

908

Kinh Truyện

Chỉ Từ Hải

583

Từ Công

2124

Nhân danh

Nhà thờ tổ, tổ tiên

584

Từ đường

531

Từ ngữ xã hội

Tạm biệt, từ giã về

585

Từ quy

2398

Từ ngữ xã hội

P.20

586

Từ tâm

Từ ngữ xã hội

Tấm lòng hiền hậu

608

587

Tương phùng

Từ ngữ xã hội

Gặp gỡ

159

588

Tương tri

460

Từ ngữ xã hội

Quen biết lẫn nhau

589

U hiển

128

Từ ngữ xã hội

Cõi âm, cõi dương, sự sống chết

590

Uy linh

2321

Từ ngữ xã hội

Sự linh ứng của thần thánh

591

Uy nghi

2313

Từ ngữ xã hội

Vẻ trang trọng

592

Văn chương

150

Từ ngữ xã hội

Thơ phú nói chung

593

Văn nhân

135

Từ ngữ xã hội

Người làm thơ phú

594

Vân du

2650

Văn liệu

Duyệt Vi thảo đường bút ký, đi đây đó

595

Vấn an

1940

Từ ngữ xã hội

Hỏi thăm

596

Vấn danh

624

Kinh Truyện

Lễ Ký, hỏi tên, lễ dạm ngõ

597

Vận mệnh

1798

Từ ngữ xã hội

Tuân theo mệnh lệnh

598

Vệ cơ

2312

Kinh Truyện

Ngũ lễ chú sớ, quân lễ, đơn vị quân đội

599

Vi lô

264

Từ ngữ xã hội

Cây lau, sậy, chỉ sự hiu hắt

Chức quan ngoại ngạch, chỉ người giàu có

600

Viên ngoại

11

Từ ngữ xã hội

Khách xa đến, chỉ khách làng chơi

601

Viễn khách

624

Từ ngữ xã hội

Phương xa, nơi xa

602

Viễn phương

67

Từ ngữ xã hội

Tỉnh Sơn Đông, đất quý

603

Việt Đông

2172

Địa danh

Giàu sang, hiển hách

604

Vinh hiển

2872

Từ ngữ xã hội

Giàu sang, phú quý

605

Vinh hoa

2287

Từ ngữ xã hội

Ly biệt mãi mãi, chết

606

Vĩnh quyết

1680

Từ ngữ xã hội

Không duyên phận vợ chồng

607

Vô duyên

74

Từ ngữ xã hội

Đường Thi, tên sông, chết trận

608

Vô Định

2494

Thi Liệu

Huyện Thường Châu, Giang Tô

609

Vô Tích

2291

Địa danh

Thi Kinh, con gái lấy chồng

610

Vu quy

651

Kinh Truyện

Vu khống, đổ tội cho người khác

611

Vu thác

660

Từ ngữ xã hội

Mẹ Thúy Kiều

612

Vương Bà

674

Nhân danh

Cha Thúy Kiều

613

Vương Ông

712

Nhân danh

Em Thúy Kiều

614

Vương Quan

14

Nhân danh

Quân của nhà vua

615

Vương sư

2506

Từ ngữ xã hội

Quan lại của nhà vua, quan lớn

616

Vương thần

2477

Từ ngữ xã hội

P.21

617

Vương Tôn

828

Từ ngữ xã hội

Con cháu của nhà vua

618

Xuân đình

1500

Thi liệu

Lương Trương Tán, hội họp vui vẻ

619

Xuân Đường

534

Kinh Truyện

Trang Tử, chỉ người cha

620

Xuân Huyên

759

Kinh Truyện

Thi Kinh, Trang Tử, chỉ cha mẹ

621

Xuân sơn

25

Từ ngữ xã hội

Núi mùa xuân, cảnh đẹp, vẻ đẹp

622

Xuất gia

1920

Từ ngữ xã hội

Đi tu

623

Xướng tùy

3148

Từ ngữ xã hội

Đạo làm vợ

624

Yến anh

45

Từ ngữ xã hội

Tên hai loài chim mùa xuân, cảnh đông

đúc, vui tươi, sum vầy hòa hợp

625

Yểu điệu

2841

Kinh Truyện

Thi Kinh, người con gái lấy chồng

P.22

P.23

Phụ lục 2

NGỮ LIỆU CHUYỂN DỊCH

TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU

Stt

Ngữ liệu

Câu thơ

Nguồn gốc

Ý nghĩa

Ả Hằng

1363

Hằng Nga thiết dược bôn nguyệt (Tống

Mặt trăng, ám chỉ

1

Văn tuyển – Tạ Trạng)

người đẹp

Ả Lý

2

Liệt Nữ truyện, Tên nàng Lý Kỳ, Đường

Tài nữ

672

Ả Tạ

3

Liệt Nữ truyện, nàng Tạ Đạo Uẩn,Tấn

Tài nữ

406

Ác

4

Ngũ Kinh thông nghĩa, Kim ô

Mặt trời, quạ lửa

79

Kim Ô hải để sở phi lai (Đường Hàn Dũ)

5

Áo xanh

1944

Giang châu Tư mã thanh sam khấp

Hạng nho sỹ

(Đường Bạch Cư Dị)

6

Ấp cây

327

Thiên Đạo Chích, sách Trang Tử, câu

Chữ tín

chuyện về Vĩ Sinh

Ba quân

7

Chu Lễ, cấp quân đội của chư hầu lớn

Quân sự

2299

Ba sao

8

Tam Tinh : Phúc, Lộc, Thọ

Phúc lộc, may mắn

1638

Ba sinh

9

Tam kiếp : Quá khứ, hiện tại, vị lai

Đời người

257

Ba thu

10

Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (Thi)

Thời gian

248

Ba xuân

11

Thùy ngôn thốn tâm thảo, báo đáp tam

Công đức cha mẹ

620

xuân huy (Đường – Mạnh Giao)

12

Bảng xuân

2860

Hội thí được tổ chức vào mùa xuân

Sự đỗ đạt

13

Bảy chữ, tám nghề

1210

Hoàng Oanh Nhi (Tình Sử - Phùng

Phòng trung thuật

Mộng Long đời Minh)

Bèo mây

14

Bình Thủy tương phùng

Lang bạt, nhỏ nhoi

1343

Bể dâu

15

Thương hải tang điền (Thần tiên truyện)

Sự biến đổi

03

Bể oan

16

Oan hải (Đại Tạng Kinh)

Quan niệm bể khổ

2420

của Phật giáo

17

Bể trầm luân

1104

Luân hồi

Quan niệm về luân

hồi của Phật giáo

18

Bên nguyên

1415

Nguyên đơn,

Người đi kiện

19

Bóng dâu

1254

Thung dung dưỡng dư nhật, thủ lạc vu

Tuổi già

tang du (Tấn – Trương Hoa)

Tống - Văn tuyển – Tạ Trạng

Chỉ người đẹp

177

Bóng Nga

20

Tinh Kỳ ảnh

Quân đội

2314

Bóng tinh

21

Nguyệt hoa di ảnh ngọc nhân lai

Chỉ người đẹp

438

Bóng trăng

22

Tứ Hải (Thủy Kinh Chú)

Không gian, bốn biển

2225

Bốn bể

23

Tứ quý (Kinh Sở tuế thời ký)

Thời gian, bốn mùa

1914

Bốn mùa

24

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Sầu muộn

1502

Bờ liễu

25

(Đường- Vương Xương Linh)

Cân phủ

Hình phạt thời xưa

661

Búa rìu

26

Ngân dược trùng quan thích vị tịch, bất

Cõi đời, sự nhỏ

250

Bụi hồng

27

như miên khứ mộng trung khan (Đường,

nhoi của cuộc

Từ An Trinh)

sống

Hồng trần (Thần Tiên truyện)

Cõi trần

3137

Bụi trần

28

Tú phòng

Phòng của phụ nữ

527

Buồng thêu

29

Xuân phòng

Phòng của con gái

1010

Buồng xuân

30

Trai phòng, thư trai

Nơi đọc sách

253

Buồng văn

31

Bút của người có tài

Hoa bút

204

Bút hoa

32

Chí lớn anh hùng

Hồng phi tuân chữ (Thi)

2247

Cánh hồng

33

Tỷ dụ cái chết nhẹ

Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du

2970

Cánh hồng

34

nhàng, anh hùng

long (Hán – Tào Thực phú)

Tuổi xuân sắc của

35

Cành xuân

1261

Túng sử trường điều tự cựu thùy, giã

người phụ nữ

ưng phan chiết tha nhân thủ (Toàn

Đường thi thoại)

Chỉ việc cưới xin

Lam Kiều (Thái Bình Quảng ký)

457

Cầu Lam

36

Sách quý

Phương cảo

07

Cảo thơm

37

Quan phục

Cân đái triều phục (Lễ Ký)

2273

Cân đai

38

Nơi cao quý

Bồ đề bách xích thụ (cổ thi)

1914

Cây trăm thước

39

Tín vật xin cưới

Sương chùy (chày giã thuốc Huyền

457

Chày sương

40

sương ở cung Quảng Hàn)

Địa danh

Tức Thai Châu, Triết Giang

2105

Châu Thai

41

Địa danh

Tức Thương Châu, Giang Tô

1277

Châu Thương

42

P.24

Xích thằng hệ túc (Tục u quái lục)

Chuyện hôn nhân

333

Chỉ hồng

43

Thệ hải minh sơn (Cổ thi)

Lời thề son sắt

1367

Chỉ non

44

Phiếm bỉ bách chu, tại bỉ trung hà (Thi)

Số phân long đong

2970

Chiếc Bách

45

Thanh điểu (Hán Vũ cố sự),

Tin tức

268

Chim xanh

46

Cửu tự cù lao (Thi)

Công ơn cha mẹ

1253

Chín chữ

47

Bỉ giao dạ cửu hồi trường (Tùy Thư)

Sự đau đớn

570

Chín hồi

48

Cửu Tuyền (Địa phủ kinh)

Cõi âm

734

Chín suối

49

Đông hoàng, Đông đế, Đông quân

Mùa xuân

1327

Chúa xuân

50

Trông mong, chờ đợi

Chúc vọng

158

Chốc mòng

51

Tài và mệnh đố kỵ

Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương

02

Chữ tài,

52

nhau

(Cổ thi)

Chữ mệnh

Đạo làm vợ, làm con

Tam tòng

717

Chữ tòng

53

Chỗ người đẹp ở

Quảng Hàn cung

1636

Cung Quảng

54

Chỗ người đẹp ở

Nguyệt cung tức Quảng Hàn cung

1339

Cung trăng

55

Cửa xe của vua

Viên môn (Chu Lễ)

2318

Cửa viên

56

Nơi tu hành

Không môn (Đại Thừa chân kinh)

1910

Cửa không

57

Mùa xuân

Phương thảo liên thiên bích, lê chi sổ

41

Cỏ non,

58

điểm hoa (cổ thi)

cành lê

Ông trời

Hóa nhi, hóa công

1116

Con tạo

59

Sự cần mẫn

Xuân tàm đáo tử ti phương tận (Đường,

1976

Con tằm

60

Lý Thương ẩn)

Cửa gỗ đóng kín, ở ẩn

Ư thị sài môn tuyệt tân khách (Hán Thư)

529

Cửa sài

61

Cửa Phật

Thiền môn

2061

Cửa thiền

62

Đắc ý, được việc

Môn lan đa hỉ khí, nữ tế cận thừa long

2212

Cưỡi rồng

63

(Đường - Đỗ Phủ)

Vợ chồng đồng lòng

Đồng tâm kết

1341

Dải đồng

64

Vợ lẽ

Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi (Thi)

2280

Dây cát

65

Nói dây, tiếp tục

Loan giao, tục huyền giao (Bác vật chí)

2582

Dây loan

66

Cơ may, duyên

1531

67

Duyên Đằng

Thời lai phong tống Đằng Vương các

may

(Tống - Tô Đông Pha)

Sự bền vững, chắc

68

Đá vàng

352

Cổ công tích minh hồ kim thạch (Lã Thị

P.25

Xuân Thu)

chắn, bền bỉ

69

Đài gương

330

Sầu phụ kính đài tiền

Nỗi buồn của

(Đường, Trịnh Âm)

người phụ nữ

Đào yêu (Thi)

Tuổi lấy chồng

1670

Đào non

70

Thôi cốc (Hán Thư)

Trọng hiền tài

2433

Đẩy xe

71

Thúc số, sinh số (Thượng Thư)

Bói toán

439

Đặt cỏ

72

Vu Giáp, Cao Đường mộng

Giấc mơ

850

Đỉnh Giáp

73

(non thần)

Hoa chúc (Cổ Lễ)

Phòng cưới

2861

Đuốc hoa

74

391

Đường mây

75

Vân lộ, thanh vân đắc lộ (Cổ ngữ)

Đạt quan

437

Động Đào

76

Đào hoa nguyên ký (Tấn Đào Tiềm)

Sự ẩn dật

1266

Giấc hòe

77

Hòe An mộng (Dị văn lục)

Mộng ảo, cõi mộng

78

Giấc Hương quan

2727

Cố hương quan chi mộng

Nhớ quê

713

Giấc mai

79

Mai hồn mộng (Long Thanh Lục)

Giấc ngủ

658

Giấc xuân

80

Xuân miên

Giấc ngủ

519

Gieo cầu

81

Đầu Tú câu (Nam Tề Thư)

Chọn rể

762

Gieo thoa

82

Đầu thoa (Tấn Thư)

Giọt hồng

83

1858

Ưng hậu khách trình qui vị đắc Lục song

Trinh tiết

hồng lệ lãnh quyên quyên (cổ thi)

1865

Giọt Tương

84

Tương lệ (Bác vật chí), nước mắt

Nước mắt người vợ

1043

Giọt rồng

85

Đồng Long

Đồng hồ xưa

2237

Gốc Tử

86

Tử phần (Thi)

Mẹ già mong con

1715

87

Huyên, xuân

Huyên Đường, Xuân Đường (Thi)

Cha mẹ già

Mai hồn (Long Thành Lục - Triệu Sư Hùng)

1306

Hồn mai

88

Hồn người phụ nữ

Đồng xú (Hậu Hán thư, Thôi Thực truyện)

726

Hơi đồng

89

Sự thanh liêm

Loan giao (Bác vật chí)

1100

Keo loan

90

Sự bền chặt

Kết thảo hàm hoàn (Bắc sử,Vương Huệ

1532

Kết cỏ

91

Sự hàm ơn, báo đáp

Long truyện)

( ngậm vành)

Kết phát vi phu phụ

479

Kết tóc

92

Kết nghĩa vợ chồng

Chiêu Quân khúc (Hậu Hán Thư)

93

Khúc Chiêu Quân

477

Khúc nhạc chia ly

Quảng Lăng khúc (Tấn Thư)

94

Khúc Quảng Lăng

268

Khúc nhạc từ biệt

P.26

Hồng diệp (Thái Bình quảng ký)

Mai mối, duyên lành

Lá thắm

95

1568

Hồng lâu

Nơi ở của phụ nữ

Lầu hồng

96

809

Thanh Lâu

Kỹ viện

Lầu xanh

97

1261

Liễu Chương Đài

1537

Chương Đài liễu (Toàn Đường thi thoại)

Sự chung thủy

98

Tâm hỏa

Dục vọng

99

Lửa tâm

2250

Binh hỏa

Quân vụ

100

Lửa binh

2406

Hồng nhan

Phụ nữ

101

Má hồng

517

Tây sương (Tây Sương ký)

Nơi hẹn hò

102

Mái Tây

238

103

Mạch Tương

Tương lệ (Bác vật chí)

Nước mắt của phụ nữ

255

104

Mành Tương

1319

Tương liêm (Bác vật chí)

Của quý hiếm

105

Mây Hàng (mây

2236, 1787

Thái Hàng vân (Tân Đường Thư - Địch

Lòng hiếu thuận,

trắng)

Nhân Kiệt truyện)

nhớ mẹ cha

106

Mây Tần

2182

Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại

Nhớ cố hương

(Đường, Hàn Dũ)

Thanh nhãn (Tấn - Nguyễn Tịch)

Người tri ki

107

Mắt xanh

2196

Long vân khánh hội (Dịch)

Nghiệp đế vương

108

Mây rồng

671

Đề Oanh (Liệt Nữ truyện)

Lòng hiếu thuận

109

Nàng Oanh

2991

Ngày buồn, mòm mỏi

Bạc nhật

110

Ngày bạc

734

Sự thỏa lòng

Hàm tiếu nhập địa

111

Ngậm cười

27

Sắc đẹp mỹ miều

112

Nghiêng nước

2862

Khuynh quốc khuynh thành (Hán Nhạc

(nghiêng thành)

phủ – Lý Diên Niên)

Đỗ đạt, đỗ tiến sĩ

113

Ngõ Hạnh

Hạnh viên hạng (Du thành Nam ký)

3204

Của quý hiếm

114

Ngọc Lam Điền

Lam Điền ngọc

1350

Chỉ vợ lẽ

115

Người Đằng La

106

Đằng La (Quy Sơn cảnh sách)

Người xưa, tổ tiên

116

Người đời xưa

1043

Cổ nhân

Lòng thương yêu

117

Người tựa cửa

Ỷ môn vọng nhữ (Chiến Quốc Sách,

của cha mẹ

Vương Tôn Giả)

Người làm mai mối

118

Nhà băng

630

Băng nhân (Thông Chí)

Người mẹ

119

Nhà Huyên

244

Huyên đường: Yên đắc huyên thảo,

ngôn thụ chi bối (Thi)

Phòng ở của phụ nữ

120

Nhà Hương

1803

Hương khuê (Quảng Tập)

P.27

Chi Lan thất, Lan thất (Gia ngữ)

Nhà của người đẹp

375

121

Nhà Lan

Thung (Xuân) đường (Trang tử)

Chỉ người cha

1353

122

Nhà Thung

Kim ốc (Hán Vũ cố sự).

Chỗ người đẹp

1902

123

Nhà vàng

Nguyệt Hạ Lão nhân (Tục u quái lục)

Người làm mai mối

549

124

Ông Tơ

Bảo trụ tín (Luận ngữ chú sớ giải kinh)

Lòng trung tín

328

125

Phận ấp cây

126

Phường Kim Môn

410

Kim Mã môn (Hán Thư)

Chốn cung đình

127

Quạt nồng (ấp

1044

Đông ôn hạ sảnh (Hoàng Hương – Nhị

Lòng hiếu thuận

thập tứ hiếu)

lạnh)

Lão Lai Tử (Hiếu tử truyện)

Lòng hiếu thuận

1045

128

Sân Lai

Tam Hòe Vương thị (Tống Sử)

Sự vinh hiển

1257

129

Sân Hòe

Bội ngọc (Lễ Ký)

Chỉ người quân tử

310

130

Sân Ngọc Bội

Kim Liên ( Nam sử)

Chỉ người đẹp

190

131

Sen vàng

Tần Xuyên ( Đường - Vị Tây ca)

Sự đau buồn, chia ly

1501

132

Sông Tần

Yến hạm, hổ đầu, ngọa tàm my (Hán Thư)

133

Râu hùm, hàm én

2167

Quý tướng anh hùng

Tinh trì

1466

134

Ruổi sao

Đi trong đêm tối

Tử trúc lâm

1926

135

Rừng tía

Nơi ẩn dật

Phượng hoàng vu quy

2212

136

Sánh phượng

Con gái lấy chồng

Cát lũy (Thi)

1633

137

Sắn bìm

Thân phận vợ lẽ

Quốc sắc thiên hương

1065

138

Sắc nước

Vẻ đẹp của phụ nữ

(hương trời)

Quân tại Tương giang đầu, thiếp tại

Sự chia ly của

139

Sông Tương

365

Tương giang vỹ (cổ thi)

người phụ nữ

Hoàng tuyền (Địa phủ kinh)

94

140

Suối vàng

Chốn âm phủ

Thanh sử (Hán Thư)

07

141

Sử xanh

Danh vọng

Thốn tâm

242

142

Tấc riêng

Tấm lòng son sắt

Thần hôn định tỉnh

Lòng hiếu thuận

143

Tấm lòng thần hôn

918

Ngư long tịch mịch thu giang lãnh

Vắng vẻ, cô quạnh,

144

Thân rồng cá

2672

(Đỗ Phủ)

không người tri kỷ

Quế Thiềm (Dậu Dương Tạp Trở)

145

Thềm quế

1339

Cung trăng

Nguyệt trung hà hữu, ngọc thố đảo dược

146

Thỏ bạc

1269

Mặt trăng

(Phó Hàm – Nghĩ thiên hàm)

P.28

147

Thói nhà

Gia phong

Nề nếp gia đình

332

148

Thiếp Lan Đình

Lan Đình Tự Thiếp (Tấn Thư)

Chữ viết đẹp

1988

Thuần canh lô khoái (Tấn thư, Trương Hàn)

149

Thuần vược

Nhớ cố hương

1593

Kỳ công đức như thử

150

Thửa công đức

Công đức, tiết hạnh

2687

Ngư thư (Nhữ Nam tiên hiền truyện)

2944

151

Tin cá

Tin tức

Nhạn tín (Hán Thư – Tô Vũ truyện)

945

152

Tin nhạn

Tin tức

Sương tín (Cổ kim thi thoại)

622

153

Tin sương

Tin tức

Ngư dương cổ bề động đại lai (Đường

2222

154

Tiếng Bề

Tiếng trống trận

Bạch Cư Dị)

Hồng ti (Khai Nguyên Thiên Bảo si sự)

540

155

Trao tơ

Gả con gái lấy

Nguyệt lão (Tục u quái lục)

687

156

Trăng già

chồng

Phong nguyệt

1290

157

Trăng gió

Người làm mai mối

Tang gian Bộc thượng chi âm, vong

507

158

Trên Bộc

Chuyện nam nữ

quốc chi âm dã (Lễ Ký)

159

(trong dâu)

Thói dâm bô

Kim binh uy dĩ chấn, thi như phá trúc, sổ

160

Trúc chẻ

2439

Thắng trận, sức

tiết chi hậu giai nghinh nhận nhi giải

(ngói tan)

mạnh của quân đội

(Tấn Thư - Đỗ Dự truyện)

Hổ Trướng (Nam Đường Thư)

2315

161

Trướng Hùm

Chốn quân cơ

Huỳnh Trướng (Tấn Thư, Xa Dận)

434

162

Trướng Huỳnh

Phòng đọc sách

Mai trướng

2284

163

Trướng mai

Phòng sách

Thanh mai trúc mã (Đường Lý Bạch)

704

164

Trúc mai

Sự gắn bó

Ngũ nguyệt ngũ nhật, hữu đấu bách thảo

160

165

Tuần đố lá

Trò chơi

chi hý (Tông Lẫm – Kinh Sở tuế thời ký)

Hạc thọ (Thần tiên truyện)

166

Tuổi Hạc

673

Tuổi thọ của cha mẹ

Vật hóa di tính (Cổ ngữ)

167

Vật đổi (sao dời)

3087

Sự thay đổi

Cửu hồi trường

168

Vò chín khúc

488

Sự đau đớn

Khả lân Vô Định hà biên cốt (Đường,

169

Xương Vô Định

2494

Sự chết chóc , chỉ

Trần Đào)

chiến tranh

P.29

P.30

Phụ lục 3

HỆ THỐNG THÀNH NGỮ NGUYÊN MẪU

TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU

Câu

Stt

Thành ngữ

Điển cố

Yếu tố thi pháp

thơ

Ngôn ngữ Thuý Kiều 翠翹

509

1 Ăn xổi ở thì

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2 Ăn gió nằm sương

554

X

(Phong xan lộ túc)

2865

Ngôn ngữ tác giả

3 Ân trả nghĩa đền

Ngôn ngữ tác giả

4

2393

Bạc ác tinh ma

2122

Ngôn ngữ tác giả

5 Bán hùm buôn sói

Ngôn ngữ tác giả

6 Bắt khoan bắt nhặt

1837

(Bách ban vi nan)

2401

Ngôn ngữ Thuý Kiều

7 Bèo hợp mây tan

Ngôn ngữ Thuý Vân 翠雲

8 Bèo nổi mây chìm

770

(Phiêu phù vô định)

1882

Ngôn ngữ tác giả

9 Bể sâu sóng cả

Ngôn ngữ tác giả

10 Bể Sở sông Ngô

X

2464

(Ngô đầu Sở vĩ)

X

1104

Ngôn ngữ Sở Khanh 楚卿

11 Bể trầm luân

X

5

Ngôn ngữ tác giả

12 Bỉ sắc tư phong

3051

Ngôn ngữ tác giả

13 Bỉ thử nhất thì

X

3065

Ngôn ngữ Thuý Vân

14 Bình địa ba đào

X

2944

Ngôn ngữ tác giả

15 Bóng chim tăm cá

1709

Ngôn ngữ tác giả

16 Buồm cao lèo thẳng

814

Ngôn ngữ tác giả

17 Buôn phấn bán hương

18 Bưng bít (kín) miệng bình

1577

Ngôn ngữ Thúc Sinh 束生

Ngôn ngữ Thuý Kiều

19 Bưng mắt bắt chim

1508

(Yếm mục bổ tước)

1128

Ngôn ngữ tác giả

20 Bước thấp bước cao

(Khảm kha bất bình)

1238

21 Bướm chán ong chường

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1229

22 Bướm lả ong lơi

Ngôn ngữ tác giả

23 Cá chậu chim lồng

Ngôn ngữ Từ Hải 徐海

2184

(Trì ngư lung điểu)

3166

24 Cá nước chim trời

Ngôn ngữ Kim Trọng 金重

25 Cá nước duyên ưa

Ngôn ngữ Từ Hải

2275

X

(Ngư thuỷ duyên hài)

26 Cách mặt khuất lời

747

Ngôn ngữ Hoạn Thư 宦姐

27 Cạn dòng lá thắm, dứt đường

Ngôn ngữ tác giả

268

X

chim xanh

28 Càng cay nghiệt lắm, càng

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2362

oan trái nhiều

246

29 Canh cánh bên lòng

Ngôn ngữ tác giả

30 Cánh hồng bay bổng

Ngôn ngữ tác giả

2247

(Hồng nhạn cao phi)

2605

31 Cát dập sóng vùi

Ngôn ngữ Thuý Kiều

639

32 Cân sắc cân tài

Ngôn ngữ tác giả

514

33 Chán chường yến anh

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2010

34 Chau mày nghiến răng

Ngôn ngữ Thuý Kiều

35 Chạy chẳng khỏi trời

Ngôn ngữ tác giả

2163

(Sáp sí nan phi)

36 Chẳng vò mà rối, chẳng dần

Ngôn ngữ tác giả

1252

mà đau

2517

37 Chắp cánh cao bay

Ngôn ngữ Thuý Kiều

38 Chắp cánh liền cành

Ngôn ngữ Thuý Kiều

515

X

(Tỷ dực liên chi)

39 Chân trời mặt bể

Ngôn ngữ tác giả

2607

X

(Thiên nhai hải giác)

104

40 Châu sa vắn dài

Ngôn ngữ tác giả

1840

41 Chén đầy chén vơi

Ngôn ngữ tác giả

1835

43 Chén tạc chén thù

Ngôn ngữ tác giả

P.31

(Thù tạc giao thác)

Ngôn ngữ tác giả

44 Chỉ non thề bể

1368

X

(Thệ hải minh sơn)

2485

X

Ngôn ngữ Thuý Kiều

45 Chiếc bách giữa dòng

1957

X

Ngôn ngữ Thuý Kiều

46 Chiếc bách sóng đào

1523

Ngôn ngữ tác giả

47 Chiếc bóng năm canh

1627

Ngôn ngữ tác giả

48 Chiếc bóng song the

2995

Ngôn ngữ tác giả

49 Chiếc lá lìa rừng

Ngôn ngữ tác giả

50 Chín chữ cao sâu

1253

X

(Cửu tự cù lao)

2471

Ngôn ngữ Từ Hải

51 Chọc trời khuấy nước

Ngôn ngữ Thuý Kiều

52 Chọn đá thử (gửi) vàng

2187

(Giản phật thiêu hương)

2201

Ngôn ngữ tác giả

53 Con mắt tinh đời

1758

Ngôn ngữ tác giả

54 Con ong cái kiến

1116

X

Ngôn ngữ tác giả

55 Con tạo xoay vần

2245

X

Ngôn ngữ tác giả

56 Cố quốc tha hương

1099

X

Ngôn ngữ Thuý Kiều

57 Cốt nhục tử sinh

Ngôn ngữ tác giả

58 Cờ đã đến tay

823

(Đả hưởng đệ nhất thương)

59 Cuộc bể dâu

3

X

Ngôn ngữ tác giả

1331

Ngôn ngữ tác giả

60 Cuộc vuông tròn

1221

Ngôn ngữ tác giả

61 Cửa các buồng khuê

Ngôn ngữ tác giả

62 Cửa đóng then cài

271

(Thiết tướng bả môn)

1591

Ngôn ngữ tác giả

63 Cười phấn cợt son

2606

Ngôn ngữ tác giả

64 Cướp công cha mẹ

2263

Ngôn ngữ tác giả

65 Cung nga thể nữ

Ngôn ngữ tác giả

66 Da mồi tóc sương

2240

x

(Kê bì hạc phát)

1503

Ngôn ngữ tác giả

67 Dài thở ngắn than

3080

Ngôn ngữ Thuý Kiều

68 Dãi gió dầu mưa

P.32

(Luân lạc phong trần)

69 Dãi nguyệt dầu hoa

3025

Ngôn ngữ tác giả

70 Dày gió dạn sương

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1237

X

(Xan phong ẩm lộ)

71 Dặn ngọc thề vàng

Ngôn ngữ tác giả

2869

72 Dơ dáng dại hình

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1357

(Xú mô xoạ dạng)

73 Duyên nợ ba sinh

Ngôn ngữ Kim Trọng

257

X

(Tam sinh hương hoả)

74 Dứt áo ra đi

Ngôn ngữ tác giả

2229

75 Đá biết tuổi vàng

Ngôn ngữ tác giả

363

76 Đá nát vàng phai

Ngôn ngữ Thúc Sinh

1955

77 Đan giậm giật giàm

Ngôn ngữ tác giả

586

78 Đánh lận con đen

X

Ngôn ngữ tác giả

839

79 Đau như dần

Ngôn ngữ tác giả

2114

80 Đáy bể mò kim

Ngôn ngữ Kim Trọng

3175

X

(Hải để lao châm)

81 Đắm ngọc chìm hương

Ngôn ngữ tác giả

2638

82 Đắp nhớ đổi sầu

Ngôn ngữ Kim Trọng

383

83 Đầu mày cuối mắt (mặt)

Ngôn ngữ tác giả

498

84 Đầu trâu mặt ngựa

Ngôn ngữ tác giả

578

X

(Ngưu đầu mã diện)

85 Đeo bầu quảy níp

2650

Ngôn ngữ tác giả

86 Đẹp duyên cưỡi rồng

Ngôn ngữ tác giả

2212

X

(Long phụng hoà duyên)

87 Đêm ngắn tình dài

1369

Ngôn ngữ tác giả

88 Đi đời nhà ma

970

Ngôn ngữ Tú Bà 秀婆

89 Đổ quán xiêu đình

1302

Ngôn ngữ tác giả

90 Đổi thay nhạn yến

1478

Ngôn ngữ Thuý Kiều

91 Đổi trắng thay đen

Ngôn ngữ tác giả

690

(Điên đảo hắc bạch)

92 Đội trời đạp đất

2171

Ngôn ngữ tác giả

P.33

(Đỉnh thiên lập địa)

Ngôn ngữ Thúc Sinh

93 Động địa kinh thiên

2924

X

(Kinh thiên động địa)

94 Đưa người cửa trước, rước

Ngôn ngữ tác giả

946

X

người cửa sau

Ngôn ngữ tác giả

95 Đường đi lối lại (về)

846

X

Ngôn ngữ tác giả

96 Ép duyên Châu Trần

2094

Ngôn ngữ tác giả

97 Gan héo ruột đầy

1869

(Can trường thốn đoạn)

98 Gan liền tướng quân

2518

Ngôn ngữ tác giả

99 Gắn bó tất giao

359

Ngôn ngữ tác giả

100 Gầy như mai

638

Ngôn ngữ tác giả

101

Ngôn ngữ Tam hợp đạo cô

Giáo dựng gươm trần

2669

三合道姑

102 Giấu ngược giấu xuôi

1513

Ngôn ngữ Thuý Kiều

103 Giết người không dao

Ngôn ngữ tác giả

1816

(Sát nhân bất kiến huyết)

104 Gìn vàng giữ ngọc

545

Ngôn ngữ Kim Trọng

105 Gió giục (giật) mây vần

907

Ngôn ngữ tác giả

106 Gió kép mưa đơn

1111

Ngôn ngữ Sở Khanh

455,

107 Gió mát trăng thanh (trong)

Ngôn ngữ tác giả

(Thanh phong minh nguyệt)

2165

108 Gió quét mưa sa

2443

Ngôn ngữ tác giả

109 Gió táp mưa sa

403,

Ngôn ngữ Thuý Kiều

(Cấp phong bạo vũ)

3099

110 Gió thảm mưa sầu

Ngôn ngữ tác giả

2569

(Thê phong khổ vũ)

111 Gió trúc mưa mai

Ngôn ngữ tác giả

1249

X

(Trúc phong mai vũ)

112 Gió tựa hoa kề

Ngôn ngữ tác giả

1241

113 Giọt châu thánh thót

Ngôn ngữ tác giả

3015

114 Giọt ngắn giọt dài

Ngôn ngữ tác giả

684

P.34

115 Giông tố phũ phàng

Ngôn ngữ tác giả

1969

116 Giở duốc bày trò

Ngôn ngữ Thuý Kiều

3155

117 Góc bể bên trời

Ngôn ngữ Vương Ông 王翁

899

(Thiên nhai hải giác)

118 Gươm lớn giáo dài

Ngôn ngữ tác giả

2311

119 Gương vỡ lại lành

Ngôn ngữ Thuý Vân

3071

X

(Phá kính trùng viên)

120 Gượng nói gượng cười

Ngôn ngữ tác giả

1864

121 Hạc nội mây ngàn

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2402

122 Hàm én mày ngài

X

Ngôn ngữ tác giả

2274

123 Hiếu trọng tình thâm

Ngôn ngữ tác giả

609

124 Hoa cười ngọc thốt

Ngôn ngữ tác giả

21

125 Hoa đã lìa cành

Ngôn ngữ tác giả

1325

126 Hoa rụng hương bay

Ngôn ngữ tác giả

2997

127 Hoa thải hương thừa

Ngôn ngữ tác gia

1413

128 Hoa trôi bèo dạt (giạt)

Ngôn ngữ Thuý Kiều

219

(Phiêu linh vô y)

129 Hoa xưa ong cũ

Ngôn ngữ tác giả

3144

130 Hồn kinh phách rời

Ngôn ngữ tác giả

2390

(Hồn phi phách lạc)

131 Hồn lạc phách xiêu

Ngôn ngữ tác giả

2363

(Hồn phi phách tán)

459

132 Hồng diệp xích thằng

X

Ngôn ngữ Thuý Kiều

133 Hồng rụng thắm rời

Ngôn ngữ tác giả

1138

134 Hớt hơ hớt hải

Ngôn ngữ tác giả

1659

2237

135 Huyên cỗi xuân già

X

Ngôn ngữ tác giả

136 Hương hỏa (lửa) ba sinh

Ngôn ngữ của quan Huyện xử

2581

(Tam sinh hương hoả)

kiện

2334

137 Kẻ cắp bà già gặp nhau

Ngôn ngữ tác giả

1973

138 Kẻ ngược người xuôi

Ngôn ngữ Thúc Sinh

781

139 Kẻ ở người đi

Ngôn ngữ tác giả

2434

140 Kẻ Việt người Tần

X

Ngôn ngữ tác giả

P.35

141 Kẽ tóc chân tơ

Ngôn ngữ Hoa tỳ 花婢

1997

(Minh tế thu hào)

142 Kể nhặt kể khoan

1153

Ngôn ngữ tác giả

143 Kết cỏ ngậm vành

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1100

X

(Kết thảo hàm hoàn)

144 Kết duyên Châu Trần

2866

X

Ngôn ngữ tác giả

145 Kết tóc xe tơ

1532,

Ngôn ngữ Thuý Kiều

(Kết phát phu thê)

3111

146 Khắc lậu canh tàn

1119

Ngôn ngữ tác giả

147 Khắp chợ thì quê

815

Ngôn ngữ tác giả

148 Kiến bò miệng chén

2335

Ngôn ngữ Hoạn Thư

149 Kim mã ngọc đường

2870

X

Ngôn ngữ tác giả

150 Kín cổng cao tường

267

Ngôn ngữ tác giả

151 Kín như bưng

Ngôn ngữ tác giả

1563

(Thủ khẩu như bình)

152 Lá bối phướn mây

2057

Ngôn ngữ tác giả

153 Lá gió cành chim

1231

X

Ngôn ngữ tác giả

154 Lá rụng hoa rơi

361

Ngôn ngữ tác giả

155 Lá thắm chỉ hồng

Ngôn ngữ Thuý Kiều

333

X

(Hồng diệp xích thằng)

156 Làm thân trâu ngựa

708

Ngôn ngữ Thuý Kiều

71,

Ngôn ngữ tác giả

Lặng ngắt như tờ

157

2753

158 Lên thác xuống ghềnh

1951

Ngôn ngữ tác giả

159 Liễu chán hoa chê

1211

Ngôn ngữ Tú bà

160 Liễu ép hoa nài

521

Ngôn ngữ Thuý Kiều

161 Liễu ngõ hoa tường

1355

Ngôn ngữ Thuý Kiều

162 Lót đó luồn đây

611

Ngôn ngữ tác giả

163 Lộc trọng quyền cao

2497

Ngôn ngữ tác giả

164 Lỡ một lầm hai

1007

Ngôn ngữ Tú bà

165 May thuê viết mướn

2762

Ngôn ngữ tác giả

166 Mạt cưa mướp đắng

812

Ngôn ngữ tác giả

P.36

3068

Ngôn ngữ Thuý Vân

167 Máu chảy ruột mềm

656

Ngôn ngữ tác giả

168 Máu sa ruột dàu

2089

Ngôn ngữ tác giả

169 Mặn phấn tươi son

170 Mặn tình cát lũy, lạt tình tao

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1480

X

khang

Ngôn ngữ Thuý Kiều

171 Mặt dạn mày dày

1223

(Hậu nhan vô sỉ)

2326

Ngôn ngữ tác giả

172 Mặt như chàm đổ

2475

Ngôn ngữ Thuý Kiều

173 Mặt nước cánh bèo

3037

Ngôn ngữ Thuý Kiều

174 Mặt nước chân mây

Ngôn ngữ tác giả

175 Mặt sắt đen sì

1409

X

(Thiết diện vô tư)

Ngôn ngữ tác giả

176 Mặt ủ mày chau

2113

(Sầu mi khổ liễm)

3232

Ngôn ngữ tác giả

177 Mây bay hạc lánh

2902

Ngôn ngữ họ Đô

178 Mây trôi bèo nổi

1731

Ngôn ngữ Tú bà

179 Mèo mả gà đồng

2016

Ngôn ngữ Thuý Kiều

180 Miệng hùm nọc rắn

1162

Ngôn ngữ Mã Kiều 馬嬌

181 Một cốt một đồng

803

Ngôn ngữ tác giả

182 Một khắc một chày

202

Ngôn ngữ tác giả

183 Một hội một thuyền

758

Ngôn ngữ tác giả

184 Một hơi lặng ngắt

1293

Ngôn ngữ tác giả

185 Một tỉnh mười mê

641

Ngôn ngữ tác giả

186 Một vẻ một ưa

2438

Ngôn ngữ tác giả

187 Muôn binh nghìn tướng

2095

Ngôn ngữ Bạc bà

188 Muôn dặm một thân

Ngôn ngữ Hồ Công (Hồ Tôn

189

2574

Muôn oán nghìn sầu

Hiến) 胡公 (胡宗憲)

Ngôn ngữ Từ Hải

190 Muôn chung nghìn tứ

2204

X

(Thiên chung vạn tứ)

391

Ngôn ngữ tác giả

191 Mở khóa động đào

236

Ngôn ngữ Vương Bà 王婆

192 Mua não chuốc sầu

P.37

Ngôn ngữ tác giả

193 Mười phân vẹn mười

X

18

(Thập toàn thập mỹ)

X

1239

Ngôn ngữ tác giả

194 Mưa Sở mây Tần

983

Ngôn ngữ tác giả

195 Mát ngọc liều hoa

2616

Ngôn ngữ Thuý Kiều

196 Nát ngọc tan vàng

1891

Ngôn ngữ tác giả

197 Nát ruột như bào

651

X

Ngôn ngữ tác giả

198 Nạp thái vu quy

568

Ngôn ngữ tác giả

199 Nặng gánh tương tư

997

Ngôn ngữ tác giả

200 Nặng nghiệp má đào

1879

Ngôn ngữ Thuý Kiều

201 Nặng như chì (trì)

790

Ngôn ngữ Thuý Kiều

202 Nắng giữ mưa gìn

1037

Ngôn ngữ tác giả

203 Nắng sớm đèn khuya

198

X

Ngôn ngữ Đạm Tiên 淡仙

204 Ném châu gieo vàng

77

X

Ngươn ngữ Vương Quan 王觀

205 Nếp tử xe châu

308

Ngôn ngữ tác giả

206 Ngày gió đêm trăng

Ngôn ngữ Kim Trọng

207 Ngậm đắng nuốt cay

1472

(Như khổ hàm tân)

1939

Ngôn ngữ tác giả

208 Ngậm ngùi thở than

859

Ngôn ngữ tác giả

209 Nghĩ đi nghĩ lại

Ngôn ngữ tác giả

210 Nghiêng nước nghiêng thành

21

X

(Khuynh quốc khuynh thành)

1332

211 Ngọn nguồn lạch sông

Ngôn ngữ Thúc Sinh

600

X

Ngôn ngữ tác giả

212 Ngộ biến tòng quyền

Ngôn ngữ tác giả

213 Nguyện ước ba sinh

1259

(Tam sinh hữu hạnh)

1609

Ngôn ngữ Hoạn Thư

214 Ngứa ghẻ hờn ghen

Ngôn ngữ tác giả

215 Nhà tranh vách đất

2767

X

(Bồng môn tất hộ)

Ngôn ngữ Kim Trọng

216 Nhả ngọc phun châu

405

X

(Thốn ngọc phún châu)

Ngôn ngữ tác giả

217 Nhắm mắt đưa chân

1115

(Thính thiên do mệnh)

P.38

218 Nhân định thắng thiên

X

Ngôn ngữ Kim Trọng

420

219 Nhẹ như bấc

1879

Ngôn ngữ Thuý Kiều

220 Nhớ cảnh nhớ người

259

Ngôn ngữ tác giả

221 Như bào lòng son

2832

Ngôn ngữ tác giả

222 Như dại như ngây

1839

Ngôn ngữ tác giả

223 Như khóc như than

1853

Ngôn ngữ tác giả

224 Như nung gan sắt

2827

Ngôn ngữ tác giả

225 Như tỉnh như say

804

Ngôn ngữ tác giả

226 Như oán như sầu

476

Ngôn ngữ tác giả

227 Nở mặt mở mày

Ngôn ngữ tác giả

2993

(Mi khai nhãn tiếu)

228 Nợ nần yến anh

1098

Ngôn ngữ Thuý Kiều

229 Nửa tình nửa cảnh

1038

Ngôn ngữ tác giả

230 Nửa ở nửa về

133

Ngôn ngữ tác giả

231 Nước chảy hoa trôi

754

Ngôn ngữ Thuý Kiều

232 Nước dẫy sóng dồi

2672

Ngôn ngữ Tam hợp đạo cô

233 Nước đã đánh phèn

2155

Ngôn ngữ tác giả

234 Nước đục bụi trong

879

Ngôn ngữ Thuý Kiều

235 Nước thẳm non xa

1255

Ngôn ngữ Thuý Kiều

236 Nước trôi hoa rụng

1705

Ngôn ngữ tác giả

237 Ong bướm đãi đằng

1025

X

Ngôn ngữ tác giả

238 Phách lạc hồn bay

Ngôn ngữ tác giả

1651

(Phách tán hồn phi)

239 Phách lạc hồn xiêu

Ngôn ngữ tác giả

1823

(Phách tán hôn phi)

240 Phận bạc như vôi

753

Ngôn ngữ tác giả

241 Phận bèo mây

1343

Ngôn ngữ Thúc Sinh

242 Phận bọt bèo

1449

Ngôn ngữ Thúc Sinh

243 Phận cải duyên kim

3067

X

Ngôn ngữ Thuý Vân

244

1477,

Ngôn ngữ Thuý Vân

Phận gái chữ tong

2217

411

245 Phận mỏng cánh chuồn

Ngôn ngữ Thuý Kiều

P.39

246 Phận mỏng như tờ

Ngôn ngữ Vương Ông

2777

247 Phong gấm rủ là

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1235

248 Phượng chạ loan chung

Ngôn ngữ Thuý Kiều

89

249 Quan sơn nghìn dặm

Ngôn ngữ tác giả

2874

250 Quạt nồng ấp lạnh

Ngôn ngữ tác giả

1044

251 Quằn quại vũng lầy

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1959

252 Quỷ quái tinh ma

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2333

253

X

Ngôn ngữ tác giả

66,

Quốc sắc thiên hương

825

254 Quốc sắc thiên tài

X

Ngôn ngữ tác giả

2922

255 Rày lần mai lữa

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1494

256 Rày trông mai chờ

Ngôn ngữ tác giả

1040

257 Rầu như dưa

Ngôn ngữ tác giả

2794

258 Rẽ thúy chia uyên

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1875

259 Rụng cải rơi kim

X

Ngôn ngữ Thuý Vân

769

260

X

Ngôn ngữ Quan huyện xử kiện

Rước dữ cưu hờn

1459

Thuý Kiều – Thúc Ông

261 Rượu sớm cờ trưa

Ngôn ngữ tác giả

1473

262 Sắc nước hương trời

Ngôn ngữ Sở Khanh

1065

263 Sen ngó đào tơ

Ngôn ngữ tác giả

3137

264 Sông cạn đá mòn

Ngôn ngữ Thúc Sinh

1975

2675

265 Sống đọa thác đày (đầy)

Ngôn ngữ Tam hợp đạo cô

266 Sớm đào tối mận

Ngôn ngữ tác giả

1289

267 Sớm mận tối đào

Ngôn ngữ tác giả

3223

268 Suy trước nghĩ sau

Ngôn ngữ tác giả

1169

(Chiêm tiền cố hậu)

269 Tạc đá ghi vàng

Ngôn ngữ tác giả

2855

270 Tai vách mạch rừng (dừng)

X

Ngôn ngữ bà quản gia nhà

1755

(Cách tường hữu nhĩ)

Hoạn Thư

271 Tái thế tương phùng

X

Ngôn ngữ Thuý Kiều

3039

272

X

Ngôn ngữ tác giả

47,

Tài tử giai nhân

1457

P.40

273 Tay bồng tay mang

2244

Ngôn ngữ Thuý Kiều

274 Tay bợm già

882

Ngôn ngữ Thuý Kiều

275 Tay đã nhúng chàm

1397

Ngôn ngữ Thuý Sinh

276 Tắt lửa lòng

3045

Ngôn ngữ tác giả

277 Thảm lấp (rấp) sầu vùi

1929

Ngôn ngữ tác giả

278 Thanh thiên bạch nhật

2396

Ngôn ngữ tác giả

X

279 Thành hạ yêu minh

2503

Ngôn ngữ tác giả

X

280 Tháng đợi năm chờ

553

Ngôn ngữ Thuý Kiều

281 Tháng trọn (lọn) ngày qua

1789

Ngôn ngữ tác giả

282 Tháo củi sổ lồng

1072

Ngôn ngữ Sở Khanh

283 Thay bậc (bực) đổi ngôi

959

Ngôn ngữ Thuý Kiều

284 Thăm ván bán thuyền

1552

Ngôn ngữ tác giả

285 Thầm trông trộm nhớ

324

Ngôn ngữ tác giả

286 Thân lươn bao quản lấm đầu

1147

Ngôn ngữ Thuý Kiều

287 Thân thích ruột rà

2104

Ngôn ngữ tác giả

288 Thất kinh rụng rời

1654

Ngôn ngữ tác giả

289 Thẹn lục e hồng

787

Ngôn ngữ tác giả

290 Thẹn phấn tủi hồng

1928

Ngôn ngữ tác giả

291 Thệ hải minh sơn

603

Ngôn ngữ tác giả

292 Thiên tải nhất thì

2399

X

Ngôn ngữ tác giả

293 Thịt nát xương mòn

733

Ngôn ngữ Thuý Kiều

294 Thỏ lặn ác tà

79

Ngôn ngữ tác giả

295 Tính quẩn lo quanh

681

Ngôn ngữ Thuý Kiều

296 Tòa rộng dãy dài

1721

Ngôn ngữ tác giả

297 Tóc rối da chì

1746

Ngôn ngữ tác giả

298 Tô lục chuốt hồng

1305

Ngôn ngữ tác giả

299 Tơ chùng phím loan

254

Ngôn ngữ tác giả

300 Túc trái tiền oan

1765

X

Ngôn ngữ Thuý Kiều

301 Tử biệt sinh li (ly)

617

Ngôn ngữ tác giả

302 Trai tài gái sắc

2842

Ngôn ngữ tác giả

Ngôn ngữ tác giả

303 Trai anh hùng gái thuyền

2211

quyên

P.41

304 Trăng tủi hoa sầu

1436

Ngôn ngữ Thúc Sinh

305 Trâm gãy bình rơi

Ngôn ngữ Vương Quan

70

X

(Bình trầm trâm chiết)

Ngôn ngữ Thuý Kiều

306 Trâm gãy gương tan

749

Ngôn ngữ tác giả

307 Treo ấn từ quan

2939

Ngôn ngữ Thuý Kiều

308 Trên Bộc trong dâu

807

X

(Tang gian bộc thượng)

309 Trong giá trắng ngần

1191

Ngôn ngữ tác giả

310 Trong ngọc trắng ngà

1311

Ngôn ngữ tác giả

311 Trọng nghĩa khinh tài

310

Ngôn ngữ tác giả

312 Trộm dấu (giấu) thầm yêu

158

Ngôn ngữ tác giả

313 Trơ như đá, vững như đồng

2521

Ngôn ngữ tác giả

314 Trời thẳm đất dày

979

Ngôn ngữ tác giả

315 Trúc chẻ ngói tan

2439

Ngôn ngữ tác giả

316 Trướng rủ màn che

37

Ngôn ngữ tác giả

317 Tuyết chở sương che

367

Ngôn ngữ tác giả

318 Ủ dột nét hoa

103

Ngôn ngữ tác giả

319 Ủ liễu phai đào

2603

Ngôn ngữ tác giả

320 Ván đã đóng thuyền

Ngôn ngữ tác giả

2801

(Mộc dĩ thành chu)

321 Vạ gió tai bay

616

Ngôn ngữ tác giả

322 Vào luồn ra cúi

2468

Ngôn ngữ Thuý Kiều

323 Vào sinh ra tử

2942

Ngôn ngữ tác giả

324 Vật đổi sao dời

Ngôn ngữ tác giả

3087

X

(Vật hoán tinh di)

325 Vào trước ra sau

2189

Ngôn ngữ tác giả

326 Ve ngâm vượn hót

2571

Ngôn ngữ tác giả

327 Vơ quàng vơ xiên

2600

Ngôn ngữ tác giả

328 Vùi liễu dập hoa

1136

Ngôn ngữ tác giả

329 Xa chạy cao bay

1971

X

Ngôn ngữ Thúc Sinh

P.42

(Viễn tẩu cao phi)

330 Xem thường xem khinh

Ngôn ngữ tác giả

886

331 Xót liễu vì hoa

Ngôn ngữ Thuý Kiều

335

332 Yếu liễu tơ (thơ) đào

X

Ngôn ngữ tác giả

897

P.43

P.44

Phụ lục 4

HỆ THỐNG THÀNH NGỮ ĐƯỢC DẪN DỤNG LINH HOẠT

TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU

Stt

Thành ngữ

Câu thơ

Yếu tố thi pháp

Ghi chú

671, 672

Ngôn ngữ tác giả

1 Ả Lý nàng Oanh

Ngôn ngữ tác giả

2 Ai khảo mà xưng

1578

Ngôn ngữ tác giả

Hán Việt

3 Án binh bất động

844

4 Ân trả nghĩa đền

2908

Ngôn ngữ tác giả

5 Ba bề bốn bên

2514

Ngôn ngữ tác giả

6 Bách chiến bách thắng

Ngôn ngữ tác giả

Hán Việt

2525

7 Bàn ra nói vào

2488

Ngôn ngữ tác giả

8 Bát cơm phiếu mẫu

2348

Ngôn ngữ tác giả

9 Bèo dạt hoa trôi

2812

Ngôn ngữ Kim Trọng

10 Bèo trôi sóng vỗ

3020

Ngôn ngữ Thuý Kiều

11 Bên trời góc bể

1041

Ngôn ngữ Thuý Kiều

12 Buồm gió lèo mây

1623

Ngôn ngữ tác giả

13 Buôn thịt bán người

2140

Ngôn ngữ tác giả

14 Cá chậu chim lồng

2150

Ngôn ngữ Thuý Kiều

15 Cát lầm ngọc trắng

1950

Ngôn ngữ Thúc Sinh

16 Cầm đã bén dây

1963

Ngôn ngữ Thuý Kiều

17 Cậy người cậy thợ

1374

Ngôn ngữ tác giả

18 Chân mây cuối trời

546

Ngôn ngữ Kim Trọng

19 Châu về Hợp Phố

306

Ngôn ngữ Kim Trọng

20 Chết trong hơn sống đục

1026

Ngôn ngữ Thuý Kiều

21 Chiếc bóng song the

1627, 2231 Ngôn ngữ tác giả

975

22 Chịu tốt một bề

Ngôn ngữ Tú bà

813

23 Chung lưng đấu cật

Ngôn ngữ tác giả

652

24 Có tiền mua tiên cũng được

Ngôn ngữ tác giả

25 Cỏ nội hoa hèn

2197

Ngôn ngữ Thuý Kiều

601

26 Cù lao chín chữ

Ngôn ngữ tác giả

567

27 Cữ gió tuần mưa

Ngôn ngữ tác giả

2869

28 Dặn ngọc thề vàng

Ngôn ngữ tác giả

282

29 Duyên nợ ba sinh

Ngôn ngữ tác giả

1676

30 Đứt ruột cháy gan

Ngôn ngữ tác giả

865

31 Đắn đo ngược xuôi

Ngôn ngữ tác giả

890

32 Đất khách quê người

Ngôn ngữ Vương Bà

1817

33 Đất thấp trời cao

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2389

34 Đầu rơi máu chảy

Ngôn ngữ tác giả

2161

35 Đầu xanh tuổi trẻ

Ngôn ngữ tác giả

976

36 Gái tơ ngứa nghề

Ngôn ngữ Tú bà

2790

37 Ghi lòng tạc dạ

Ngôn ngữ Vương Ông

2446

38 Giá áo túi cơm

Ngôn ngữ tác giả

1130

39 Giày tía vò hồng

Ngôn ngữ tác giả

857

40 Giận duyên tủi phận

Ngôn ngữ tác giả

2963

41 Gieo ngọc chìm (trầm) châu

Ngôn ngữ Kim Trọng

385

43 Gió bắt mưa cầm

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2795

44 Gió giật mưa tuôn

Ngôn ngữ tác giả

2443

45 Gió quét mưa sa

Ngôn ngữ tác giả

1554

46 Gió thoảng ngoài tai

Ngôn ngữ tác giả

152

47 Hào hoa phong nhã

Ngôn ngữ tác giả

48 Hồng nhan bạc mệnh

34, 669,

Ngôn ngữ tác giả

1906

65

49 Hồng nhan đa truân

Ngôn ngữ tác giả

50 Hùm thiêng sa lưới

2516

Ngôn ngữ tác giả

51 Hương lửa đượm nồng

1384, 2213 Ngôn ngữ tác giả

3210

52 Khổ tận cam lai

Ngôn ngữ Kim Trọng

Hán Việt

1578

53 Không khảo mà xưng

Ngôn ngữ Thúc Sinh

1548

54 Kiến bò miệng chén

Ngôn ngữ Hoạn Thư

361

55 Lá rụng hoa rơi

Ngôn ngữ tác giả

919

56 Lạ nước lạ cái

Ngôn ngữ tác giả

1337

57 Lạt phấn phai hương

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2665

58 Ma đưa lối quỷ dẫn đường

Ngôn ngữ Tam hợp đạo

P.45

1815

59 Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm

Ngôn ngữ Thuý Kiều

1877

60 Một trời một vực

Ngôn ngữ tác giả

831

61 Mỡ để miệng mèo

Ngôn ngữ Mã Giám Sinh

1845

62 Nát ruột tan hồn

Ngôn ngữ tác giả

63 Mgâm hoa vịnh nguyệt

Ngôn ngữ tác giả

Hán Việt

1214

1846

64 Mgậm bồ hòn (làm ngọt)

Ngôn ngữ tác giả

490

65 Ngậm đắng nuốt cay

Ngôn ngữ Kim Trọng

1583

66 Ngọc đá vàng thau

Ngôn ngữ tác giả

1766

67 Ngọc nát hoa tàn

Ngôn ngữ tác giả

2871

68 Ngọn bèo chân sóng

Ngôn ngữ tác giả

1725

69 Ngọn hỏi ngành tra

Ngôn ngữ tác giả

962

70 Nổi tam bành

Ngôn ngữ tác giả

801

71 Nước đã đến chân

Ngôn ngữ tác giả

3098

72

Ong bướm qua lại

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2097

73 Phá gia (chi tử)

Ngôn ngữ Tú bà

2791

74 Phận bạc như vôi

Ngôn ngữ tác giả

2711

75 Phách quế hồn mai

Ngôn ngữ tác giả

1794

76 Phấn thừa hương cũ

Ngôn ngữ tác giả

1477

77 Phận gái chữ tòng

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2715

78 Phận mỏng đức (phúc) dày

Ngôn ngữ tác giả

2301

79 Phụ tình bạc nghĩa

Ngôn ngữ tác giả

1520

80 Quan san muôn dặm

Ngôn ngữ tác giả

1180

81 Quyến anh rủ yến

Ngôn ngữ tác giả

1173

82 Quyến gió rủ mây

Ngôn ngữ tác giả

337

83 Rày gió mai mưa

Ngôn ngữ Kim Trọng

3069

84 Rày ước mai ao

Ngôn ngữ Thuý Vân

1682

85 Rấp thảm quạt sầu

Ngôn ngữ Thúc Sinh

1820

86 Rối như ruột tằm

Ngôn ngữ tác giả

1252

87 Rối như tơ vò

Ngôn ngữ tác giả

1580

88 Rút dây động rừng

Ngôn ngữ Thúc Sinh

2832

89 Ruột gan như lửa đốt

Ngôn ngữ Kim Trọng

1891

90 Ruột nát như bào

Ngôn ngữ Thúc Sinh

P.46

547

91 Ruột rối bời bời

Ngôn ngữ tác giả

1796

92 Sầu dài ngày ngắn

Ngôn ngữ tác giả

704

93 Tan cửa nát nhà

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2960

94 Thất cơ lỡ vận

Ngôn ngữ của người dân

vùng Tiền Đường

95 Thỏ bạc ác vàng

1269

Ngôn ngữ tác giả

96 Thở ngắn than dài

1503, 3130 Ngôn ngữ tác giả

1626

97 Thuận phong một lá

Ngôn ngữ tác giả

352

98 Thủy chung như nhất

Ngôn ngữ Thuý Kiều

2096

99 Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn

Ngôn ngữ Tú bà

xa

100 Tình sâu nghĩa nặng

1263, 1966 Ngôn ngữ tác giả

3147

Ngôn ngữ tác giả

101 Tình xưa nghĩa cũ

2086

Ngôn ngữ tác giả

102 Tính gần tính xa

336

Ngôn ngữ tác giả

103 Trẻ người non dạ

1506

Ngôn ngữ Thuý Kiều

104 Trong ấm ngoài êm

1730

Ngôn ngữ Hoạn thư

105 Trốn chúa lộn chồng

2215

Ngôn ngữ tác giả

106 Trời cao bể rộng

2628

Ngôn ngữ tác giả

107 Trời cao sông rộng

2063

Ngôn ngữ tác giả

108 Trời quang mây tạnh

2877

Ngôn ngữ tác giả

109 Trướng rủ màn che

2287

Ngôn ngữ tác giả

110 Vinh hoa phú quí

1610

Ngôn ngữ Hoạn thư

111 Xấu chàng hổ ai

3134

Ngôn ngữ tác giả

112 Xứng đôi vừa lứa

2205

Ngôn ngữ tác giả

113 Ý hợp tâm đầu

P.47

P.48

Phụ lục 5

TỪ CỔ, TỪ ĐỊA PHƯƠNG XỨ NGHỆ TRONG TRUYỆN KIỀU (Khảo sát qua bản Truyện Thuý Kiều do Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim hiệu khảo)

Stt

Từ

Nghĩa

Câu thơ

Ghi chú

Cô, chị

1

X

Đầu lòng hai ả Tố Nga. (15) Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, Lại thu ả Lý bán mình hay sao. (671 – 672)

2

Một vùng cỏ áy bóng tà (97)

Áy

3

Âu

Vùng đất xấu, cỏ vàng, cỏ xấu Chấp nhận Lo lắng, băn khoăn Có lẽ, dễ thường

4

Bằn bặt Mê man, bất tỉnh

Chê bai, hổ thẹn

5

Bẻ bai

Âu đành quả kiếp nhân duyên (201) Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa. (2846) Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây (282) Nàng thì bằn bặt giấc tiên, Mụ thì cầm cập, mặt nhìn hồn bay. (989 – 990) Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm. (2851 – 2852)

6

Thúc sinh quen thói bốc rời (1303)

Bốc

Tăng nhanh, có khi hơi quá đáng

Căn vặn, gạn hỏi

7

Căn

Trả giá, trả treo Mô đất thấp

8 9

Cò kè Cồn

10

Cúi, cúi đầu

X

Cui

Tóc tơ căn vặn tấc lòng Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. (451 – 52) Cò kè bớt một thêm hai (647) Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. (1036) X Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt người e cui đầu. (321 – 322)

11

Cứ

Cứ trông mộng triệu mà suy. (233) Một là lại cứ lầu xanh phó về. (1420)

12

Cữ

Não người cữ gió tuần mưa. Một ngày nặng gánh tương tư một ngày (562 – 563)

Khoảng được lấy làm chuẩn, chiếu theo mà làm Còn đọc là cự, chỉ mốc thời gian, 7 ngày 1 cữ, 10 ngày 1 tuần

13

Tiếng chửi

X

Cha

14

Đầy, nhiều

Chan

Chém cha cái số đào hoa Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi. (2151 – 2152) Nàng càng giọt ngọc như chan Nỗi lòng luống những bang hoàng niềm tây. (1759 – 1760)

15

Chan Mênh mông, nhiều Còn nhiều ân ái chan chan,

P.49

chan

16

Đã chắc chi

Chắc

Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi. (3163 – 3164) Đến bây giờ mới tới đây Mà lòng đã chắc những ngày một hai. (2281 – 2282)

17

Phải không?

X

Chăng nhe

Bậc mây dón bước ngọn tường, Phải người hôm nọ rõ ràng, chăng nhe? (319 – 320)

18

X

Chắp

Chắp nhặt (gom từ nhiều nơi lại)

Lời quê chắp nhặt dông dài Mua vui cũng được mội vài trống canh. (3253 – 3254)

19

Chậm

Chầy

Đêm thu, một khắc một chầy, Bâng khuâng như tỉnh, như say một mình. (803 – 804)

20

Chốc

Chốc đà mười mấy năm trời Còn ra khi đã da mồi tóc sương (2239 - 2240)

Khoảng thời gian ngắn

21

X

Chồn Mỏi, mỏi mệt

Rằng: từ ngẫu nhĩ gặp nhau, Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn. (323 – 324) Ra tuồng trên bộc, trong dâu

Thì con người ấy ai cầu làm chi!

22

Gì, nào

Chi

(Câu 0507 – 0508)

23

Chỉ là

Chỉn

24

Rõ ràng, rành rành

Chiền chiền

25

Cái chân

X

Chưn

26

X

Cái bẫy, cái dụng cụ bắt cá.

Dàm (Giàm)

Nắm tay nhau

27

Dan

Trò chuyện thân mật

28

Dãi dề

Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (165 – 166) Hai bên giáp mặt chiền chiền Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay. (1697 – 1698) Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chưn theo một vài thằng con con. (137 – 138) Phòng khi nước đã đến chưn, Dao này thì liệu với thân sau này. (801 – 802) Điều đâu ai buộc ai làm Này ai đan dập, giật dàm bỗng dưng? (585 – 586). Tà tà bóng ngả về tay, Chị em thơ thẩn, dan tay ra về. (51 – 52) Hàn huyên chưa kịp dãi dề, Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.

29 Dàu dàu Buồn bã

X

30

P.50

Dặt dìu

Nâng lên đặt xuống, Cách này cách nọ.

31 Dằng dặc Thời gian dài

32

Tiếng hát

Dặng

33

Đẩy lên, đầy lên

Dẫy

34 Dậy dàng Nối tiếng khắp nơi

35

Xin

Dẽ

36

Dẽ dàng Trớ trêu

X

37

Tìm kiếm

X

38

Dón

Di chuyển nhẹ Ít

(575 – 576) Trời hôm, mây kéo tối rầm, Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương. (783 – 784) Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu. (641 – 642) Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên. (2785 – 2786) Cách hoa, sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông. (379 – 380) Mấy lần cửa đóng then cài Dẫy thềm hoa rụng biết người ở đâu? (271 – 72) Tiếng gà xao xác gáy mau, Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. (1123 1124) Thưa rằng: Đừng lấy làm chơi, Dẽ cho thưa hết một lời đã nao. (501 – 502). Dẽ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều. (2361 – 2362) Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông (1331 - 32) Bậc mây dón bước ngọn tường, Phải người hôm nọ rõ ràng, chăng nhe? (319 – 320) Dón chừng đứng núp độ lâu nửa giờ. (1996)

Lời quê chắp nhặt dông dài (3253)

X

39

Dông

Dông dài, dông chơi

40

Xấu hổ

X

41

Rời đi

Dời

X

42

Gấp, Gấp gáp

Dớp

43

E lệ

Dín

Giọt riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình. (851 – 52) Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi (259 – 60) Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng, Dớp nhà, nhờ lượng người thương dám nài (645 – 646) Ngại ngùng dín gió e sương, Ngừng hoa bong then, trông gương mặt

X

44

Mắng chưởi

P.51

Dức

45

Dường

Cái rường, cái xà nhà

X

Đã

46

Đà

Thổi lất phất

47

Đàn

48 Đãi đằng Dãi dầu, qua lại

X

49

Đẫy đà Béo tốt

Đầm đầm: nhiều

50

Đầm

51

Điệu

Dáng vẻ Bắt ép đưa đi

52

Đè nẻo

Lần theo, theo lối mà đi

53 Đeo đai

Quyến luyến không rời, quyến mãi

X

54

Đòi

Gọi đến, Nhiều

dày. (635 – 636) Bất tình nổi trận mây mưa, Dức rằng những giống bơ thờ quen thân (1727 - 28) Dường cao rút ngược dây oan Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. (593 - 594) Nẻo xa mới tỏ mặt người, Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình. (141 – 142) Mành tương phân phất gió đàn. (255) Thế mà im chẳng đãi đằng, Chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng. (2011 – 2012) Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao! (924) Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương (785) Nét buồn như cúc, điệu buồn như mai. (638) Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà. (1134) Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang. (265 – 266) Bóng nga thấp thoáng dưới mành, Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai. (1062 – 1063) Sảnh đường mảng tiếng đòi con lên hầu. (1718) Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. (222) Ngổn ngang gò đống kéo lên. (49)

X

55

Đống

Giữa đường đứt gánh tương tư. (725)

56 Đứt gánh

X

57

E

Đụn đất cao Công việc không thành Hơi sợ E lệ

58 Gàn quải Trăn trở

Tình trong như đã mặt ngoài còn e. (165) Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa. (146) Ông tơ gàn quải chi nhau, Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi. (549 – 550)

59

Lóng đục lấy trong Dừng chân, gạn chút niềm tây gọi là.(316) X

Gạn

Chia tay

60

Giã

X

61

Nói ướm trước, dò ý tứ

Giạm (Dàm)

62

Dính dáng đến

Giấn

Giã chàng nàng mới kịp dời song sa. (438) Ngảnh đi chợt nói chợt cười. Cáo say, chàng đã giạm bày lảng ra. (1841 – 1841) Chút thân liễu yếu thơ đào, Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. (897 – 989)

63

Nhìn theo

X

P.52

Ghé

64

Cúi (cúi đầu)

Gót

65

X

Gượng Hơi ép

66

Khó

X

Khôn

67

Hỏi thăm

Han

68

X

Hao

Bớt, mất dần Tin tức, âm hao

69 Héo dòn Héo lắm

70

Hiếm

Hiếm gì, không thiếu

71

X

Hòng Muốn

72

Khắc

Cái khấc để phân chia thời gian

73

Khen ngợi

Khen khao

74

Thấp thoáng

Lãng đãng

75

Lừa lọc, gian xảo

Lận

76

X

Nhẹ nhõm, thư thái Không quan tâm

Lâng lâng

77

X

Lẻn

Lách mình vào một chỗ nào đó một cách lén lút

Bóng tà như giục cơn buồn, Người đà lên ngựa, khách chon ghé theo. Lặng nghe thấm thía gót đầu, Thưa rằng: ai có muốn đâu thế này. (1021 – 1022) Vui là vui gượng kẻo là. Ai tri âm đó, mặn mà với ai. (1247 – 1248) Một mình khôn biết làm sao, Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng. (1128 -1129) Trước xe lơi lả han chào. Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi. (925 – 26) Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao. Mặt tơ tưởng mặt long ngao ngán lòng. (251 – 252) Ruột tằm ngày một héo dòn, Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve. (2833 – 2834) Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa, hiếm gì yến oanh. (63 – 64) Quá thương chút ngĩa đèo bòng Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao. (2803 – 2804) Đêm thu khắc lậu canh tàn. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm sương. (1119 – 1120) Xiết bao kể nỗi thảm sầu, Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. (777 -778) Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lung khen khao. (3217 – 3218) Sương in mặt, tuyết pha thân Sen vàng lãng đãng khi gần khi xa. (189 – 190) Sẵn thây vô chủ bên sông, Đem vào để đó, lận song ai hay. (1649 – 1650) Thửa công đức ấy ai bằng, Túc khiên đã rửa, lâng lâng sạch rồi. (2687 – 2688) Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. (535 – 536)

X

78

P.53

Lề

Đã thành nếp, quen thói

X

79

Ngó, xem

Liếc

80

Liếng

Vốn làm ăn buôn bán

X

81

Huống hồ

Lọ

X

82

Nghe

Mảng

83 Màu hồ

Nước hồ phết lên các tấm vải mới dệt cho đẹp

X

84 Mặt mo Lời chửi

85

Mầng Mừng vui

X

86

Min

Tiếng người trên tự xưng: Ta, tao.

87

Mòng

- Chốc mòng (biến âm của từ Chúc vọng): Trông mong

X

88

Mùi Màu, màu sắc

89 Nao nao Hơi cong

90 Não nùng Cảm động

X

91

Sẵn, giấu kín

Nhiệm (Nhẹm)

X

92

Khi

Nẻo

Tường đông lay động bóng cành, Dẫy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào. (1093 – 1094) Chung lưng mở một ngôi hàng, Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. (813 – 814) Nàng rằng: trộm liếc dung quang, Chẳng sân ngọc bội, cũng phường kim môn. (409 – 410) Màu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma. (969 – 70) Dường cao rutrs ngược dây oan, Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. (593 – 594) Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. (536 – 537) Màu hồ đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma. (969 – 970) Còn đương suy nghĩ trước sau. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. (1169 – 1170) Tần ngần dạo bước lầu trang, Một đoàn mầng thọ ngoại hương mới về. (573 – 574) Này này sự đã quả nhiên, Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. (963 – 964) Nước non cách mấy buồng thêu, Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mồng. (157 – 158) Tuyết in sắc, ngựa câu dòn Cỏ pha mùi áo, nhuộm non da trời. (139 – 140) Nao nao dòng nước uống quanh, Dịp cầu nho nhỏ, cuối ghềnh bắc ngang. (56 – 57) Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào, là chẳng não nùng xôn xao. (3205 – 3206) Cạn lời khách mới thưa rằng: Buộc chưn thôi cũng xích thằng nhiệm trao. (903 – 904) Nàng dù quyết chẳng thuận tình, Trái lời nẻo trước, luỵ mình đến sau.

93

Chêm vào cho chặt

P.54

Nêm

94 Ngã giá

Đồng ý với giá tiền đưa ra

95

Ngảnh Quay mặt đi

X

96

Nó, hắn, ông ấy

Nghỉ

97

Ngứa (nghề)

Cảm thấy bị kích thích không chịu được

98

Thoáng trông thấy

Nhác

99

Nhặt Mau, chóng

X

100

Cái nắp

Níp

X

101

Buồn cười

Nực

102 Nường Nàng (cô gái)

103

Do dự, trù trừ

E ấp

104

Này, bữa ni

Rày

105

Rắp

Toan tính, định Rắp ranh (láy)

106

Thông thả trình thưa

Rén chiềng

107

Cố nán lại

Rốn

(2111 – 2112) Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm. (47 – 48) Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. (647 – 648) Ngảnh đi chợt nói chợt cười. Cáo say, chàng đã giạm bày lảng ra. (1841 – 1841) Có nhà viên ngoại họ Vương Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung. (11 - 12) Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao. (975 – 976) Bóng hồng nhác thấy nẻo xa. Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. (161 – 162) Nhặt thưa gương dọi đầu cành. Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. (433 – 434) Giác Duyên từ tiết giã nàng, Đeo bầu, quảy níp, rộng đường vân du. (2649 – 2650) Vân rằng: Chị cũng nực cười, Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa. (105 – 106) Mượn người, thuê kiệu, rước nường, Bạc đem mặc bạc, kiếm đường cho xa. (2143 – 2144) Những là e ấp dùng dằng, Rút dây, sợ nữa động rừng, lại thôi. (1579 – 1580) Những là rày ước mai ao, Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình. (3069 – 3070) Rắp mong treo ấn từ quan. (2939) Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày. (1612) Lạy thôi nàng lại rén chiềng, Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. (773 – 774) Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (165 – 166) Một trai con thứ rốt lòng,

X

108

Cuối cùng

Rốt

X

109

P.55

Rủ rỉ

Nói chậm và nhỏ, như Thủ thỉ.

X

110

Hãy

111

Khua, làm đụng đến

Sịch

112

Bắt đầu ráo nước

Se

113

Nhẹ nhàng

Sẽ

X

114

Sòng

Thành thực, ngay thẳng

115 Pha càn Chạy ào vào

X

116 Tán hoán Ngẩn ngơ, mê mẩn

117

Ngà say

Tàng tàng

118

Sánh với, so với

Tày

119 Tần ngần Lưỡng lự

120

Riêng tư

Tây

121

Sâu sắc

Thấm thía

122

Chốn, nơi

Thửa

123 Thướt tha

Di chuyển nhanh chóng

Vương Quan là chữ nối dòng nho gia. (13 – 14) Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm. (2851 – 2852) Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Liệu đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân. (619 – 620) Gió đâu sịch bức mành mành Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao (213 – 14) Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan (255) Cách hoa, sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông. (379 – 380) Tình riêng, chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lung khen khao. (3217 – 3218) Tôi đòi phách lạc hồn bay, Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình. (1651 – 1652) Nàng đà tán hoán đê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn. (1851 – 1852) Tàng tang chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới tỏ bày một hai. (3061 – 3062) Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương. (511 – 512) Tần ngần dạo bước lầu trang, Một đoàn mầng thọ ngoại hương mới về. (573 – 574) Bấy lâu mới được một người, Dừng chưn, gạn chút niềm tây gọi là. (315 – 316) Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ. (363 – 364) Thửa công đức ấy ai bằng, Túc khiên đã rửa, lâng lâng sạch rồi. (2687 – 2688) Cách tường phải buổi êm trời, Dưới đào dường có bóng người thướt tha. (289 – 290) Tẻ vui cũng một kiếp người,

X

124

Buồn

Tẻ

125

Ngất đi, sợ hãi

P.56

Tê mê

126 Tôi ngươi Tôi đòi, người ở

X

127

Im lặng, chịu thiệt

Tốt

128

Phía, bề

Vành

X

129 Vắt nóc

Tư thế ngồi gác chân chữ ngũ

130

Vầy

Vui, vui với (vui vầy)

131

Dáng dấp, sắc thái

Vẻ

132

Có đáng gì

Vẻ chi

133

Vàng vó, đồ hàng mã

134

Vin

Đưa tay lên níu xuống

135

Vựng

Choáng váng, chóng mặt, ngất xỉu

136

Thoắt, bỗng

Xảy

137 Xăm xăm

Từ láy, hăm hở tiến bước

138 Xập xè

Từ láy, chim bay chao liệng

139

Nói ra, khai ra, chỉ ra, lộ ra

Xưng xuất

Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru. (1193 – 1194) Nàng đà tán hoán, tê mê, Vâng lời, ra trước bình the, vặn đàn. (1851 – 1852) Chút thân liễu yếu, thơ đào, Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. (987 – 988) Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao. (975 – 976) Này con thuộc lấy làm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. (1209 – 1210) Lễ xong hương hoả gia đường Tú Bà vắt nóc lên giường ngôi ngay. (949 – 950) Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi. (3163 – 3164) Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười. (17 –18) Vẻ chi một đoá yêu đào Vườn hồng, chi dám ngăn rào chim xanh. (503 – 504) Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay. (49 – 50) Đào tiên đã bén tay phàm, Thì vin cành quýt cho cam sự đời. (833 – 834) Kẻ thang người thuốc bời bời, Mới dầu cơn vựng chưa phai giọt hồng. (761 – 762) Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc Kiến, lửa tàn Tích giang. (2953 – 2954) Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. (265 – 266) Xập xè én liệng lầu không. Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. (2749 – 2750) Hỏi ra sau mới biết rằng, Phải tên xưng xuất, tại thằng bán tơ. (587 – 588)

P.57