intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Niên luận: Vai trò của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước - Thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế

Chia sẻ: Phạm Thị Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:36

336
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Niên luận: Vai trò của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước - Thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra giải pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Huế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Niên luận: Vai trò của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước - Thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế

  1. ĐẠI HỌC HUẾ   TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ­­­­­­ NIÊN LUẬN  VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT  PHỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ  TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ  NƯỚC. THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN  THÀNH PHỐ HUẾ
  2.  HỌ VÀ TÊN: TRẦN THỊ NHẬT THOA HUẾ, 06/2016 ĐẠI HỌC HUẾ   TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ­­­­­­ NIÊN LUẬN  KHÓA 37 VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT  PHỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ  TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ  NƯỚC. THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN  THÀNH PHỐ HUẾ
  3.       Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:          Th.S LÝ NAM HẢI TRẦN THỊ NHẬT THOA MSSV: 13A50113 Lớp: K37G Luật học HUẾ, 06/2016 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quản lí hành chính nhà nước (QLHCNN) là quản lí nhà nước trong lĩnh vực  hành pháp trên cơ sở theo quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh của cơ  quan lập pháp nhằm tổ chức chỉ đạo công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa,  giáo dục, an ninh, quốc phòng, hành chính, chính trị. Hoạt động quản lí này  được các chủ thể có thẩm quyền thực hiện thông qua những phương pháp  QLHCNNnhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết. Có bốn phương  pháp QLHCNN bao gồm phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế,  phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế. Trong đó, hai phương pháp  thuyết phục và cưỡng chế có vai trò quan trọng và được sử dụng phổ biến. Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì  nhân dân, mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phục vụ cho lợi ích của nhân 
  4. dân, không vì bất kỳ mục đích tự thân nào, do đó, biện pháp thuyết phục là  biện pháp chủ yếu được sử dụng nhằm thực hiện những nhiệm vụ trong  hoạt động quản lý hành chính nhà nước. ở nước ta, pháp luật thể hiện ý chí  của nhân dân, vì vậy, được tuyệt đại đa số nhân dân tuân thủ một cách tự  giác.  Thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý hành chính nhà nước  và xã hội, phát huy tính tích cực chính trị, sự sáng tạo của quần chúng trong  cách mạng là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Sự  quan tâm đó thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Hiến  pháp 2013 (Điều 28). Kế thừa và phát huy quan điểm của V.I. Lênin: nhà  nước vững mạnh bởi ý thức giác ngộ của quần chúng chứ không phải bởi sự  tăng cường đàn áp của bộ máy chuyên chính như quân đội và cảnh sát của  nhà nước đó, Đảng ta đã khái quát thành quan điểm: cách mạng là sự nghiệp  của quần chúng, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Do đó, bằng hoạt  động tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước và truyền thống cách  mạng của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,  chúng ta đã giành được thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến trường  kỳ và gian khổ chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong công  cuộc đổi mới, nhiều chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật  của Nhà nước được nhân dân tự giác thực hiện.  Như vậy, Thuyết phục có vai trò rất to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý  hành chính nhà nước, tăng cường củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý  hành chính nhà nước. Nhà nước vững mạnh chính bởi ý thức giác ngộ của  quần chúng chứ không chỉ do tăng cường các biện pháp cưỡng chế, bắt buộc.  Chúng ta mới vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh lâu dài, bước vào xây dựng  cuộc sống mới, cơ chế cũ chưa mất, cơ chế mới chưa hình thành ổn định và 
  5. phát triển, đời sống xã hội còn nhiều khó khăn, do đó trong xã hội tồn tại  những nhân tố xã hội chủ nghĩa và cả những nhân tố chưa phải là xã hội chủ  nghĩa, còn nhiều nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp  luật, cộng với ý thức pháp luật chưa cao trong một bộ phận lớn của dân cư;  trình độ, ý thức pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước chưa đáp ứng  được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao trong quản lý hành chính nhà nước, vì  vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt.  Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng trong quản lý hành chính nhà nước và xã  hội chỉ cần các biện pháp thuyết phục. Bởi vì, trong xã hội còn tồn tại tội  phạm, vi phạm pháp luật, còn sự chống đối, phá hoại của các thế lực phản  động trong và ngoài nước nhằm phá hoại trật tự quản lý hành chính nhà nước  và an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Vì vậy, phải kết hợp giữa thuyết phục và  cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng:  "Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới cưỡng bức, dù thế nào đi nữa thì  trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi mới cưỡng chế".  Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết đối với những cá nhân, tổ  chức vi phạm pháp luật, gây rối trật tự trị an, có thái độ chống đối lại chính  quyền nhân dân, không chấp hành đường lối, chủ trương và pháp luật của  nhà nước. Trong các trường hợp đó, việc áp dụng cưỡng chế không trái với  nguyên tắc nhân đạo và dân chủ của Nhà nước ta, trái lại, nó được thực hiện  vì lợi ích chung của nhân dân, xã hội, nhà nước, trong đó có cả lợi ích cá  nhân. Không áp dụng cưỡng chế, hay coi nhẹ nó cũng có nghĩa là buông nhẹ  kỷ cương dẫn tới tình trạng vô Chính phủ, vô kỷ luật trong xã hội và trong  bộ máy nhà nước. Ngược lại, quá nhấn mạnh đến cưỡng chế sẽ dẫn đến  độc đoán, chuyên quyền, trái với bản chất nhà nước của nhân dân, do dân và  vì dân. Kết hợp thuyết phục và cưỡng chế một cách hợp lý sẽ có tác dụng to 
  6. lớn đối với việc thực hiện tốt nhiệm vụ cụ thể trong quản lý hành chính nhà  nước.  Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Vai trò của phương pháp thuyết  phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước. Thực  tiễn tại thành phố Huế.” để làm rõ hơn về phương pháp thuyết phục,  phương pháp cưỡng chế cũng như vai trò của các phương pháp này, bên cạnh  đó sẽ đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng  phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành  chính nhà nước. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  2.1. Mục đích nghiên cứu  Mục đích của đề tài là nghiên cứu hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về  phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành  chính nhà nước, thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế, qua đó đánh giá những  kết quả đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng  phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành  chính nhà nước, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong  việc áp dụng hai phương pháp này. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu  Đề tài có những nhiệm vụ căn bản sau: ­ Phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò về phương pháp thuyết phục và  phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước cũng như mối  quan hệ của hai phương pháp này.
  7. ­ Phân tích, đánh giá thực trạng việc áp dụng phương pháp thuyết phục và  phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước, khảo sát trên  thực tế những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại  và đưa ra một số kiến nghị về các hạn chế, vướng mắc còn tồn tại nhằm  nâng cao hiệu quả việc áp dụng hai phương pháp này trên địa bàn thành phố  Huế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  3.1. Đối tượng nghiên cứu  Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về phương pháp thuyết  phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước và thực  tiễn tại thành phố Huế. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Bài này được nghiên cứu trong phạm vi nội dung của phương pháp thuyết  phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước như khái  niệm, đặc điểm, vai trò, mối quan hệ của hai phương pháp này và thực tiễn  tại thành phố Huế, bên cạnh đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu  quả việc áp dụng phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong  quản lý hành chính trên địa bàn thành phố Huế. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong bài niên luận này, em đã vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo,  chủ trương của Đảng, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác ­ Lê nin và tư  tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài phương pháp trên em còn sử dụng một số phương  pháp khác, có thể kể đến các phương pháp chính sau: ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
  8. ­ Phương pháp so sánh. ­ Phương pháp thống kê. ­ Phương pháp khảo sát thực tiễn. 5. Kết cấu của niên luận Đề tài được cấu trúc 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.  Phần nội dung gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về phương pháp thuyết phục và phương  pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước.  Chương 2. Thực trạng việc áp dụng phương pháp thuyết phục và phương  pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố  Huế. Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng phương  pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính trên  địa bàn thành phố Huế. B. PHẦN NỘI DUNG
  9. CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP  THUYẾT PHỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ TRONG QUẢN  LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1. Khái niệm phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế  trong quản lý hành chính nhà nước 1.1.1. Khái niệm phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà  nước Hiểu một cách thông thường, thuyết phục là làm cho người khác thấy đúng,  thấy hay mà tin và làm theo.  Theo từ điển tiếng Việt: Thuyết phục trong quản lí hành chính nhà nước là  làm cho đối tượng quản lí hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những  hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định. Như vây, thuyết phục là hoạt động do các chủ thể quản lý hành chính nhà  nước (chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước) tiến hành, thông qua  tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật, nêu gương  nhằm tạo ra ý thức về lối sống cộng đồng, ý thức pháp luật của mỗi công  dân, tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Trong xã hội hiện nay (xã hội chủ nghĩa), lợi ích của chủ thể quản lý và đối  tượng quản lý về cơ bản là nhất trí, hoạt động quản lý hành chính nhà nước  thể hiện ý chí và phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Vì vậy, phương  pháp quản lý chủ yếu là phương pháp thuyết phục. Mặt khác, những nhiệm  vụ và mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước không thể đạt được nếu  thiếu sự ủng hộ rộng rãi và tích cực của quần chúng. Hoạt động quản lý chỉ  có hiệu quả cao trên cơ sở động viên và tạo điều kiện cho quần chúng tham 
  10. gia vào giải quyết những nhiệm vụ đặt ra trước bộ máy hành chính nhà  nước. Bộ máy hành chính nhà nước đảm bảo đưa vào cuộc sống những gì  phù hợp với nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân. Thuyết phục có vai trò rất  to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước, tăng cường củng  cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước, tăng cường củng  cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước vững  mạnh chính bởi ý thức giác ngộ của quần chúng chứ không chỉ do tăng cường  các biện pháp cưỡng chế, bắt buộc. Trong quản lý hành chính cần phát huy  vai trò của các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng như Mặt trận tổ  quốc, tổ dân phố, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội người  cao tuổi...trong việc tuyên truyền vận động, nêu gương sáng để nâng cao  thuyết phục trong quản lý hành chính nhà nước. 1.1.2. Khái niệm phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà  nước Theo Tiến sĩ Trần Minh Hương thì cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng  bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với những cá nhân  hoặc tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định, về mặt  vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân hoặc tổ chức đó phải thực  hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục  tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của cá nhân hay tổ chức hoặc  tự do thân thể của các cá nhân. Theo từ điển luật học thì cưỡng chế là những biện pháp bắt buộc cá nhân  hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định của cơ  quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định. Cưỡng chế hành chính là tổng hợp các biện pháp do luật hành chính quy định  được áp dụng để tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tõm lý, tư 
  11. tưởng và hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, buộc các chủ thể đó phải thực hiện  các nghĩa vụ pháp lýnhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý những  hành vi trái pháp luật, bảo đảm trật tự và kỷ luật trong hoạt động hành chính. Như vậy, Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà  nước, người có thẩm quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong  những trường hợp pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực  hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng  những hạn chế về mặt tài sản hoặc tự do thân thể. Phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong  việc áp dụng những quyết định bắt buộc đơn phương đối với đối tượng  quản lý. Phương pháp cưỡng chế thường được sử dụng trong những trường  hợp quyết định đơn phương không được thực hiện một cách tự giác. Nếu  không có cưỡng chế thì kỉ luật nhà nước không được bảo đảm, pháp chế  không được tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội phát  triển, cho kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc hoạt động chống phá nhà nước.  Cưỡng chế nhà nước xã hội chủ nghĩa là cưỡng chế của đa số đối với thiểu  số và được áp dụng trong giới hạn do pháp luật quy định một cách chặt chẽ.  Đó là bạo lực dựa trên cơ sở pháp luật, vừa bảo đảm việc tuân thủ nghiêm  chỉnh pháp luật, kỉ luật nhà nước đồng thời vừa bảo đảm quyền lợi chính  đáng của công dân, cơ quan tổ chức có liên quan. Ví dụ: Cảnh sát giao thông phát hiện anh A tham gia điều khiển phương tiện  giao thông có hành vi vi phạm an toàn giao thông (vượt đèn đỏ). Chiến sĩ  cảnh sát giao thông sẽ thực hiện việc đình chỉnh hành vi vi phạm của anh A.  Đây được xem là biểu hiện của phương pháp cưỡng chế. 1.2. Đặc điểm của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng  chế trong quản lý hành chính nhà nước
  12. 1.2.1. Đặc điểm của phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính  nhà nước ­ Phương pháp thuyết phục được sử dụng phổ biến. Vì đây là phương  pháp ít tốn kém, phương pháp ít tổn hại hoặc không gây tổn hại đến  đối tượng quản lý, là phương pháp làm đối tượng quản lý nhận ra  được những sai lầm của hành vi mà mình thực hiện và tự giác chấp  hành nghiêm chỉnh pháp luật, làm cho chủ thể và đối tượng gần nhau,  tạo sự đồng thuận và cộng tác. ­ Do chủ thể quản lý hành chính sử dụng để tác động lên đối tượng  quản lý nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. ­ Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như:  giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh...làm cho đối tượng hiểu  rõ và chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý. ­ Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý được sử dụng  quyền lực nhà nước, được sử dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc  đối tượng quản lý phải tuân thủ những yêu cầu của mình. Vậy tại sao  cần sử dụng phương pháp thuyết phục? ­ Vì phương pháp thuyết phục rất cần thiết và trong thực tế đó là  phương pháp chủ yếu để các chủ thể quản lý hành chính nhà nước  thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. + Do bản chất của nước ta: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoạt động của các  cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan quản lý hành chính nhà  nước là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm 
  13. bảo sự phát triển mọi mặt của các tầng lớp nhân dân. Do đó lợi ích của  chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính  nhà nước không mâu thuẩn, đối lập nhau mà thống nhất với nhau.  Chính vì thế mà phương pháp thuyết phục có cơ sở xã hội vững chắc  và không riêng gì trong quản lý hành chính nhà nước, mà trong tất cả  hoạt động của mình, phương pháp chủ yếu được các chủ thể quản lý  nhà nước sử dụng là phương pháp thuyết phục. + Do những hiệu quả chủa phương pháp thuyết phục mang lại trong  hoạt động quản lý hành chính nhà nước: Qua thực tiễn của quản lý hành chính nhà nước, chúng ta thấy những  nhiệm vụ và mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước chỉ có thể thực  hiện được thông qua ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân.  Bởi vì sự tự giác thực hiện bao giờ cũng mang lại hiệu quả tốt hơn so  với sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện. 1.2.2. Đặc điểm của phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính  nhà nước ­ Cưỡng chế hành chính là một dạng của cưỡng chế nhà nước Cưỡng chế nhà nước bao gồm 4 loại: cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân  sự, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế kỷ luật. Giữa chúng có mối liên hệ  chặt chẽ  với nhau nhưng cũng có sự  khác nhau về  cơ  sở  áp dụng, bản  chất pháp lý, chủ thể có thẩm quyền áp dụng, trình tự­ thủ tục áp dụng,  mức độ nguy hiểm của hành vi, hậu quả pháp lý... Để bảo vệ trật tự, kỷ  cương trong quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,   cần phải nhận thức rõ mối quan hệ  của cưỡng chế  hành chính với các   loại cưỡng chế nhà nước khác.
  14. ­ Cưỡng chế  hành chính chủ  yếu do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm  quyền áp dụng theo quy định của pháp luật. Không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có thẩm quyền áp   dụng cưỡng chế  hành chính. Chỉ những cơ quan quản lý nhà nước được  văn bản pháp luật quy định có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế  hành  chính mới được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính. Ví dụ: Thanh tra Chính Phủ, Thanh tra nhà nước theo cấp hành chính, hải   quan, kiểm lâm, thuế  vụ, quản lý thị  trường, giám đốc cảng vụ  hàng  không, giám đốc cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thuỷ nội địa, cảnh  sát biển, cơ quan quản lý xuất ­ nhập cảnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các  cấp... Thẩm quyền cưỡng chế  của mỗi loại cơ quan nhà nước được quy định  rất   chặt   chẽ   trong   các   văn   bản   pháp   luật   nhằm   tránh   tình   trạng   độc   quyền, lạm quyền,  đảm bảo trật tự  và pháp chế. Việc quy  định cho   nhiều cơ  quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế  là cần   thiết vì vi phạm hành chính xảy ra nhiều, đa dạng trong tất cả mọi ngành,  lĩnh vực, mọi cấp quản lý. Nhưng trong thực tế  thực hiện vẫn còn sự  chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phân định rõ ràng thẩm quyền của mỗi cơ  quan và người có thẩm quyền nên hiệu lực, hiệu quả  của quản lý chưa  cao. Trong một số trường hợp, cưỡng chế hành chính còn được thực hiện bởi   các cơ quan khác của nhà nước, ví dụ: xử phạt hành chính do Thẩm phán  chủ  tọa phiên tòa thực hiện; người  chỉ  huy tàu bay,    trong thời gian tàu  bay đang bay, được áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với những   người thực hiện các hành vi như: Không tuân theo sự  hướng dẫn của   người chỉ huy tàu bay hoặc của thành viên tổ bay thay mặt người chỉ huy  
  15. tàu bay về việc bảo đảm an toàn cho tàu bay, duy trì trật tự, kỷ luật trong  tàu bay; các hành vi vi phạm thuần phong, mỹ tục của dân tộc, vi phạm  trật tự công cộng khác... ­ Cưỡng chế hành chính khác với cưỡng chế kỷ luật Tính đặc thù của cưỡng chế  kỷ luật thể hiện  ở chỗ, người bị kỷ luật có  sự  lệ  thuộc về  mặt công vụ  trong quan hệ  với người có thẩm quyền ra  quyết định kỷ  luật. Việc ban hành cưỡng chế  kỷ  luật là sự  thực hiện  thẩm quyền mang tính nội bộ  trong mỗi cơ quan, tổ  chức của nhà nước.   Ví dụ: Thủ  trưởng cơ  quan nhà nước ra quyết định kỷ  luật đối với nhân  viên của mình khi họ có hành vi vi phạm kỷ luật.  Còn trong cưỡng chế  hành chính, người có thẩm quyền áp dụng cưỡng  chế  và người bị  áp dụng cưỡng chế  không có quan hệ  trực thuộc trên  dưới mà chỉ có quan hệ kiểm tra, giám sát. Ví dụ: Công dân Nguyễn Văn  A đi vào đường ngược chiều bị cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ  xử phạt tiền 200.000 đồng. Mặt khác, cưỡng chế  hành chính và cưỡng chế  kỷ luật còn khác nhau  ở  phạm   vi   áp  dụng,  mục  đích  áp dụng,  biện pháp  áp  dụng,  thủ  tục  áp  dụng... ­ Mục đích của cưỡng chế  hành chính là để  phòng ngừa, ngăn ngừa vi  phạm pháp luật hành chính; trừng phạt người vi phạm theo trình tự xử lý  hành chính; đảm bảo trật tự trong các trường hợp khẩn cấp khi chưa xảy   ra vi phạm; những trường hợp cần thiết vì lợi ích quốc gia, an ninh, quốc  phòng. 
  16. Cưỡng chế  hành chính không chỉ  nhằm đảm bảo thực hiện, bảo vệ  các  quy phạm vật chất hành chính mà còn đảm bảo thực hiện và bảo vệ các   quy phạm vật chất của ngành luật khác như luật đất đai, luật dân sự... ­ Cưỡng chế  hành chính được áp dụng theo thủ  tục hành chính, do Luật   hành chính quy định. Vì vậy, thủ tục này đơn giản hơn so với thủ tục áp  dụng cưỡng chế  hình sự  và cưỡng chế  dân sự. Tuy nhiên, với sự  thành  lập và đi vào hoạt động của Toà hành chính thì trong nhiều trường hợp  Toà án cũng được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính. 1.3. Vai trò của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế  trong quản lý hành chính nhà nước 1.3.1. Vai trò của phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà  nước  Phương pháp thuyết phục do chủ thể quản lí hành chính nhà nước sử dụng  để tác động lên đối tượng quản lí nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ  của mình. Phương phát thuyết phục giáo dục cảm hoá là một trong những  phương pháp quản lý quan trọng nhất đem lại hiệu quả cao nhất. Phương  phát này thể hiện tính ưu việt của chế độ Xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền  thống nhân đạo của dân tộc ta. Bản chất của phương pháp thuyết phục là  làm cho đối tượng quản lí hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc  tránh thực hiện những hành vi nhất định. Thông qua thuyết phục, các chủ thể  của quản lí hành chính nhà nước ( chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà  nước ) giáo dục cho mọi công dân nhận thức đúng đắn về kỉ cương xã hội, kỉ  luật nhà nước, động viên họ tự giác thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và  xã hội. Các tổ chức xã hội là chỗ dựa vững chắc của các cơ quan hành chính  nhà nước trong việc nâng cao ý thức pháp luật của công dân, trong việc đảm 
  17. bảo và mở rộng dân chủ. Trong quản lí hành chính nhà nước, các chủ thể  quản lí được sử dụng quyền lực của nhà nước, được sử dụng các biện pháp  cưỡng chế bắt buộc, tuy nhiên không phải lúc nào cũng áp dụng biện pháp  cưỡng chế, theo đó, phương pháp quản lí chủ yếu là phương pháp thuyết  phục. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoạt động của các  cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan quản lí hành chính nói riêng là để  bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo sự phát triển  mọi mặt của các tầng lớp nhân dân. Do đó, lợi ích của chủ thể quản lí hành  chính nhà nước và đối tượng quản lí hành chính nhà nước không mâu thuẫn,  đối lập nhau mà thống nhất với nhau. Chính vì vậy phương pháp thuyết phục  có cơ sở xã hội vững chắc và không riêng gì trong quản lí hành chính nhà  nước, mà trong tất cả hoạt động của mình, phương pháp chủ yếu được các  chủ thể quản lí nhà nước sử dụng là phương pháp thuyết phục. Qua thực  tiễn cho thấy, những nhiệm vụ và mục tiêu của quản lí hành chính nhà nước  chỉ có thể được thực hiện thông qua sự tự giác ý thức chấp hành pháp luật  của người dân. Hiệu quả của sự tự giác bao giờ cũng tốt hơn sự cưỡng chế,  ép buộc phải thực hiện. 1.3.2. Vai trò của phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà  nước Trong giai đoạn hiện nay, cưỡng chế có vai trò rất quan trọng trong việc đảm  bảo pháp chế và kỉ luật nhà nước. Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn  còn nhiều tội phạm và vi phạm pháp luật, các thế lực thù địch luôn tìm cách  chống phá trật tự quản lí hành chính nhà nước của nước ta, bên cạnh đó vẫn  còn một số người dân vẫn còn một số bộ phận người dân có ý thức chấp  hành pháp luật kém, vẫn không tự giác chấp hành các quy định của pháp luật.  Nếu không có cưỡng chế thì kỉ luật nhà nước không được bảo đảm, pháp 
  18. chế không được tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội phát  triển, cho kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc hoạt động chống phá nhà nước.  Cưỡng chế là bạo lực dựa trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm việc tuân thủ  nghiêm chỉnh pháp luật, kỉ luật nhà nước, đồng thời ừa đảm bảo quyền lợi  chính đáng của công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Biện pháp cưỡng chế  được sử dụng ở những trường hợp cần thiết, khi phương pháp thuyết phục  không đạt lại hiệu quả như mong đợi. Cưỡng chế có một phần vai trò trong  việc răn đe các đối tượng quản lí khác, để họ thấy được sự nghiêm minh của  pháp luật. Các loại cưỡng chế nhà nước đều nhằm tới các đội tượng có hành  vi vi phạm pháp luật, như cưỡng chế hình sự đối với người có hành vi phạm  tội hoặc bị tình nghi phạm tội; cưỡng chế dân sự đối với người có hành vi vi  phạm dân sự, gây thiệt hại cho nhà nước, công dân…; cưỡng chế kỉ luật có  đối tượng là những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm kỉ luật nhà nước; và  cưỡng chế hành chính áo dụng cho các đối tượng cá nhân hay tổ chức có  hành vi vi phạm hành chính.  Cưỡng chế hành chính là phương pháp được pháp luật quy định rất chặt chẽ  về thẩm quyền áp dụng, về cấc trường hợp được phép áp dụng, về các biện  pháp cụ thể để cưỡng chế trong từng trường hợp cụ thể, về thủ tục cưỡng  chế trong từng trường hợp. Nguyên nhân của việc quy định rất chặt chẽ là  do: thứ nhất, đây là phương pháp sử dụng quyền lực nhà nước rõ nét cho nên  cần thiết phải có quy định chặt chẽ để tránh tình trạng lạm quyền; thứ hai,  phương pháp này có thể dẫn đến oan sai cho nên cần có quy định chặt chẽ để  tránh tình trạng oan sai. 1.4. Mối quan hệ giữa phương pháp thuyết phục và phương pháp  cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước
  19. Ở nước ta, xuất phát từ tính nhân dân của nhà nước ta, từ vấn đề cốt lõi của  việc nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước, từ yếu tố truyền thống lịch sử dân  tộc mà biện pháp thuyết phục được lấy làm biện pháp chủ yếu được áp  dụng trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Nhưng sẽ là sai lầm nếu  cho rằng trong quản lí hành chính nhà nước chúng ta chỉ cần áp dụng các biện  pháp thuyết phục mà thôi. Bởi lẽ trong xã hội, do nhiều nguyên nhân khác  nhau vẫn còn tồn tại nhiều vi phạm pháp luật trong một bộ phận công dân,  những nhân viên nhà nước…Hơn nữa cần phải tính đến những hoạt động  phá hoại, thù địch của thế lực phản động đang tìm mọi cách phá hoại trật tự  quản lí nhà nước, xâm hại an ninh quốc gia. Vì vậy, phương pháp thuyết  phục và phương pháp cưỡng chế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, có nghĩa  là trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta cần thiết phải có sự kết hợp  giữa thuyết phục và cưỡng chế. Trong sự kết hợp này cần phải tuân theo tư  tưởng chỉ đạo trước hết phải thuyết phục và luôn luôn lấy thuyết phục làm  chính, còn biện pháp cưỡng chế chỉ được áp dụng khi thuyết phục không có  hiệu quả.  Giữa phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý  hành chính có mối quan hệ sau: ­ Thứ nhất: Để đạt được mục đích cuối cùng là bảo đảm thực hiện  những nhiệm vụ quản lí thì phải sử dụng các phương pháp quản lí  tương ứng. Những nhiệm vụ quản lí được thực hiện bằng cách ban  hành những quyết định ở các cấp khác nhau. Những quyết định này  được thực hiện hoặc trên cơ sở khuyến khích hoặc trên cơ sở những  chỉ thị có tính chất bắt buộc. ­ Thứ hai: Để thi hành quyết định quản lí nào đó có thể sử dụng những  phương tiện cưỡng chế nhưng trên thực tế, không phải lúc nào người 
  20. ta cũng sử dụng những phương tiện cưỡng chế để thi hành một quyết  định hành chính tương ứng nào đó. Việc sử dụng phương tiện cưỡng  chế không có ý nghĩa khi có khả năng đảm bảo thực hiện quyết định  thông qua thuyết phục. Do đó, không thể chỉ áp dụng riêng mỗi biện  pháp cưỡng chế trong việc thi hành một quyết định quản lí hành chính  được. ­ Thứ ba: Trong thực tế, chúng ta cũng thấy rằng, phương pháp thuyết  phục và cưỡng chế không thể hiện một cách độc lập mà bổ sung cho  nhau. Việc đưa ra những quyết định bắt buộc thường đi liền với công  tác giải thích, hướng dẫn, vận động; nếu công tác vận đông, giải thích,  hướng dẫn không đạt được kết quả thì lúc đó mới cần đến các biện  pháp mang tính bắt buộc, cưỡng chế; do đó cũng không thể chỉ áp dụng  mỗi phương pháp thuyết phục khi đối tượng quản lí không có ý thức  tự giác thực hiện hay không thể thuyết phục được nữa. ­ Thứ tư: Trong trường hợp những đối tượng có liên quan tự giác thực  hiện quyết định đơn phương của chủ thể quản lí hành chính nhà nước  thì lúc đó việc bắt buộc thực hiện quyết định này hay quyết định khác  cũng không có ý nghĩa khi không có đối tượng để cưỡng chế. Nghĩa là  quyết định hành chính nhà nước trong trường hợp này không còn phải  đảm bảo bằng cưỡng chế. Cho nên, cả hai biện pháp thuyết phục và  cưỡng chế có thể xem như thay thế nhau một cách linh động, tùy vào  từng trường hợp, tình huống cụ thể. ­ Thứ năm: Biện pháp thuyết phục và biện pháp cưỡng chế không chỉ  khác nhau về bản chất mà còn khác nhau ở cách thức qui định chúng.  Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến sự cần thiết phải  hành động bất chấp nguyện vọng của người thực hiện nên pháp luật 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0