Nội dung cơ bản của qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng SX
lượt xem 42
download
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng: phương thức SX là cách thức tiến hành SX vật chất của con người trong giai đoạn lịch sử nhất định phương thức SX là một chỉnh thể do hai mặt của quá trình SX cấu tạo nên nó là lực lượng SX và quan hệ SX. Giữa hai mặt của quá trình SX luôn gắn bó chặt chẽ tác động biện chứng với nhau trong đó lực lượng SX là nội dung còn quan hệ SX là hình thức của quá trình SX....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nội dung cơ bản của qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng SX
- CÂU 1: “Đồng chí hãy trình bày nội dung cơ bản của qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng SX. Sự vận dụng qui luật này của Đảng ta trong chiến lược xây dựng nền KT thời kỳ đổi mới. TRả LờI: Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng: phương thức SX là cách thức tiến hành SX vật chất của con người trong giai đoạn lịch sử nhất định phương thức SX là một chỉnh thể do hai mặt của quá trình SX cấu tạo nên nó là lực lượng SX và quan hệ SX. Giữa hai mặt của quá trình SX luôn gắn bó chặt chẽ tác động biện chứng với nhau trong đó lực lượng SX là nội dung còn quan hệ SX là hình thức của quá trình SX XH. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng SX và quan hệ SX diễn ra thường xuyên phổ biến và là nhu cầu khách quan của toàn bộ tiến trình SX vật chất XH quyết định đến sự phát triển kế tiếp nhau của các hình thái KT XH trong lịch sử, cũng như của từng hình thái. Mác là người đầu tiên đã khái quát vấn đề trên thành qui luật mà những người Mácxít vẫn gọi là “qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX”. Vậy thực chất của qui luật trên là gì? Và sự nhận thức vận dụng qui luật ở nước ta hiện nay ra sao? Trước hết chúng ta cần làm rõ hai khái niệm cơ bản đó là lực lượng SX và quan hệ SX. Lực lượng SX là sự thống nhất giữa người lao động và tư liệu SX tạo thành sức SX của XH. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
- Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân người lao động, với trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật của họ. Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Ngày nay nói đến lực lượng SX cần chú ý đến nội dung hiện đại của khái niệm này. Đó là khoa học đã trở thành lực lượng SX trực tiếp cùng với công nghệ hiện đại nó làm thay đổi sâu sắc bộ mặt lực lượng SX của nhân loại, nó qui định nội dung mới của sức SX XH trong thời đại ngày nay. Thời đại ngày nay, tri thức khoa học trở thành một bộ phận cần thiết của kinh nghiệm và tri thức của người sản xuất… và được phát triển mạnh mẽ. Đó là lực lượng sản xuât to lớn thúc đẩy quá trình phát triển tiến bộ xã hội trên thế giới. Chính vì lẻ đó mà Đảng ta quan niệm “cùng với giáo dục đào tạo khoa học công nghệ phải được coi là quốc sách hàng đầu” Còn quan hệ SX đó là quan hệ KT giữa người với người hình thành trong quá trình SX vật chất của XH. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Quan hệ SX bao giờ cũng là một chỉnh thể thống nhất của 3 mối quan hệ: quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu đối với tư liệu SX (gọi tắt là quan hệ sở hữu); quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý SX và trao đổi cho nhau trong SX (gọi tắt là quan hệ quản lý); quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm XH làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối).
- Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào trước hết do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định. Nó chính là mặt pháp lý của quan hệ SX, nhưng quan hệ quản lý và phân phối cũng rất quan trọng, nó vai trò của nó biểu hiện ở chỗ có thể củng cố quan hệ sở hữu, cũng có thể làm xói mòn và đổ vỡ quan hệ sở hữu. Vì vậy nhận thức quan hệ SX trong quan hệ với lực lượng SX phải thấy rõ tính chỉnh thể của nó không được có quan điểm thiếu đồng bộ. Trên cơ sở hai khái niệm cơ bản, chúng ta đi sâu nghiên cứu nội dung qui luật. Khi chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng: phương thức SX là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của XH thì điều đó có nghĩa là phải nhận thức sự tác động biện chứng giữa lực lượng SX và quan hệ SX theo yêu cầu của qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX. Nội dung qui luật chỉ rõ: lực lượng SX quyết định quan hệ SX, quan hệ SX tác động trở lại lực lượng SX theo yêu cầu phù hợp sự phát triển của lực lượng SX. Sự quyết định của lực lượng SX đối với quan hệ SX được biểu hiện: Lực lượng SX ở trình độ và tính chất nào thì nó yêu cầu tất yếu một kiểu quan hệ SX thích ứng phù hợp với nó. Điều đó có nghĩa là quan hệ SX là quan hệ giữa người với người, nhưng nó mang tính khách quan, do vậy con người không có quyền tự do lựa chọn quan hệ SX theo ý muốn chủ quan của mình. Mọi quan hệ SX chỉ hình thành, tồn tại trên cơ sở một lực lượng SX nhất định và chịu sự quyết định của lực lượng SX ấy. ơỷ đây cần hiểu rằng xác định lực lượng SX ở trình trạng nào để xem xét quan hệ SX phù hợp với nó chỉ là tương đối và lực lượng SX luôn ở trạng thái vận động, phát triển liên tục. Khi nó lực lượng SX ở trình độ
- nào (nghĩa là tính chất và trình độ nào) thì nó yêu cầu kiểu quan hệ SX phát huy ở tình trạng đó, chứ nó không đòi hỏi quan hệ SX cao hơn hay thấp hơn. Trong lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ điều đó, khi lực lượng SX ở trình độ thủ công, tính chất cá nhân nó đòi hỏi quan hệ SX về mặt sở hữu cũng mang tính tư hữu. Nếu lực lượng SX ở trình độ cơ khí hóa, tự động hóa và tính chất XH hóa ngày càng cao thì nó yêu cầu quan hệ SX phù hợp với sự phát triển của nó là kiểu quan hệ SX mang tính XH, đương nhiên là quan hệ SX có đáp ứng đúng đòi hỏi đó của lực lượng SX hay không thì còn do nhiều nguyên nhân từ phía bản thân của quan hệ SX. Tính chất quyết định của lực lượng SX đối với quan hệ SX còn biểu hiện: lực lượng SX là yếu tố thường xuyên biến đổi phát triển một cách năng động, vừa mang tính chất kế tục lịch sử, vừa mang tính CM. Mỗi bước vận động phát triển của nó, đặc biệt khi lực lượng SX có sự thay đổi căn bản từ trình độ này lên trình độ khác thì nó luôn luôn đòi hỏi quan hệ SX cũng phải vận động phát triển cho phù hợp với nó. Nói cách khác mọi sự vận động phát triển của quan hệ SX đều có nguyên nhân trực tiếp là từ sự vận động phát triển của lực lượng SX. Mác nói: bất cứ sự thay đổi nào về mặt chế độ XH, bất cứ sự cải biến nào về mặt quan hệ chiếm hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng SX mới. Vấn đề đặt ra tại sao lực lượng SX là yếu tố năng động hơn và vận động phát triển trước quan hệ SX, quyết định quan hệ SX. Để trả lợi vấn đề này chỉ có thể bắt đầu từ việc phân tích nhu cầu về vật chất và văn hóa của con người ngày càng cao, để đáp ứng nhu cầu của mình ngày càng tốt hơn con người tất nhiên phải phát triển SX vật chất. Quá trình phát triển SX vật chất chỉ có thể thực hiện được nhờ con người bắt đầu băng việc thay đổi cải tiến lao động của mình, đây là quá trình liên tục không bao giờ ngừng của mọi thế hệ con người cho đến ngày
- nay. Nói cách khác đó là quá trình lực lượng SX liên tục, sự phát triển ấy đòi hỏi quan hệ SX cũng phải thay đổi theo với lẻ đó Mác nói: do có được những lực lượng SX mới, loài người thay đổi phương thức sx của mình, và do thay đổi phương thức SX cách kiếm sống của mình loài người thay đổi tất cả các quan hệ XH của mình. Ngày nay trên thế giới khi mà lực lượng SX đã mang tính chất quốc tế hóa rộng lớn và sâu sắc thì tất yếu đòi hỏi trong quan hệ KT quốc tế giữa các quốc gia, dân tộc cũng phải phát triển theo xu hướng đó. Việc hình thành các khối liên kết KT quốc tế và khu vực, các hình thức công tất yếu đa quốc gia, xuyên quốc gia hay việc điều chỉnh ở những phạm vi mức độ nhất định của quan hệ SX trong các nước tư bản phát triển đều thể hiện đúng yêu cầu của qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX trong điều kiện quốc tế hiện nay. Như vậy lực lượng SX là yếu tố quyết định đối với quan hệ SX, đây là sự quyết định của nội dung đối với hình thức của quá trình SX. Song, quan hệ SX không hoàn toàn phụ thuộc một cách thụ động vào lực lượng SX, nó có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng SX. Sự tác động của quan hệ SX đối với lực lượng SX diễn ra theo hai hướng: phù hợp hoặc không phù hợp, điều này do quan hệ SX mang tính ổn định tương đối và biến đổi chậm hơn so với của lực lượng SX, mặt khác còn do trình độ năng lực của chủ thể SX, do quan hệ lịch sử giai cấp chi phối. Sự tác động của quan hệ SX gọi là phù hợp với lực lượng SX khi quan hệ SX đó hình thành tồn tại đã tạo ra được khả năng liên kết giữa các yếu tố của lực lượng SX có hiệu quả hơn, do đó tạo ra địa bàn cho sự phát triển tốt hơn của lực lượng SX. Vì vậy kích thích được SX, tiềm năng của người lao động và tư liệu SX được khai thác tốt hơn, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Khi nói con người ở
- trong thời kỳ biết tự giác nhờ trình độ tri thức phát triển cao ma chủ động xác lập quan hệ SX thì chứng tỏ con người đã nhận thức và vận dụng đúng đắn qui luật, thực tế từ Đại hội 6 của Đảng ta đến nay đã chứng minh điều đó. Ngược lại nếu quan hệ SX tác động không phù hợp với lực lượng SX thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại đối với lực lượng SX. Tình hình đó làm cho SX có thể bị đình đốn, có khi dẫn đến khủng hoảng KT XH nghiêm trọng. Trường hợp này thường biểu hiện ở hai khuynh hướng: hoặc là quan hệ SX lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng SX, sự lạc hậu này có thể diễn ra trên cả 3 mặt của quan hệ SX hoặc một trong 3 mặt đó. Trong lịch sử điều này thể hiện rất rõ ở mỗi cuối giai đoạn phát triển của một phương thức sx, làm cho lực lượng SX tiên tiến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ SX lạc hậu, giải quyết mâu thuẫn này chỉ có thể bằng một cuộc CM XH. Nhờ vậy mà XH có bước phát triển mới. Quan hệ sản xuất sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động… Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chi thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên. Đúng như Mác nói: tới một giai đoạn nào đó của chúng các lực lượng SX vật chất của XH sẽ mâu thuẫn với những quan hệ SX hiện có … từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng SX những quan hệ ấy trở thành xiềng xích trói buộc các lực lượng SX, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc CM XH.
- Hoặc là khi quan hệ SX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố vượt quá xa so với trình độ của lực lượng SX thì chẳng những không hề mở đường cho lực lượng SX phát triển mà bản thân quan hệ SX phá hoại nghiêm trọng đối với lực lượng SX. Trường hợp này thường do trình độ hiểu biết qui luật của con người thường bị hạn chế, chủ quan áp đặt theo ý muốn của mình. Do vậy để tráng sai lầm thiếu sót, con người phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về vận dụng qui luật của chính mình. Văn kiện Đại hội 6 đã tốn kém kinh nghiệm cho thấy: lực lượng SX bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ SX lạc hậu mà cả trong trường hợp quan hệ SX phát triển không đồng bộ, có yếu tố đi quá xa so với trình độ của lực lượng SX. Tóm lại, thực chất của qui luật là lực lượng SX đòi hỏi quan hệ SX phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX. Song, do nhiều yếu tố bản thân quan hệ SX chi phối, cho nên quan hệ SX phù hợp hoặc không phù hợp với lực lượng SX. Do vậy, hiểu phù hợp ở đây là bao trùm mâu thuẫn sự giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng SX và quan hệ SX là thường xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy lực lượng SX phát triển đó chính là nguồn gốc động lực của sự phát triển phương thức SX, các hình thái KT XH. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở
- kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã… để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hóa cái cũ thành cái mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã nhận thức và vận dụng qui luật này như thế nào? Ở đây chúng ta có thể tóm tắt thành hai thời kỳ lớn: thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội đổi mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau Đại hội 6 đến nay. Nhìn tổng quát mà nói: trước Đại hội 6 bên cạnh những thành tích và những việc đã là được của CM XH chúng ta phải thấy rằng Đảng ta có những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận dụng qui luật XH, đặc biệt là nhận thức và đúng đắn qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX. Chúng ta có thể thấy rõ biểu hiện tập trung của những sai lầm thiếu sót ấy trong quan điểm chỉ đạo và chính sách cải tạo quan hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới. Biểu hiện sai lầm về quan điểm cho rằng một nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa XH thì quan hệ SX có thể đi trước mở đường cho lực lượng SX phát triển (CM quan hệ SX có thể làm trước khi có lực lượng SX). Về chủ trương chính sách lớn: cải tạo quan hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới chúng ta đã nôn nóng ấu trĩ cho rằng chủ nghĩa XH chỉ tồn tại hình thức sở hữu quốc doanh và tập thể. Do đó chủ trương xóa nhanh các thành phần KT không phải quốc doanh và tập thể và xây dựng nhanh quan hệ SX chưa dựa trên sở hữu quốc doanh và tập thể.
- Và chúng ta không thừa nhận nền KT hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Do đó không chấp nhận KT thị trườngV, đa dạng hóa hình thức sở hữu, quản lý phân phối. Không thấy được đòi hỏi của lực lượng SX đang ở trong tình trạng đan xen những trình độ tính chất khác nhau để mà xác lập quan hệ SX. Mỗi cách khác bỏ qua TBCN nhưng lại không thấy tính chất quá độ là đan xen tồn tại lâu dài của cả lực lượng SX, quan hệ SX, kiến trúc thượng tầng. Xác lập quan hệ SX không trên cơ sở thực trạng lực lượng SX mà còn xác lập không đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa vượt lên trên trình độ của lực lượng SX ở chỗ: không đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu KT, trong bản thân 3 mặt của quan hệ SX, vượt quá xa lực lượng SX thể hiện những mô hình quan hệ SX quốc doanh và tập thể. Chúng ta đã đi tới chỗ đồng nhất CM sở hữu với CM quan hệ SX, CM quan hệ SX với toàn bộ CM XHCN, đồng nhất hình thức KT với kiểu quan hệ sở hữu, qui mô của quan hệ sở hữu với bản chất quan hệ SX XHCN. Và sai lầm thiếu sót khác nữa là áp dụng cơ chế quản lý KT quan liêu thời chiến vào trong quan hệ SX vốn đã xác lập không phù hợp với lực lượng SX, do đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng tạo của người lao động, kìm hãm lực lượng SX, và đã không sớm nhận thức được sai lầm đó, nên đã kéo dài, ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp hoạt động của thực tiễn, cho nên trở thành khó thay đổi và trở nên quan liêu bảo thủ. Coi thường tính tất yếu KT của SX nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX hàng hóa thị trường mới đi lên được. Từ thực tiễn cuộc sống đã giúp chúng ta tỉnh ngộ và rút ra được những bài học thấm thía. Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng có hiệu quả qui luật này. Đại hội 6 của Đảng ta đề xuất quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng qui luật khách quan. Đại hội 7 tiếp tục khẳng định và phát triển hơn nữa của quan điểm Đại hội 6. Những quan điểm và chính
- sách sau đây chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành rất lớn trong tư duy lý luận khi nhận thức và vận dụng qui luật quan hệ SX phù hợp với trình độ của lực lượng SX. Qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX là qui luật chung phổ biến. Khẳng định lực lượng SX là cái quyết định quan hệ SX, quan hệ SX phải hình thành trên cơ sở lực lượng SX và tác động đến lực lượng SX nhằm thúc đẩy lực lượng SX. Trong hoàn cảnh một nước SX nhỏ quá độ lên chủ nghĩa XH, qui luật này có những biểu hiện đặc thù. Song, nó vẫn là nó chứ không biểu hiện trái qui luật như trước đây chúng ta nhằm tưởng nghĩa là nước ta qui luật chung không biểu hiện ở mức lực lượng SX đã phát triển ở mức cao mâu thuẫn với quan hệ SX lạc hậu đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới và khi xây dựng được quan hệ SX mới thì cơ bản có phù hợp giữa trình độ và tính chất XH hóa cao của lực lượng SX với quan hệ SX công hữu ma ở nước ta cả lực lượng SX và quan hệ SX đều ở trình độ tiền tư bản. Vì vậy trên cơ sở XH hóa từng bước lực lượng SX ma xác lập quan hệ SX từ thấp đến cao với sự đa dạng hóa sở hữu, quản lý, phân phối cho phù hợp với lực lượng SX. Phải nhận thức đúng tính khách quan của nền KT hàng hóa nhiều thành phần tồn tại, phát triển trong cơ chế thị trường. Song, vì mục tiêu là tiến lên chủ nghĩa XH cho nên phải có sự quản lý của Nhà nước XHCN. Từ đó phải cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH với những hình thức và bước đi thích hợp làm cho quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển lực lượng. Đại hội 7 đã phát triển thêm quan điểm này của Đại hội 6 chỉ đạo quá trình vận dụng qui luật là: phù hợp với sự phát triển của lực lượng SX, thiết lập từng bước
- quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. KT quốc doanh và KT tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nên KT quốc dân, thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả KT là chủ yếu. Cụ thể hóa là sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần KT, sử dụng cải tạo ở đây là phải thông qua các hình thức trung gian quá độ. Sử dụng ở đây là cho phép tồn tại giúp đỡ các thành phần KT, phát triển và khai thác những kế hoạch của các thành phần KT phục vụ cho sự phát triển KT XH của đất nước, sử dụng trong khuôn khổ pháp luật. Cải tạo ở đây là lâu dài không đồng nhất xóa bỏ ma là cải biến dần dần một cách tự nguyện theo sự định hướng XHCN và cải tạo bao gồm loại bỏ các yếu tố tiêu cực, lạc hậu, và kế thừa những mặt mạnh để phát triển nó lên một trình độ mạnh. Nhận thức và vận dụng đúng đắn qui luật quan hệ SX phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX cùng các hệ thống, các qui luật KT XH khác của nền KT hàng hóa thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
- /- Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX và sự vận dụng quy luật này trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. LLSX và QHSX là 02 mặt đối lập của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành nên quy luật phổ biến của lịch sử phát triển loài người, đó là quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật này chỉ ra rằng: LLSX quyết định QHSX và QHSX sau khi hình thành và tồn tại nó có tác động trở lại đối với LLSX. LLSX quyết định QHSX thể hiện qua việc trình độ LLSX đang tồn tại đặt ra yêu cầu QHSX phải phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn. Song, QHSX vừa phụ thuộc, vừa có vai trò độc lập tương đối và tác động trở lại LLSX theo hai hướng: phù hợp hoặc không phù hợp. QHSX phù hợp với LLSX, nghĩa là QHSX sau khi hình thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của LLSX và sau đó nó có vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành LLSX, làm
- cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra năng suất lao động cao hơn. Khi QHSX hình thành và tồn tại không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của LLSX thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của LLSX dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi QHSX đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của LLSX, hai là trường hợp chủ thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” QHSX “cao hơn” trình độ LLSX. * Vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX * Thời kỳ trước đổi mới: Chúng ta chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Xuất phát từ nhận thức khá phổ biến rằng xây dựng QHSX mới để mở đường cho LLSX phát triển nên mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và NN đều tập trung xây dựng 1 QHSX cao mà không chú ý đến sự phát triển của LLSX tương ứng. Chúng ta xây dựng CNXH xuất phát từ một nền KT nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, phổ biến là sản xuất nhỏ. Với LLSX còn nhiều yếu kém như vậy, nhưng chúng ta lại nóng vội muốn cải tạo nhanh QHSX để xác lập ngay một mô hình QHSX quá cao, đặc biệt là muốn xoá bỏ ngay những thành phần KT phi XHCN. Văn kiện Đại hội VI đã đánh giá “Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh chóng xoá bỏ kinh tế TBTN, KT cá thể để sớm có kinh tế XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối. Việc xác lập QH SX còn không đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ của LLSX thể hiện ở chỗ : không đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu KT,
- trong bản thân 3 mặt của QHSX”. “Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi QHSH về TLSX mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”. Tóm lại, do chủ quan duy ý chí, giáo điều và nhận thức sai quy luật khách quan nên đã làm nền kinh tế bị trì trệ, đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng kéo dài, gây nhiều khó khăn, thiếu thốn cho nhân dân. * Thời kỳ đổi mới: Kinh nghiệm thực tế những năm trước đổi mới cho thấy: LLSX bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà cả khi nó không đồng bộ hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ của LLSX. Nhận thức sai lầm, Đảng ta kiên quyết sửa chữa qua chủ trương đổi mới, mở cửa; đổi mới về kinh tế thực chất là xây dựng, cải tạo QHSX cho phù hợp với LLSX nhằm thúc đẩy LLSX phát triển; để xây dựng PTSX XHCN, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế kinh tế nhiểu thành phần theo định hướng XHCN, mục đích là phát triển LLSX tiên tiến đi đôi với xây dựng QHSX phù hợp trên cả 03 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối, đồng thời khai thác tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu; xoá bỏ chế độ phân phối cào bằng và thay thế bằng cơ chế thị trường đã thực sự tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Lượng kinh tế
73 p | 512 | 259
-
Nghiên cứu giáo dục
69 p | 284 | 93
-
Bài giảng Quản lý dự án: Chương 3 - Trương Mỹ Dung
10 p | 129 | 20
-
Bài giảng Quản lý dự án: Chương 8 - Trương Mỹ Dung
8 p | 112 | 17
-
Bài giảng Quản lý dự án: Chương 4 - Trương Mỹ Dung
13 p | 144 | 17
-
Bài giảng Quản lý dự án: Chương 2 - Trương Mỹ Dung
9 p | 141 | 17
-
Bài giảng môn Nguyên lý thống kê kinh tế - Chương 4: Hồi qui và tương quan
32 p | 136 | 16
-
Bài giảng Kinh tế lượng - Chương 2: Mô hình hồi qui hai biến - Ước lượng và kiểm định giả thiết
27 p | 130 | 9
-
Bài giảng Nhập môn Kinh tế lượng với các ứng dụng - Chương 4: Mô hình hồi quy bội
56 p | 87 | 9
-
Bài giảng Kinh tế lượng: Chương 3 - Th.s Nguyễn Hải Dương
33 p | 86 | 8
-
Bài giảng Kinh tế lượng - Chương 1: Mô hình hồi qui hai biến - Một vài ý tưởng cơ bản
13 p | 96 | 7
-
Bài giảng Các phương pháp phân tích định lượng: Hồi qui đa biến - Kiểm định giả thuyết và lựa chọn mô hình
16 p | 102 | 6
-
Bài giảng Quản lý học: Chương 6 - TS. Nguyễn Hữu Xuyên
9 p | 23 | 6
-
Bài giảng Kinh tế lượng: Chương 2 - Th.s Nguyễn Hải Dương
33 p | 80 | 5
-
Bài giảng Kinh tế lượng - Chương 1: Mô hình hồi quy hai biến và một vài ý tưởng cơ bản
40 p | 77 | 5
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 12 - Chi phí cơ hội kinh tế của công quỹ
18 p | 87 | 3
-
Bài giảng Quản trị nhà nước - Bài 3: Nhà nước và xây dựng nhà nước
16 p | 52 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn