intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Chia sẻ: Lan Si Zhui | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

52
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Đề bài: Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội <br /> Châu <br /> Bài làm 1 <br /> Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự <br /> nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm cao độ  và những ý tưởng mới mẻ của  <br /> nhân vật trữ tình buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.<br /> Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ  trước hết là “phải lạ  ở trên đời”. Đó là  <br /> một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc lớn <br /> lao, phi thường, phải chủ  động xoay chuyển trời đất, không để  cho trời đất tự  chuyển  <br /> vần. Nhà thơ  chuyển chữ ta thành chứ  tớ  . Tớ  phản ánh được cái hăm hở, lạc quan, trẻ <br /> trung. Hai câu thơ trên dường như có chút ngông nghênh tự phụ nhưng thực ra là sự bộc lộ <br /> sâu sắc về cái tôi cá nhân tích cực. Cái tôi này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối <br /> với hiện tại, với vận mệnh hôm nay của đất nước mà còn khẳng định nghĩa vụ  với lịch  <br /> sử. Đó là tư thế của người có chí khí lớn, muốn vươn tới những đỉnh cao của lịch sử.<br /> Cái chí làm trai mà cụ Phan nói trong bài thơ chắc chắn khiến chúng ta thấy cảm phục về <br /> những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử.<br /> Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc.  <br /> Rõ ràng nhân vật trữ tình tuy đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho <br /> cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả  dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác  <br /> giả  là hướng về  tương lai phía trước chứ  không phải là lối sống hoài niệm. Đây cũng  <br /> chính là một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ chúng ta không chỉ cảm nhận được ý <br /> nghĩa của chúng mà còn học tập được vào thực tế cuộc sống của mình.<br /> Lời thơ kết của bài thơ với hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại bàng đã  <br /> tung cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.<br /> Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, với giọng thơ trang nghiêm hào <br /> hùng mạnh mẽ, lôi cuốn đã toát lên một chí lớn phi thường không cam tâm làm nô lệ,  <br /> quyết đi tìm đường cứu nước. Đó không còn là lời nói mà đã biến thành hành động vượt <br /> bể Đông của ông. Bài thơ là một khúc anh hùng ca kêu gọi lên đường cứu nước mang giá  <br /> trị khích lệ động viên, tuyên truyền cách mạng không chỉ đối với thế hệ thanh niên ở giai <br /> đoạn đó mà còn là lời nhắn nhủ chung đối với thanh niên các thế hệ sau.<br /> Phan Bội Châu (1867 – 1940) là lãnh tụ kiệt xuất của các phong trào Duy Tân, Đông Việt <br /> Nam quang phục hội đầu thế kiX. Ông là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, được 25 triệu đồng <br /> bào tôn kính” (Nguyễn Ái Quốc). Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng hết lời ca ngợi Phan Bội <br /> Châu: “Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một – giữa tầng không mù cuốn mây tan – <br /> tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba – đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ.”<br /> Năm 1905, mở  đầu phong trào  Phan Bội Châu xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản  <br /> tìm đường cứu nước. Trong không khí chia tay với các đồng chí trong Hội Duy Tân, Phan  <br /> Bội Châu sáng tác bài “Xuất dương lưu biệt” (Lời để  lại khi chia tay để  ra nước ngoài)  <br /> bằng chữ Hán.<br /> Mở  đầu bài thơ, tác giả  nêu lên quan niệm về  chí nam nhi: “Sinh vi nam tử  yếu vi kỳ,  <br /> Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”. Tôn Quang Phiệt dịch là:<br /> “Làm trai phải lạ ở trên đời<br /> Há để càn khôn tự chuyển dời”<br /> Phan Bội Châu nêu lên quan niệm về chí làm trai mà các nhà nho trứ danh đều đồng tình.  <br /> Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ “Chí nam nhi” cũng từng nói: “Thông minh nhất nam tử,  <br /> Yếu vi thiên hạ kỳ”. Làm đấng nam nhi trên đời này phải làm điều kì lạ, kỳ tích để  giúp <br /> đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai là phải tung hoành ngang dọc, dời non lấp bể:<br /> “Há để càn khôn tự chuyển dời”<br /> Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như  vậy. Nội lực mạnh mẽ  phi  <br /> thường. Con người muốn tham gia vào sự  vận động của vũ trụ. “Há để  càn khôn tự <br /> chuyển dời” là câu hỏi tu từ vừa khẳng định vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng <br /> mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động  <br /> của con người đối với vũ trụ  như  vậy thật là tích cực, thật là cách mạng. Câu thơ  làm <br /> thức dậy nội lực của mỗi con người để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.<br /> Sau khi tỏ  bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác  <br /> giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: “Ư  bách niên trung tu hữu  <br /> ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”. Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch là:<br /> “Trong khoảng trăm năm cần có tớ<br /> Sau này muôn thuở há không ai?”<br /> Trong một nền văn học phi ngã (tôi) mà hiện lên một chữ  “ngã” sừng sững, phải nói là <br /> “kì” (lạ)!<br /> “Ư bách niên trung tu hữu ngã”<br /> Nhận thức về  sự  hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại như <br /> vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không  <br /> phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự  “chuyển  <br /> dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức  <br /> về  cái “tôi” như thể, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng, cũng như  có được một ý thức lưu  <br /> danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng” (Nguyễn Đình Chú).<br /> Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên  <br /> tải hậu cánh vô thùy?” (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi nhưng thật ra là để khẳng  <br /> định. Tác giả có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. <br /> Thơ  Phan Bội Châu xói vào tâm can người ta, kích thích vào ý thức trách nhiệm của mỗi  <br /> con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự  nhiên, chuyển dời xã hội. Đấy <br /> chính là thơ của một nhà cách mạng.<br /> Sang hai câu luận, tác giả càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông  <br /> đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền:<br /> “Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế<br /> Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”<br /> (Non sông đã chết sống thêm nhục<br /> Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)<br /> Tác giả  sử  dụng thủ  pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang sơn” <br /> (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng.<br /> “Non sông đã chết sống thêm nhục”<br /> Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có nhà Nho nào  <br /> nói một cách triệt để, thống thiết như  vậy. Đem sự  sống chết của cá nhân mà gắn liền <br /> với sự vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là  <br /> nhà ái quốc vĩ đại.<br /> Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ:<br /> “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”<br /> Câu thơ  nguyên tác trực cảm mãnh liệt hơn “Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”, (Hiền  <br /> thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi). Viết như vậy thì đúng như  cụ Huỳnh Thúc <br /> Kháng nói “đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ”. Không nên hiểu là cụ  Phan phủ  định sách <br /> của thánh hiền, mà nên hiểu cụ Phan đã hành cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, <br /> cái sáng suốt của một nhà cách mạng. Mà có ông Khổng, ông Mạnh, ông Lão nào dạy các <br /> đệ tử ngồi “tụng” sách của quý vị trong khi nước mất dân nô lệ đâu?<br /> Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự <br /> dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.<br /> Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề “xuất dương lưu biệt”<br /> “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ<br /> Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,<br /> (Muốn vượt biển Đông theo cánh gió<br /> Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).<br /> Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của  <br /> biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch hay, xứng với tinh thần của  <br /> nguyên tác. Nhưng câu kết “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” thì được cái tình của non  <br /> nước đối với người ra đi, chứ không sát với nguyên tác.<br /> “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”<br /> (Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)<br /> Hình tượng thơ  làm hiển hiện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi réo trắng xóa, lạ  là  <br /> không vỗ vào bờ mà “nhất tề phi” (cũng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể <br /> hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thơ  mà cũng là nhà cách <br /> mạng.<br /> Muốn hiểu được nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang  <br /> trước tác của cụ  thì tốt hơn hết là đọc bài thơ  “Xuất dương lưu biệt”. Một bài thơ  nhỏ <br /> cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non <br /> lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được <br /> quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ muốn cứu <br /> dân cứu nước.<br /> “Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành Tân, lỏi len đường mới.<br /> Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cầm quyền trông gió cũng gai ghê.<br /> Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, của dân chủ khêu đèn thêm sáng chói.”<br /> Đấy là mấy dòng Phan Bội Châu viết về Phan Châu Trinh, nhưng ta thấy hình ảnh của cả <br /> hai cụ  Phan, hai tâm hồn yêu nước lừng danh trong lịch sử  đấu tranh của dân tộc, giai <br /> đoạn đầu của thế kỉ này.<br /> Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ <br /> quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo  <br /> hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. <br /> Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách  <br /> mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ  qua mớ  giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để <br /> đón nhận tư  tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, <br /> nhằm tự  giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy <br /> vọng…<br /> Bài thơ  đã thể  hiện rất sinh động tư  thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất  <br /> dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề  nói rõ nhận thức của nhà thơ  về  chí làm trai –  <br /> một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:<br /> Làm trai phải lạ ở trên đời<br /> Há để càn khôn tự chuyển dời.<br /> Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định. Trước <br /> đó, trong thơ  trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ  nhắc đến (ở  các <br /> bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là  ở  bài thơ  của Phan Bội  <br /> Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao <br /> năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao  <br /> tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để “tự chuyển <br /> dời”. Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân <br /> Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm <br /> trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:<br /> Trong khoảng trăm năm cần có tớ,<br /> Sau này muôn thuở, há không ai?<br /> Ý thức về cái “tôi” đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình đang  <br /> tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử <br /> và cũng do sự  thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về  sự  thực nhức  <br /> nhối:<br /> Non sông đã chết sống thêm nhục,<br /> Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.<br /> Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội <br /> dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, “hiền thánh” thần tượng một thuở <br /> giờ  còn đâu nữa. Hai câu thơ  nhận định thực trạng lịch sử  bằng một cái nhìn dứt khoát. <br /> “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” – đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của  <br /> Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.<br /> Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, <br /> đầy dũng khí:<br /> Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,<br /> Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.<br /> “Vượt biển Đông” là cách nói có vẻ  khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. <br /> Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên “muôn trùng sóng bạc” tiễn chân như một yếu <br /> tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.<br /> Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống, nhưng  <br /> tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể <br /> hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh  <br /> hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân<br /> Bài làm 2<br /> Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người làng Đan  <br /> Nhiêm, nay là xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và lớn lên trong <br /> cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào cần Vương chống <br /> Pháp. Chế  độ  phong kiến suy tàn kéo theo sự  sụp đổ  của cả  một hệ  thống tư  tưởng  <br /> phong kiến già cỗi, lỗi thời. Tình hình đó đặt ra cho các chí sĩ yêu nước một câu hỏi lớn: <br /> Phải cứu nước bằng con đường nào? Trong không khí u ám bao trùm khắp đất nước thời <br /> đó, những tia sáng hy vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư truyền bá tư tưởng cách mạng  <br /> dân chủ  tư  sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền thuở <br /> trước. Người ta có thể  tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu nước <br /> mới, những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Vì thế, các nhà Nho tiên tiến của thời  <br /> đại như  Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tiên phong dấn bước, bất chấp nguy hiểm,  <br /> gian lao.<br /> Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên mở  ra con đường cho sự <br /> nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ  tư  sản. Mặc dù sự <br /> nghiệp không thành, nhưng ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về  lòng yêu nước thiết  <br /> tha và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất.<br /> Sinh thời, Phan Bội Châu không coi văn chương là mục đích của cuộc đời mình nhưng  <br /> trong quá trình hoạt động cách mạng, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh thần sắc <br /> bén  ấy để  tuyên truyền, cổ  động, khích lệ  tinh thần yêu nước của đồng bào ta. Năng <br /> khiếu văn chương, bầu nhiệt huyết sôi sục cùng sự  từng trải trong bước đường cách  <br /> mạng là cơ sở để Phan Bội Châu trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn với những tác phẩm  <br /> xuất sắc như: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ng ục trung  <br /> thư (1914), Trùng Quang tâm sử (1913 ­1917), Phan Bội Châu niên biểu (1929)…<br /> Năm 1904, ông cùng các đồng, chí của mình lập ra Duy Tân hội. Năm 1905, hội chủ <br /> trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị lực <br /> lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ  của các thế lực bên ngoài. Trước  <br /> lúc lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ  Xuất dương lưu biệt để  từ  giã bạn bè, đồng <br /> chí:<br /> Phiên âm chữ Hán:<br /> Sinh vi nam tử yếu hi kì,<br /> Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.<br /> Ư bách niên trung tu hữu ngã,<br /> Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.<br /> Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,<br /> Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!<br /> Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,<br /> Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.<br /> Dịch thơ:<br /> Làm trai phải lạ ở trên đời,<br /> Há để càn khôn tự chuyển dời.<br /> Trong khoảng trăm năm cần có tớ,<br /> Sau này muôn thuở, há không ai?<br /> Non sông đã chết, sống thêm nhục,<br /> Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!<br /> Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,<br /> Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.<br /> Bằng giọng thơ  tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, Lưu biệt khi xuất dương đã khắc <br /> họa vẻ  đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, với tư  tưởng  <br /> mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm  <br /> đường cứu nước<br /> Bài thơ mở đầu bằng việc khẳng định chí làm trai:<br /> Làm trai phải lạ ở trên đời,<br /> Há để càn khôn tự chuyển dời.<br /> Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có nghĩa là hiếm, lạ, khác thường <br /> cần được hiểu như những từ nói về  tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của công việc mà  <br /> kẻ  làm trai phải gánh vác. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong  <br /> kiến. Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã đề  cập đến chí làm trai trong thơ  ca. Phạm  <br /> Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn: Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe  <br /> chuyện Vũ Hầu (Tỏ  lòng). Trong bài Đi thi tự  vịnh, Nguyễn Công Trứ  khẳng định: Đã  <br /> mang tiếng  ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông… và nhấn mạnh: Chí làm trai <br /> nam, bắc, tây, đông, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí khí anh hùng).<br /> Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục thế hệ trẻ thời bấy giờ  ở sự táo bạo, quyết <br /> liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt thành bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm được  <br /> những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường. Câu thơ  thứ  nhất khẳng định điều  <br /> đó. Câu thơ thứ hai mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm trai  <br /> phải can dự vào việc xoay chuyển càn khôn, biến đổi thời thế chứ không phải chỉ giương  <br /> mắt ngồi nhìn thời cuộc đổi thay, an phận thủ thường, chấp nhận mình là kẻ đứng ngoài. <br /> Thực ra, đây là sự tiếp nối khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài Chơi xuân: Giang sơn  <br /> còn tô vẽ mặt nam nhi, Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Chân dung nhân vật trữ tình  <br /> trong bài Lưu biệt khi xuất dương hiện lên khá rõ qua hai câu đề. Đó là một con người  <br /> mang tầm vóc vũ trụ, tự ý thức rằng mình phải có trách nhiệm gánh vác những trọng trách <br /> lớn lao. Con người  ấy dám đối mặt với cả  càn khôn, vũ trụ  để  tự  khẳng định mình. Chí <br /> làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh xưa nay thường gắn  <br /> liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao  <br /> cả hơn nhiều.<br /> Cảm hứng và ý tưởng đó phần nào xuất phát từ  lí tưởng trí quân, trạch dân của các nhà <br /> Nho thuở trước nhưng tiến bộ hơn vì mang tính chất cách mạng. Theo quy luật, con tạo  <br /> xoay vần vốn là lẽ  thường tình, nhưng Phan Bội Châu ôm  ấp khát vọng chủ  động xoay  <br /> chuyển càn khôn, chứ  không để  cho nó tự  chuyển vần. Cũng có nghĩa là ông không chịu <br /> khuất phục trước số phận, trước hoàn cảnh. Lí tưởng tiến bộ ấy đã tạo cho nhân vật trữ <br /> tình trong bài thơ một tầm vóc lớn lao, một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thách thức với  <br /> càn khôn.<br /> Hai câu thực thể hiện ý thức về trách nhiệm cá nhân của nhà thơ, cũng là nhà cách mạng <br /> tiên phong trước cuộc đời:<br /> Trong khoảng trăm năm cần có tớ,<br /> Sau này muôn thuở, há không ai?<br /> Câu thứ  ba không chỉ  đơn giản xác nhận sự  có mặt của nhân vật trữ  tình  ở  trên đời mà <br /> còn hàm chứa một tâm niệm: Sự hiện diện của ta không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, <br /> vô ích; vì vậy, ta phải làm một việc gì đó lớn lao, hữu ích cho đời. Câu thứ tư có nghĩa là  <br /> ngàn năm sau, lẽ  nào, chẳng có người nối tiếp công việc của người đi trước. “Cái tôi <br /> công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm năm của đời người và ngàn năm <br /> của lịch sử. Sự khẳng định cần có tớ không phải với mục đích hưởng lạc mà là để  cống <br /> hiến cho đáng mặt nam nhi và lưu danh hậu thế. Câu hỏi tu từ  cũng là một cách khẳng  <br /> định mãnh liệt hơn khát khao cống hiến và nhận thức đúng đắn của tác giả: Lịch sử  là <br /> một dòng chảy liên tục, cần có sự góp mặt và gánh vác của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.  <br /> Trong bốn câu thơ  đầu, những hình  ảnh kì vĩ của thiên nhiên như  càn khôn, trăm năm, <br /> muôn thuở đã thể hiện cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là cội nguồn sức mạnh niềm  <br /> tin của nhân vật trữ tình.<br /> Ở  những năm đầu thế  kỉ XX, sau thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống thực <br /> dân Pháp, một nỗi bi quan, thất vọng đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu  <br /> nước. Tâm lý an phận thủ thường lan rộng. Trước tình hình đó, bài thơ Lưu biệt khi xuất  <br /> dương có ý nghĩa như  một hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, động viên mọi người <br /> đứng lên chống giặc ngoại xâm.<br /> Trong hai câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào hoàn cảnh thực tế  của lịch sử <br /> đương thời:<br /> Non sông đã chết, sống thêm nhục,<br /> Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.<br /> Lẽ nhục – vinh mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của đất nước và dân tộc: Non  <br /> sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó đồng nhất với quan điểm: Chết vinh còn  <br /> hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX.<br /> Câu thơ thứ 5 bày tỏ một thái độ dứt khoát, được thể hiện bằng ngôn ngữ đậm khẩu khí  <br /> anh hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Đó là khí tiết cương cường, bất khuất của  <br /> những con người không cam chịu cuộc đời nô lệ tủi nhục. Ý thơ mới mẻ mang tính chất  <br /> cách mạng.  Ở câu thứ  6, Phan Bội Châu đã thẳng thắn bày tỏ  ý kiến trước một thực tế <br /> chua xót là ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo đối với tình cảnh nước nhà lúc bấy giờ. <br /> Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ <br /> khư  khư theo đuổi thì chỉ  hoài công vô ích mà thôi. Tất nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn <br /> toàn phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng đưa ra một nhận định như thế thì quả  là <br /> táo bạo đối với một người từng là đệ  tử  của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng khí và <br /> nhận thức sáng suốt đó trước hết bắt nguồn từ lòng yêu nước thiết tha và khát vọng cháy <br /> bỏng muốn tìm ra con đường đi mới để  đưa nước nhà thoát khỏi cảnh nô lệ  lầm than.  <br /> Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, <br /> tức là học hỏi những tư tưởng cách mạng mới mẻ và tiến bộ. Bài thơ không đơn thuần là  <br /> chỉ để bày tỏ ý chí mà thực sự là một cuộc lên đường của nhân vật trữ tình:<br /> Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,<br /> Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.<br /> Các hình ảnh kì vĩ trong hai câu kết mang tầm vũ trụ: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng <br /> bạc. Tất cả như hòa nhập làm một với con người trong tư thế bay lên.<br /> Trong nguyên tác, hai câu 7 và 8 liên kết với nhau để  hoàn chỉnh một tứ  thơ  đẹp: Con  <br /> người đuổi theo ngọn gió lớn qua biển Đông, cả  vũ trụ  bao la Muôn lớp sóng bạc cùng <br /> bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề  phi). Tất cả tạo thành một bức tranh hoành tráng  <br /> mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng lớn lao, bay bổng lên trên thực  <br /> tại tối tăm khắc nghiệt, lồng lộng giữa trời biển mênh mông. Bên dưới đôi cánh đại bàng <br /> đó là muôn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, dường như  muốn tiếp sức cho  <br /> con người bay thẳng tới chân trời mơ   ước. Hình  ảnh đậm chất sử  thi này đã thắp sáng <br /> niềm tin và hy vọng cho một thế hệ mới trong thời đại mới.<br /> Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là một cuộc ra đi bí mật, tiễn đưa chỉ có vài ba <br /> đồng chí thân thiết nhất. Dù phía trước chì mới le lói vài tia sáng của  ước mơ, nhưng <br /> người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin tưởng.<br /> Sức thuyết phục, lôi cuốn của bài thơ chính là ở ngọn lửa nhiệt tình đang bừng cháy trong  <br /> lòng nhân vật trữ  tình. Bài thơ  đã thể  hiện hình tượng người anh hùng trong buổi lên  <br /> đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sống ngang tầm vũ trụ. Người anh hùng ấy ý  <br /> thức rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn vong của  <br /> quốc gia, dân tộc.Bài thơ  Lưu biệt khi xuất dương được viết theo bút pháp  ước lệ  và  <br /> cường điệu, rất phù hợp với mục đích cổ vũ, động viên. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết,  <br /> vừa sôi sục, hào hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đau đớn, niềm lạc quan, nhiệt tình <br /> hành động cùng tư  tưởng cách mạng đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh  <br /> trong bài thơ.  m hưởng hào hùng của bài thơ  có sức lay động, thức tỉnh rất lớn đối với  <br /> mọi người. Đây là bài thơ  từ biệt mà cũng là lời kêu gọi, thúc giục lên đường. Tầm vóc  <br /> bài thơ  hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả  dân tộc ngưỡng <br /> mộ và tin tưởng. Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va­ren và Phan Bội Châu (1925) tác  <br /> giả Nguyễn Ái Quốc đã suy tôn Phan Bội Châu là: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân <br /> vì độc lập được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng.<br /> Bài làm 3<br /> Xuất dương lưu biệt là bài thơ  khẳng định chí làm trai và quyết tâm làm nên sự  nghiệp <br /> lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm và ý tưởng mới mẻ của Phan Bội Châu.<br /> Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ  trước hết là “phải lạ  ở trên đời”. Đó là  <br /> một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc lớn <br /> lao, phải chủ động xoay chuyển trời đất. Nhà thơ  chuyển chữ  "ta" thành chứ  "tớ". "Tớ"  <br /> phản ánh được sự lạc quan, trẻ trung. Hai câu thơ  trên dường như có chút ngông nghênh <br /> nhưng thực ra đã bộc lộ sâu sắc về cái tôi cá nhân tích cực của tác giả. Cái tôi này không  <br /> những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, với vận mệnh của đất nước mà còn  <br /> khẳng định nghĩa vụ với lịch sử. Đó là tư thế của một người có chí khí.<br /> Cái chí làm trai mà Phan Bội Châu nói trong bài thơ  khiến chúng ta thấy cảm phục về <br /> những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử, đất  <br /> nước.<br /> Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc.  <br /> Rõ ràng tác giả  tuy đang nói về  mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho cả  một  <br /> tầng lớp, một thế  hệ  và cao hơn là cả  dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác giả  là  <br /> hướng về tương lai phía trước chứ  không phải là lối sống hoài niệm. Đây cũng chính là  <br /> một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ Lưu biệt khi xuất dương chúng ta có thể  học  <br /> tập và áp dụng vào thực tế cuộc sống của mình. Xuất dương lưu biệt.<br /> Đoạn kết của bài thơ  với hai câu thơ  tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại bàng  <br /> đã tung cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. <br /> Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, với giọng thơ trang nghiêm hào <br /> hùng mạnh mẽ, lôi cuốn đã toát lên một chí khí phi thường không cam tâm làm nô lệ, <br /> quyết tâm đi tìm đường cứu nước. Đó không còn là lời nói mà đã biến thành hành động  <br /> vượt biển Đông của Phan Bội Châu. Bài thơ là một khúc ca hùng tráng kêu gọi lên đường  <br /> cứu nước mang giá trị khích lệ động viên, tuyên truyền cách mạng không chỉ đối với thế <br /> hệ thanh niên ở giai đoạn đó mà còn là lời nhắn nhủ chung đối với thanh niên các thế hệ <br /> sau.Xuất dương lưu biệt.<br /> Làm trai phải lạ ở trên đời<br /> Há để càn khôn tự chuyển dời<br /> Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như  vậy. Nội lực mạnh mẽ  phi  <br /> thường. Con người muốn tham gia vào sự  vận động của vũ trụ. “Há để  càn khôn tự <br /> chuyển dời” vừa là câu hỏi tu từ vừa khẳng định, vừa muốn đối thoại với hết thảy các <br /> đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác  <br /> động của con người đối với vũ trụ  như  vậy thật tích cực, thật cách mạng. Câu thơ  làm  <br /> nội lực trong mỗi con người trỗi dậy để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.<br /> Sau khi tỏ  bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác  <br /> giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: “Ư  bách niên trung tu hữu  <br /> ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”. Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch là:<br /> Trong khoảng trăm năm cần có tớ<br /> Sau này muôn thuở há không ai?<br /> Nhận thức về  sự  hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại như <br /> vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không  <br /> phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự  “chuyển  <br /> dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức  <br /> về cái “tôi” như vậy quả là cứng cỏi, đẹp vô cùng.<br /> Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên  <br /> tải hậu cánh vô thùy?” (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi nhưng thật ra là để khẳng  <br /> định. Phan Bội Châu có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào <br /> dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người đọc, kích thích vào ý thức trách nhiệm  <br /> của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự  nhiên, chuyển dời xã  <br /> hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.<br /> Sang hai câu luận, ông càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông  <br /> đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền: Xuất dương lưu biệt:<br /> “Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế<br /> Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”<br /> (Non sông đã chết sống thêm nhục<br /> Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)<br /> Phan Bội Châu sử dụng thủ pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang  <br /> sơn” (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng.<br /> Non sông đã chết sống thêm nhục<br /> Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có ai nói lên  <br /> một cách triệt để, thống thiết như vậy. Đem sự sống chết của cá nhân mà gắn liền với sự <br /> vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái <br /> quốc vĩ đại. Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ: Xuất dương lưu  <br /> biệt:<br /> Hiền thánh còn đâu học cũng hoài<br />  Không nên hiểu là Phan Bội Châu phủ định sách của thánh hiền, mà nên hiểu ông đã hành <br /> cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. <br /> Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự <br /> dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.<br /> Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề Xuất dương lưu biệt<br /> “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ<br /> Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,<br /> (Muốn vượt biển Đông theo cánh gió<br /> Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).<br /> Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của  <br /> biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch rất hay, xứng với tinh thần  <br /> của nguyên tác.<br /> Hình tượng thơ làm hiện lên trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sục sôi , lạ là không vỗ vào  <br /> bờ  mà “nhất tề  phi” (cũng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ  mộng thể  hiện được  <br /> tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thơ – nhà cách mạng. Xuất dương lưu <br /> biệt<br /> Muốn hiểu được Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang thơ của ông thì trước  <br /> hết chỉ cần đọc bài thơ Xuất dương lưu biệt. Một bài thơ nhỏ cũng cho ta thấy được chí <br /> nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non lấp bể, thấy được ý thức <br /> trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, <br /> vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ muốn cứu dân cứu nước. Xuất  <br /> dương lưu biệt<br /> Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ <br /> quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo  <br /> hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. <br /> Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách  <br /> mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ  qua mớ  giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để <br /> đón nhận tư  tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, <br /> nhằm tự  giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy <br /> vọng…<br /> Xuất dương lưu biệt là một khúc hát giục giã lên đường. Đề  tài này có tính chất truyền <br /> thống, nhưng tư  tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ  mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến  <br /> cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng  <br /> ca của một vị  anh hùng mà suốt đời không hề  biết mệt mỏi trong hành động cứu nước  <br /> thương dân.<br />  <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0