intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển bền vững công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên

Chia sẻ: Vân Hi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

5
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích những thách thức và thời cơ của ngành công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên và đề xuất khuyến nghị nhằm phát triển nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên theo hướng bền vững gắn với phát triển công nghiệp chế biến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển bền vững công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên

  1. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VÙNG TÂY NGUYÊN TS. Vũ Ngọc Anh Khoa Ngân hàng - Bảo hiểm, Học viện Tài chính TÓM TẮT: Từ lâu, công nghiệp chế biến đã được xem là mũi nhọn phát triển kinh tế của Việt Nam bởi những đóng góp quan trọng của nó trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng GDP của nền kinh tế quốc dân cũng như nhiều đóng góp quan trọng khác. Trong đó, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm được Đảng và Chính phủ Việt Nam xem là ngành công nghiệp trọng điểm của nước ta hiện nay, là ngành có thế mạnh lâu dài, đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác, đặc biệt là sự phát triển của lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Đối với các vùng nguyên liệu lớn và cho giá trị xuất khẩu cao như Tây Nguyên, công nghiệp chế biến càng chứng tỏ được vai trò to lớn của mình trong việc cung cấp nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng như: cà phê, hồ tiêu, điều, cao su… nâng cao giá trị gia tăng, mang lại nguồn thu lớn về ngoại tệ, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững nông sản xuất khẩu. Tuy vậy công nghiệp chế biến chưa thực sự phát triển xứng với tiềm năng cũng như chưa khai thác triệt để lợi thế vốn có của vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước này. Bài viết phân tích những thách thức và thời cơ của ngành công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên và đề xuất khuyến nghị nhằm phát triển nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên theo hướng bền vững gắn với phát triển công nghiệp chế biến. TỪ KHÓA: công nghiệp chế biến, phát triển bền vững, nông sản xuất khẩu. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là quốc gia có lợi thế so sánh về phát triển nông nghiệp. Kể từ khi Đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách phù hợp của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp được ban hành đã tạo động lực phát huy tiềm năng này, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế đất nước và hỗ trợ đắc lực cho cải thiện phúc lợi cư dân nông thôn. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thời gian tới cần ưu tiên xem xét một số giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu nông sản bền vững. Ở nước ta, Tây Nguyên có hơn 5 triệu héc-ta đất nông nghiệp và có lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại cây trồng. Vùng đất này trở thành trọng điểm sản xuất 348
  2. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” các loại nông sản chủ lực của cả nước như cà-phê, hồ tiêu, cao-su, điều, mắc-ca... cùng nhiều loại cây ăn quả. Tuy nhiên, nền nông nghiệp của toàn vùng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa vẫn xảy ra, có lúc nông sản "tắc" đầu ra, đẩy nông dân vào vòng luẩn quẩn trồng-chặt, chặt-trồng... Để giúp Tây Nguyên thoát khỏi vòng luẩn quẩn nói trên, đồng thời phát huy được hết thế mạnh tiềm năng, xứng đáng trở thành vùng trọng điểm kinh tế lớn của cả nước, ngoài vấn đề hỗ trợ người dân về công nghệ canh tác, thu hoạch, chất lượng giống cây trồng vật nuôi hay công tác quản lý giống cây trồng thì một trong những vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay là phát triển và hỗ trợ công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cho nông sản xuất khẩu nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu là thế mạnh của Tây nguyên trên thị trường thế giới. Đây cũng chính là một trong những nội dung quan trọng của phát triển nông nghiệp bền vững. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM 1. Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu với phát triển bền vững Phát triển nông nghiệp bền vững một là một nội dung quan trọng trong phát triển bền vững nói chung đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Nói một cách dễ hiểu, nông nghiệp bền vững là một chuỗi sản xuất lương thực, thực phẩm, cây trồng, vật nuôi trong đó người sản xuất sử dụng những kỹ thuật nông nghiệp giúp bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng, đồng thời đối xử tốt với vật nuôi. Nông nghiệp bền vững giúp chúng ta có nguồn thực phẩm tốt cho sức khỏe mà không làm ảnh hưởng xấu đến những thế hệ sau này. Điều cốt lõi làm nên một nền nông nghiệp bền vững là tìm được sự cân bằng giữa nhu cầu sản xuất lương thực thực phẩm và việc bảo tồn hệ sinh thái môi trường. Đồng thời cũng thúc đẩy ổn định kinh tế cho nông dân, giúp người nông dân có chất lượng cuộc sống tốt hơn. Để sản xuất nông nghiệp theo hướng cân bằng và bền vững cả về mặt xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong nước, vai trò của công nghiệp chế biến nông sản là không nhỏ. Đây đang là hướng đi được kỳ vọng giúp các giúp các doanh nghiệp chủ động thị trường tiêu thụ và nâng cao giá trị cho nông sản Việt Nam, đồng thời là chìa khóa giúp giải quyết những vấn đề xã hội như công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, an ninh lương thực hay “giải cứu” nông sản khi “được mùa, rớt giá” hay trong những kịch bản bất ngờ như diễn biến của đại dịch Covid-19 vừa qua. Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản có thể được tóm tắt như sau: Thứ nhất, đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng cao. 349
  3. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Các sản phẩm nông nghiệp nói chung và nông sản chế biến nói riêng giữ vị trí quan trọng đối với đời sống con người. Nhu cầu xã hội về nông sản ngày càng tăng một mặt do dân số không ngừng tăng, mặt khác, thu nhập đầu người cũng tăng nên yêu cầu về số lượng và chất lượng hàng hóa, trong đó có nông sản chế biến, ngày càng cao. Thứ hai, góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Nông sản nếu không qua chế biến thì không thể vận chuyển đi xa, thời gian tiêu thụ ngắn, không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của dân cư ở những vùng khác nhau. Nhờ công nghiệp chế biến mà nông sản được vận chuyển dễ dàng hơn, cũng như được cất trữ để bán trên thị trường lúc trái vụ. Điều này khắc phục được điểm yếu của hàng hóa nông nghiệp là mang tính thời vụ cao. Đồng thời công nghiệp chế biến cũng góp phần làm tăng xuất khẩu nông sản. Nếu chỉ xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế thì không thể cạnh tranh được với các nước khác, nhất là với những nước trong khu vực có nguồn nguyên liệu dồi dào và công nghiệp chế biến phát triển. Chính vì vậy, muốn thúc đẩy xuất khẩu nông sản cần tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản trong nước để mở rộng thị trường. Thứ ba, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển sản xuất nông sản hàng hóa và hình thành vùng chuyên canh lớn. Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phải tập trung, đồng nhất thì chế biến mới đạt hiệu quả cao. Việc phát triển chế biến sản phẩm nào là do nắm bắt thị trường cho nên sản xuất nông nghiệp sẽ thay đổi để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của công nghiệp chế biến. Quy mô, tốc độ phát triển của chế biến nông sản phụ thuộc vào trình độ, tính chất phát triển của sản xuất nông nghiệp, mặt khác, nhờ sự phát triển chế biến nông sản mà xuất khẩu nông nghiệp sẽ phát triển theo hướng chuyên canh có năng suất cao, tỷ suất hàng hóa lớn, hiệu quả kinh tế cao. Công nghiệp chế biến còn có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển bền vững, có hiệu quả Thứ tư, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Công nghiệp chế biến tại chỗ trong nông nghiệp, nông thôn góp phần giải quyết nhu cầu việc làm cho lao động nhàn rỗi ở khu vực này. Cũng chính công nghiệp chế biến giải quyết tốt nạn di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành phố, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nông thôn. Chế biến nông sản vừa làm tăng giá trị sử dụng và cũng làm tăng thu nhập cho người lao động. Công nghiệp chế biến nếu phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của ngành sản xuất nông nghiệp thì sẽ thu hút được nguồn lao động dồi dào, giá rẻ tại địa phương. Đây là yếu tố giúp giảm chi phí đầu vào, giá thành sản phẩm nông sản, tạo lợi thế cạnh tranh cho nông sản chế biến xuất khẩu, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề xã hội liên quan. 350
  4. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Với những ý nghĩa quan trọng nêu trên, bài viết phân tích thực trạng phát triển công nghiệp chế biến ở Việt Nam trước khi xem xét toàn cảnh tình hình chế biến nông sản ở Tây Nguyên nhằm nhận diện những khó khăn, thách thức trong việc phát triển bền vững nông nghiệp vùng Tây Nguyên - một trong những vùng kinh tế quan trọng của cả nước. Trên cơ sở đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển bền vững nông nghiệp vùng Tây Nguyên gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản. 2. Thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở Việt Nam Trong chỉ thị số 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 04/06/2020 về một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp có nêu rõ Nông nghiệp, nông thôn luôn có vị trí chiến lược lâu dài và là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. Ngành nông nghiệp có vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và ổn định đời sống, an sinh xã hội. Trong thành công chung của toàn ngành nông nghiệp có sự đóng góp to lớn của lĩnh vực công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản. Theo đó, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản thực sự có tiến bộ lớn và thu hút được sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, góp phần đáng kể vào nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản, tiêu thụ đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, cả nước đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản với trên 7.500 cơ sở quy mô lớn và hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ. Tỷ lệ nông sản chế biến xuất khẩu chiếm tới 45% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản; tăng trưởng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản đạt kết quả khả quan, như: Thủy sản đạt 6,6%/năm, rau quả đạt 15,1%/năm, điều nhân đạt 5,0%/năm, gạo đạt 8,9%/năm, cao su đạt 11,3%/năm, sản phẩm gỗ đạt 14,9%/năm. Theo Bộ NN&PTNT, trong 10 năm trở lại đây, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng đạt khoảng 5-7%/năm. Hiện nay, tại nhiều địa phương đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông sản có công suất thiết kế đảm bảo chế biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu nông sản/năm, có trên 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu, trong số đó chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, đối với ngành hàng lúa gạo, hiện cả nước có khoảng 580 cơ sở xay xát gạo quy mô công nghiệp, với công suất trên 10.000 tấn thóc/năm chiếm khoảng 61,5%. Rau quả, có trên 150 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp với tổng công suất thiết kế trên 1 triệu tấn sản phẩm/năm, tập trung ở 28 tỉnh/thành phố, sản lượng sản xuất thực tế đạt trên 600.000 tấn sản phẩm. 351
  5. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Cà phê, có 239 doanh nghiệp chế biến cà phê quy mô công nghiệp, tập trung ở Tây Nguyên (chiếm 36,4%) và Đông Nam Bộ (chiếm 43,1%). Cao su, có 161 doanh nghiệp sơ chế mủ cao su với tổng công suất thiết kế là 1,22 triệu tấn mủ khô/năm, trong đó sản phẩm cao su khối tiêu chuẩn Việt Nam chiếm khoảng 70% tổng sản lượng. Điều, có hơn 465 doanh nghiệp chế biến điều với tổng công suất thiết kế trên 1,5 triệu tấn hạt/năm nằm trên địa bàn 20 tỉnh/thành phố. Các doanh nghiệp có quy mô công suất lớn chiếm 30% số cơ sở, chiếm trên 70% tổng sản phẩm chế biến. Về chế biến gỗ, cả nước có khoảng 4.500 cơ sở chế biến gỗ, tập trung 80% ở các tỉnh Miền Nam, mỗi năm tiêu thụ trên 40 triệu m3 gỗ. Thủy sản, có 636 cơ cơ sở chế biến công nghiệp gắn với xuất khẩu và trên 3.000 cơ sở chế biến nhỏ với sản lượng chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa khoảng 4,5 - 5 triệu tấn/năm. Nhờ đó, đã nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao; trong đó, nổi bật là hệ thống trang bị động lực, số lượng, chủng loại máy, thiết bị nông nghiệp tăng nhanh, nhiều loại máy, thiết bị được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp. Trong năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước đã lập kỷ lục mới, đạt gần 49 tỷ USD, tăng gần 15% so với năm 2020. Đáng chú ý, có 6 nhóm mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD bao gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, rau quả, hạt điều, gạo, cao su. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VÙNG TÂY NGUYÊN GẮN VỚI CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN 1. Thực trạng phát triển nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên Tây Nguyên là vùng địa lý sinh thái núi - cao nguyên phía Tây Trường Sơn Nam của đất nước, bao gồm địa giới hành chính của 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với diện tích gần 5,4 triệu ha. Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, với định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước “xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn vững chắc về an ninh - quốc phòng và vùng trọng điểm kinh tế của cả nước”, Tây Nguyên đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng, từ vùng bất ổn, nghèo nàn sau chiến tranh thành vùng kinh tế - xã hội ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ vững, tăng trưởng cao, đời sống người dân được cải thiện. Tài nguyên đất của Tây Nguyên rất đa dạng, với 14 loại đất chính, đất đỏ chiếm hơn 50% diện tích đất tự nhiên, trong đó có khoảng 1,5 triệu ha đất đỏ bazan, được xếp vào loại tốt nhất thế giới, rất phù hợp cho các loại cây công nghiệp như cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, 352
  6. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” ngô...Trong 9 nhóm hàng nông sản xuất khẩu (NSXK) chủ lực của Việt Nam, Tây Nguyên đã có tới 6 mặt hàng nông sản tham gia, đứng đầu là cà phê và hồ tiêu. Xét về cơ cấu, diện tích canh tác cà phê, cao su, hạt điều chiếm tỷ trọng cao nhất. Dẫn đầu là diện tích cà phê với 63,50% diện tích, cao su 19,40% và hạt điều 11,40%. Mức độ độc canh của các tiểu vùng là khá cao: Vùng chè tập trung chủ yếu tại Lâm Đồng với gần 95% diện tích. Vùng cà phê tập trung tại Đăk Lăk, chiếm hơn 37,9% diện tích. Vùng cao su tập trung tại Gia Lai với 49,8% và Kon Tum 21,5% % diện tích. Vùng hồ tiêu tập trung tại Gia Lai với trên 30% diện tích và Đăk Nông 39,43% diện tích. Vùng điều tại Đăk Lăk, chiếm 44,6% diện tích. Khu vực Tây Nguyên đã tận dụng được lợi thế từ các FTA để thúc đẩy xuất khẩu, qua đó giúp doanh nghiệp vượt khó vươn lên. Xuất khẩu cao su năm 2021 đạt 1,93 triệu tấn, đem về 3,24 tỷ USD. Bên cạnh việc giá cao su xuất khẩu tăng mạnh, thành công của xuất khẩu cao su trong năm qua còn đến từ việc cao su Việt Nam đang ngày càng thâm nhập sâu hơn vào nhiều thị trường quan trọng, giúp doanh nghiệp cao su vùng Tây Nguyên phục hồi, tạo đà phát triển trong năm 2022. Cùng với cao su, một nông sản chủ lực khác ở vùng Tây Nguyên là cà phê. Trong năm qua, xuất khẩu cà phê cả nước đạt 1,52 triệu tấn, trị giá xấp xỉ 3 tỷ USD, giảm 2,7% về lượng, nhưng tăng 9,4% về trị giá so năm 2020. Đáng chú ý, việc tận dụng hiệu quả Hiệp định EVFTA đã giúp doanh nghiệp ngành cà phê xuất khẩu ổn định. Ngành nông nghiệp cho rằng, phải xây dựng được chiến lược xuất khẩu cho từng mặt hàng nông sản, tổ chức sản xuất theo xu hướng tiêu dùng xanh của thế giới, xây dựng được đồng hộ hệ thống logistics, xuất khẩu nông sản mới đảm bảo bền vững, từ đó mới tận dụng hiệu quả Hiệp định EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường châu Âu. 2. Thực trạng công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên Ngoài xuất khẩu các mặt hàng nông sản ở dạng thô, các tỉnh Tây Nguyên cũng khuyến khích các doanh nghiệp trong, ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến sâu các mặt hàng nông sản xuất khẩu để góp phần nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông sản. Tháng 9/2019, tại cụm công nghiệp xã Thuận An, huyện Đắk Mil, Đắk Nông, Công ty cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu Tây Nguyên đã tổ chức lễ khởi công xây dựng nhà máy chế biến nông sản chất lượng cao. Dự án là một khu phức hợp các chuỗi chế biến nông sản chất lượng cao như: chế biến cà phê 3 trong 1, 5 trong 1; ca cao 3 trong 1, 4 trong 1; chế biến nước ép trái cây; trà các loại… Khi đi vào hoạt động vào cuối năm 2020, dự án được kỳ vọng sẽ tạo ra sản phẩm có giá trị cao, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông sản của địa phương. 353
  7. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản xuất khẩu là một trong những mục tiêu trọng tâm được UBND tỉnh Đắk Nông đặt ra tại Quyết định số 03/2006/QĐ-UBND ngày 5/1/2006 vể việc Quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2006 đến 2010, có xét đến năm 2020. Nhờ đó, đến nay, nhiều loại nông sản địa phương đã thoát được tình trạng bán thô, giá trị thấp. Đơn cử, thời gian qua, công nghiệp chế biến cà phê đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, giúp thu hút các nhà đầu tư có dự án đầu tư với quy mô lớn chế biến sâu sản phẩm cà phê nhân phục vụ cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, vài năm trở lại đây để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường nước ngoài đối với sản phẩm cà phê “sạch”. Do đó, đã có nhiều nhà đầu tư đầu tư dây truyền chế biến cà phê bột nguyên chất chất lượng cao có thương hiệu, uy tín trên thị trường như Công ty CP Đầu tư và Xuất nhập khẩu An Phong Đắk Nông (thương hiệu cà phê Dano), Công ty TNHH MTV cà phê Bazan Đắk Nông (thương hiệu Cà phê Enjoy), HTX Nông nghiệp Công Bằng Thuận An (thương hiệu Cà phê Đắk Đam)... Các sản phẩm cà phê sau chế biến này đã mang lại giá trị tương đối cao, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, ngày càng khẳng định thương hiệu cà phê Đắk Nông trên thị trường. Ngay tại Đắk Lắk hiện nay cũng đã có nhiều doanh nghiệp trong, ngoài nước như Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển An Thái, Công ty TNHH Nam Nguyên, Công ty TNHH Cà phê Ngon… đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến cà phê bột, cà phê hòa tan để xuất khẩu. Hoặc với cây cao su, ngành công nghiệp chế biến cao su trên địa bàn tỉnh giữ được giá trị sản xuất ổn định nhờ vào vùng nguyên liệu ổn định. Đến nay, đã có 5 đơn vị chế biến mủ cao su với tổng năng lực sản xuất là 18.500 tấn/năm. Với sản phẩm điều, ngành công nghiệp chế biến điều trong giai đoạn 2011-2020 cơ bản đã phát triển đúng hướng, phù hợp với tiềm năng về nguồn nguyên liệu trên địa bàn tỉnh, giá trị sản xuất của ngành trong giai đoạn luôn giữ được sự ổn định cao, các sản phẩm chế biến có chất lượng cao đạt mục đích cho nhu cầu xuất khẩu. Tương tự, ngành công nghiệp chế biến hồ tiêu trong giai đoạn 2011-2020 đã có sự phát triển mạnh mẽ, phù hợp với định hướng phát triển ngành. Đến nay, đã có 10 doanh nghiệp chế biến hồ tiêu với tổng năng lực sản xuất là 26.000 tấn/năm. Một số dự án có năng lực sản xuất lớn như: Công ty CP Đầu tư và Xuất nhập khẩu An Phong Đắk Nông (công suất 10.000 tấn/năm), Công ty CP Sam nông nghiệp công nghệ cao (công suất 9.000 tấn/năm). Các sản phẩm chế biến sâu phục vụ nhu cầu cho xuất khẩu gồm có: tiêu đen, tiêu trắng. Ngoài ra, năm 2015 Công ty CP Đầu tư và Xuất nhập khẩu An Phong Đắk Nông đã 354
  8. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” triển khai đề tài khoa học chế biến sản phẩm tinh dầu tiêu và Piperine qua đó nâng cao giá trị sản phẩm. Các tỉnh Tây Nguyên cũng đã đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, hoặc các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng mở rộng hình thức bán hàng trực tiếp cho các bạn hàng lớn, người tiêu thụ cuối cùng tại các quốc gia trên thế giới… Bên cạnh đó, lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên cũng chú trọng đến việc tạo điều kiện, đảm bảo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi, tổ chức các diễn đàn doanh nghiệp, hội nghị trao đổi nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến nông sản xuất khẩu với mục tiêu hỗ trợ tối đa khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình phát triển nông sản xuất khẩu bền vững của địa phương. Tuy nhiên, theo đánh giá, các mặt hàng xuất khẩu hiện nay của Tây Nguyên vẫn chủ yếu là nguyên liệu thô nên giá trị gia tăng đạt thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Cụ thể, ngay tại Đắk Lắk, vùng trọng điểm cà phê, hồ tiêu của cả nước nhưng hàng năm cũng xuất khẩu thô từ 215.000 tấn cà phê nhân, trên 4.800 tấn hạt tiêu, trên 5.000 tấn mủ cao su… 3. Khó khăn, thách thức trong phát triển bền vững nông sản xuất khẩu tại Tây Nguyên Phát triển nói chung và phát triển nông sản nói riêng theo quan điểm bền vững không phải là tìm cách tăng trưởng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu bằng mọi giá mà sự tăng trưởng đó phải luôn bảo đảm hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Phát triển bền vững nông sản xuất khẩu ở Tây Nguyên còn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức. Công nghệ chế biến lạc hậu, mẫu mã chưa hấp dẫn, giá thành sản xuất cao dẫn đến cạnh tranh kém, bị ép giá trên thị trường. Năng lực tìm kiếm thị trường của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp còn yếu. Dự báo thông tin giá cả thiếu chính xác, doanh nghiệp luôn lấy lợi ích của mình làm mục tiêu kinh doanh mà bỏ quên người nông dân, người trực tiếp làm ra sản phẩm. Chưa tạo được sự gắn kết giữa sản xuất với chế biến, tiêu thụ; từ cung ứng các yếu tố đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm cuối cùng để tạo nên chuỗi giá trị sản phẩm. Các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Do đó, khả năng cạnh tranh chưa cao so với các đối thủ khác trên thị trường. Bên cạnh đó, giá trị gia tăng, chất lượng của sản phẩm vẫn còn rất thấp. Đa số các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của vùng đều dưới dạng thô hoặc sơ chế nên giá trị thu được chưa cao. Liên kết phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp tuy đã bước đầu hình thành đối với một số sản phẩm nhưng còn nặng tính tự phát, chưa phát huy hiệu quả, mới dừng lại ở khâu sản xuất và sơ chế thô, chưa có sự kết nối giữa sản xuất - chế biến - thị trường, từ cung ứng các yếu tố đầu vào đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm cuối cùng để 355
  9. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” tạo ra những sản phẩm có khả năng tiếp cận trực tiếp vào chuỗi giá trị toàn cầu với thương hiệu và giá trị gia tăng cao. Giá trị gia tăng để lại cho Tây Nguyên trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp còn thấp và bắt đầu có xu hướng giảm. Cà phê tuy chiếm phần lớn sản lượng cà phê của cả nước, nhưng chưa có chiến lược thị trường phù hợp để thúc đẩy phát triển bền vững, doanh nghiệp trong nước chưa liên kết sản xuất với chế biến, tiêu thụ để làm chủ thị trường, còn bị doanh nghiệp nước ngoài chèn ép, chiếm lĩnh thị trường, thương hiệu. Lực lượng doanh nghiệp - nhân tố chủ lực của công cuộc phát triển hiện đại, lực lượng nòng cốt để xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm vẫn rất mỏng và yếu. Số lượng doanh nghiệp ở Tây Nguyên chỉ chiếm 2,67% tổng số doanh nghiệp cả nước. Mặc dù Tây Nguyên là vùng sản xuất nông lâm nghiệp có tiềm năng rất lớn, nhưng 62,49% doanh nghiệp của Tây Nguyên thuộc khu vực dịch vụ; 32,22% doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp, xây dựng và chỉ có 5,28% doanh nghiệp thuộc khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản. Các doanh nghiệp tư nhân ở Tây Nguyên thường có quy mô vừa và nhỏ, việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất chưa cao, ít có doanh nghiệp tham gia đầu tư sâu vào công nghiệp chế biến nông lâm sản mà mới chỉ dừng lại ở hoạt động sơ chế. Vì vậy, các doanh nghiệp ở Tây Nguyên năng lực cạnh tranh thấp, chịu ảnh hướng lớn từ các rủi ro xuất phát từ thị trường xuất khẩu, nhất là rủi ro về giá. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VÙNG TÂY NGUYÊN GẮN VỚI CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN 1. Nhóm khuyến nghị chung nhằm phát triển công nghiệp chế biến Nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến, đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 nông nghiệp Việt Nam đứng trong số 15 nước phát triển nhất thế giới, trong đó, ngành chế biến nông sản đứng trong số 10 nước hàng đầu thế giới và là một trung tâm chế biến sâu và logistic của thương mại nông sản toàn cầu, các Bộ, Ban, Ngành có liên quan cần thực hiện một số công việc sau: - Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tổ chức sản xuất hàng hóa lớn gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ; - Thúc đẩy phát triển cánh đồng lớn với cơ giới hóa đồng bộ trong các khâu của chuỗi giá trị nông sản; - Đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế tạo máy và thiết bị phụ trợ cho ngành nông nghiệp theo hướng chuyên sâu; - Hình thành và phát triển hệ thống logistics đồng bộ nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh hàng nông sản; tăng cường ứng dụng, chuyển giao tiến bộ, khoa học công nghệ vào chế biến, bảo quản nông sản và cơ giới hóa nông nghiệp; 356
  10. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” - Đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật chuyên sâu và nhân lực quản trị cho phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến nông sản; rà soát, hoàn thiện và đảm bảo nguồn lực thực hiện các cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, thuế, bảo hiểm nông nghiệp và thủ tục hành chính nhằm thu hút mạnh mẽ hơn nữa đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân; - Tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông sản đồng thời khai thác tốt thị trường tiêu thụ nông sản trong nước. 2. Nhóm khuyến nghị riêng với khu vực Tây Nguyên Để nâng cao vị thế của các sản phẩm nông sản xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh của Tây Nguyên, hướng đến phát triển bền vững nông sản vùng gắn với công nghiệp chế biến cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, ban hành cơ chế chính sách đặc thù liên kết sản xuất nông lâm nghiệp cho toàn vùng Tây Nguyên, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nông nghiệp, tạo chuỗi gắn với chế biến sâu, tạo giá trị gia tăng cao, mang lại cho nông dân Tây Nguyên lợi ích lớn và bền vững. Phải coi đây là giải pháp mang tính chiến lược quan trọng hàng đầu đối với Tây Nguyên. Thứ hai, thúc đẩy hình thành và phát triển các liên kết theo chuỗi giá trị đối với một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của vùng (trước hết là cà phê, hồ tiêu) trên cơ sở liên kết giữa các doanh nghiệp, các cơ sở, các hộ sản xuất kinh doanh từ cung ứng các yếu tố đầu vào đến sản xuất và chế biến sâu, tạo ra sản phẩm tiêu dùng cuối cùng có giá trị gia tăng và chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của thị trường và mang đặc trưng riêng của vùng, chú trọng vào khâu bảo quản, chế biến. Thứ ba, xác định một số sản phẩm mũi nhọn để xây dựng đề án phát triển thương hiệu quốc gia Tây Nguyên cho một số sản phẩm chủ lực; xây dựng và quảng bá thương hiệu Tây Nguyên cho các sản phẩm toàn vùng, xây dựng hệ thống quản trị thương hiệu sản phẩm Tây Nguyên. Thứ tư, thực hiện liên doanh, liên kết, hình thành chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp (cà phê, hồ tiêu…) bền vững, từ sản xuất đến thu mua - chế biến - bảo quản - tiêu thụ sản phẩm (theo tiêu chuẩn 4C, GAP,…) , vừa bảo đảm nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định cho doanh nghiệp; đồng thời, góp phần nâng cao thu nhập cho người nông dân (tránh việc tranh mua, tranh bán, hoặc ép giá). Thứ năm, đầu tư phát triển và ứng dụng công nghệ cao, đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ lao động trong lĩnh vực chế biến nông sản nhằm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, hướng đến mục tiêu khu vực Tây Nguyên có thể tự sản xuất, chế biến các mặt hàng nông sản nhằm phục vụ nhu cầu của khu vực, trong nước cũng như xuất khẩu ra thị trường thế giới. 357
  11. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” KẾT LUẬN Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đổi mới khoa học công nghệ được coi là một trong những giải pháp then chốt, trọng tâm của phát triển bền vững. Ứng dụng khoa học công nghệ giải quyết các thách thức trong phát triển nông nghiệp bằng các ưu việt của các công nghệ như: Công nghệ sinh học, công nghệ cảm biến, tự động hóa, internet vạn vật… giúp sản xuất nông nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường. Công nghiệp chế biến nông sản là lĩnh vực đang đòi hỏi những bước tiến nhảy vọt về công nghệ như vậy. Bên cạnh các giải pháp truyền thống tập trung vào sản xuất thì phát triển công nghiệp chế biến nông sản là một nội dung quan trọng của phát triển nông nghiệp bền vững, đặc biệt là nông sản xuất khẩu, giúp tăng giá trị xuất khẩu cho hàng hóa nông sản nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổng cục thống kê (2015 - 2022), Niên giám thống kê Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội 2. Cục thống kê (2015 - 2022), Niên giám thống kê các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng. 3. Báo cáo kết quả sản xuất ngành nông nghiệp các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng các năm 2015 - 2022. 4. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 25/CT-TTg, “Quy định về một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp”, ngày 04/06/2020. 5. Nguyễn Hồng Cừ (2010), Phương hướng phát triển bền vững sản xuất nông sản xuất khẩu vùng Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5(40).2010. 358
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2