intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

8
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu "Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0" với mục tiêu phát triển nhân lực du lịch có hệ thống; tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hợp lý hóa cơ cấu nhân lực ngành Du lịch; nâng cao năng lực và chất lượng của hệ thống đào tạo du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực; và nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và nhân lực ngành Du lịch; tạo động lực và lợi thế thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

  1. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TS. Đoàn Mạnh Cương Văn phòng Quốc hội TÓM TẮT Trong thời gian qua, ngành Du lịch Việt Nam đã xác định việc ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những giải pháp đột phá để nâng cao tính cạnh tranh. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Du lịch sẽ cần phải ứng dụng công nghệ thông tin mạnh hơn nữa với việc xây dựng chiến lược chuyển đổi số, phát triển du lịch thông minh, phát triển chính quyền điện tử, đổi mới môi trường phục vụ, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào việc phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao để có thể nắm bắt cơ hội, đối diện với thách thức nhằm ứng dụng công nghệ trong việc tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Sử dụng công nghệ số có thể tạo lập thông tin và cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách du lịch, làm cho du khách thật sự hài lòng khi đến Việt Nam. Đồng thời, chính sự phát triển và tác động của công nghệ 4.0 sẽ làm thay đổi diện mạo rất lớn cho sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Từ khóa: Du lịch, công nghệ số, nguồn nhân lực, chất lƣợng cao 1. BỐI CẢNH DU LỊCH VIỆT NAM Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, xác định du lịch là một trong những ngành kinh tế then chốt của đất nƣớc và phát triển du lịch là định hƣớng chiến lƣợc trong nền kinh tế-xã hội của đất nƣớc. Luật Du lịch (sửa đổi) đã chính thức đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày 19/6/2017 với rất nhiều điểm mới, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch trong giai đoạn tới. Trong luật sửa đổi này đã có điều khoản giao nhiệm vụ cho cơ quan quản lý nhà nƣớc về du lịch quy định cụ thể về các giao dịch điện tử trong hoạt động du lịch. Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất với Chính phủ các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch và mở rộng danh sách các nƣớc đƣợc thí điểm áp dụng cấp thị thực điện tử (e-visa). Hai giải pháp này đều gắn với việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ở phạm vi rộng hơn, du lịch trực tuyến đang tạo ra cơ hội mới giúp ngành du lịch có bƣớc phát triển đột phá. Theo số lƣợng thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, lƣợng du khách quốc tế đến Việt Nam năm 2018 lần đầu tiên đạt 15.497.791 lƣợt khách, tăng 19,9% so với năm 2017. Lƣợng du khách Việt Nam đi du lịch trong nƣớc và nƣớc ngoài cũng tăng trƣởng kỷ lục đạt gần 80 triệu lƣợt ngƣời. Tổng thu du lịch ƣớc đạt trên 600 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, Việt Nam ở vị trí thứ 17 trong bảng xếp hạng những quốc gia có mức độ phổ cập Internet hàng đầu thế giới và có hơn 53% dân số sử dụng Internet hàng ngày. Ngoài ra, có 90% khách du lịch nƣớc ngoài đến Việt Nam tra cứu thông tin du lịch qua internet. Đây là những lợi thế của doanh nghiệp phát triển một nền tảng du lịch thông minh nhờ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ đón 18-20 triệu lƣợt khách quốc tế. Tuy nhiên, làm thế nào để đạt đƣợc con số này là một câu hỏi không những khó đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc mà đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch không chỉ trong và ngoài nƣớc. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp làm du lịch cần phải hiểu rõ hơn nhu cầu của du khách thông qua những công nghệ nhƣ trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) hay dữ liệu lớn (Big Data). Sự phát triển của thế giới đang bƣớc sang trang mới với những thành tựu có tính đột phá, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm quyết định sự biến đổi về chất của nền kinh tế chính là nguồn nhân lực chất lƣợng cao. Sự thống trị của các nhân tố truyền thống nhƣ số lƣợng đất đai, lao động, hay nguồn vốn giờ đây đã đƣợc thay đổi. Chính nguồn nhân lực chất lƣợng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, bởi lẽ những yếu tố khác vẫn có thể có đƣợc nếu có tri thức, song tri thức không tự nhiên xuất hiện mà phải thông qua một quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tế. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp chủ yếu là cạnh tranh về hàm lƣợng chất xám, nghĩa là hàm lƣợng tri thức kết tinh trong sản phẩm hàng hoá dịch vụ nhờ vào nguồn nhân lực có chất lƣợng. Vì vậy, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, để có đƣợc tốc độ phát triển 89
  2. cao và bền vững, các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao, một vấn đề cấp bách có tầm chiến lƣợc, có tính sống còn trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới. 2. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH CHẤT LƢỢNG CAO Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam. Tuy nhiên, ngành Du lịch còn một số hạn chế, yếu kém. Du lịch phát triển chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Sản phẩm du lịch chƣa thực sự hấp dẫn và có sự khác biệt, khả năng cạnh tranh chƣa cao. Chất lƣợng dịch vụ du lịch chƣa đáp ứng yêu cầu. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc về du lịch chƣa cao. Môi trƣờng du lịch, an toàn thực phẩm và an toàn giao thông còn nhiều bất cập. Công tác xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế về nguồn lực, sự phối hợp và tính chuyên nghiệp, hiệu quả chƣa cao. Nguồn nhân lực du lịch vừa thiếu vừa yếu. Doanh nghiệp du lịch chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; vốn, nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế. Vai trò của cộng đồng trong phát triển du lịch chƣa đƣợc phát huy. Theo Tổng cục Du lịch, hiện tại, cả nƣớc có trên 1,3 triệu lao động du lịch, chiếm khoảng 2,5% tổng lao động cả nƣớc; trong đó chỉ 42% đƣợc đào tạo về du lịch, 38% đƣợc đào tạo từ các ngành khác chuyển sang và khoảng 20% chƣa qua đào tạo chính quy mà chỉ đƣợc huấn luyện tại chỗ. Chính vì thế, số lao động có chuyên môn, kỹ năng cao vừa thiếu vừa yếu nhƣng số lao động chƣa đáp ứng yêu cầu lại dƣ thừa. Khó khăn nhất của ngành du lịch hiện nay là thiếu nguồn nhân lực đáp ứng đủ yêu cầu về ngoại ngữ. Có tới 30%-45% hƣớng dẫn viên du lịch, điều hành tour và 70%-80% nhân viên lễ tân nhà hàng không đạt chuẩn ngoại ngữ vì tiêu chuẩn đầu ra của các trƣờng đào tạo đều nằm dƣới chuẩn. Mỗi năm, các trƣờng đào tạo chuyên sâu về du lịch chỉ đáp ứng đƣợc 60% nhu cầu của ngành, dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực du lịch. Dự báo thời gian tới tốc độ tăng trƣởng của ngành đạt từ 25%-35%/năm và theo kế hoạch đến năm 2020 ngành du lịch cả nƣớc sẽ cần đến trên 2 triệu lao động chất lƣợng cao, chƣa kể hàng ngàn lao động cung cấp cho du lịch tàu biển. Có thể nhận thấy, phần đông sinh viên ra trƣờng đều không có kỹ năng chuyên nghiệp. Trong khi đó, ngành du lịch là nơi mà quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời chủ yếu qua giao tiếp thì ngoại ngữ là yếu tố then chốt hàng đầu. Trình độ ngoại ngữ yếu, kỹ năng nghiệp vụ còn thiếu đã hạn chế các đơn vị du lịch khai thác hết đƣợc nguồn lợi du lịch từ khách nƣớc ngoài. Mặt khác, nếu không giỏi ngoại ngữ, những nhân viên trong ngành du lịch cũng khó hoàn thành tốt nhiệm vụ và phát triển nghề nghiệp chuyên môn, không thể giúp khách du lịch hiểu tƣờng tận về văn hóa Việt Nam và quảng bá hình ảnh đất nƣớc ra bên ngoài. Bên cạnh đó, du lịch không chỉ là một ngành khoa học mà còn mang đầy tính nghệ thuật, rất cần những con ngƣời có khả năng giao tiếp nhằm kết nối ―trái tim với trái tim‖, mới có thể kéo khách quay trở lại. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các cấp, các ngành chƣa thực sự coi du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá và hội nhập quốc tế cao, mang nội dung văn hoá sâu sắc; thiếu chính sách quốc gia phù hợp để du lịch phát triển theo đúng tính chất của một ngành kinh tế vận hành theo quy luật thị trƣờng. Thể chế, chính sách phát triển du lịch chƣa đáp ứng yêu cầu phát triển, vẫn còn nặng tƣ tƣởng bao cấp. Sự phối hợp liên ngành, liên vùng hiệu quả còn thấp; đầu tƣ còn dàn trải, chƣa huy động đƣợc nhiều nguồn lực của xã hội cho phát triển du lịch. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực có chất lƣợng cao đang là thách thức đối với du lịch Việt Nam trƣớc yêu cầu của tình hình mới. Đây cũng là vấn đề đặt ra trong việc xây dựng thƣơng hiệu sản phẩm du lịch Việt Nam một cách bền vững. Trong khuôn khổ diễn đàn ATF, so với các nƣớc trong khu vực, thì chất lƣợng dịch vụ du lịch Việt Nam nói chung và tại các trung tâm du lịch lớn vẫn còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng đó, theo ý kiến chung của nhiều chuyên gia là do nhân lực du lịch của chúng ta hiện nay vừa thiếu về số lƣợng lại vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, do đó dẫn đến chất lƣợng phục vụ du lịch của nƣớc ta còn thấp. Để tạo ra sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh cao thì chất lƣợng của nguồn nhân lực du 90
  3. lịch đóng vai trò hết sức quan trọng. Chỉ có chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực đƣợc quan tâm đúng mức và hợp lý mới duy trì đƣợc thƣơng hiệu và chất lƣợng phục vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 3. NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH CHẤT LƢỢNG CAO 3.1. Khái niệm Có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao. Theo cách tiếp cận định tính thì nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao là một bộ phận cốt lõi của nguồn nhân lực du lịch, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc trong hoạt động du lịch, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trƣởng và phát triển của doanh nghiệp du lịch nói riêng và sự nghiệp phát triển du lịch của một địa phƣơng và quốc gia, lôi kéo cộng đồng và toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển du lịch. Tiếp cận theo định lƣợng thì nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao đƣợc hiểu là những ngƣời lao động đã qua đào tạo du lịch (trên thực tế, khái niệm ―lao động qua đào tạo‖ rất phức tạp vì hiện nay có rất nhiều hình thức và phƣơng pháp đào tạo khác nhau, từ học nghề ngắn hạn đến cao đẳng, đại học đều có thể đƣợc xem là ―lao động qua đào tạo‖. Nhƣ vậy, nếu coi nguồn nhân lực chất lƣợng cao là lao động qua đào tạo sẽ dẫn đến một sự phân hóa lớn về trình độ của nguồn nhân lực này), có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trình độ cao đẳng, đại học đến trên đại học (nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các trƣờng đại học, cao đẳng…) và nhân lực du lịch lành nghề là các nghệ nhân và lao động trực tiếp xếp bậc 3 trở lên. Trong tham luận này, khái niệm nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao được hiểu là một bộ phận đặc biệt của nguồn nhân lực du lịch, bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đảm nhiệm các chức danh quản lý nhà nước về du lịch (là các cán bộ, công chức du lịch); các chức danh hoạt động sự nghiệp du lịch (các viên chức du lịch: Nghiên cứu viên du lịch; giáo viên, giảng viên du lịch); các chức danh quản trị doanh nghiệp du lịch (trưởng các bộ phận hoạt động kinh doanh du lịch trở lên); các lao động lành nghề là những nghệ nhân, những nhân lực du lịch trực tiếp được xếp từ bậc 3 trở lên, đang làm việc trong các lĩnh vực của ngành Du lịch, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững, có trách nhiệm của ngành Du lịch. 3.2. Vai trò của nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao Khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá du lịch, thực chất là hiện đại hoá lực lƣợng sản xuất du lịch, thì vai trò của nguồn lực du lịch chất lƣợng cao đƣợc biểu hiện rõ ở tính quyết định, tính vô tận, tính cải biến và tính hoạch định. 1) Các nguồn lực không phải là nhân lực nhƣ vốn, tài nguyên du lịch, vị trí địa lý… chỉ tồn tại dƣới dạng tiềm năng và chỉ có tác dụng khi có tác động của con ngƣời. Chỉ có nguồn nhân lực du lịch nói chung và nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao nói riêng là nguồn lực duy nhất biết tƣ duy, có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng và khai thác các nguồn lực khác, gắn kết, phối hợp chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, duy trì và phát triển tất cả các nguồn lực khác để phát triển du lịch. Nhƣ vậy có thể khẳng định: Nguồn nhân lực du lịch nói chung và nhân lực du lịch chất lƣợng cao nói riêng là chủ thể, còn các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con ngƣời và phục vụ nhu cầu, lợi ích của con ngƣời trong lĩnh vực du lịch. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lƣợng sản xuất ở lĩnh vực du lịch, nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao là yếu tố quan trọng nhất. 2) Các nguồn lực khác chỉ có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác và rất khó hoặc không thể khôi phục. Trong khi đó nguồn lực con ngƣời, cốt lõi là trí tuệ, văn hóa, là nguồn lực vô tận. Tính vô tận của sức mạnh nền văn hóa mỗi dân tộc, mỗi địa phƣơng, của trí tuệ, thể lực và văn hóa con ngƣời biểu hiện ở chỗ có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học và còn luôn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con ngƣời, nếu biết chăm lo, bồi dƣỡng, khai thác, sử dụng một cách hợp lý. Đó là cơ sở làm cho nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của nguồn nhân lực du lịch nói chung và nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao nói riêng, phát triển nhƣ một quá trình vô tận cả bình diện một cộng đồng, quốc gia, dân tộc và bình diện toàn nhân loại. Nhờ vậy, con ngƣời, ở đây là nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao, đã từng bƣớc làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên du lịch mới và sáng tạo ra 91
  4. những tài nguyên du lịch vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất và khoa học công nghệ du lịch mới đã tác động vào tự nhiên, vào đối tƣợng sản xuất, kinh doanh, phục vụ của ngành Du lịch một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ, kỹ thuật, khoa học công nghệ sản xuất, kinh doanh du lịch từ thủ công đến cơ khí, từ cơ khí đến tự động hoá đƣợc trong hoạt động du lịch, chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, nói lên trình độ vô tận của nguồn nhân lực du lịch nói chung và nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao nói riêng. 3) Tri thức, trí tuệ con ngƣời có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang hình thành một nền kinh tế mới là kinh tế tri thức len lỏi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với xu thế phát triển đó lực lƣợng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Trong bối cảnh phát triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật và các công nghệ mới đã làm tăng tốc độ chuyển giao từ nơi nghiên cứu ra thực tế, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Chính việc phát triển vƣợt bậc đến chóng mặt của khoa học kỹ thuật và công nghệ là tác nhân phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới hành chính và các rào cản khác trong giao dịch của con ngƣời trên tất cả các lĩnh vực giữa các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá các lĩnh vực đời sống xã hội lên thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện. Bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con ngƣời mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình. 4) Kinh nghiệm của nhiều nƣớc và thực tiễn của chính nƣớc ta cho thấy sự phát triển du lịch phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đƣờng lối chính sách và tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Việc thực hiện và hoàn thành tốt sự nghiệp phát triển du lịch có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng thúc đẩy nhiều lĩnh vực. Nếu nguồn nhân lực du lịch chất lƣợng cao hoạch định và thực hiện tốt quá trình phát triển du lịch của đất nƣớc sẽ làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng suất lao động, đẩy mạnh xã hội hoá, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong xã hội. Tiến trình phát triển du lịch của đất nƣớc đƣợc hoạch định và thực hiện tốt tốt sẽ góp phần phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nƣớc và các nƣớc với nhau, nâng cao trình độ quản lý kinh tế du lịch nói riêng và kinh tế nói chung của Nhà nƣớc, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất và không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con ngƣời trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở hoạch định và thực hiện tốt,du lịch mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con ngƣời, tạo điều kiện vật chất đóng góp tích cực cho việc củng cố và tăng cƣờng tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng. Do đó, vai trò của nhân lực du lịch chất lƣợng cao, bao gồm cả nhân lực du lịch trực tiếp và trực tiếp, là tất cả những ngƣời làm nòng cốt tham gia vào hoạt động tạo cung du lịch, trong việc bảo tồn, phát huy, phát triển và truyền bá văn hóa ngày càng đƣợc khẳng định. Đội ngũ nhân lực du lịch chất lƣợng cao phải có trách nhiệm dự báo, sáng tạo, dẫn dắt và hƣớng dẫn nhóm nhân lực du lịch còn lại và cộng đồng, làm cho nhân dân trở thành lực lƣợng sáng tạo du lịch, là chủ thể làm du lịch, chứ không chỉ là đối tƣợng hƣởng thụ du lịch. Trong các hoạt động gắn liền với sáng tạo phát triển du lịch, đội ngũ nhân lực du lịch chất lƣợng cao phải là lực lƣợng định hƣớng, giúp đỡ, hƣớng dẫn nhóm nhân lực du lịch còn lại và cộng đồng dân cƣ nơi diễn ra hoạt động du lịch, nắm đƣợc và ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá trình tham gia hoạt động du lịch; bám sát đời sống thực tiễn, bám vào cơ sở sản xuất kinh doanh du lịch, tích cực tham gia xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao trí tuệ và thể chất cho nguồn nhân lực du lịch và cộng đồng dân cƣ, làm cho dân thoát nghèo và giàu lên. 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM 4.1. Tiêu chuẩn hoá nhân lực du lịch Việt Nam Từ năm 2017, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xác định là năm du lịch phải tăng tốc để bƣớc vào giai đoạn hội nhập khi mà Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức hình thành vào cuối năm 2015 và thừa nhận lẫn nhau trong hệ thống tiêu chuẩn nghề của du lịch. Thỏa thuận này đƣợc các nƣớc 92
  5. trong cộng đồng ASEAN rất quan tâm và nhiều nƣớc đã đi tiên phong. Trong đó, nhân lực là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển của mọi ngành nghề, đặc biệt là ngành du lịch. Các nƣớc ASEAN nói chung hay Việt Nam, việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo khung trình độ đã đƣợc thừa nhận là điều kiện tiên quyết để xây dựng ngành du lịch hội nhập quốc tế. Khi Thỏa thuận về nghề du lịch ASEAN chính thức có hiệu lực, sẽ có nhiều lao động trong khối ASEAN đến Việt Nam làm việc. Nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lƣợng cho ngành Du lịch tại Việt Nam, Chƣơng trình Phát triển Năng lực Du lịch có trách nhiệm với Môi trƣờng và Xã hội, do Liên minh châu Âu tài trợ (Dự án EU) đã sửa đổi bộ Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam (VTOS). Toàn bộ các tiêu chuẩn này đã đƣợc đăng tải trên trang thông tin điện tử http://vtos.esrt.vn/ bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh; giúp ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động, giáo viên và học sinh các trƣờng du lịch tiếp cận, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn VTOS nhằm nâng cao chất lƣợng dịch vụ du lịch cũng nhƣ hiệu quả đào tạo nghề du lịch một cách thống nhất. Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam sửa đổi ngoài việc kế thừa các nội dung từ phiên bản trƣớc đã đƣợc phát triển phù hợp với các quy định của Việt Nam cũng nhƣ đƣợc chuẩn hóa, tƣơng thích với các tiêu chuẩn nghề quốc tế, tiêu chuẩn ASEAN. 4.2. Áp dụng tiêu chuẩn VTOS Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) đƣợc xây dựng nhằm cho phép chuyển dịch việc làm của ngƣời lao động du lịch lành nghề giữa các quốc gia thành viên và để công nhận các kỹ năng và văn bằng của ngƣời lao động du lịch từ các quốc gia thành viên khác trong ASEAN. Trƣớc thực tế này, các cơ sở đào tạo/dạy nghề sẽ phải rà soát chƣơng trình đào tạo và văn bằng để đảm bảo rằng chúng phù hợp với hoặc liên kết với chƣơng trình du lịch chung ASEAN nhằm cấp ra những văn bằng thích ứng/tƣơng đƣơng cho sinh viên hoặc ngƣời thực tập. Bên cạnh đó, cần xem xét xem các văn bằng hoặc các chƣơng trình đào tạo hiện tại phải điều chỉnh hoặc thay đổi nhƣ thế nào nhằm đáp ứng các yêu cầu của ASEAN về thừa nhận văn bằng du lịch lẫn nhau. Xuất phát từ yêu cầu thực tế nêu trên, chúng tôi đƣa ra một số khuyến nghị đối với các cơ sở đào tạo/dạy nghề du lịch triển khai áp dụng Bộ tiêu chuẩn VTOS trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế nhƣ sau: 1) Thiết kế chƣơng trình đào tạo/dạy nghề tiếp cận theo chuẩn đầu ra - năng lực cốt lõi của mỗi vị trí việc làm gắn với thực tế thị trƣờng lao động. Đồng thời, hƣớng đến tính "mở", "linh hoạt", phù hợp cho việc áp dụng vào từng đối tƣợng, địa chỉ cụ thể. 2) Biên soạn chƣơng trình môn học, bài giảng, giáo trình các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn theo hƣớng tích hợp giữa lý thuyết và thực hành. Trong đó, thời lƣợng dành cho phần thực hành chiếm tỷ lệ từ 70-75% tổng thời gian học tập. 3) Thay đổi phƣơng pháp giảng dạy của giảng viên/giáo viên, học tập của học sinh/sinh viên theo hƣớng tích cực, chủ động. Nội dung bài giảng của giảng viên/giáo viên phải đƣợc thiết kế mang tính trực quan, sinh động và cụ thể với các mẫu, phiếu, biểu, hình ảnh, phim… gắn với thực tế nghề nghiệp, gắn với doanh nghiệp. 4) Thay đổi phƣơng pháp kiểm tra, đánh giá trên cơ sở đánh giá "năng lực", bao gồm cả 3 yêu cầu: kỹ năng, kiến thức, thái độ. Cuối kỳ, thay vì thi viết, học sinh/sinh viên đƣợc thi thực hành và vấn đáp để kiểm tra các đơn vị "năng lực" đã đƣợc học. Tập trung chủ yếu vào việc đánh giá "năng lực" chuyên môn nghiệp vụ và giao tiếp ngoại ngữ. Đây chính là cách đánh giá rất sát thực với lực học của học sinh/sinh viên. 5) Gắn kết giữa cơ sở đào tạo/dạy nghề với doanh nghiệp du lịch trong quá trình đào tạo, thực hành, thực tập của học sinh/sinh viên để tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động sau tốt nghiệp. Tuy nhiên, việc áp dụng Bộ tiêu chuẩn VTOS trong giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn do số đơn vị "năng lực" nhiều, trong khi thời lƣợng giảng dạy cho học phần/môn học/mô-đun chuyên môn lại hạn chế (đặc biết đối với các cơ sở giáo dục đại học). Việc điều chỉnh chƣơng trình để tăng thời lƣợng các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn cũng gặp khó khăn do những quy định "cứng nhắc" bởi sự ràng buộc của chƣơng trình khung, của yếu tố "tâm lý" giáo viên/giảng viên các bộ môn khác nhau (đặc biết đối với các cơ sở đào tạo/dạy nghề công lập). Bên cạnh đó, là sự đầu tƣ 93
  6. cho trang thiết bị, dụng cụ thực hành, phƣơng tiện nghe - nhìn, hệ thống học liệu, phòng học đa năng còn rất hạn chế để có thể áp dụng phƣơng pháp giảng dạy tích cực đối với nhiều cơ sở đào tạo/dạy nghề. 4.3. Áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực du lịch Thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính phủ ban hành Chƣơng trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị khoá XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tƣớng Vũ Đức Đam tại Thông báo kết luận số 469/TB-VPCP ngày 06/10/2017 của Văn phòng Chính phủ về tình hình đào tạo nhân lực du lịch, theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn số 4929/BGDĐT- GDĐH ngày 20/10/2017 hƣớng dẫn cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực ngành du lịch trình độ đại học giai đoạn 2017-2020 theo hƣớng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trƣờng lao động và hội nhập quốc tế. Trong đó nhấn mạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp trong quá trình đào tạo là điều kiện bắt buộc để đƣợc thực hiện cơ chế đặc thù này. Cụ thể: Về cơ chế, chính sách ƣu tiên đào tạo nhân lực du lịch: 1) Khuyến khích thực hiện hình thức đào tạo văn bằng thứ hai ngành du lịch; khuyến khích các cơ sở đào tạo linh hoạt mở ngành đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu của thị trƣờng lao động và hội nhập quốc tế. 2) Các cơ sở đào tạo liên kết đào tạo với doanh nghiệp đƣợc tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh theo hƣớng mở rộng quy mô đối với các ngành đào tạo về du lịch; mở rộng chỉ tiêu đào tạo văn bằng 2 trình độ đại học của các ngành này. 3) Trên cơ sở tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, phân tích mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của sinh viên tốt nghiệp nhóm ngành du lịch, các cơ sở đào tạo xác định chỉ tiêu tuyển sinh, điều chỉnh chƣơng trình đào tạo phù hợp với thị trƣờng lao động ngành du lịch. 4) Khuyến khích sinh viên đã tốt nghiệp các ngành khác đƣợc chuyển sang học văn bằng thứ hai các ngành du lịch tại các cơ sở đào tạo du lịch. 5) Chỉ tiêu và điều kiện tiếp nhận do thủ trƣởng các cơ sở đào tạo đại học quy định theo hƣớng phù hợp với thị trƣờng lao động và sự tự nguyện của ngƣời học. 6) Khuyến khích chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý…(gọi chung là chuyên gia) có kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp của doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực du lịch, đặc biệt là giảng dạy, hƣớng dẫn các nội dung liên quan đến các kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. 7) Có chính sách thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nƣớc ngoài, chuyên gia quốc tế về du lịch tham gia công tác đào tạo ở các cơ sở đào tạo đại học. Về hợp tác giữa cơ sở đào tạo đại học với doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp. Các cơ sở có đào tạo ngành du lịch phải gắn kết với hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch để dự báo nhu cầu lao động, xây dựng chuẩn đầu ra và đào tạo sinh viên có kỹ năng đáp ứng yêu cầu ngành nghề: 1) Thoả thuận doanh nghiệp là nơi thực hành, thực tập của cơ sở đào tạo; sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phần mềm… của doanh nghiệp để đào tạo thực hành. Thời gian đào tạo tại các doanh nghiệp ít nhất bằng tổng thời gian thực hành, thực tập của chƣơng trình đào tạo và không ít hơn 50% tổng thời gian thực hiện chƣơng trình đào tạo. 2) Doanh nghiệp cử chuyên gia tham gia giảng dạy, hƣớng dẫn thực hành, thực tập, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. 3) Phối hợp dự báo nhu cầu nhân lực du lịch về số lƣợng, yêu cầu chất lƣợng; phối hợp đầu tƣ cơ sở vật chất theo hƣớng đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cƣờng hợp tác công tƣ, chú trọng xây dựng các cơ sở thực hành, thực tập chất lƣợng cao, theo chuẩn mực khu vực và quốc tế phục vụ đào tạo nhân lực du lịch. 4.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đào tạo Đề án ―Tăng cƣờng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hƣớng đến năm 2025‖ vừa đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt. Vấn đề đặt ra cho mỗi cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trong thời gian tới là triển khai hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó, triển khai hệ thống quản lý hành chính điện tử và liên thông toàn ngành; hệ thống họp, hội thảo, tập huấn chuyên môn qua mạng; bổ sung, cập nhật các dịch vụ công trực tuyến tối thiểu mức độ 3, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tuyển sinh đầu khóa. Đồng thời, quản lý sinh viên, quản lý giảng viên, quản lý giáo án, bài giảng số, quản lý thi, xếp thời khóa biểu, sổ quản lý điện tử; tích hợp với trang tin điện tử của nhà trƣờng trên môi trƣờng mạng ở tất cả các khóa học. Đối với giảng viên phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đổi mới nội dung, phƣơng pháp dạy-học, kiểm tra đánh giá và nghiên cứu khoa học. Cụ thể, xây dựng và thƣờng xuyên cập nhật 94
  7. kho học liệu số dùng chung, gồm: Bài giảng, giáo trình, đề thi điện tử, học liệu số đa phƣơng tiện, phần mềm mô phỏng và các học liệu khác. Tiếp tục xây dựng và thƣờng xuyên cập nhật hệ thống ngân hàng câu hỏi trực tuyến của các môn học và phần mềm kiểm tra, đánh giá tập trung qua mạng phục vụ sinh viên, giảng viên trên nguyên tắc thiết thực, hiệu quả. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo du lịch phải đầu tƣ xây dựng và hoàn thiện cổng thƣ viện số (giáo trình, bài giảng, học liệu số) liên thông, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục đại học; triển khai hệ thống học tập trực tuyến (E-learning); khai thác, ứng dụng các phần mềm quản lý doanh nghiệp du lịch, khách sạn, lữ hành vào trong quá trình giảng dạy cho sinh viên. 4.5. Xây dựng mô hình đào tạo “kép” gắn kết giữa nhà trƣờng và doanh nghiệp Mô hình đào tạo ―kép‖ là một mô hình đào tạo theo hƣớng phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp. Nhà trƣờng để các doanh nghiệp tham gia ngay từ khi xây dựng chƣơng trình đến khi tiếp nhận sinh viên thực tập, đánh giá kết quả học tập cùng các tổ chức uy tín và cấp bằng cho học viên. Mô hình này một mặt giúp cơ sở đào tạo không tốn nguồn lực, doanh nghiệp không phải đào tạo lại, mặt khác sẽ giúp cho khung chính sách về giáo dục nghề nghiệp phát triển, thu hút học viên học nghề. Ƣu điểm của mô hình là sinh viên tham gia có 50% thời gian đào tạo tại doanh nghiệp, đƣợc tiếp xúc với môi trƣờng làm việc chuyên nghiệp. Thực tế, mô hình đào tạo ―kép‖ đã mang lại hiệu quả thiết thực, nhiều trƣờng đã mạnh dạn ký kết với các doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề du lịch. Trong thời gian qua, nhiều tập đoàn lớn trong lĩnh vực du lịch nhƣ Vingroup, Sungroup, FLC, Saigontourist, Viettravel, Hilton, Melia, Accor, Wyndham, Intercontinental, Hyatt… đã ký kết hợp đồng thỏa thuận liên kết đào tạo với nhiều cơ sơ đào tạo du lịch ngay từ khi sinh viên nhập trƣờng. Đồng thời xây dựng kế hoạch, chƣơng trình chi tiết cho những học kỳ thực tập doanh nghiệp dài hạn. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp có những chƣơng trình học bổng, chi trả thù lao, tiếp nhận làm việc thời vụ, tuyển dụng sau khi tốt nghiệp. Mô hình đào tạo ―kép‖ sẽ giải quyết đƣợc những băn khoăn của doanh nghiệp trong tuyển dụng. Điều này tránh đƣợc những lãng phí thời gian, tiền bạc cho nhà tuyển dụng lao động không phải đào tạo lại kỹ năng khi sinh viên tốt nghiệp. Đồng thời cam kết sẽ hỗ trợ đào tạo, giải quyết việc làm cho sinh viên, đặc biệt ƣu tiên những trƣờng hợp có hoàn cảnh khó khăn. 5. KẾT LUẬN Nguồn lực con ngƣời là yếu tố quyết định mọi hoạt động - Điều mang tính ―chân lý‖ này thƣờng đƣợc nhắc đến và đƣợc khẳng định ở mọi bình diện từ một tổ chức nhỏ đến quốc gia lớn, từ một khu vực đến toàn cầu. Nhƣng không phải ở đâu, bất cứ ai và khi nào cũng nhận thức đầy đủ về tính quyết định của nguồn nhân lực và giành nguồn lực cho việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, do nguồn lực không có nhiều lại bị các nhiệm vụ cấp bách khác chi phối. Hiện tƣợng phổ biến khi phân bổ nguồn lực cho chiến lƣợc, chính sách phát triển thƣờng bao giờ cũng ƣu tiên cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và chi thƣờng xuyên, còn nguồn lực cho đào tạo nguồn nhân lực thƣờng xếp vào hàng thứ yếu. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng nhƣ vậy. Trƣớc bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ngành Du lịch Việt Nam đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố về nhân lực. Nhân lực ngành Du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho riêng sự phát triển du lịch mà còn góp phần không nhỏ vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực. Công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch mặc dù đã đạt đƣợc những kết quả nhất định, nhƣng vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết. Những hạn chế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhƣng chủ yếu là đến nay ngành Du lịch vẫn chƣa có chƣơng trình, kế hoạch dài hạn về phát triển nhân lực để định hƣớng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Vì vậy, việc phát triển nhân lực ngành Du lịch để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực và hiệu quả hơn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức của đất nƣớc là một việc làm cần thiết, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Với mục tiêu phát triển nhân lực du lịch có hệ thống; tăng cƣờng số lƣợng, nâng cao chất lƣợng, tính chuyên nghiệp và hợp lý hóa cơ cấu nhân lực ngành Du lịch; nâng cao năng lực và chất lƣợng của hệ thống đào tạo du lịch 95
  8. đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực; và nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và nhân lực ngành Du lịch; tạo động lực và lợi thế thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quyết định số 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trƣởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Quy hoạch ―Phát triển nhân lực ngành du lịch 2011-2020‖. 2. Quyết định số 2473/2011/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030". 3. Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới. 4. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. 5. Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. 6. Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực ngành du lịch trình độ đại học giai đoạn 2017-2020. 7. Hệ thống tiêu chuẩn VTOS 2013, Chương trình Phát triển năng lực Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (Dự án EU), Tổng cục Du lịch. 8. Hiệp hội Thƣơng mại Điện tử Việt Nam;http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/24108/. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM TS. Phạm Thị Thu Hường Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ TS. Phạm Thị Nga Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Nhân lực ngành du lịch có vai trò quyết định cho sự phát triển du lịch nói riêng và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đặt ra những thách thức lớn cho ngành du lịch Việt Nam, đó là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phục vụ cũng như hình ảnh của du lịch Việt Nam. Thêm vào đó, yêu cầu về nhân lực trong ngành du lịch ngày càng cao, đặc biệt về yêu cầu chất lượng, kỹ năng nghiệp vụ, trình độ quản lý, ngoại ngữ, cũng như cơ cấu lao động hợp lý. Vì thế, cần phải có hệ thống giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn diện và tác động sâu sắc của cuộc CMCN 4.0. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn nhân lực, du lịch, phát triển. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, ngành du lịch nƣớc ta đã phát triển nhanh chóng, đa dạng với nhiều loại hình khác nhau, giúp nâng cao tỷ trọng thu nhập trong GDP của nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, ngành du lịch Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn, thách thức không nhỏ về nhiều mặt, nổi bật trong đó là vấn đề nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Ngành du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế để phát triển nguồn nhân lực. Tuy đã đạt đƣợc một số kết quả nhất định, nhƣng nhìn chung ngành du lịch vẫn trong tình trạng vừa 96
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0