intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phương pháp đánh giá tác động mua bán và sáp nhập đối với ngân hàng thương mại: Nghiên cứu trường hợp điển hình thương vụ M&A giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội

Chia sẻ: Tưởng Bách Xuyên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

9
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết "Phương pháp đánh giá tác động mua bán và sáp nhập đối với ngân hàng thương mại: Nghiên cứu trường hợp điển hình thương vụ M&A giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội" đề cập trực tiếp những ảnh hưởng của hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) trong những năm gần đây đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và đưa ra được phương pháp phổ biến và phù hợp trong đo lường chiều hướng, mức độ tác động của hoạt động M&A tới ngân hàng thâu tóm, ngân hàng mục tiêu và ngân hàng sau hợp nhất/mua bán. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phương pháp đánh giá tác động mua bán và sáp nhập đối với ngân hàng thương mại: Nghiên cứu trường hợp điển hình thương vụ M&A giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội

  1. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH THƯƠNG VỤ M&A GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN – HÀ NỘI VÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI Vũ Thị Lan Phương Công ty TNHH Dịch vụ ERP FPT Tóm tắt Nội dung bài viết đề cập trực tiếp những ảnh hưởng của hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) trong những năm gần đây đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và đưa ra được phương pháp phổ biến và phù hợp trong đo lường chiều hướng, mức độ tác động của hoạt động M&A tới ngân hàng thâu tóm, ngân hàng mục tiêu và ngân hàng sau hợp nhất/mua bán. Phương pháp được trình bày trong bài không mang tính chất khẳng định tuyệt đối về tác động của M&A đến các chủ thể liên quan, mà như một yếu tố trong phân tích tài chính để đưa ra những nhận định cơ bản nhất về hoạt động M&A. Do đó, những lợi ích của các chủ thể liên quan luôn cần được nghiên cứu, quan sát và đánh giá trong thời gian dài, tổng hợp từ nhiều chiều, nhiều phương pháp phân tích khác nhau. Từ khóa: mua bán sáp nhập, suất sinh lợi bất thường, cửa sổ sự kiện, mô hình thị trường. Abstract The purposes of this research are to investigate the direct effects of M&A on the operating performance in commercial banks currently and to cater for the popular and appropriate methods to measure the tendency and extent of M&A to merger bank, target bank and combined bank. The measure used in this study does not absolutely state the impacts of M&A to entities, but it performs as an aspect to analyse and supply the most fundamental opinions about M&A. Hence, the benefits of entities are advised to be analysed, observed and summarized in long term by many demensions and various methodologies. Key words: mergers and acquisitions, abnormal returns, event windows, market model 385
  2. 1. Giới thiệu Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, gia tăng năng lực cạnh tranh, mở rộng quy mô hay tăng trưởng lợi nhuận bền vững là những mục tiêu không chỉ các doanh nghiệp sản xuất thương mại quan tâm mà còn là chiến lược sống còn của các ngân hàng thương mại. Đặc biệt, khi so sánh với các ngân hàng thương mại quốc tế, sức cạnh tranh của các ngân hàng trong nước còn yếu, quy mô nhỏ, phát triển sản phẩm còn chậm và chưa đa dạng, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế và ứng dụng công nghệ còn chậm chạp. Do đó, có thể cho rằng, M&A là xu hướng tất yếu để khắc phục những khuyết điểm trên của các ngân hàng thương mại Việt Nam (Nguyễn Thị Mùi, 2015). Bên cạnh đó, ngoài những nhận định của bản thân mỗi ngân hàng thương mại, các chính sách do Nhà nước ban hành trong giai đoạn này cũng là động lực lớn để đẩy nhanh tiến độ M&A. Các chính sách có thể kể đến bao gồm: Đề án 254 "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015" do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 01/3/2012 nhằm cơ cấu triệt để hệ thống ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, có sức cạnh tranh cao và hướng đến năm 2020 có 1 đến 2 ngân hàng có quy mô và trình độ ngang với các ngân hàng trong khu vực; Nghị quyết số 01/NQ-CP do Chính phủ ban hành ngày 03/01/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2015, trong đó đề cập trực tiếp đến vấn đề quản lý nợ xấu kết hợp với tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại; Thông tư 36/2014/TT-NHNN được áp dụng vào đầu tháng 2/2015 đã kiểm soát chặt tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống khi quy định ngân hàng thương mại chỉ được mua, nắm giữ cổ phiếu của một tổ chức tín dụng khác dưới 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của tổ chức tín dụng khác đó. Với quy định mới này thì sẽ có nhiều ngân hàng buộc phải tiếp tục thoái vốn, tạo ra động lực thúc đẩy các thương vụ M&A trong giai đoạn này. Trong giai đoạn 5 năm từ 2011 đến 2015, hệ thống ngân hàng đã giảm từ 42 xuống còn 34 ngân hàng thương mại (tính đến 19/9/2015), trong đó có 8 thương vụ M&A đã diễn ra và 4 thương vụ đã được ký kết ngay trong năm 2015 như MHB - BIDV, MDB – MSB, Southern Bank – Sacombank, PGBank – Vietinbank. Bốn thương vụ còn lại đều được xúc tiến từ năm 2012, 2013 dưới bốn cái tên hiện nay: Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Sài Gòn (SCB), Ngân hàng TMCP Phát triển TP. Hồ Chí Minh (HDBank), Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVCombank), và Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Theo những kết quả tổng hợp dựa trên giá trị tổng tài sản, quy mô mạng lưới, sức cạnh tranh trên thị trường cũng như khả năng kiểm soát nợ xấu sau cơ cấu và M&A, hiện nay “sức khỏe” của hệ thống ngân hàng nói chung cũng như đối với mỗi ngân hàng nói riêng đều được cải thiện đáng kể. 386
  3. Tuy nhiên, làm thế nào để thấy rõ được lợi nhuận mang lại cho ngân hàng mục tiêu, ngân hàng thâu tóm và ngân hàng sau sáp nhập là câu hỏi mà các cổ đông và các nhà phân tích quan tâm. Mục đích của nghiên cứu này là tập trung vào việc áp dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện - Event Study Methodology được đưa ra bởi Cable và Holland (1996) nhằm ước lượng ra giá trị suất sinh lợi bất thường do hoạt động M&A đem lại cho ngân hàng, từ đó có thể đưa ra nhận định sơ bộ về tính hợp lý của quyết định M&A, cụ thể hơn là tác động của M&A đối với giá trị cổ phiếu của ngân hàng trên thị trường. Cấu trúc bài viết gồm 6 phần. Bên cạnh phần giới thiệu được trình bày ở phần 1, bài viết tóm lược tổng quan nghiên cứu ở phần 2 nhằm cung cấp cơ sở nghiên cứu then chốt. Phần 3 cung cấp những thông tin tổng quan về tình hình M&A tại Việt Nam và phần 4 đưa ra dữ liệu và phương pháp nghiên cứu, được ứng dụng vào một trường hợp cụ thể để người đọc hình dung toàn diện cách thức nghiên cứu và áp dụng theo quan điểm của tác giả. Kết quả nghiên cứu và kết luận lần lượt được trình bày ở phần 5 và phần 6. 2. Tổng quan nghiên cứu Đối với thị trường tài chính Việt Nam, M&A vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ được quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây. Những hoạt động xúc tiến thương vụ M&A, đặc biệt là M&A ngân hàng thương mại, chưa thực sự xuất phát từ chính những chiến lược của bản thân ngân hàng mà phụ thuộc nhiều vào chính sách của Chính phủ đưa ra. Điều này khó có thể tìm ra ở một thị trường nước ngoài, khi mà các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại đều có sự phân tích và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định M&A. Tuy nhiên, điều cơ bản nhất khi tiến hành một thương vụ M&A luôn là vấn đề: liệu các chủ thể có được lợi ích gì khi ra quyết định thực hiện M&A? Một trong những quan điểm nghiên cứu được quan tâm nhất là tập trung nghiên cứu các chỉ số đo lường hiệu suất như tối đa hóa hiệu suất chi phí (cost efficiency), khả năng gia tăng lợi nhuận (profit efficiency), và gia tăng sức mạnh thị trường (Akhavein, Berger và Humphrey, 1997). Các nghiên cứu này chỉ ra sự thay đổi và tác động của hai nhóm chỉ tiêu chính là khả năng gia tăng lợi nhuận và sức mạnh thị trường, làm rõ được nhóm chỉ số nào bị chịu tác động nhiều hơn trước khi thương vụ M&A diễn ra; mối tương quan giữa khả năng gia tăng lợi nhuận và hiệu suất chi phí khi so sánh trước và sau khi diễn ra M&A. Bên cạnh đó, các tác giả còn sử dụng mô hình dự đoán (prediction model) để thấy rõ được khả năng gia tăng lợi nhuận của ngân hàng sau sáp nhập thay đổi như thế nào. Trong khi đó, để xác định được tác động của M&A đến các chủ thể có liên quan, nhà nghiên cứu có thể phân tích theo thời kỳ, đưa ra tác động trong ngắn hạn và dài hạn, từ đó quan sát được những nhân tố nào biến động mạnh 387
  4. theo thời gian hoặc có ý nghĩa khi nghiên cứu trên khoảng thời gian phù hợp (Maditinos, Theriou và Demetriades, 2009). Ngoài ra, hai phương pháp khác cũng được áp dụng khá rộng rãi để ước lượng và định giá giá trị của ngân hàng thương mại là so sánh kết quả kinh doanh trước và sau sáp nhập hoặc so sánh ngân hàng sau sáp nhập với một ngân hàng khác không liên quan đến hoạt động M&A của ngân hàng đang được phân tích. Phương pháp này sử dụng dữ liệu kế toán và được cho là thiếu chính xác, hoàn toàn dựa vào con số của quá khứ nên dẫn đến không phù hợp ở hoàn cảnh nghiên cứu hiện tại. Phương pháp thứ hai phân tích lợi nhuận thu được sau sáp nhập và sử dụng dữ liệu là giá cổ phiếu sau M&A (Pilloff và Santomero, 1998). Phương pháp này dù chính xác hơn so với việc dùng dữ liệu kế toán nhưng do phải phân tích trong một khoảng thời gian cụ thể nên khó tránh khỏi sai số. Mặc dù nghiên cứu của Pilloff và Santomero đưa ra được các phương pháp chính mà các nhà phân tích sử dụng, đồng thời so sánh được các quan điểm, cách tiếp cận khác nhau nhưng cách phân tích thiên về lý luận, chưa đưa ra được cách thức tiến hành, vận dụng để kiểm tra thử trên một bộ dữ liệu thực tế. Một phương pháp khác cũng được chính Pilloff và Santomero (1998) đưa ra những được áp dụng rất ít và được coi như phương pháp dung hòa và bổ sung cho hai phương pháp trên là tìm ra sự tương quan giữa dữ liệu kế toán và suất sinh lợi bất thường (được tính từ giá cổ phiếu trên thị trường). Bên cạnh đó, phương pháp phân tích lợi nhuận từ dòng tiền (Cash flow return) kết hợp với so sánh sự liên quan giữa giá trị cổ phiếu và kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại, sử dụng số liệu là số liệu kế toán và giá cổ phiếu để phân tích sự ảnh hưởng của M&A đến lợi nhuận cũng thu hút được nhiều sự quan tâm và áp dụng. Cornett và Tehranian (1992) đã vận dụng phương pháp nghiên cứu này để xác định sự thay đổi và những tác động của sự kiện M&A đến ngân hàng thương mại. Theo đó, tác giả đã xác định giá trị dòng tiền (trước khấu hao, lãi vay ngân hàng, thuế và lợi thế thương mại) được điều chỉnh theo giá trị thị trường, đưa lợi nhuận thuần từ hoạt động đầu tư đối với các cổ phiếu có giá trị vào tính toán dòng tiền theo hai giai đoạn: 3 năm trước và sau năm xảy ra sự kiện M&A. Tuy nhiên, các thương vụ M&A tại Việt Nam đều xảy ra trong thời gian gần đây, vì vậy để lựa chọn ra thời kỳ nghiên cứu đủ dài, đồng thời chỉ ra được sự tương quan giữa suất sinh lợi bất thường và dòng tiền trước và sau khi sự kiện M&A được công bố là rất khó. Tại Việt Nam, vấn đề M&A cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả. Nghiên cứu về tác động của sự công bố thông tin M&A lên suất sinh lợi cổ phiếu trên thị trường của Nguyễn Thu Hiền, Lê Tường Luật (2011) đã cho thấy một khía cạnh nhỏ của M&A, đó là sự rò rỉ thông tin tác động gì tới kỳ vọng thị trường, 388
  5. hành vi của các chủ thể và lý giải nó một cách khách quan nhất. Vũ Anh Dũng (2012) và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Quốc gia Hà Nội chú trọng vào tìm ra và phân tích “giá trị cộng hưởng” đặt trong toàn cảnh nền kinh tế khu vực và các thương vụ cụ thể tại Việt Nam. Các giải pháp áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả M&A đối với các doanh nghiệp Logistic trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Hường (2013) cũng cho thấy một cách tiếp cận đa chiều về M&A ngay tại các công ty Logistic - lĩnh vực được cho là “vừa yếu lại vừa thiếu chuyên nghiệp”. Như vậy, các M&A trên mọi lĩnh vực đều được đưa ra phân tích và nghiên cứu, trong đó M&A trên lĩnh vực ngân hàng - tài chính đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và nhà đầu tư, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015. Do vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm cung cấp bức tranh khái quát về hoạt động M&A đối với ngân hàng thương mại tại Việt Nam, qua đó tiếp cận việc đo lường tác động của M&A đến ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn này. 3. Khái quát hoạt động M&A và phương pháp đánh giá tác động M&A đến ngành ngân hàng tại Việt Nam Như đã trình bày ở trên, giai đoạn 2010-2015 là giai đoạn “nóng” đối với hoạt động cơ cấu lại hệ thống ngân hàng cũng như việc xúc tiến các thương vụ M&A ngân hàng thương mại, đặc biệt là năm 2015 có bốn thương vụ M&A với các ngân hàng thâu tóm đều là những tên tuổi lớn của ngành ngân hàng. Không thể phủ nhận, mục đích của những quyết định M&A đều nhằm mang lại những tác động tích cực cho chính bản thân các chủ thể. Thứ nhất, đó là tác động nhằm cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng. Ngân hàng sau sáp nhập thông thường có khối lượng tài sản được gia tăng đáng kể, nguồn vốn dồi dào hơn, khả năng tiếp cận các nguồn vốn dễ dàng hơn. Thứ hai là sự gia tăng sức mạnh thị trường khi ngân hàng sau sáp nhập sử dụng được đồng thời cả mạng lưới, cơ sở dữ liệu khách hàng, các lợi thế về công nghệ và danh tiếng sẵn có trên thị thường… của cả hai ngân hàng để tạo đà phát triển, chiếm lĩnh thị trường. Thứ ba, M&A tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng thương mại (NHTM) sau sáp nhập bởi nâng cao sự đa dạng trong ngân hàng. Cụ thể, đó là sự đa dạng về vị trí địa lý của mạng lưới, đa dạng về dịch vụ, sản phẩm - tổng hòa các giá trị của hai ngân hàng ban đầu, đem lại những giá trị to lớn cho ngân hàng sau sáp nhập. Thêm vào đó là sự đa dạng hóa kênh đầu tư, hình thức đầu tư, đa dạng hóa rủi ro, củng cố vị thế trên thị trường. Thứ tư, M&A giúp cơ cấu lại bộ máy ngân hàng theo hướng hợp lý và tiết kiệm hơn: giảm những công đoạn hay nhân lực không cần thiết, tận dụng được nguồn nhân lực chọn lọc, có kiến thức và kỹ năng để vận hành công nghệ, phát triển các sản phẩm mà bản thân ngân hàng sau sáp nhập chưa thể nắm chắc. Ngoài ra, hoạt động M&A còn giúp tiết kiệm đáng kể các chi phí: chi phí phá sản, 389
  6. giảm khoản thuế phải nộp (khi mua lại ngân hàng đang báo lỗ), chuyển dịch cơ cấu kinh tế đề phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia,… Trước mỗi thương vụ M&A, rất nhiều phương pháp định giá được đưa ra như phương pháp so sánh, phân tích các nhóm chỉ số tài chính, phân tích dòng tiền… Tùy vào mỗi ngân hàng thương mại hay doanh nghiệp mà áp dụng các mô hình, phương pháp ước lượng khác nhau, sau đó sẽ tiến hành tổng hợp và so sánh để đưa đến kết quả tổng kể cuối cùng. Theo Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) KPMG Việt Nam, thị trường Việt Nam thường áp dụng ba cách định giá chính. Đầu tiên là phương pháp hệ số thu nhập - phân tích các NHTM có quy mô, ngành nghề, tiềm năng tăng trường trong tương lai, chất lượng quản lý, cơ hội cải thiện hiệu quả hoạt động tương đương. Phương pháp phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn các hệ số, dữ liệu so sánh và đánh giá của người phân tích, do đó phương pháp này được ứng dụng đông đảo nhất nhưng lại được cho là thiếu khách quan nhất. Phương pháp thứ hai được 38% số doanh nghiệp tham gia khảo sát sử dụng là phương pháp chiết khấu dòng tiền nhằm xác định giá trị của ngân hàng dựa trên khả năng sinh lời kỳ vọng ở tương lai và được cho là phương pháp chính xác hơn so với phương pháp hệ số thu nhập. Phương pháp còn lại là xác định tài sản ròng của doanh nghiệp, trong đó các nhà phân tích sẽ đo lường giá trị tài sản (hữu hình, vô hình), nguồn vốn, cơ cấu nợ. Việc định giá như vậy là khá phức tạp, mang nhiều ý kiến chủ quan nên cũng được xem là thiếu hợp lý khi áp dụng tại Việt Nam. Ngoài ba cách định giá trên, một phương pháp khác cũng được đưa ra và áp dụng trong thời gian gần đây là phương pháp giá trị thị trường, dùng để ước lượng khả năng sinh lời, giá trị thị trường của ngân hàng dựa trên giá cổ phiếu của ngân hàng đó. Không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tài chính, phương pháp này còn được áp dụng ngày càng rộng rãi trong định giá các doanh nghiệp ở lĩnh vực sản xuất, thương mại dựa trên giá trị thị trường nhờ tính khách quan, nhanh chóng, mang đặc trưng của thời kỳ và thị trường của phương pháp này. Tuy nhiên, việc áp dụng các phương pháp chuẩn hóa và các mô hình hiện đại theo thông lệ quốc tế nhìn chung vẫn chưa được áp dụng nhiều, các ngân hàng thâu tóm vẫn chủ yếu dựa vào các số liệu về quy mô, định hướng của ngân hàng mục tiêu, đánh giá về độ sâu rộng của mạng lưới cũng như nền tảng công nghệ mà ngân hàng mục tiêu áp dụng. Do đó, để có được cái nhìn toàn diện về mọi khía cạnh lợi ích của thương vụ M&A hoặc để theo dõi quá trình sau sáp nhập như khả năng đồng bộ vận hành, tiềm năng phát triển dài hạn, biến động giá cổ phiếu hoặc lợi nhuận tuyệt đối sinh ra sau thương vụ M&A… thì buộc các nhà nghiên cứu hoặc các chủ thể ra quyết định cần ứng dụng nhiều phương pháp và cách thức đo lường hơn. 390
  7. 4. Đánh giá tác động của thương vụ M&A giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội và Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Trong số 8 trường hợp sáp nhập thành công giai đoạn 2011-2015, thương vụ M&A giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) và Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (HBB) được coi như một trường hợp điển hình và thu hút được nhiều sự chú ý kể từ giai đoạn đề xuất cho tới khi đã vận hành như một thể thống nhất như hiện nay. Trước hết, đây là trường hợp mà M&A được diễn ra công khai minh bạch trước sự chứng kiến, giám sát của hàng vạn cổ đông và các cơ quan chức năng. Thứ hai, thương vụ M&A này diễn ra dưới sự tự nguyện của cả hai bên ngân hàng. Thay vì việc M&A diễn ra thông qua sự thâm nhập vào quyền lợi của hội đồng quản trị của nhóm cổ đông mới và gián tiếp gia tăng sở hữu cổ phần, sáp nhập giữa SHB và HBB được chấp thuận và nhất trí của đại đa số cổ đông. Nhờ vậy, ngân hàng SHB sau sáp nhập nhanh chóng đi vào vận hành và ổn định. Không chỉ vậy, hoạt động sáp nhập của SHB - HBB cho tới nay đã được hơn 3 năm kể từ thời điểm công bố M&A, cũng chính là khoảng thời gian vừa đủ dài để kiểm nghiệm những kết quả mang lại trong trung hạn. 4.1 . Khái quát về Ngân hàng TMCP Sài Gòn và Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) tiền thân là Ngân hàng TMCP Nông Thôn Nhơn Ái được thành lập ngày 13/11/1993 theo quyết định số 214/QÐ-NH5 ngày 13/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trải qua gần 15 năm hoạt động, đến 14/01/2008, Ngân hàng đã hoàn thành việc tăng vốn điều lệ từ 400 triệu đồng lên xấp xỉ 2.000 tỷ đồng. Với định hướng thay đổi từ một ngân hàng nông nghiệp sang một ngân hàng TMCP đô thị, SHB lúc bấy giờ với vốn điều lệ còn thấp, mạng lưới và hệ thống chưa phát triển, tính cạnh tranh trên thị trường còn chưa cao; và bài toán đặt ra cho SHB là làm thế nào để gia tăng vốn cũng như củng cố sức mạnh thị trường một cách nhanh nhất? Ra đời sớm hơn SHB, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội - Habubank (HBB) được thành lập vào ngày 31/12/1988 do UBND TP. Hà Nội ra quyết định số 6719/QĐ-UB cho phép Habubank được hoạt động kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội kể từ 02/01/1989 với vốn điều lệ 5 tỷ đồng. Đến cuối năm 2011, vốn điều lệ HBB đã đạt 4.050 tỷ đồng. Qua hơn 18 năm hoạt động, mạng lưới của Habubank ngày càng mở rộng với nhiều đối tác và khách hàng chiến lược như: Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra), Deutsche Bank,…. HBB đạt danh hiệu “Ngân hàng Việt Nam của năm” trong 2 năm 2006-2007 do Tạp chí The Banker (Anh) trao tặng. Như vậy, có thể thấy HBB có kinh nghiệm vận hành như một NHTM đô thị phong phú hơn SHB cũng như tạo được uy tín nhất định trên thị trường và là nơi được nhiều khách hàng, doanh nghiệp tin dùng dịch vụ. 391
  8. Tuy vậy, vào năm 2011, hoạt động và kết quả kinh doanh của HBB thực sự gặp vấn đề khi các nợ xấu từ khoản vay và tình trạng lỗ từ các khoản đầu tư trái phiếu vào Vinashin (tổng dư nợ của Vinashin tại HBB năm 2011 là 2.745 tỷ đồng và 600 tỷ đồng từ đầu tư trái phiếu Vinashin, theo Đề án sáp nhập Habubank - SHB). Bên cạnh đó, với chi phí vốn ngày càng cao, tỷ lệ nợ xấu của HBB ngày càng tăng (năm 2011 tỷ lệ nợ xấu là 16,06%) cũng đã thể hiện kết quả vận hành yếu kém của HBB giai đoạn này. Ngoài ra, các hoạt động kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng của HBB cũng thực sự xuống dốc khi 270 tỷ đồng tiền gửi tại Công ty Tài chính Cao su và hơn 200 tỷ đồng tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu, Đệ Nhất, Tài chính Sông Đà và Tài chính Handico... không thể thu hồi đã gây ra rủi ro thanh khoản vì tập trung quá nhiều vào danh mục cho vay và đầu tư chứng khoán, đặc biệt là trái phiếu (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu tổ chức tín dụng, trái phiếu doanh nghiệp), trong khi hoạt động tín dụng suy yếu cũng góp phần gây ra hậu quả cho kết quả kinh doanh yếu kém. Do vậy, khi những thông tin tài chính của HBB được công khai, 85,21% cổ đông HBB bỏ phiếu tán thành phương án sáp nhập vào SHB. Bên cạnh đó, với mục tiêu trở thành ngân hàng TMCP có năng lực cạnh tranh cao, mạng lưới rộng khắp, có quy mô tài sản và nguồn vốn nằm trong top các ngân hàng TMCP lớn nhất cả nước, SHB cũng nhanh chóng xúc tiến phương án sáp nhập với HBB. 4.2 . Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Dữ liệu Dữ liệu nghiên cứu tác động của thương vụ M&A giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội và Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là giá cổ phiếu đóng cửa có điều chỉnh của hai ngân hàng này được thu thập từ ngày 08/8/2011 đến 19/9/2012 và chỉ số VN-Index trong thời kỳ tương ứng. Các số liệu được thu thập từ website cophieu68.com và stockbiz.vn. 4.2.2. Phương pháp nghiên cứu Có nhiều phương pháp nghiên cứu về ảnh hưởng của M&A đến ngân hàng thương mại nhưng nghiên cứu của Panagiotis Liargovas và Spyridon Repousis (2010) về tác động của M&A đối với ngành ngân hàng Hy Lạp đã đề cập đến hai phương pháp chính: - Nghiên cứu kết quả vận hành (Operating Performance Methodology) Phương pháp này chính là một trong hai phương pháp từng được Pilloff và Santomero (1998) sử dụng, trong đó, các nhà nghiên cứu quan sát sự tác động của hoạt động mua bán sáp nhập lên lợi nhuận khi so sánh ngân hàng trước và sau sáp nhập 392
  9. Cửa sổ ước lượng Cửa sổ sự kiện T0 t1 Ngày sự kiện ngày 0 t2 hoặc so sánh với một ngân hàng khác không liên quan đến hoạt động M&A này. Ở phương pháp này, nhà nghiên cứu chọn ra một nhóm các ngân hàng thương mại đã tiến hành M&A và thu thập các dữ liệu kế toán để tính các chỉ số: HHI (Herfindahl - Hirschmann Index, dùng để đo lường quy mô của doanh nghiệp trong mối tương quan với ngành và là một chỉ báo về mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành), chỉ số tập trung (CR), và các nhóm chỉ số tài chính cơ bản như chỉ số hoạt động, chỉ số thanh toán, chỉ số sinh lợi và chỉ số năng suất. Trong đó, các chỉ số này được tính trước và sau sáp nhập để chỉ ra các kết quả vận hành, kinh doanh cũng như các chỉ số “sức khỏe” khác của ngân hàng có thực sự được cải thiện hay không, từ đó có thể đánh giá được liệu M&A có phải là quyết định đúng đắn cho các chủ thể? Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu kết quả vận hành phụ thuộc nhiều vào các dữ liệu kế toán nên được cho là thiếu chính xác, còn chủ quan và thiếu tính cập nhật vì một số chỉ số chỉ thực sự có ý nghĩa với thời gian quan sát dài, đánh giá theo từng ngày/tuần/tháng không thể hiện được mục đích phân tích ví dụ như nhóm chỉ số sinh lợi, chỉ số năng suất, thanh toán dài hạn… - Phương pháp nghiên cứu sự kiện (Event Study Methodology) Đây là phương pháp thông dụng nhất được đưa vào phân tích tác động M&A hoặc kết hợp phân tích với phương pháp nghiên cứu kết quả vận hành. Theo đó, phương pháp này tập trung vào việc tính toán lợi nhuận thực sinh ra từ cố phiếu và giá trị lợi nhuận kỳ vọng trước vào sau công bố M&A, được gọi là “lợi nhuận bất thường”. Giá trị này được xác định dựa trên chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng (trong trường hợp không có thông tin hay công bố M&A). Để xác định lợi nhuận thực tế, nhà phân tích sẽ tính toán dựa trên giá đóng cửa có điều chỉnh của cổ phiếu trên cửa sổ sự kiện (t1,t2) (được mô tả như Hình 1). Hình 1. Mô tả cửa sổ sự kiện và cửa sổ ước lượng Nguồn: Beitel và Schiereck (2011) Việc sử dụng cửa sổ sự kiện khi áp dụng nghiên cứu Mô hình thị trường không đơn thuần là việc chọn ngày thống kê khi phân tích. Đối với những nhà đầu tư hay cổ đông các ngân hàng thương mại, phân tích trên cửa sổ sự kiện còn thể hiện phản ứng và kỳ vọng của thị trường và của các nhà đầu tư trước sự rò rỉ thông tin M&A. 393
  10. Để xác định được giá trị lợi nhuận bất thường, hầu hết các nhà nghiên cứu đều áp dụng mô hình thị trường (Market model) mà Dodd và Warner (1983), Brown và Warner (1985) đã từng áp dụng. Mô hình có dạng như sau: Rit = αi + βiRmt +eit Trong đó: Rit là suất sinh lợi thực tế của cổ phiếu i thời kỳ t αi, βi lần lượt là tỷ suất sinh lợi trung bình qua thời kỳ của cổ phiếu i (đã điều chỉnh), hệ số rủi ro hệ thống của cố phiếu i đối với thị trường (đo lường độ nhạy của cổ phiếu i), 2 hệ số được ước lượng dựa trên giá cổ phiếu ngân hàng thương mại i trên cửa sổ ước lượng [T0,t1], thông thường là số liệu được thu thập trong 1 năm, tương đương với 252 ngày giao dịch. RMt là lợi nhuận kỳ vọng của thị trường qua thời gian (ở thị trường Việt Nam áp dụng chỉ số VN-Index) eit là sai số thống kê (thường được cho là không đáng kể, Σeit = 0) Từ những kết quả ước lượng của αi, βi, và lợi nhuận kỳ vọng thị trường, có thể đưa ra được giá trị ước lượng suất sinh lời kỳ vọng: it = i+ iRMt Suất sinh lời bất thường AR (Abnormal Returns) của cổ phiếu ngân hàng thương mại i được tính bằng hiệu số giữa suất sinh lợi thực tế và suất sinh lợi kỳ vọng (với RMt là giá trị suất sinh lợi kỳ vọng của thị trường trên cửa sổ sự kiện): ARit = Rit - it Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn đưa ra Suất sinh lợi bất thường tích lũy CAR (Cumulated Abnormal Returns) để đưa ra được những kết luận nhất định về việc M&A ảnh hưởng thế nào đến lợi nhuận Ngân hàng thương mại khi nghiên cứu trên một cửa sổ sự kiện nhất định it Trong đó: t: số kỳ phân tích [t1; t2] là các khoảng thời gian thuộc cửa sổ sự kiện được chọn ra, các cửa sổ được chọn ra để nghiên cứu có thể trước hoặc sau ngày sự kiện, hoặc chứa ngày sự kiện. 394
  11. 5. Kết quả nghiên cứu Giai đoạn 2010-2015 đã chứng kiến không ít những thương vụ M&A giữa các ngân hàng thương mại, với thời gian vài tháng cho tới 2-3 năm, sẽ rất khó có thể đưa ra nhận định chủ quan: Quyết định M&A liệu đã tối ưu hay chưa vì hoạt động M&A vốn rất phức tạp, mang nhiều mục tiêu, động cơ khác nhau của các chủ thể cũng như các tác động có thể thay đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Ứng dụng nghiên cứu mô hình thị trường vào việc ước lượng suất sinh lợi bất thường tích lũy của các ngân hàng trước/sau công bố M&A trong thương vụ sáp nhập giữa Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Habubank (HBB) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) có thể cho thấy được phần nào tác động của M&A tới khả năng sinh lợi trên thị trường của cổ phiếu. Bảng 1. Giá trị CAR của ngân hàng SHB và HBB trên các cửa sổ sự kiện SHB HBB Cửa sổ sự kiện CAR -SHB Cửa sổ sự kiện CAR-HBB (-30;30) -0,13777 (-30;7) 0,07468 (-20;20) -0,11285 (-20;7) 0,04548 (-15;15) -0,03324 (-15;5) 0,03794 (-12;12) -0,05366 (-12;5) 0,04705 (-10;10) -0,07943 (-10;5) 0,04779 (-8;8) -0,11449 (-8;5) 0,02114 (-5;5) -0,02528 (-5;5) -0,02528 (-3;3) -0,01509 (-3;3) -0,01509 (-2;2) 0,004846 (-2;2) 0,02565 (-30;-15) -0,02084 (-30;-15) 0,04437 (-30;-20) 0,00231 (-30;-20) 0,03110 (-30;-10) -0,03714 (-30;-10) 0,04186 (-20;-10) -0,03132 (-20;-10) 0,01266 (-30;-1) -0,06012 (-30;-1) 0,03255 (5;10) -0,07845 (1;3) 0,04945 (10;15) 0,11877 (1;5) 0,03974 (10;20) 0,05047 (3;5) -0,00281 (15;20) -0,04220 (3;7) 0,00483 (20;25) 0,01451 (1;7) 0,04739 (20;30) -0,02246 (1;30) -0,06854 Nguồn: Tính toán của tác giả 395
  12. Mặc dù ngày sự kiện được chọn là ngày 07/8/2012 - ngày Ngân hàng Nhà nước ký quyết định sáp nhập hai ngân hàng, nhưng mãi đến 28/8/2012, thương hiệu Habubank mới bị chấm dứt sử dụng nên các giao dịch phát sinh trên sàn chứng khoán với mã HBB vẫn được duy trì tới 16/8/2012. Bên cạnh đó, mã chứng khoán SHB của ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội vẫn được duy trì sau sự kiện sáp nhập dẫn tới việc sử dụng cửa sổ sự kiện để nghiên cứu hai ngân hàng này có sự chênh lệch: Habubank chỉ sử dụng được cửa sổ sự kiện tối đa 7 ngày sau công bố M&A trong khi SHB không bị giới hạn. Bảng 1 cho thấy giá trị suất sinh lợi bất thường của cả hai ngân hàng HBB và SHB được ước lượng trên cửa sổ sự kiện xung quanh, trước và sau ngày sự kiện (ngày công bố sự kiện sáp nhập giữa hai ngân hàng thương mại 07/8/2012). Không phải với riêng thị trường Việt Nam mà đối với nhiều quốc gia khác, hầu hết những thông tin liên quan đến thương vụ M&A luôn được các nhà đầu tư trên thị trường và các chủ thể có liên quan khác rất quan tâm, săn đón; do đó, phương pháp nghiên cứu sự kiện phần nào cho phản ánh được sự rò rỉ thông tin M&A thực tế. Thêm vào đó, khi nghiên cứu khoảng thời gian xung quanh sự kiện, có thể thấy rõ rằng hầu hết suất sinh lợi bất thường của cổ phiếu ngân hàng HBB mang dấu dương, thậm chí vẫn duy trì tình hình đó sau cửa sổ sự kiện. Điều ngày trái ngược với những gì quan sát được ở ngân hàng SHB – hầu hết các giá trị CAR xung quanh, trước và sau sự kiện mang dấu âm. Điều này có thể lý giải bởi hành vi của các nhà đầu tư đang nắm giữ trái phiếu HBB có xu hướng được khuyến khích bán ra, và họ được hưởng suất sinh lợi cao hơn bình thường, đặc biệt là trước ngày sự kiện. Bên cạnh đó, kế hoạch và động lực M&A tại thị trường Việt Nam trong giai đoạn này được khuyến khích và thúc đẩy mạnh mẽ của các cơ quan chức năng như Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm mục tiêu cơ cấu lại toàn bộ hệ thống ngân hàng -tài chính quốc gia chứ không chỉ đơn thuần bắt nguồn từ mục tiêu của mỗi ngân hàng thương mại đưa ra (Trần Thị Thu Hường và Nguyễn Bích Ngọc, 2014). Do đó, việc gia tăng suất sinh lợi bất thường nói riêng, cũng như lợi nhuận của ngân hàng sau hợp nhất nói chung không phải là mục tiêu hàng đầu của thương vụ sáp nhập này. Và việc suất sinh lợi bất thường âm tại các cửa sổ sự kiện sau ngày công bố M&A và hầu như không thay đổi so với trước khi sự kiện xảy ra đối với Ngân hàng SHB thể hiện rất rõ điều này, các nhà đầu tư đã nắm rõ được kịch bản M&A và sẵn sàng bỏ qua giá trị sinh lợi trong ngắn hạn từ chính sự kiện M&A này. 396
  13. 6. Kết luận Như vậy, dù áp dụng những mô hình hay phương pháp tiên tiến để đo lường tác động của M&A đến các NHTM, việc xem xét đến các yếu tố khách quan hay mục tiêu của các chủ thể đối với mỗi trường hợp cụ thế là vô cùng quan trọng để đưa ra nhận định cuối cùng. Tựu chung lại, có thể nói rằng thương vụ M&A giữa SHB và HBB đã đạt thành công bước đầu khi đáp ứng được mục tiêu của các chủ thể: hoàn thiện đề án cơ cấu của Thủ tướng Chính phủ đưa ra, tinh thần tự nguyện của hai bên giúp minh bạch, giản đơn trong vận hành một hệ thống mới, giúp việc khắc phục những khoản nợ xấu, các vấn đề tồn đọng của HBB được nhanh chóng và khả thi hơn, cổ đông ngân hàng thâu tóm và ngân hàng mục tiêu thu được lợi nhuận và nhân lực của cả hai ngân hàng này có được định hướng hoạt động vững chắc hơn. Phương pháp nghiên cứu mô hình thị trường dựa trên cửa sổ sự kiện được áp dụng nhiều trên toàn cầu, được kiểm chứng và áp dụng trong nhiều nghiên cứu đã cho ra kết quả thể hiện được phần nào tác động của M&A. Tuy vậy, chỉ hoàn toàn dựa vào nghiên cứu mô hình này để đưa ra nhận định rằng thương vụ M&A mang lại tác động tích cực hay tiêu cực là chưa phù hợp. Để trả lời được câu hỏi này một cách toàn diện nhất, cần tiến hành áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu và các phương pháp nghiên cứu kết quả vận hành, thậm chí điều tra mạng lưới trong dài hạn như 5 hoặc 10 năm. Tài liệu tham khảo 1. Akhavein, J. D., Berger, A. N., & Humphrey, D. B. (1997). The effects of megamergers on efficiency and prices: Evidence from a bank profit function. Review of industrial organization, 12(1), 95-139. 2. Beitel, P. and Schiereck, D. (2011).Value Creation at the ongoing consolidation of the European banking market. Institute for Mergers and Acquisitions (IMA) Working Paper No. 05/01. 3. Brown, S. J., & Warner, J. B. (1985). Using daily stock returns: The case of event studies. Journal of financial economics, 14(1), 3-31. 4. Cable, J., & Holland, K. (1999). Modelling normal returns in event studies: a model-selection approach and pilot study. The European Journal of Finance,5(4), 331-341. 5. Cornett, M. M., & Tehranian, H. (1992). Changes in corporate performance associated with bank acquisitions. Journal of Financial economics, 31(2), 211- 234. 397
  14. 6. Dodd, P., & Warner, J. B. (1983). On corporate governance: A study of proxy contests. Journal of financial Economics, 11(1), 401-438. 7. Liargovas, P., & Repousis, S. (2011). The Impact of Mergers and acquisitions on the Performance of the Greek Banking sector: an event study approach.International Journal of Economics and Finance, 3(2), p89. 8. Maditinos, D., Theriou, N., & Dimitriadis, E. (2009). The Effect of Mergers and Acquisitions on the Performance of Companies–The Greek Case of Ioniki-Laiki Bank and Pisteos Bank. Journal of European Research Studies, 12(2), 111-130. 9. Nguyễn Thị Hường (2013). Giải pháp thực hiện có hiệu quả hoạt động M&A các doanh nghiệp Logistic Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 191, tr.46-56. 10. Nguyễn Thị Mùi (2010). Giải pháp phát triển ổn định và lành mạnh hệ thống ngân hàng. Tạp chí Tài chính số 2 năm 2015, tr.11-13. 11. Nguyễn Thu Hiền và Lê Tường Luật (2012). Ảnh hưởng của công bố thông tin thâu tóm sáp nhập lên suất sinh lợi cổ phiếu công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ 14.2Q, tr.36-46. 12. Piloff, S. J., & Santomero, A. M. (1998). The value effects of bank mergers and acquisitions,Springer US, pp.59-78. 13. Trần Thị Thu Hường và Nguyễn Bích Ngọc (2014). M&A ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng, động cơ và thách thức trong thời gian tới. Tạp chí Thị trường - Tài chính - Tiền tệ số 9. 14. Vũ Anh Dũng, Đặng Xuân Minh (2012). Để không rơi vào bẫy “Cộng hưởng”. Vietnam M&A Review 2011-2012 Đi tìm giá trị cộng hưởng – Toàn cảnh và các Thương vụ tiêu biểu, tr.62-63. Một số website: http://www.shb.com.vn/TabId/503/ArticleId/1923/PreTabId/505/Default.aspx https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/10/100824.html 398
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2