intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI " ĐIỆN TÍCH NHỎ NHẤT XƯA VÀ NAY "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

117
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Có một thời, nhiều nhà vật lý đã tưởng rằng proton, neutron và electron chính là các "nguyên tử" theo định nghĩa của người cổ Hy lạp. Nhưng vào năm 1968, những thí nghiệm được tiến hành trên máy gia tốc tuyến tính ở Standford ở Hoa Kỳ đã cho thấy rằng các proton và neutron cũng không phải là các hạt cơ bản nhất. Dựa vào lý thuyết nào người ta lại khẳng định như vậy?

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI " ĐIỆN TÍCH NHỎ NHẤT XƯA VÀ NAY "

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA VẬT LÝ MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI: Giáo viên hướng dẫn: Lê Văn Hoàng Sinh viên thực tập: Hoàng Thị Thanh Thảo Đoàn Thị Minh Thư Trần Bùi Cẩm Vân TP HCM, Ngày 15 tháng 5 năm 2009
  2. 1 MỤC LỤC LỜI NGỎ………………………………………………………………………. 3 ĐIỆN TÍCH NHỎ NHẤT XƯA VÀ NAY………………………………..…...4 Điện tích………………………………………………………………..….4 I. Khái quát về điện tích:……………………………………………...4 I.1. Thuộc tính và tính chất của điện tích:……………………………....4 I.2. Các loại điện tích:………………………………………………..…6 I.3. Quan niệm cổ điển: II. II.1. Electron:………………………………………………………….....6 Lược sử quá trình khám phá ra electron………………….….6 II.1.1 Giới thiệu về electron……………………………………..…6 II.1.2. Thí nghiệm tìm ra electron………………………………..…7 II.1.3. Thí nghiệm đo điện tích điện tử………………………….….8 II.1.4. Các thuộc tính và tính chất của electron…………………….9 II.1.5. Ứng dụng của electron……………………………………..11 II.1.6. II.2. Proton: Khái quát về proton………………………………………...13 II.2.1. Sự ổn định………………………………………………….13 II.2.2. Trong hóa học………………………………………………14 II.2.3. Lịch sử……………………………………………………...14 II.2.4. Phản proton………………………………………………...14 II.2.5. II.3. Neutron: Khái quát về neutron……………………………………….15 II.3.1. Lịch sử tìm ra neutron……………………………………...15 II.3.2. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  3. 2 Thuộc tính và tính chất của neutron………………………..16 II.3.3. Phản neutron………………………………………………..18 II.3.4. Quan niệm hiện đại: III. Hạt quark: III.1. Giới thiệu về hạt quark:…………………………………………...18 III.2. Tính chất của hạt quark:…………………………………..………19 III.3. Các loại hạt quark:…………………………..…………………….20 III.4. Quá trình khám phá ra các loại hạt quark:……………………..….21 III.5. Điện tích:……………………….…………………………………24 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………28 PHỤ LỤC……………………………………………………………………….29 Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  4. 3 LỜI NGỎ Có một thời, nhiều nhà vật lý đã tưởng rằng proton, neutron và electron chính là các "nguyên tử" theo định nghĩa của người cổ Hy lạp. Nhưng vào năm 1968, những thí nghiệm được tiến hành trên máy gia tốc tuyến tính ở Standford ở Hoa Kỳ đã cho thấy rằng các proton và neutron cũng không phải là các hạt cơ bản nhất. Dựa vào lý thuyết nào người ta lại khẳng định như vậy? Nhằm giúp cho các bạn sinh viên có thêm tư liệu cho việc dạy và học, các em học sinh muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, nhóm chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn những kiến thức cơ bản liên quan đến vấn đề này. Hy vọng với lượng kiến thức này sẽ giúp các bạn phần nào hiểu thêm về vấn để bạn nghiên cứu. Do thời gian và kiến thức giới hạn nên khó tránh khỏi những sai sót, mong các bạn thông cảm. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  5. 4 ĐIỆN TÍCH NHỎ NHẤT XƯA VÀ NAY I. ĐIỆN TÍCH: I.1 Khái quát về điện tích: Điện tích là một tính chất cơ bản và không đổi của một số hạt hạ nguyên tử, đặc trưng cho tương tác điện từ giữa chúng. Điện tích tạo ra trường điện từ và cũng như chịu sự ảnh hưởng của trường điện từ. Sự tương tác giữa một điện tích với trường điện từ khi nó chuyển động hoặc đứng yên so với trường điện từ này là nguyên nhân gây ra lực điện từ, một trong những lực cơ bản của tự nhiên. Điện tích còn được hiểu là "hạt mang điện". I.2 Thuộc tính và tính chất của điện tích: Các hạt mang điện cùng dấu (cùng dương hoặc cùng âm) sẽ đẩy nhau. Ngược lại, các hạt mang điện khác dấu sẽ hút nhau. Tương tác giữa các hạt mang điện nằm ở khoảng cách rất lớn so với kích thước của chúng tuân theo định luật Coulomb. Định luật Coulomb đặt theo tên nhà vật lý Pháp Charles de Coulomb, phát biểu là: “Độ lớn lực tương tác giữa hai điện tích điểm tỷ lệ thuận với tích các độ lớn điện tích và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng các giữa chúng”. Điện tích của một vật vĩ mô là tổng đại số của tất cả các điện tích tương ứng của các hạt phần tử cấu thành nên vật đó. Thông thường, các vật quanh ta Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  6. 5 đều trung hòa về điện, đó là do mỗi nguyên tử ở trạng thái tự nhiên đều có tổng số proton bằng tổng số electron, nên các điện tích của chúng bù trừ lẫn nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi điện tích tổng cộng của một vật bằng không, vật ấy vẫn có thể tham gia tương tác điện từ, đó là nhờ hiện tượng phân cực điện. Các điện tích chịu sự ảnh hưởng của hiện tượng phân cực gọi là điện tích liên kết, các điện tích có thể di chuyển linh động trong vật dẫn dưới tác dụng của từ trường ngoài gọi là điện tích tự do. Chuyển động của các hạt mang điện theo một hướng xác định sẽ tạo thành dòng điện. Đơn vị của điện tích trong hệ SI là Coulomb (viết tắt là C), 1 C xấp xỉ bằng 6,24×1018e. Kí hiệu Q được dùng để diễn tả độ lớn một lượng điện tích xác định, gọi là điện lượng. Phần lớn điện lượng trong tự nhiên là bội số nguyên của điện tích nguyên tố. Các hạt quark có điện tích phân số so với e. Phản hạt của một hạt cơ bản sẽ có điện tích bằng về độ lớn, nhưng trái dấu so với điện tích của hạt cơ bản đó. Có thể đo điện tích bằng một dụng cụ gọi là tĩnh điện kế. Điện tích là một đại lượng bất biến tương đối tính, điều đó có nghĩa là vật (hoặc hạt) mạng điện tích q khi đứng yên, thì vẫn sẽ mang điện tích q như vậy khi chuyển động. Điều này đã được kiểm chứng trong một thực nghiệm, ở đó điện tích của một hạt nhân heli (gồm 2 proton và 2 neutron, hạt nhân này di chuyển rất nhanh) được quan sát là gấp đôi điện tích của một hạt nhân deuteri (gồm 1 proton và 1 neutron, được xem là chuyển động rất chậm so với hạt nhân helium). Điện tích tuân theo định luật bảo toàn điện tích: Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  7. 6 “Tổng điện tích của một hệ kín là không thay đổi theo thời gian, không phụ thuộc vào các biến đổi trong hệ”. I.3 Các loại điện tích: Theo quy ước, có hai loại điện tích: điện tích âm và điện tích dương. Điện tích của electron là âm, ký hiệu là –e, còn điện tích của proton là dương, ký hiệu là +e với e là giá trị của một điện tích nguyên tố. II. QUAN NIỆM CỔ ĐIỂN II.1 Electron: II.1.1 Lược sử quá trình khám phá ra Electron:  Theo Aristotle thì vật chất được cấu tạo liên tục, tức là có thể chia một mẫu vật chất ngày càng nhỏ mà không có một giới hạn nào.  Democritus lại cho rằng vật chất vốn có dạng hạt và vật chất được tạo thành từ một số lớn các loại nguyên tử (atom).  Năm 1830, John Danlton chỉ ra rằng hợp chất hóa học là do các nguyên tử co cụm lại với nhau tạo nên những đơn nguyên tử được gọi là phân tử.  Năm 1897, J.J.Thomson đã chứng minh được sự tồn tại của một hạt vật chất mà ông gọi là electron. Một hạt có khối lượng nhỏ hơn khối lượng của nguyên tử nhẹ nhất khoảng một ngàn lần. II.1.2 Giới thiệu về Electron: Điện tử (hay còn gọi là electron, được kí hiệu là e−) là một hạt hạ nguyên tử, hay hạt sơ cấp. Trong nguyên tử, electron quay xung quanh hạt nhân (hạt nhân bao gồm các proton và neutron) trên quỹ đạo electron. Từ electron bắt Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  8. 7 nguồn từ tiếng Hy Lạp ηλεκτρον (phát âm là "electrum") có nghĩa là hợp kim của bạc và vàng. Electron thuộc lớp đầu tiên của nhóm lepton trong loại hạt Fermion của hạt cơ bản, nó chịu tương tác hấp dẫn, tương tác điện từ và tương tác yếu. Electron có phản hạt là positron. Electron được đề nghị bởi George Johnstone Stoney như là đơn vị điện tích trong điện hóa học, nhưng cũng nhận ra rằng nó còn là hạt hạ nguyên tử và đến năm 1897 được nhà vật lý người Anh Joseph J. Thomson1 tìm ra tại phòng thí nghiệm Cavendish của trường Đại học Cambridge, trong khi ông đang nghiên cứu về "tia âm cực". II.1.3 Thí nghiệm: Điện tử là hạt hạ nguyên tử đầu tiên được tìm ra dựa vào tính chất điện của vật chất. Vào cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ thứ 19, người ta đã nghiên cứu ống chùm ca-tốt (cathode ray tube). Ống chùm ca-tốt là một ống thuỷ tinh, bên trong có chứa khí có áp suất thấp, một đầu của ống là cực dương, và đầu kia là cực âm. Hai cực đó được nối với một nguồn có điện thế khác nhau, nguồn này tạo ra một dòng hạt có thể đi qua khí bên trong ống. Người ta giả thiết rằng có một chùm hạt phát ra từ cực dương đi về phía cực âm và làm cho ống phát sáng. Chùm đó được gọi là chùm ca-tốt. Khi đặt một vật chướng ngại nhẹ trong ống thì vật đó bị di chuyển từ cực dương về cực âm, người ta kết luận hạt đó có khối lượng. Khi đặt một từ trường vào thì dòng hạt bị dịch chuyển, người ta kết luận hạt đó có điện tích. 1 Phụ lục V.1, trang 28. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  9. 8 Năm 1897, nhà vật lý người Anh Joseph John Thomson (1856-1940) đã kiểm chứng hiện tượng này bằng rất nhiều thí nghiệm khác nhau, ông đã đo được tỷ số giữa khối lượng của hạt và điện tích của nó bằng độ lệch hướng của chùm tia trong các từ trường và điện trường khác nhau. Thomson dùng rất nhiều các kim loại khác nhau làm cực dương và cực âm đồng thời thay đổi nhiều loại khí trong ống. Ông thấy rằng độ lệch của chùm tia có thể tiên đoán bằng công thức toán học. Thomson tìm thấy tỷ số điện tích/khối lượng là một hằng số không phụ thuộc vào việc ông dùng vật liệu gì. Ông kết luận rằng tất cả các chùm ca-tốt đều được tạo thành từ một loại hạt mà sau này nhà vật lý người Ái Nhĩ Lan George Johnstone Stoney đặt tên là "electron", vào năm 1891. II.1.4 Thí nghiệm đo điện tích electron: (Thí nghiệm giọt dầu Millikan) Năm 1909, Robert Millikan2 thực hiện thí nghiệm để đo điện tích điện tử. Sử dụng một máy phun hương thơm, Millikan đã phun các giọt dầu vào một hộp trong suốt. Đáy và đỉnh hộp làm bằng kim loại được nối với nguồn điện một chiều với một đầu là âm (-) và một đầu là dương (+). Millikan quan sát từng giọt rơi một và cho áp dụng hiệu điện thế lớn 2 Phụ lục V.2, trang 28. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  10. 9 giữa hai tấm kim loại rồi ghi chú lại tất cả những hiệu ứng. Ban đầu, giọt dầu không tích điện, nên nó rơi dưới tác dụng của trọng lực. Tuy nhiên sau đó, Millikan đã dùng một chùm tia Röntgen để ion hóa giọt dầu này, cung cấp cho nó một điện tích. Vì thế, giọt dầu này đã rơi nhanh hơn, vì ngoài trọng lực, nó còn chịu tác dụng của điện trường. Dựa vào khoảng thời gian chênh lệch khi hai giọt dầu rơi hết cùng một đoạn đường, Millikan đã tính ra điện tích của các hạt tích điện. Xem xét kết quả đo được, ông nhận thấy điện tích của các hạt luôn là số nguyên lần một điện tích nhỏ nhất, được cho là tương ứng với 1 electron, e = 1,63 × 10-19 coulomb. Năm 1917, Millikan lặp lại thí nghiệm trên với thay đổi nhỏ trong phương pháp, và đã tìm ra giá trị điện tích chính xác hơn là e = 1,59 × 10-19 coulomb. Những đo đạc hiện nay dựa trên nguyên lý của Millikan cho kết quả là e = 1,602 × 10-19 coulomb. II.1.5 Các thuộc tính và tính chất của electron: Electron có điện tích âm −1.602 × 10−19 coulomb, và khối lượng khoảng 9.1094 × 10−31 kg (0.51 MeV/c²), xấp xỉ 1/1836 khối lượng của proton. Chuyển động của electron xung quanh hạt nhân là một chủ đề gây tranh cãi. Electron không chuyển động trên một quỹ đạo cố định mà có lẽ nó xuất hiện tại một số điểm trong khu vực xung quanh quỹ đạo hạt nhân (với xác suất khoảng 90% thời gian là trên quỹ đạo tính toán). Electron có spin ½, nghĩa là nó thuộc về lớp hạt Fermion, hay tuân theo thống kê Fermi-Dirac. Trong khi phần lớn các electron tìm thấy trong nguyên tử thì một số khác lại chuyển động độc lập trong vật chất hay cùng với nhau như những chùm điện Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  11. 10 tử trong chân không. Trong một số chất siêu dẫn, các electron chuyển động theo từng cặp. Khi các electron chuyển động tự do theo một hướng xác định thì tạo thành dòng điện. Tĩnh điện không phải là dòng chuyển động của các electron. Nó chỉ tới những vật có nhiều hoặc ít electron hơn số lượng cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân. Khi có nhiều electron hơn proton, vật được gọi là có "tích điện âm", ngược lại khi có ít electron hơn proton, vật được gọi là có "tích điện dương". Khi số electron bằng số prôton, vật được gọi là "trung hòa" về điện. Các electron và phản hạt của nó là positron có thể tiêu hủy lẫn nhau để sản xuất ra photon. Ngược lại, một photon cao năng lượng có thể chuyển hóa thành electron và positron bởi một quy trình gọi là sản xuất cặp. Electron là một hạt cơ bản – có nghĩa là nó không có cấu trúc hạ tầng. Vì vậy, nó được miêu tả như là một điểm, có nghĩa trong nó không có khoảng không. Tuy nhiên, nếu chúng ta tiến đến thật gần một electron, chúng ta có thể nhận thấy các thuộc tính của nó (như điện tích và khối lượng) dường như đã biến đổi. Hiệu ứng này là chung cho tất cả các hạt cơ bản: vì các hạt này tác động tới những dao động trong chân không trong những vùng phụ cận chúng, vì vậy các thuộc tính được nhận thấy từ xa là tổng của các thuộc tính thực sự và các ảnh hưởng của chân không . Vận tốc của electron trong chân không xấp xỉ nhưng không bao giờ bằng c (vận tốc ánh sáng trong chân không). Điều này là do hiệu ứng của thuyết tương đối. Hiệu ứng của thuyết tương đối dựa trên một đại lượng được biết đến như là gamma hay hệ số Lorentz. Gamma là một hàm của v - vận tốc của hạt, và c. Dưới đây là công thức của gamma: Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  12. 11 1  v2 1 ( ) c2 Năng lượng cần thiết để gia tốc một hạt thì bằng gamma trừ đi 1 lần khối lượng tĩnh. Ví dụ, máy gia tốc tại Đại học Stanford có thể gia tốc êlectron tới khoảng 51 GeV. Máy gia tốc này cung cấp gamma bằng 100.000 lần khối lượng tĩnh của electron là 0.51 MeV/c² (khối lượng tương đối của electron nhanh này là 100.000 lần khối lượng tĩnh của nó). Giải phương trình trên ta có vận tốc của 1 electron nhanh nói trên là (1    2 )c = 0.99999999995 c. (Công thức này chỉ áp 2 dụng khi γ lớn) II.1.6 Ứng dụng của Electron: II.1.6.1 Electron trong vũ trụ: Người ta cho rằng số lượng electron để có thể bao trùm vũ trụ là 10130. Người ta cho rằng số lượng electron hiện có trong vũ trụ là khoảng 1079 . II.1.6.2 Electron trong cuộc sống: Dòng điện cung cấp cho các thiết bị điện trong nhà và tại công nghiệp là dòng chuyển động có hướng của các electron. Ống tia âm cực của ti vi sử dụng chùm điện tử trong chân không để tạo ra hình ảnh trên màn hình lân quang. Tính chất lượng tử của electron được sử dụng trong các thiết bị bán dẫn như transistor. II.1.6.3 Electron trong công nghiệp: Chùm electron được sử dụng trong hàn điện cũng như trong kỹ thuật in đá. II.1.6.4 Electron trong phòng thí nghiệm: Các thí nghiệm phát kiến: Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  13. 12 Bản chất lượng tử hay rời rạc của điện tích của electron được quan sát bởi Robert Millikan trong thí nghiệm dầu nhỏ giọt năm 1909. Đo lường: Spin của electron được phát hiện trong thí nghiệm Stern-Gerlach. Điện tích có thể đo trực tiếp bằng các électromètre. Dòng điện có thể đo trực tiếp bằng các galvanomètre. Sử dụng electron trong phòng thí nghiệm: Kính hiển vi điện tử được sử dụng để phóng to các chi tiết tới 500.000 lần. Hiệu ứng lượng tử của electron được sử dụng trong kính hiển vi quét chui hầm (Microscope à effet tunnel) để nghiên cứu các vật liệu ở thang đo kích thước nguyên tử (2x10-10 m). II.1.6.5 Electron trong lý thuyết: Trong cơ học lượng tử, electron được mô tả trong phương trình Dirac. Trong mô hình chuẩn của vật lý hạt, nó tạo thành một cặp với neutrino, vì chúng tương tác với nhau bằng lực tương tác yếu. Electron có hai "người bạn" to lớn, với cùng điện tích nhưng khác nhau về khối lượng là: muon và tauon. Trong thế giới phản vật chất, phản hạt của electron là positron. Positron có cùng các giá trị thuộc tính (khối lượng, spin, giá trị tuyệt đối của điện tích) như electron, ngoại trừ nó mang điện tích dương. Khi electron gặp positron, chúng có thể tiêu diệt lẫn nhau, tạo thành hai photon trong tia gamma, mỗi tia có năng lượng 0.511 MeV (511 keV). Electron còn là yếu tố cơ bản trong điện từ trường, là lý thuyết gần đúng cho các hệ thống vĩ mô. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  14. 13 II.2 Proton: II.2.1 Khái quát về Proton: Proton (p hay H+, tiếng Hy Lạp πρώτον/proton = đầu tiên) là một loại hạt tổ hợp, một thành phần cấu tạo hạt nhân nguyên tử. Bản thân proton được tạo thành từ 3 hạt quark (2 quark lên và 1 quark xuống), vì vậy proton mang điện tích +1e hay +1.602 ×10-19 coulomb. Có spin bán nguyên, proton là Fermion. Khối lượng 1.6726 ×10-27 kg xấp xỉ bằng khối lượng hạt neutron và gấp 1836 lần khối lượng hạt electron. Trong nguyên tử trung hòa về điện tích, số proton đúng bằng số electron. Số proton trong nguyên tử của một nguyên tố đúng bằng điện tích hạt nhân của nguyên tố đó, và được chọn làm cơ sở để xây dựng bảng tuần hoàn . Proton và neutron được gọi là nucleon. Đồng vị phổ biến nhất của nguyên tử hydrô là một proton riêng lẻ (không có neutron nào). Hạt nhân của các nguyên tử khác nhau tạo thành từ số các proton và neutron khác nhau. Số proton trong hạt nhân xác định tính chất hóa học của nguyên tử và xác định nên nguyên tố hóa học. II.2.2 Sự ổn định: Proton là một loại hạt ổn định. Tuy nhiên chúng có thể biến đổi thành neutron thông qua quá trình bắt giữ electron. Quá trình này không xảy ra một cách tự nhiên mà cần có năng lượng: Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  15. 14 Quá trình này có thể đảo ngược: các neutron có thể chuyển thành proton qua phân rã bêta. II.2.3 Trong hóa học: Trong hóa học và hóa sinh, proton được xem là ion hydrô, kí hiệu là H+. Một chất cho proton là axít và nhận proton là bazơ. II.2.4 Lịch sử: Ernest Rutherford3 được xem là người đầu tiên khám phá ra proton. Năm 1918, Rutherford nhận thấy rằng khi các hạt alpha bắn vào hơi nitơ, máy đo sự nhấp nháy chỉ ra dấu hiệu của hạt nhân hydro. Rutherford tin rằng hạt nhân hydro này chỉ có thể đến từ nitơ, và vì vậy nitơ phải chứa hạt nhân hydro. Từ đó ông cho rằng hạt nhân hydro, có số nguyên tử 1, là một hạt cơ bản. Trước Rutherford, Eugene Goldstein đã quan sát tia a nốt, tia được tạo thành từ các ion mang điện dương. Sau khi J.J. Thomson khám phá ra electron, Goldstein cho rằng vì nguyên tử trung hòa về điện nên phải cố hạt mang điện dương trong nguyên tử và đã cố tìm ra nó. Ông đã dùng canal ray để quan sát những dòng hạt chuyển dời ngược chiều với dòng electron trong ống tia âm cực. Sau khi electron được loại ra khỏi ống tia âm cực, những hạt này được nhận thấy là mang điện dương và di chuyển về cực âm. II.2.5 Phản proton: 3 Phụ lục V.3, trang 29. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  16. 15 Phản hạt của proton được gọi là phản proton. Những hạt này được phát hiện vào năm 1955 bởi Emilio Segrè bởi Owen Chamberlain và họ đã nhận giải Nobel vật lý năm 1959 nhờ công trình này. II.3 Neutron: II.3.1 Khái quát về neutron: Neutron là hạt hạ nguyên tử, không chứa điện tích, có khối lượng bằng 1.67492729(28)×10−27 kg, xấp xỉ bằng khối lượng hạt proton. Neutron được tìm thấy trong hạt nhân của nguyên tử. Hầu hết hạt nhân của các nguyên tử bao gồm proton và neutron, cái mà người ta gọi chung là nucleons. Số hạt proton trong hạt nhân trong nguyên tử là được gọi là số nguyên tử xác định vị trí của nguyên tố. Số hạt neutron quyết định số đồng vị của nguyên tố. Ví dụ như cacbon -12 đồng vị gồm 6 proton và 6 neutron, trong khi đó cacbon -14 đồng vị thì có 6 proton và 8 neutron. Giới hạn của neutron trong hạt nhân là bền, neutron tự do là không bền, nó chịu phóng xạ beta với thời gian sống dưới 15 phút (885.7 ± 0.8 s). Neutron tự do được sản xuất trong quá trình phân rã và tổng hợp hạt nhân. II.3.2 Lịch sử khám phá: Năm 1930, Walther Bothe và Herbert Becker người Đức đã thấy rằng nếu hạt alpha với năng lượng lớn từ Poloni rơi vào hạt nhân nhẹ, đặc biệt là Beri, Bo, Liti thì sinh ra 1 tia phóng xạ bất thường có khả năng đâm xuyên, lần đầu tiên phóng xạ này được coi là phóng xạ gamma, mặc dù khả năng đâm xuyên của nó lớn hơn bất kì tia gamma đã biết nào, và các chi tiết dựa trên kết quả thí nghiệm rất khó để giải thích trên nền tảng nguyên tắc này. Bài đăng quan trọng kế tiếp Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  17. 16 được tuyên bố chính thức 1932 bởi Irène Joliot-Curie và Frédéric Joliot tại Pháp. Họ chỉ ra rằng những bức xạ chưa biết này khi rơi vào Paraffin hoặc hợp chất của Hidro thì nó sẽ bắn ra Proton với một năng lượng rất cao. Điều này không mâu thuẫn với giả định về bản chất của tia gamma trong phóng xạ mới, nhưng sự phân tích chi tiết về số lượng thông tin trở nên khó dần để nó phù hợp với giả thuyết. Cuối cùng, năm 1932 nhà vật lý James Chadwick4 trong tòa nhà George Holt tại University of Liverpool đã biểu diễn hàng loạt các thí nghiệm và chỉ ra rằng tia gamma theo giả thuyết trên là không đứng vững . Ông ta đề nghị một bức xạ mới của hạt không mang điện mà có khối lượng gần đúng với khối lượng của Proton, và ông đã thực hiện hàng loạt thí nghiệm để kiểm tra lại đề xuất của mình. Những hạt không mang điện này được gọi là neutron, xuất phát từ gốc là từ neutral và theo Hi lạp có –on (mô phỏng theo electron và proton). II.3.3 Thuộc tính và tính chất II.3.3.1 Ổn định và phân rã beta: Vì neutron được cấu tạo từ 3 hạt quark nên nó chỉ có thể phân rã theo cách thức thay đổi số lượng tử cần thiết để thay đổi hương vị của 1 trong những hạt quark bằng lực hạt nhân yếu. Neutron gồm 2 quark down với điện tích -1/3 và 1 quark up với điện tích +2/3, và sự phân rã của 1 trong các quark down có thể đạt đến được nhờ sự thoát ra của W boson (loại boson vectơ trung gian) . Điều này 4 Phụ lục V.4, trang 30. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  18. 17 có nghĩa là phân rã neutron có thể tạo ra 1 proton (bao gồm 1 hạt quark down và quark up), 1 electron, và 1 phản neutrino electron. Ngoài hạt nhân, neutron tự do không bền và có thời gian sống trung bình là 885.7±0.8 s (khoảng 15 phút), phân rã bởi sự thoát ra của 1 electron mang điện tích âm và 1 phản neutrino để trở thành 1 proton. n0 → p+ + e− + νe Phân rã này được biết như phân rã beta, có thể thay đổi đặc tính của neutron trong hạt nhân không bền. Bên trong hạt nhân, proton có thể thay đổi bằng cách đổi ngược phản ứng phân rã beta của neutron. Trong trường hợp này, sự chuyển đổi xảy ra bởi sự thoát ra của 1 positron (phản electron) và 1 neutrino (thay vì là 1 phản neutrino). p+ → n0 + e+ + νe Sự thay đổi của 1 proton thành neutron bên trong hạt nhân có thể dẫn đến việc bắt electron. p+ + e− → n0 + νe Bắt positron bởi neutron trong hạt nhân có thể ngăn chặn sự vượt trội của neutron, nhưng nó bị cản trở vì positron bị đẩy lùi bởi hạt nhân, và nó nhanh chóng bị hủy diệt khi nó va chạm với electron. Phản ứng beta và bắt electron là các kiểu của phân rã phóng xạ và cả 2 đều chịu ảnh hưởng của tương tác yếu. II.3.3.2 Moment lưỡng cực điện: Mô hình chuẩn của vật lý hạt tiên đoán 1 sự phân ly nhỏ của điện tích dương và điện tích âm bên trong neutron dẫn đến việc sinh ra moment lưỡng cực điện vĩnh cửu. Đó là 1 tiên đoán có giá trị. Từ 1 khó khăn chưa được giải quyết trong vật lý hạt, nó đã xóa sạch những mô hình chuẩn không đầy đủ. Học thuyết Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  19. 18 mới đã dẫn đến mô hình chuẩn xa hơn, dẫn đến sự tiên đoán về moment lưỡng cực điện của neutron. Hiện tại, có ít nhất 4 thí nghiệm đã thử đo giới hạn đầu tiên của moment lưỡng cực điện. II.3.4 Phản neutron: Phản neutron là các phạn hạt của neutron. Những hạt nảy đã được tìm ra bởi Bruce Cork vào năm 1956, một năm sau khi phát hiện ra phản proton. Phả n neutron cấu thành bởi các phản quark, và có moment lưỡng cực từ ngược với chính hạt: +1,91 µN cho phản neutron. III. Quan niệm hiện đại: Có một thời, nhiều nhà vật lý đã tưởng rằng proton, neutron và electron chính là các "nguyên tử" theo định nghĩa của người cổ Hy lạp. Nhưng vào năm 1968, những thí nghiệm được tiến hành trên máy gia tốc tuyến tính ở Standford ở Hoa Kỳ đã cho thấy rằng các proton và neutron cũng không phải là các hạt cơ bản nhất, chúng lại được cấu tạo bởi ba hạt nhỏ hơn, đó là các hạt quark. Hạt Quark III.1 Giới thiệu về hạt Quark: Cái tên kỳ cục này đã được Murrey Gell Mann5 -người đầu tiên đoán sự tồn tại của chúng lấy từ cuốn tiểu thuyết Finnegans Wake của nhà văn nổi tiếng người Scotland –James Joyce. 5 Phụ lục V.6, trang 31. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
  20. 19 Hạt quark là hạt cơ bản tạo nên 99,9% vật chất bình thường, tuy nhiên không thể nghiên cứu một hạt quark đơn lẻ trong phòng thí nghiệm. Vì vậy, một số tính chất cơ bản của hạt quark không được biết đến, như khối lượng chính xác của chúng hoặc tại sao chúng tồn tại ở 6 dạng khác nhau? Hiện nay, các nhà vật lý hạt đang nỗ lực thực hiện một công trình nghiên cứu mới để giải quyết bí ẩn của hạt quark với việc hoàn thành ba siêu máy tính mạnh nhất chưa từng thấy được sử dụng cho vấn đề này. Việc tìm ra hạt quark thực hiện hàng loạt các phép đo tán xạ electron không đàn hồi từ proton và neutron nhằm đưa ra bằng chứng thực hiện trực tiếp đầu tiên về việc proton và neutron được tạo thành từ hạt QUARK (hạt cơ bản). Quark là một trong hai thành phần cơ bản cấu thành nên vật chất trong Mô hình chuẩn của vật lý hạt. Các phản hạt của quark được gọi là các phản quark. Quark và phản quark là những hạt duy nhất tương tác trong cả 4 lực cơ bản của vũ trụ. Đường đi của 6 hạt quark từ phải sang trái. III.2 Tính chất của hạt quark: Chúng ta không thể cô lập để nhìn thấy hạt quark. Phương pháp nghiên cứu khoa học Lý 3 chính quy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2