intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

71
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người , không những trẻ em mà thậm chí cả người lớn cũng thích được nghe Kể chuyện . Sở dĩ như vậy vì kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn , truyền cảm bằng ngôn ngữ . Mặc dù đã có những phương tiện thông tin đại chúng như ti vi , đài phát thanh , rađiô , cát sét , người ta vẫn thích nghe nói nói chuyện trực tiếp bằng lời .

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KĨ THUẬT LÊN LỚP ĐỂ DẠY TỐT MỘT TIẾT KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4 – 5 A/ ĐẶT VẤN ĐỀ Trong cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người , không những trẻ em m à thậm chí cả người lớn cũng thích được nghe Kể chuyện . Sở dĩ như vậy vì kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn , truyền cảm bằng ngôn ngữ . Mặc dù đ ã có những phương tiện thông tin đại chúng như ti vi , đài phát thanh , rađiô , cát sét , người ta vẫn thích nghe nói nói chuyện trực tiếp bằng lời . Hồ Chí Minh thư ờng dạy : “ Tiếng nói là thứ của cải vô c ùng lâu đời và vô cùng quý báu . Chúng ta phải biết quý trọng nó , giữ gìn nó , phát triển nó” . Nhờ có tiếng nói và lao động mà con người đ ã thoát h ẳn đời sống lo ài vật , vươn lên làm chủ bản thân , làm chủ xã hội , làm chủ thiên nhiên . Như vậy Kể chuyện là nhu cầu của cuộc sống , cho dù đó là cuộc sống trong xã hội hiện đại đi nữa . Trong nhà trường Tiểu học , Kể chuyện là một nhu cầu thiết yếu của lứa tuổi học sinh nhỏ . Từ tuổi lên ba bập bẹ nói , các em đã thích nghe kể chuyện . Đến tuổi Mẫu giáo , nhu cầu cần nghe kể chuyện lại tăng lên nhiều . Kể chuyện và thơ ca là hai môn quan trọng ở các trường Mẫu giáo hiện nay . Bước vào tuổi học sinh Tiểu học , nhu cầu nghe Kể chuyện vẫn không hề giảm m à lại tiếp tục tăng th êm . Tại sao vậy ? Những truyện kể
  2. là một trong những h ình thức nhận thức thế giới của các em , giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã hội xung quanh , từng b ước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống cho các em . Những tác phẩm ấy giúp các em xác lập một thái độ đối với các hiện tượng của đời sống xung quanh . Nhiệm vụ cơ b ản của phân môn Kể chuyện ở Tiểu học là bồi dưỡng thêm tâm hồn , đem lại niềm tin , trau dồi vốn sống , vốn văn học , phát triển n gôn ngữ và tư duy cho trẻ . Sẽ ngh èo nàn đi mất bao nhiêu khi mà trẻ em không được tiếp xúc với truyện , dặc biệt là kho tàng truyện cổ dân gian trong sáng và sinh động . Nh ư vậy nhiệm vụ giáo dục , giáo dưỡng của phân môn Kể chuyện lại trở nên đa dạng , phong phú . Dạy tốt một tiết Kể chuyện , giáo viên sẽ tạo điều kiện tốt cho sự phát triển năng khiếu ở học sinh , tạo điều kiện ươm mầm cho những nhân tài mai sau. Đó cũng là một mặt trong xây dựng nhân cách con người mới , con người của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đối với học sinh lớp 4 – 5 , d ạy kể chuyện là một quá trình giáo viên dẫn dắt học sinh thuộc truyện , nhớ truyện và kể lại được truyện bằng ngôn ngữ của m ình . Dạy Kể chuyện ở đây cũng là quá trình giáo viên hư ớng dẫn tổ chức các hoạt động của học sinh về phân môn Kể chuyện . Nhận thức đ ược tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện như trên , trong suốt 3 năm học vừa qua bản thân tôi đã tiến hành thực hiện một số biện pháp nhằm giảng dạy tốt phân môn Kể chuyện góp ph ần giáo dục học sinh một cách toàn diện . Qua 3 năm thực hiện , tôi đã đạt được một kết quả khả quan , lớp tôi luôn có học sinh đạt giải trong các cuộc thi Kể chuyện cấp trường , cấp huyện . Các em cũng năng động , mạnh dạn hơn trong học tập . Nhận thấy trong thực tế , nhiều giáo viên chưa th ấy được ảnh hưởng tích
  3. cực của phân môn Kể chuyện đối với các môn học khác , luôn coi Kể chuyện là môn phụ vì vậy tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân về “ Kĩ thuật lên lớp – d ạy tốt một tiết Kể chuyện ở lớp 4 – 5 ” đ ể các đồng nghiệp cùng tham kh ảo . B/ NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT. I/ Qúa trình phát triển kinh nghiệm . Giờ Kể chuyện có liên quan đến nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ em , góp phần hình thành nhân cách , đ em lại những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh cho tâm hồn học sinh . Kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ , sức mạnh này bắt nguồn từ sức mạnh của công cụ mà môn Kể chuyện sử dụng . Nhờ có truyện , đặc biệt là những truyện cổ tích mà trẻ em nhận thức đ ược thế giới không chỉ bằng trí tu ệ mà bằng trái tim , truyện cung cấp cho trẻ những hiện tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa , là ngọn nguồn phong phú và không có gì thay th ế đ ược để giáo dục tình yêu Tổ quốc . Đây cũng là phân môn mà các em rất thích học . Tuy thế nhưng có một thực tế là từ lớp Một đến lớp Bốn – Năm , các em được nghe rất nhiều truyện nhưng khi được yêu cầu kể lại th ì các em chẳng nhớ được bao nhiêu , có nhớ thì cũng chỉ một vài chi tiết không đầu không cuối . Hãn h ữu mới có một vài em nhớ được trọn vẹn mộ t câu chuyện xong khả năng diễn đạt khi kể của các em lại rất kém . Tại sao vậy ? Qua tìm hiểu và thực tế giảng dạy tôi nhận thấy có những nguyên nhân dẫn đến hiện trạng này là : + Phân môn Kể chuyện dường như b ị coi là một phân môn phụ và cho đến nay vị trí phân môn này vẫn ch ưa dược coi trọng đúng mức .
  4. + Sự đầu tư nghiên cứu , xây dựng một tiết Kể chuyện trên lớp của giáo viên còn hạn chế . Giáo viên thường thay thế tiết Kể chuyện bằng tiết đọc truyện . + Giáo viên chưa tự bồi dưỡng , n âng cao tiềm lực sư phạm và nghệ thuật dạy Kể chuyện . Để khắc phục những nguyên nhân đã làm ảnh hưởng đến hứng thú học Kể chuyện của học sinh như trên , b ản thân tôi đã áp dụng những biện pháp thực hiện sau : II. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT LÊN LỚP Ở PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN : 1. Tìm hiểu phương pháp dạy đặc trưng của phâ môn Kể chuyện : Tôi thấy rằng phân môn Kể chuyện như tên gọi , nó sẽ có đặc trưng là kể chứ không phải là đọc là giảng , là làm bài tập . Cụ thể hơn , đó là phân môn d ạy học m à người giáo viên bằng ngôn ngữ của chính m ình kể lại cho học sinh nghe truyện và học sinh sau khi nghe giáo viên kể sẽ tập kể lại bằng ngôn ngữ của m ình . Cũng như nhiều phân môn khác , phân môn Kể chuyện sử dụng phương tiện chính là lời nói hay gọi là ngôn ngữ . Cũng có lúc người giáo viên làm việc với sách truyện đọc , với bảng đen , với tranh ảnh và hiện vật minh họa nhưng cái cốt yếu đó là phương tiện lời nói . Theo N. V. Savin: “ Lời nói của giáo viên là một công cụ dạy học dễ hiểu nhất và phổ biến nhất . Khi nắm được cách sử dụng lời nói , giáo viên làm cho những khái niệm và tư tưởng trừu tượng nhất cũng trở thành dễ hiểu đối với trẻ . Nhờ lời nói , giáo viên có thể khiêu gợi trong ý thức các em những bức tranh r õ ràng của quá khứ , tương lai tuyệt đẹp của nhân loại : cấu tạo của vũ trụ . Lời nói làm tích cực trí tưởng tượng , trí nhớ , tình
  5. cảm của học sinh . Ở giai đoạn học tập đầu tiên khi các em còn chưa học được cách sử dụng sách , lời nói dường như là công cụ duy nhất để nhận thức thế giới .” Kể chuyện là phân môn d ạy học sử dụng lời nói n ên nó cũng rất phức tạp và khó . Đã có không ít giáo viên thường xa rời đặc trưng cơ bản này và thay thế tiết Kể chuyện bằng tiết đọc truyện . Điều đó làm giảm đi rất nhiều hiệu quả của tiết Kể chuyện vì Kể khác với Đọc . Kể vì mang sắc thái ngôn ngữ riêng của người kể nên dễ gây sự chú ý của người nghe . Kể có thể dừng lại , kể chậm , tô đậm hoặc đặt câu hỏi giữa chừng và tự trả lời , khắc sâu tình tiết cốt truyện , làm cho người nghe có điều kiện theo d õi được nhân vật , đư ợc tình tiết và cốt truyện , khác với đọc , chỉ nghe thoảng qua khó ghi nhớ lại . Kể có thể biểu lộ tình cảm yêu ghét , buồn , vui n ên dễ được sự đồng cảm của người nghe . Và khác hẳn với mọi phân môn dạy học khác , kể có tác dụng truyền cảm ngay tức khắc , có hiệu quả tại chỗ và rõ ràng chứ không đợi học sinh về nhà học b ài , ôn luyện làm bài tập mới rõ kết quả . Nhưng phương pháp đ ặc trưng này có đư ợc quán triệt hay không thể hiện rõ rệt nhất trong kĩ thuật lên lớp của một tiết kể chuyện . 2. Kĩ thuật lên lớp một tiết Kể chuyện Phân môn Kể chuyện có các bư ớc lên lớp riêng , theo đúng quy định dư phạm . Sau đây là những bước đi cụ thể của một tiết Kể chuyện mà tôi đã thực hiện : a. Chuẩn bị của giáo viên:
  6. Chuẩn bị của giáo viên thường diễn ra trước tiết lên lớp một vài ngày thậm chí một hai tuần . Thực ra thì số tiết chuẩn bị ở nhà có th ể tăng nhiều hơn tùy theo trình độ nghề nghiệp và năng lực thực tế của giáo viên . Lao động của người giáo viên ở bước chuẩn bị này thư ờng là thầm lặng và ít được tính đến , song thật ra có tính quyết định cho sự thành công của một tiết lên lớp . Và điều này đ ã trở thành một chân lí : Không có sự chuẩn bị công phu chu đáo không thể có tiết dạy thành công được . Sự chuẩn bị của giáo viên bao gồm những công việc sau:  Đọc truyện , tìm hiểu thâm nhập truyện . Đây là khâu cơ bản đầu tiên của Kể chuyện . Để có thể kể được , kể có nghệ thuật , hấp dẫn , rõ ràng , hơn ai hết giáo viên phải là ngư ời thuộc truyện , nắm vững tình tiết cốt truyện , hiểu cặn kẽ ý nghĩa bài học rút ra từ truyện . Đối với truyện của lớp 4 năm nay hầu hết là truyện mới ,nhưng ngay cả đối với những truyện đã quen thuộc , việc đọc truyện vẫn là cần thiết . Vì sao vậy ? Vì có đọc truyện mới biết được nội dung của truyện từ đầu đến cuối , mới làm quen với nhân vật , với tình huống của truyện . Song đọc truyện cũng phải có phương pháp . Tôi rút ra hai phương pháp đọc là : Đọc thầm - Đọc thành tiếng . -
  7. Lúc đ ầu tôi đọc thầm toàn bộ truyện ,sau đó đọc to thành tiếng có kết hợp ngữ điệu phù hợp để tìm giọng điệu chuẩn . Đọc truyện thành tiếng còn tạo điều kiện kiểm tra khả năng nghệ thuật phát âm thực tế của m ình . Việc đọc truyện kể còn biểu hiện đư ợc sắc thái ngôn ngữ của các nhân vật khác nhau , ngôn n gữ đối thoại theo tâm trạng nhân vật . VD: Truyện “ Những chú bé không chết” hấp dẫn ở phần đối thoại , giáo viên cần có giọng kể phù hợp với mức độ diễn biến câu chuyện . Giọng tên sĩ quan lúc đầu hống hách ,sau ngạc nhiên , kinh hãi đ ến hoảng loạn; còn câu trả lời của các chú bé du kích ; dõng dạc, kiêu hãnh. Khi đọc truyện , cũng thường dừng ở những chỗ cần thiết để tìm hiểu rõ từng tình tiết , từ ngữ của truyện , lược ghi ra nháp những tình tiết chính để thấy rõ cả mạch truyện và khi kể không bỏ sót. Cũng trong quá trình đọc truyện tôi tìm hiểu những chú giải của từ ngữ , địa danh , tên nhân vật , ý nghĩa của truyện và bài học rút ra từ truyện để có thể định hướng cho học sinh .  Kế hoạch bài dạy . Không như kế hoạch b ài d ạy các môn học khác , kế hoạch b ài dạy phân môn Kể chuyện gần với thiết kế một tiết lên lớp nhiều h ơn là nội dung bài giảng . Ngoài các mục đích giáo dục , giáo d ưỡng như thường thấy th ì kế hoạch b ài d ạy tiết Kể chuyện không đi kĩ vào nội dung truyện mà đi nhiều về mặt phương pháp va cách điều khiển học sinh kể chuyện .
  8. Cũng có thể ghi tỉ mỉ các câu hỏi cần gợi mở , các tình huống cần lưu ý , các học sinh cần đư ợc kiểm tra hoặc ghi rõ thời gian cho từng bư ớc tiến hành như sau: Ổn định : 1 phút đầu. - Kiểm tra bài cũ : 5 – 6 phút ( HS kể lại truyện ở tiết trước và GV giới thiệu - truyện mới ) GV kể 2 đến 3 lần trong vòng 8 – 10 phút. - Hướng dẫn HS kể : 5 phút . - Còn 15 – 20 phút cuối cho HS kể chuyện. - Giáo viên cần dự kiến các biện pháp bổ sung để bằng bất cứ giá nào cũng tạo điều kiện cho các em hưởng trọn vẹn yêu cầu của tiết Kể chuyện . b. Các bước lên lớp của một tiết Kể chuyện : Quá trình lên lớp được tính đến từ khi giáo viên b ắt đầu tiết Kể chuyện . Quá trình này cũng phản ánh một phần trong kế hoạch bài d ạy của mỗi giáo viên. 1. Ổn định lớp , kiểm tra truyện kể lần trước.
  9. Quá trình này không nên kéo dài quá vì kéo dài thời gian chờ đợi , căng thẳng của học sinh , giáo viên cần nói những câu ngắn , gợi hứng thú tò mò của học sinh với truyện sắp kể . Việc kiểm tra truyện cũ không nên làm theo phương pháp chiếu lệ mà qua đó cần kiểm tra nhận thức và tình cảm của học sinh . Có thể gọi một hai em học sinh nói lại tên truyện , tên nhân vật , một vài tình tiết chính , một chút ý nghĩa của truyện . Sau đó bằng một số câu chuyển tiếp ngắn đã chuẩn bị sẵn , giáo viên nêu tên truyện sẽ kể và viết tên truyện đó lên bảng . 2 . Giáo viên kể Theo kinh nghiệm của tôi thì đ ể lôi cuốn sự chú ý của cả lớp ngay từ đầu câu chuyện giáo viên nên đứng ở gần bàn học sinh đầu tiên của lớp để kể . Nói chung không nên đứng ơ vị trí quá gần hoặc quá xa đối với đối tượng tiếp thu . Giọng kể nhỏ nhưng vang , đủ cho cả lớp nghe , kể cả các em ngồi ở bàn cuối . Kể rành mạch các tình tiết , ngôn ngữ trong sáng , dễ hiểu. Cử chỉ nét mặt phải phù hợp với ngôn ngữ kể chuyện . Không nên cường độ hóa cử chỉ và nét mặt , cũng như không bắt ch ước hoàn toàn các tâm trạng của nhân vật trong truyện . Ví dụ : Không nên bắt chước tiếng cười , tiếng khóc một cách d ễ dãi tự nhiên sẽ gây ra hiện tượng cười đ ùa vô nguyên tắc . Ngừơi giáo viên dù kể bất kì truyện nào cũng nên biết mình chỉ là người kể chứ không phải là người trực tiếp ở trong truyện đó . Trong quá trình kể cần bao quát toàn lớp xem các em học sinh có hoàn toàn tập trung theo dõi câu chuyện không ? Nếu thấy có những hiện tượng thiếu tập trung cần uốn
  10. nắn , điều chỉnh giọng điệu kịp thời . Nhìn chung giọng kể vừa phải , trầm ấm là thích hợp nhất với truyện kể. Để học sinh có thể nắm được tình tiết cốt truyện thì ở lần kể thứ hai giáo viên cần kể chậm , thong thả h ơn kết hợp chỉ vào tranh . 3 . Học sinh kể: Trước khi bư ớc vào ph ần học sinh kể , giáo viên cần gợi mở cho học sinh nắm cốt truyện thông qua đ àm tho ại tại chỗ một số câu hỏi vài học sinh trả lời những câu hỏi đó . Giáo viên cần tổ chức cho học sinh tập kể trong nhóm 2 hoặc nhóm 4 trước khi kể trước lớp vì nh ư thế các em có thể giúp đỡ , bổ sung cho nhau . Quá trình học sinh tập kể cũng là m ột quá trình tịnh tiến , lúc đầu là kể từng đoạn rồi tiến tới kể cả câu chuyện . Cần lần lượt gọi tất cả các đối tượng học sinh tập kể vì mục tiêu chính của phân môn Kể chuyện là rèn kĩ năng giao tiếp , việc rèn kĩ năng kể , kĩ năng nói là rèn cho cả lớp . Đối với học sinh thuộc truyện , kể hấp dẫn , giáo viên cần khuyến khích , động - viên kịp thời . Đối với những học sinh kể ấp úng , nói không thành từ thành câu , giáo viên cần kiên trì hướng dẫn , không để cho học sinh xấu hổ , không đ ể cho học sinh đứng trước lớp m à không nói được câu nào . Đối với học sinh yếu không tự mình kể đ ược thì giáo viên có thể kể lại tình tiết và yêu cầu các em nhắc lại . Giáo viên cần phát hiện học sinh có năng khiếu để chú ý khuyến khích bồi dưỡng thêm . Những học sinh n ày có thể chất thường nhanh nhạy , có nghệ thuật diễn cảm , có khả năng bắt chước , khả năng đóng hoạt cảnh và chính các em sẽ tạo nên không khí
  11. hứng thú cho tiết Kể chuyện , làm cho lớp hoạt động sôi nổi , thúc đẩy chung cho phong trào học tập . Mỗi lớp có thể chọn được từ một đến ba em có năng khiếu và với những dịp tổ chức thi Kể chuyện , hội diễn , những học sinh này góp một phần quyết định cho sự thành công . Thực tế cho thấy rất nhiều diễn viên sân kh ấu , điện ảnh , các ngh ệ sĩ ưu tú biểu diễn chuyên nghiệp thường lớn lên từ phong trào thi kể chuyện ở các trường phổ thông . Đó là một trong những hiệu quả cụ thể của việc rèn kĩ năng trong phân môn Kể chuyện . 4. Đàm thoại Việc đàm tho ại sau khi học sinh tập kể lại chỉ nên xoay quanh ý nghĩa của truyện và tính cách một số nhân vật trong truyện . Đ àm thoại ở tiết Kể chuyện nhằm củng cố , đúc rút ý ngh ĩa , bài học cuộc sống chứ không nh ư ph ần luyện tập ở các môn học khác . Từ nội dung tình tiết cốt truyện , từ các nhân vật của truyện thường ghi dấu ấn rất sâu về ý nghĩa và bài h ọc thiết thực rồi .Không nên kéo dài thời gian đ àm tho ại vì th ực tế không cho phép . Quá trình đàm thoại cũng là quá trình củng cố của tiết Kể chuyện . Bước củng cố của tiết Kể chuyện cũng không giống với bất kì bước củng cố của các môn học khác . Giáo viên không nên lúc nào cũng dặn dò những câu đại loại như : “ các em về học lại bài này , chú ý tập kể cho anh chị hoặc các em nhỏ nghe” thường mang nội dung nh àm chán . Có th ể giáo viên gợi ý “ Tuần này các em đ ã đ ược nghe cô kể và tập kể một câu chuyện lí thú . Tuần sau cô và các em sẽ kể tiếp một truyện lí thú hơn nữa” , như thế sẽ gây đư ợc tâm lí chờ đợi ở tiết Kể chuyện tiếp theo. Với những câu gợi mở như th ế , người giáo viên đã góp ph ần h ình thành được tâm thế có lợi cho ngư ời học , người dạy .
  12. Một điều cần chú ý là không kéo dài tiết Kể chuyện sang giờ nghỉ của học sinh vì như thế sẽ gây cảm giác mệt mỏi , chán nản . Cũng cần lưu ý là trong cả tiết Kể chuyện , giáo viên n ên chú ý nói ít , tạo điều kiện cho học sinh được nói nhiều . Tiết Kể chuyện thành công là tiết kể chuyện sôi nổi và khi kết thúc còn để lại nhiều dư âm cho học sinh . 3 Một số thủ thuật sư phạm : Thủ thuật sư phạm đối với bất kì một môn học nào cũng là cần thiết vì nó làm tăng một cách đáng kể hiệu quả của tiết lên lớp . Nhưng một thủ thuật sử dụng không đúng chỗ , đúng lúc thường gây hiệu suất thấp cho giờ dạy . Phân môn Kể chuyện văn học là phân môn dạy tác phẩm văn học bằng phương pháp kể truyền cảm . Các thủ thuật sư phạm vì vậy mang ý nghĩa thực tiễn kịp thời bổ sung cho truyện th êm sinh động , thêm truyền cảm . Sau đây là một số thủ thuật cơ b ản nhất m à tôi đ ã đúc rút được : * .Thủ thuật sử dụng ngữ điệu + Ngữ điệu là giọng điệu riêng của lời nói . Trong ngữ pháp học , người ta chia thành bốn ngữ điệu chính về câu theo mục đích nói là : ngữ điệu kể , ngữ điệu hỏi , ngữ điệu cầu khiến , ngữ điệu cảm thán . + Ngư ời kể phải tạo cho m ình quy tắc cần thiết khi chậm rãi , lúc kh ẩn trương , lúc rành rẽ , lúc duyên dáng . Không nên chỉ sử dụng một nhịp độ nói sẽ gây cảm giác đ ơn điệu , buồn ngủ . Không nói thao thao bất tuyệt dễ gây ấn tượng chói gắt , . Không dùng các âm thanh the thé , gắt gỏng trong khi kể chuyện . Cũng cần chú ý trong cùng một câu nói , nếu nhấn mạnh ở từ n ày ho ặc từ kia , nghĩa có thể hoàn toàn khác nhau .
  13. Ví d ụ Tôi hỏi “Thu, Lan có nh à không ?” khác hẳn với câu : Tôi hỏi “ Thu Lan có nh à không ?” . Ngư ời giáo viên khi kể chỉ nên dùng giọng trung bình , có độ vang và sâu . Ngắt giọng là nh ững chỗ ngừng giọng nhất định . Có hai loại ngắt giọng : ngắt giọng lôgíc theo dấu chấm câu , ngắt giọng tâm lí theo tình cảm người kể . Ngư ời giáo viên trong quá trình kể chuyện trước những tình tiết gay cấn , thắt nút , đỉnh điểm dù không có dấu cấu cũng nên ngắt giọng tâm lí để gây sự hồi hộp chờ đợi . Chẳng hạn : Ở truyện “Ông lão đ ánh cá và gã hung thần” đoạn gã hung th ần hiện ra và đòi giết ông lão , nhưng ông lão đã nhanh trí lừa đư ợc gã hung thần chui vào lọ rồi ông lão vứt chiếc lọ xuống biển . Ở đoạn này kịch tính của câu chuyện được phát triển khá nhanh , nút truyện được thắt lại bất ngờ nhưng lại được gỡ ra khá đột ngột . Phù hợp với sắc thái ngữ điệu là việc biểu lộ nét mặt . Nếu là ngữ điệu vui , nét mặt người kể cũng phải vui , nếu là ngữ điệu buồn ,nét mặt người kể cũng biểu lọ vẻ buồn . Bên cạnh việc biểu lộ nét mặt th ì việc biểu lộ cử chỉ cũng cần không kém . Cử chỉ ở đây là động tác của tay , của đầu , của m ặt nhằm gây cảm giác gợi trí tưởng tư ợng của học sinh . Đối với phân môn Kể chuyện cử chỉ cần đơn giản , trung thực , biểu cảm và mang nội dung rõ rệt .Nhìn chung phương pháp d ạy kể chuyện rất cần sự sáng tạo của giáo viên nhưng đó là nh ững sáng tạo nhằm thực hiện tốt mục đích , yêu cầu của phân môn kể chuyện.
  14. * Thủ thuật sử dụng bảng. Yêu cầu đầu tiên của việc ghi bảng là thoáng , ít , d ễ nhìn , dễ xem , hết sức chọn lọc . Phần ghi bảng gồm tên truyện , có thể thêm tên nhân vật – đặc biệt là tên các nhân vật trong các truyện nước ngoài ( Ví dụ : Đa – ghét – xtan…), đôi khi cả các tình tiết chủ yếu để hỗ trợ học sinh yếu khi tập kể không bỏ sót các tình tiết chính của truyện. Giáo viên kể lần đầu không nên ghi bảng . Sở dĩ như vậy là để câu chuyện kể của giáo viên không bị đứt mạch , rời rạc và tác dụng truyền cảm trong lời kể của giáo viên lắng sâu vào tâm trí học sinh . Học sinh vừa chú ý nghe kể chuyện , vừa theo dõi ghi bảng ngay thì sẽ rất mệt , kém hứng thú . Trước khi học sinh tập kể , giáo viên mới ghi bảng , học sinh mới có điều kiện tái hiện câu chuyện trong trí nhớ để chuẩn bị kể lại cho cả lớp nghe . Việc ghi bảng có tác dụng nhắc học sinh không bỏ sót những tình tiết chính khi kể chuyện . * Thủ thuật sử dụng đồ dùng dạy học : Đồ dùng dạy học của phân môn Kể chuyện thư ờng là tranh , ảnh , hiện vật ,Tranh ảnh minh họa nói nói chung có tác dụng gợi trí tưởng tượng cụ thể , gián tiếp mở rộng vốn sống cho học sinh , trong giờ kể chuyện , tranh ảnh minh họa vừa giúp học sinh có những biểu tượng cụ thể về nhân vật , h ành động … của truyện , vừa làm “ điểm tựa” cho học sinh ghi nhớ diễn biến câu chuyện , phục vụ cho việc tái hiện nội dung và d ễ dàng kể lại câu chuyện .
  15. Dạy tiết Kể chuyện có tranh ảnh minh họa, giáo viên tiến h ành thuận lợi hơn , đỡ vất vả hơn. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả tốt trong giảng dạy, giáo viên cần lưu ý 1 số điểm về cách sử dụng tranh như sau: Cần đưa tranh minh họa đúng lúc , đúng chỗ , nghĩa là cái th ời điểm mà tâm trạng - người nghe đang ch ờ đợi , mong mỏi thì mới phát huy hết tác dụng . Ví dụ : Kể chuyện “ Một nhà thơ chân chính” xong rồi giáo viên mới chợt nhớ đến bức tranh vẽ cảnh nh à thơ b ị đưa lên giàn hỏa thiêu để giới thiệu với học sinh th ì sẽ làm giảm quá nhiều thú vị cho các em. Nên sử dụng tranh minh họa trong lần kể từng đoạn (kể lần thứ hai ) ; kết hợp đưa ra - từng tranh có nội dung phù hợp với lời kể của giáo viên. Dùng tranh minh họa kèm theo các câu gợi ý nhằm giúp học sinh tìm hiểu truyện , - nắm vững nội dung, nhớ được các hình ảnh , chi tiết quan trọng và hành động , diễn biến của truyện. III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC : Qua vận dụng ở thực tế giảng dạy mấy năm , bản thân đã thu được những kết quả cụ thể sau: - Học sinh đ ã hình thành và rèn luyện được kĩ năng diễn đạt bao gồm kĩ năng nói , kĩ năng dùng từ , lựa chọn từ , đặt câu .
  16. - Đa số các em đ ã m ạnh dạn , hứng thú và yêu thích học phân môn Kể chuyện nói chung và tiết Kể chuyện nói riêng , đặc biệt là các em không còn thấy ngượng ngùng , rụt rè mà có tâm thế muốn được kể chuyện cho cô cho bạn nghe . - Song song với sự tiến bộ chung , đội ngũ học sinh tham gia vào các hoạt động ngo ại khóa về kể chuyện để tuyển chọn , phát hiện một số học sinh có năng khiếu ở lớp , ở trường ngày càng có chiều hướng gia tăng . - Hầu hết những học sinh có năng khiếu đã được phát hiện và bồi d ưỡng kịp thời để tham gia vào các hoạt động ngoại khóa về kể chuyện. Cụ thể Số học sinh tham gia thi KC đạt giải Năm học Cấp trường Cấp huyện Cấp tỉnh 2002 – 2003 2 Em 1 Em 2003- 2004 1 Em 1 em 1 em 2004 - 2005 2 em 1 em 1 em
  17. IV.BÀI HỌC KINH NGHIỆM : Từ những kết quả đạt đư ợc n êu trên , bản thân đã rút ra được b ài h ọc kinh nghiệm như sau : - Yêu cầu tự bồi dưỡng nâng cao tiềm lực sư ph ạm là một yêu cầu có tính chất cần thiết với nghề nghiệp ngư ời thầy . Riêng đối với việc nâng cao chất lượng dạy phân môn Kể chuyện ở n hà trường Tiểu học nói chung , ở lớp 4 nói riêng thì yêu cầu tự bồi dưỡng năng khiếu và trình độ thẩm mĩ , nghệ thuật Kể chuyện truyền cảm càng trở n ên bức thiết . Không thể có tiết Kể chuyện th ành công mà giáo viên lại hời hợt , hờ hững . Bởi vì bản thân nghiệp vụ kể đòi hỏi giáo viên gần như phải bộc lộ tâm hồn , năng lực và tình cảm của mình . Trước con mắt của các em học sinh , người giáo viên rất khó và không th ể giấu diếm được nhân cách của m ình . - Người giáo viên cần khắc phục sự lười nhác , ngại khó , thiếu nghị lực . - - Xây dựng thói quen đọc sách vì đọc sách giúp cho giáo viên có điều kiện thâm nhập tác phẩm , nâng cao năng lực cảm thụ văn và năng lực truyền cảm . - Rèn luyện kĩ năng nói gồm : + Kĩ năng thở : Lời nói gắn liền với hơi thở . Thở tự nhiên trong khi nói là điều kiện cần thiết để lời nói không bị đứt đoạn , không vừa nói vừa thở .
  18. + Kĩ năng nói : Lời nói cần rõ ràng , khúc triết từng âm riêng lẻ , từng từ riêng lẻ và từng câu riêng lẻ . Cần phải cảm thụ sắc thái của từ để phát âm diễn đạt. Không nói nhanh , không nói quá chậm, không nói đều đều , không quá nh ấn mạnh bất kì từ nào. - Lời động viên của giáo viên , tạo sự thi đua giữa các tổ, nhóm, trang trí hoặc bố trí lớp học gợi không khí câu chuyện… là những biện pháp có hiệu quả tạo tâm thế mong muốn được tham gia kể chuyện trong tiết học. C . KẾT LUẬN Phân môn Kể chuyện có ý ngh ĩa góp phần tích lũy vốn văn học , mở rộng vốn sống cho trẻ . Giờ KC còn mở rộng tầm hiểu biết , kh êu gợi trí tưởng tượng cho các em , chắp cánh cho trí tư ởng tượng của các em bay bổng , đó chính là hoài bão ước mơ cao đẹp khi các em bước vào cuộc sống . Cũng thông qua giờ KC , ngôn ngữ nói của các em được phát triển , đấy là cách nói trước đám đông một cách có nghệ thuật . Với những ý nghĩa trên nên tôi thấy rằng việc đầu tư để dạy tốt tiết KC là điều hết sức cần thiết . Tôi hy vọng với những kinh nghiệm đ ã đúc rút qua nhiều năm giảng dạy trên đây của bản thân sẽ phần nào giúp các bạn đồng nghiệp dạy tốt h ơn phân môn KC ở nhà trường Tiểu học . -----------------------------------------------------------------
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2