intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng câu hỏi cho bài Clo – lớp 10 – THPT thuộc chương trình nâng cao

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

91
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng câu hỏi cho bài Clo – lớp 10 – THPT thuộc chương trình nâng cao đưa ra những giải pháp và cách thực hiện cho việc áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng câu hỏi cho bài Clo – lớp 10. Mời các bạn tham khảo để hiểu rõ hơn về kĩ thuật này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng câu hỏi cho bài Clo – lớp 10 – THPT thuộc chương trình nâng cao

  1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời kỳ đổi mới và phát triển cuả đất nước, cùng nằm trong xu thế  chung của thời đại, ngàng giáo dục nước nhà cũng phát động phong trào thay đổi  phương pháp dạy học nhằm đáp  ứng những nhu cầu mới của xã hội. Phương   pháp dạy học truyền thống của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu, lấy người thầy làm  trung tâm và có nhiều yếu tố  không còn phù hợp với sự  năng động của xã hội   hiện tại, trong các phương pháp dạy học mới vừa kế  thừa những điểm mạnh  của phương pháp truyền thống vừa có những thay đổi để học trò sẽ đóng vai trò  trung tâm trong quá trình dạy học và  khi đó học sinh sẽ chủ động tiếp thu kiến   thức.  Nhà nước ta cùng với bộ giáo dục đã bỏ ra rất nhiều tiền của và công sức   nhằm đổi mới phương dạy học vốn đã ăn sâu vào trong tiềm thức của cả thầy   và trò lâu nay. Lần gần đây nhất là dự án “Việt – Bỉ”  được triển khai trong năm  học 2011 ­ 2012 đã đưa ra các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực, trong   số  đó phải kể  tới một loạt kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực như: kĩ   thuậ  đặt câu hỏi; kĩ thuật khăn phủ  bàn; kĩ thuật mảnh ghép; kĩ thuật sơ  đồ  tư  duy; kĩ thuật “KWL’’; kĩ thuật học tập hợp tác; kĩ thuật lắng nghe và phản hồi   tích cực; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề; phương pháp dạy học hợp tác;   phương pháp dạy học hợp đồng; phương pháp dạy học theo góc; phương pháp  dạy học theo dự án; phương pháp dạy học vi mô. Trong số đó có kĩ thuật đặt câu  hỏi, kĩ thuật sơ đồ tư duy cùng với phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn   đề là gần với điều kiện thực tế của nước ta hơn  cả.  Trong các giờ  học thì hệ  thống câu hỏi đóng vai trò quan trọng vì những  câu hỏi trong một tiết học sẽ  giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ  động hay chủ  động. Từ  ngàn xưa tới giờ  trong giờ  học luôn luôn có những câu   hỏi được đưa ra, nhưng tại sao trong dự án “Việt – Bỉ” lại trở thành kĩ thuật dạy   tích cực. Thật vậy trong bất kỳ  phương pháp nào, kĩ thuật dạy học nào cũng   phải cần có những câu hỏi để  nêu lên vấn đề  cần tìm hiểu, quan trọng hơn là  nêu câu hỏi như  thế  nào về  vấn đề  cần được tìm hiểu để  phát huy được tính   tích cực của học sinh và để  đổi mới được phương pháp dạy học, đồng thời kế  thừa được những điểm mạnh của phương pháp dạy học truyền thống( vì đổi  mới không có nghĩa là bỏ đi tất cả).  Sau hơn một năm từ  lúc được tập huấn về  các kĩ thuật và phương pháp  dạy học tích cực cùng với kinh nghiệm được rút ra trong quá trình giảng dạy tôi  lựa chọn viết đề tài: “Áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng câu hỏi cho bài   clo – lớp 10 – THPT thuộc chương trình nâng cao”.   Trong sáng kiến kinh nghiệm này có những nội dung chính sau:  1
  2. A. Đặt vấn đề B. Giải quyết vấn đề C. Kết luận và đề xuất B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận của vấn đề.  Trong các tiết học, hệ thống câu hỏi của giáo viên có vai trò quan trọng, là   một trong những yếu tố  quyết  định chất lượng của tiết học. Thay cho việc   thuyết trình, đọc, chép thì giáo viên đưa ra chuỗi những câu hỏi liên quan tới nội   dung bài học để  học sinh tự  suy nghĩ phát hiện kiến thức, phát triển nội dung  học, đồng thời khuyến khích học sinh động não suy nghĩ tham gia thảo luận xoay  quanh nội dung trọng tâm của bài học theo trật tự  logic. Hệ  thống câu hỏi còn   nhằm định hướng, dẫn dắt học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật,  quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết. Trong  quá trình đàm thoại, giáo viên là người tổ  chức, học sinh chủ động tìm tòi sang   tạo, phát hiện kiến thức mới, đồng thời qua đó học sinh có nhiều niềm vui, hứng   thú của người khám phá và tự tin khi thấy trong kết luận của thầy có phần đóng   góp của mình. Kết quả  là học sinh vừa lĩnh hội được kiến thức đó, vừa biết  được cách thức đi đến kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư  duy. Việc thiết kế hệ thống câu hỏi theo cấp độ tư duy như vậy rõ ràng mất rất   nhiều thời gian hơn là thuyết trình giảng giải, nhưng nó có tác dụng khắc sâu   kiến thức và phát triển tư duy của học sinh.  Theo tài liệu của dự án “Việt – Bỉ” thì câu hỏi được chia thành hai loại là:   câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi chỉ có một câu trả lời  duy nhất đúng hoặc sai, có hoặc không, câu hỏi đóng thường được dùng trong  phần kết bài để kiểm tra xem học sinh đã hiểu được nhiệm vụ và những hướng   dẫn cần thực hiện trong phần phát triển bài hay chưa. Câu hỏi mở  là dạng câu  hỏi có nhiều cách trả lời. Khi đặt câu hỏi mở giáo viên tạo cơ hội cho học sinh   trao đổi ý kiến của cá nhân. Một số  dấu hiệu để  nhận ra câu hỏi mở  và phân  loại câu hỏi mở: ­ Câu hỏi mở lấy thông tin: Giúp học sinh có cái nhìn tổng quan hoặc đưa  ra những băn khoăn về  tình huống hiện tại. Thường mở  đầu các câu hỏi bằng  các cụm từ như: khi nào…? Cái gì…? Đến đâu…? ­  Câu hỏi giả  định:  Giúp học sinh vượt qua khuôn khổ  của tình huống  hiện tại. Ví dụ như: Điều gì xảy ra nếu…?  2
  3. ­ Câu hỏi hỏi ý kiến được sử dụng để khai thác suy nghĩ của học sinh về  một số chủ đề. Thường được bắt đầu bằng các cụm từ như: Em nghĩ gì về điều   này? Ý kiến của em về….? Hãy cho biết…? Đặc điểm của những câu hỏi mở tốt: ­ Ngắn gọn, đơn giản, tránh vòng vo, khó hiểu hoặc giải thích quá nhiều,  không đi thẳng vào vấn đề. ­ Câu hỏi phải rõ ý không nên đặt câu hỏi quá chung chung ­ Bắt đầu câu hỏi bằng từ hỏi đúng vào nội dung cần hỏi. ­ Câu hỏi đưa ra phù hợp với nội dung, chủ  đề  học tập, với hoàn cảnh,  tâm lí, vốn từ, trình độ của người được hỏi.  II. Thực trạng của vấn đề.  Trong thực tế  việc bỏ  thời gian để  soạn thảo ra hệ  thống câu hỏi trước   khi lên lớp đang còn được xem nhẹ  vì việc đặt câu hỏi trong từng giờ  dạy đó  được xem là điều đương nhiên và cũng không khó mấy chỉ việc đọc giáo án, nội   dung bài học là có thể  tự đưa ra được câu hỏi cần gì phải mất nhiều thời gian.  Nếu suy nghĩ như  vậy việc đặt câu hỏi cho mỗi bài dạy không mất nhiều thời   gian và công sức. Vấn đề tưởng trừng như đơn giản vậy nhưng không hề đơn giản chút nào  vì việc nêu lên câu hỏi như thế  nào để  đảm bảo được nội dung kiến thức, phù  hợp với đối tượng học sinh, đồng thời phát huy được tính tích cực, tạo được   niềm hứng thú cho học sinh trong quá trình tìm tòi, phát hiện kiến thức, đặc biệt  là cân đối độ khó dễ của câu hỏi, phần nào nên có những câu hỏi khó, phần nào  cần có những câu hỏi dễ, khi nào thì nên dùng câu hỏi đóng, khi nào nên dùng câu  hỏi mở. Trong các tiết dạy đôi khi giáo viên đưa ra những câu hỏi khó, rồi sau đó  phải tự trả lời hay đưa ra câu hỏi sau đó lại gợi ý quá nhiều khiến cho học sinh   không phát huy đươc khả  năng tự  khám phá, tính độc lập suy nghĩ như  vậy đã  hạn chế  khả  năng tự  học của học sinh. Hay trong các tiết học giáo viên đưa ra  quá nhiều câu hỏi vụn vặt, cùng một nội dung nhưng giáo viên lại đưa ra nhiều  câu hỏi nhỏ, làm như  vậy có thể  học sinh cảm thấy dễ hiểu hơn nhưng lại có  một tác hại là không hệ thống hóa được kiến thức một cách logic và không phát  được khả năng tư  duy của học sinh. Hay chỉ đưa ra những câu hỏi mà học sinh   không cần phải suy nghĩ sâu mà vẫn trả lời được như  vậy sẽ  tạo cho học sinh  cảm giác cái gì cũng biết nên không chịu tìm tòi để  học hỏi thêm. Hay khi giáo  viên vừa đọc xong câu hỏi đã gọi ngay học sinh lên trả  lời, nhằm tránh tình  huống “cháy” giáo án trong các bài mà nội dung kiến thức dài. Do đặc thù của môn hóa là môn học thực nghiệm và điều kiện cơ  sở  vật   chất của các phòng thí nghiệm đang còn hạn chế  nên việc kiểm nghiệm lại  3
  4. những kiến thức lý thuyết vừa được học cũng còn chưa được thực hiện đầy đủ.  Bên cạnh đó những kiến thức thuộc các phần tính chất vật lý hay phần điều chế  thường được để  học sinh tự  học và chấp nhận những nội dung sách giáo khoa  đưa ra nên phần này thường được giáo viên đặt câu hỏi là các em hãy nghiên cứu  sách giáo khoa hãy cho biết tính chất vật lý của một chất nào đó. Còn phần tính   chất hóa học thường được giáo viên gọi học sinh lên bảng viết phản  ứng rồi   nhận xét vai trò của các chất trong các phản  ứng đó, phương pháp này sẽ  phù  hợp với học sinh trung bình và yếu, còn sẽ hạn chế cho sự phát triển nhận thức   và tư duy của học sinh khá giỏi.  Trước thời điểm tập huấn về  các kĩ thuật và phương dạy học tích cực  cách đặt câu hỏi trong giờ  dạy được coi là việc rất bình thường, đương nhiên  phải có, chưa được gọi là một kĩ thuật dạy học tích cực. Việc xây dựng hệ  thống câu hỏi với số lượng bao nhiêu, nội dung câu hỏi, độ khó, dễ của câu hỏi   trong một tiết học cũng chưa được đầu tư về thời gian và công sức.  Vấn đề  đặt câu hỏi và phân loại được câu hỏi cần nhiều thời gian để  nghiên cứu, lựa chọn ngôn từ  phù hợp trong câu hỏi để  phù hợp với nội dung   của bài nên việc xây hệ thống câu hỏi cho mỗi bài học chưa được các giáo viên   chú trọng thực sự.  Từ thực trạng trên cùng với kiến thức được tập huấn về “kỹ thuật đặt câu  hỏi” tôi mạnh dạn lựa chọn đề  tài:“Áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng   câu hỏi cho bài clo – lớp 10 – THPT thuộc chương trình nâng cao”. Đây cũng là  bài học trọng tâm của môn hoá học. III. Giải pháp và tổ chức thực hiện. III.1. Giải pháp.    Việc đặt câu hỏi trong giờ  dạy cũng nằm trong phương pháp dạy học   truyền thống bây giờ  chuyển thành kĩ thuật dạy tích cực thì trước giờ  lên lớp  chúng ta nên xây dựng một hệ thống câu hỏi sao học sinh được đóng vai trò trung  tâm trong tiết học. Để tránh các hiện tượng trong thực tế và nâng cao chất lượng   tiết học thông qua việc soạn thảo hệ thống câu hỏi, muốn làm được điều này thi  mỗi giáo viên chúng ta nên: ­ Đọc nội dung bài học thật kỹ, nắm đúng kiến thức trọng tâm của bài,  nắm rõ điều gì học sinh cần biết, phần nào cần mở rộng, phần nào cần giảm tải   bớt. ­ Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy đáp ứng được   các yêu cầu như: độ  khó, dễ  của câu hỏi sao cho phù hợp với năng lực của   người học, vừa phải kích thích được tính tự suy nghĩ, tự tìm tòi để  phát hiện và   tiếp thu kiến thức một cách chủ động. 4
  5. ­ Lựa chọn số lượng câu hỏi sao cho phù hợp với thời lượng 45 phút của  một tiết học cũng rất quan trong, thông thường trong một tiết học chỉ nên có từ 4  tới 5 câu hỏi trong đó có một tới hai câu hỏi lớn, điều này phụ  thuộc rất nhiều   vào khả năng nhận thức của học sinh. Nếu học sinh khá giỏi việc đưa ra câu hỏi   lớn sẽ phát huy được khả tư duy của học sinh và kích thích tính tự tìm tòi để trả  lời câu hỏi, bên cạnh việc đưa ra lượng câu hỏi phù hợp cũng tạo được thời gian  cho học sinh tự  suy nghĩ. Nếu học sinh yếu, kém và trung bình thì sẽ  gặp khó   khăn, lúc này chúng ta lại phải đưa ra những câu hỏi nhỏ và một tiết học lúc này  có lên tới cả chục câu hỏi.  ­ Lựa chọn cách đặt câu hỏi cho phù hợp, với nội chính của bài nên sử  dụng dạng câu hỏi mở, cho tới khi cũng cố bài chúng ta sẽ dùng câu hỏi đóng. ­ Khi sử  dụng câu hỏi phải khéo léo. Với những câu hỏi lớn thì cách tốt   nhất là dùng phiếu học tập phát tới học sinh vì học sinh nghe một, hai lần sẽ  không ghi nhớ được nội dung câu hỏi.  ­ Xây dựng câu hỏi theo cấp độ tư duy: biết, hiểu, vận dụng tức dễ, vừa,   khó.  ­ Với phần tính chất vật lý và phần điều chế  thì dùng câu hỏi  ở  mức độ  biết hoặc hiểu để giành thời gian phân tích sâu vào phần tính chất hoá học. Phần   tính chất hoá học cần có những có hỏi thuộc vào cả ba mức độ: Biết, hiểu, vận  dụng.  III.2. Tổ chức thực hiện. Trong thời lượng nhất định và với trình độ nhận thức của các lớp tôi đang   dạy trong năm học vừa qua, tôi áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi vào xây dựng hệ  thống câu hỏi cho bài: “CLo” của môn Hóa lớp 10 đối với học sinh học chương   trình nâng cao. 1. Xác định trọng tâm của bài dạy: Đối với bài Clo thuộc chương trình lớp 10 – Nâng cao. Trong phân phối  chương trình thì bài này được chia làm hai tiết dạy, với kinh nghiệm đi dạy của  tôi thì tôi gắt bài như  sau: Tiết 1 đến hết phần tác dụng với nước và với dung   dịch kiềm. Tiết 2 là phần còn lại của bài. Kiến thức trọng tâm của cả bài là học  sinh phải nắm được tính chất vật lý, tính chất hóc học đặc trưng và cách điều  chế Clo và tầm quan trọng của clo đối với cuộc sống, đặc biệt là nắm được các   phản  ứng chứng minh tính chất hóa học của clo. Kỹ  năng cần đạt được là viết  thạo các phản ứng và sử dụng lý thuyết để làm bài tập thực nghiệm 2. Xây dựng hệ thống câu hỏi  Tính chất vật lý. Có thể đưa ra hai câu hỏi sau: Câu 1a. Hãy cho biết tính chất vật lý của clo?  5
  6. Câu 1b. Có một bình chứa đầy Clo, có thể mở nắp bình hay không? Khi mở nắp   bình có ảnh hưởng như thế  nào tới sức khỏe? Dẫn lượng khí clo này qua nước   có lẫn quỳ tím thì có hiện tượng gì? Giải thích? Phân loại hai câu hỏi trên:  Câu 1a  thuộc mức độ  biết vì phần này đã học trong bài khái quát về  nhóm  halogen.  Câu 1b. thuộc mức độ hiểu vì học sinh phải đọc hết phần tính chất vật lý và suy  nghỉ rồi mới trả lời được câu hỏi. Tính chất hoá học. Các câu hỏi dùng trong tiết 1 của bài clo. Câu 2. Nguyên tố  Clo có những trạng thái số  oxi hoá nào? Từ  đó hãy dự  đoán   tính chất hoá học của Cl2? Khi nào thì Cl2 thể hiện tính chất đó? Câu 3. Clo phản ứng với kim loại và H2 như thế nào? Viết phản ứng minh họa? Câu 4. Hãy cho biết khả  năng phản  ứng của clo với nước và dung dịch kiềm?  Viết phản ứng minh họa? Câu 5. Tìm ô chữ  (thực hiện vào phần cũng cố  bài khi hết tiết1) trong cột dọc   dựa vào các dữ kiện sau:  (1) (2) (3) (4) (5) (6) Hàng thứ  (1). gồm 3 chữ cái. Đây là nguyên tố  gì? Nguyên tố  này  ở  điều   kiện thường là chất khí màu vàng?  Hàng thứ  (2). gồm 3 chữ cái. Là từ còn thiếu trong câu sau: Khi cho Au tác   dụng với Cl2 thì không có phản … ra. Hàng thứ (3). gồm 5 chữ cái. Tên của một nguyên tố  có thể  tác dụng với  Clo ở điều kiện thường.  Hàng thứ (4). gồm 5 chữ cái. Tên của một chất khí nhẹ  nhất có khả năng  tác dụng với Cl2. Hàng thứ  (5). gồm 3 chữ cái. Tên của một nguyên tố  cùng nhóm với Clo  nhưng khả năng hoạt động hoá học mạnh hơn? Hàng thứ (6). gồm 6 chữ cái. Tên của sản phẩm thu được khi cho Cl 2 tác  dụng với dd NaOH (loãng) hoặc dd KOH (loãng) ở điều kiện thường. Các câu hỏi dùng cho tiết 2 của bài clo. Câu 6. Nêu hiện tượng, viết phản  ứng và rút ra kết luận trong các hiện tượng  sau: 6
  7. ­ Dẫn khí Clo qua dd NaBr ­ Dẫn khí Clo qua dd NaI ­ Nhỏ dd Brom vào dd NaI có lẫn hồ tinh bột.  Câu 7. Cho Cl2 tác dụng với các chất sau: SO2 (có nước), dd FeCl2, dd FeSO4, dd  H2S, khí H2S, dd KMnO4, O2, Có bao nhiêu phản  ứng có thể xảy ra?Vì sao?  Hãy  viết phản ứng để giải thích? Phân loại các câu hỏi trên: Mức độ biết: câu 2. Mức độ hiểu: câu 3, câu 4, câu 5, câu 6. Mức độ vận dụng : câu 7 Phần điều chế và ứng dụng Câu 8. Hãy cho biết cách điều chế trong phòng thí nghiệm và trong công nghiệp?  Câu 9. Clo được dùng làm chất sát trùng nước trong hệ  thống cung cấp nước   sạch, xử lí nước thải, trong công nghiệp tẩy trắng…? vì sao clo được dùng như  vậy? 3. Phương án sử dụng câu hỏi Sau khi khâu xây dựng hệ thống câu hỏi hoàn thành, bây giờ đến khâu sử  dụng câu hỏi vào giờ học phải đảm bảo các yêu cầu sau: ­ Giáo viên chuẩn bị trước câu hỏi vào giấy(đặc biệt là những câu hỏi lớn)   và nói trước với học sinh rằng các sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi. ­ Tạo điều kiện cho học sinh tích cực và học sinh thụ động phát biểu ý kiến ­ Tránh chỉ tập chung vào một vài cá nhân tích cực ­ Có thể cho một học sinh phát biểu vài lần ­ Phân phối câu hỏi cho cả lớp.  ­ Đối với câu hỏi khó, giáo viên có thể gợi y ngắn gọn ­ Câu hỏi phức tạp cho học sinh thảo luận nhóm.  ­ Giáo viên có thể dựa vào câu trả lời của học sinh đặt tiếp câu hỏi ­ Đối với những câu trả  lời đúng, cần phải khen gợi và khẳng định là học   sinh đã trả lời đúng. Đối với những câu trả  lời sai thì không nên vội vàng   kết luận là sai mà nên nhờ  một học khác nhận xét câu trả  lời, chỉ  rõ bạn  sai chỗ nào, đúng chỗ nào, bổ sung như thế nào? 4. Phương án sử  dụng câu hỏi vào bài clo – lớp 10 – chương trình nâng  cao.  4.1. Phần tính chất vật lý: có thể  sử  dụng một trong hai câu hỏi 1a hoặc   1b. Nhưng dùng câu 1a thì vừa kiểm tra được kiến thức đã học của học sinh   đồng thời tận dụng được thời gian cho phần sau, câu 1b có thể  để  kiểm tra   miệng vào tiết sau. 7
  8. 4.2. Phần tính chất hoá học.  Câu 2. Giáo viên sẽ  nêu bằng lời cho học sinh nghe và nghiên cứu trả  lời rồi   nhận xét ý kiến của học sinh, tổng hợp ý kiến đó thành sơ đồ.  Câu 3. Giáo viên cũng nêu bằng lời, cho học sinh suy nghỉ và trả lời câu hỏi này   (trong vòng 7 phút) bằng cách lên bảng viết câu trả  lời. Sau khi nhận xét xong  câu hỏi giáo viên có thể bổ sung thêm câu hỏi sau (thuộc mức độ vận dụng).  Câu hỏi phụ  1:  Cho 16,8 gam kim loại M tác dụng với Clo dư  khi đun  nóng thu được 48,75 gam muối. Xác định kim loại M?.  Câu hỏi phụ 2: Cl2 có khả năng tác dụng với C, P, S hay không? Vì sao? Câu 4.  ở  câu này giáo viên sẽ  bổ  sung thêm điều kiện phản  ứng đó là khi đun  nóng.  Câu 5. Dùng mày chiếu dùng để hoàn thành câu hỏi củng cố nội dung của tiết 1. Câu 6. Dùng máy chiếu để học sinh quan sát các thí nghiệm ảo. sau đó trả lời câu  hỏi 6. ở câu này giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh. Câu 7. Dùng phiếu học tập để học sinh tự trả lời sau đó giáo viên nhận xét. 4.3. Điều chế và ứng dụng. Câu 8 và câu 9 dùng chung một phiếu học tập. Giáo viên cho học sinh tự  lên   bảng trình bày. rồi nhận xét.  Sau đó giáo viên giao cho học sinh một bài tập về nhà: vẽ sơ đồ tổng hợp   tính chất vật lý, tính chất hoá học, điều chế của bài Clo. Hôm sau mang nộp cho   cô giáo. IV. Kiểm nghiệm thực tế của đề tài.  Sau khi thực hiện hệ  thống câu hỏi trên  ở  hai lớp 10B 1 và 10B2 trong đó  lớp 10B2 đứng sau lớp 10B1 tôi phát phiếu thăm dò học sinh và thu được kết quả  của đề tài như sau: Kết quả phiếu thăm dò số 1. Đánh giá câu hỏi                 Mức độ Dễ Trung bình khó lớp  Câu 1a, câu 2 Câu 2,3,4,6,8,9  Câu 7 và hai câu hỏi  10B1 phụ của câu 3 Câu 1a, câu 2 Câu 2,3,4,9 Câu 7 và câu hỏi phụ  10B2 của câu 3, câu 6,8 Ý kiến nhận xét chung:  Những câu hỏi trong bài đều rõ ràng và nêu đúng nội dung của bài  học và các em đều tự nghiên cứu nội dung kiến thức trong sách giáo  khoa để tự trả lời câu hỏi. Cả hai lớp đều thấy thích thú với câu hỏi   số 5.  8
  9. Đa số  học sinh nói rằng thích học theo kiểu giáo viên nêu câu hỏi   sau đó cho học sinh tự tìm hiểu sách giáo khoa để trả lời câu hỏi và  sau đó tổng hợp lại kiến thức của bài bằng sơ đồ tư duy. Kết quả của phiếu thăm dò số 2. Mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh. HS  hiểu bài ngay tại lớp HS hiểu bài hơn khi về  nhà học   lạ i số lượng  tỷ lệ số lượng tỷ lệ Lớp 10B1 35 76,09% 11 23,91% Lớp 10B2 27 61,36% 17 38,64% Ghi chú: sĩ số của lớp 10B1 là 46, sĩ số của lớp 10B2 là 44. Qua kết quả này cho thấy việc đầu tư vào việc xây dựng hệ thống câu hỏi  cho bài dạy càng quan trọng và cần thiết như  thế  nào. Khi học sinh hiểu được  câu hỏi và tự  trả lời được câu hỏi như  vậy học đã hiểu được bài và nắm được   nội dung trọng tâm của bài lúc đó kết quả học tập của học sinh sẽ tiến bộ.  C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT. 9
  10. I. Kết luận Qua thực tế  giảng dạy và trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm này  tôi rút ra được một số kết luận như sau:  Việc đầu tư thời gian và công sức ra để xây dựng câu hỏi cho mỗi bài học  là rất cần thiết và quan trọng vì nó sẽ  quyết định tới sự  thành công của  tiết học và phát triển tư duy nhận thức của học sinh. Trước khi xây dựng hệ  thống câu hỏi phải nghiên cứu kỹ  trọng tâm của  bài và nội dung của bài học.  Với hệ  thống câu hỏi vừa với trình độ  nhận thức của học sinh sẽ  không  khiến học sinh thấy chán nản vì khó hiểu và khó tiếp thu kiến thức. Khi xây dựng câu hỏi cần phân loại câu hỏi theo mức độ nhận thức: Biết,  hiểu, vận dụng. Tuy nhiên trong một bài học phải cân đối số  lượng câu  hỏi biết, hiểu, vận dụng sao cho hợp lý, với kinh nghiệm còn ít của tôi  cùng với khả năng nhận thức của học sinh tôi đang dạy thì trong một tiết  dạy tôi thường sử dụng 2 câu hỏi ở mức độ biết thuộc vào phần tính chất  vật lý và phần nhận xét chung của tính chất hoá học (phần đầu của tính  chất hoá học). 2 câu hỏi ở mức độ hiểu và 1 câu hỏi ở mức độ  vận dụng   thuộc phần tính chất hoá học, điều chế, ứng dụng.  Cân đối thời gian sử dụng mỗi câu hỏi.  Khi sử dụng câu hỏi cần cho nhiều học sinh tham gia trả lời cùng một câu  hỏi kể cả khi em đầu tiên trả lời đúng. Giáo viên chủ động gọi hỏi ý kiến  của cả những học sinh không xung phong và học chậm hơn các bạn xung   phong.  Người giáo viên sẽ đóng vai trò hướng dẫn học sinh tìm hiểu lần lượt nội   dung của bài một cách trình tự có logic dựa vào những câu hỏi đặt ra, đặc   biệt phải tổ chức làm sao cho số lượng học sinh tham gia trả lời câu hỏi là  nhiều nhất có thể.  II. Đề xuất Qua nội dung của sáng kiến kinh nghiệm tôi xin đưa ra các đề xuất sau:  Thứ  nhất: Tuỳ  thuộc vào từng giáo viên mà khi dạy chúng ta sẽ  đưa ra  những câu hỏi khác nhau vì vậy trong các cuộc họp tổ  chuyên môn, các   thành viên cùng nhóm chuyên môn cùng nhau thảo luận xây dựng nên hệ  thống câu hỏi cho một bài nào đó và phương án sử dụng câu hỏi trong bài,  rồi dần dần sẽ  xây dựng được hệ  thống câu hỏi cho từng chương, từng  khối, từng ban, với mục đích cuối cùng nhằm nâng cao chất lượng học  của học sinh mình dạy. Khi tham gia xây dựng nên hệ  thông câu hỏi mỗi  10
  11. giáo viên cũng sẽ  học hỏi  ở  đồng nghiệp về  chuyên môn, cùng nhau bồi  dưỡng chuyên môn.  Thứ  hai: Trước khi lên lớp mỗi giáo viên xây dựng nên một hệ  thống câu  hỏi và phân loại chúng theo mức độ nhận thức biết, hiểu, vận dụng.   Thứ ba: Cùng một vấn đề chúng ta có thể đưa ra nhiều câu hỏi khác nhau  và cũng chia thành ba cấp độ: Biết, hiểu, vận dụng. Bên cạnh những câu  hỏi chính có thể đưa ra những câu hỏi phụ phục vụ khai thác nội dung của   câu hỏi chính. (câu hỏi phụ  có thể  sử  dụng trong tiết học hoặc giao về  nhà).   Thứ tư: Khi nhận xét câu trả lời của học sinh cần có thái độ  khích lệ  học   sinh. Với học sinh trả lời sai thì nên tránh dùng các cụm từ  như: “Em sai   rồi” hay “em trả  lời như  vậy là không đúng”… mà nên hỏi thêm một ý  kiến của bạn khác rồi giáo viên hãy đưa ra ý kiến nhận xét và kết luận  vấn đề. Với những học sinh trả  lời đúng cần khen gợi. Như  vậy những   học sinh trả lời sai cũng không ngại ngùng, không mất tự tin vẫn giữ được  tinh thần tham gia góp ý cho những câu hỏi sau, còn những học sinh trả lời   đúng sẽ thấy tự hào vào vui vẽ và tự tin vào bản thân.  Có   nhiều  cách   đặt   câu  hỏi,  sử   dụng  câu   hỏi  và   phải  kết   hợp   với   nhiều   phương pháp cũng như  các phương tiện dạy học để  hoàn thành một tiết học  nhưng với mục đích chung làm thế  nào để  học sinh chủ  động tiếp nhận kiến   thức, tích cực tham gia quá trình dạy học, yêu mến môn học, tiếp thu kiến thức   một cách chủ động. Để đào tạo học sinh trở thành người có tính tự lập chủ động   sáng tạo giải quyết vấn đề trong mọi tình huống, đáp ứng được nhu câu của xã  hội hiện đại đó là mục tiêu của việc áp dụng các kĩ thuật và phương pháp dạy   học tích cực vào dạy học.            Thanh hoá, ngày 20/05/2013 Xác nhận của thủ trưởng cơ quan Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh  nghiệm do tôi tự  viết, không sao chép  của ai.          Người cam đoan 11
  12.               Lê Thị Hồng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa lớp 10 nâng cao  2. Thiết kế bài giảng (tập 2) hoá học 10 của Cao Cự giác – chủ biên 3. Thiết kế bài soạn: Hoá học 10 nâng cao – Các phương án dạy học        Của tác giả Đặng Thị Oanh ­ chủ biên 4. Dạy và học tích cực ­ Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học        Của Bộ giáo dục và đào tạo ­ Dự án “Việt ­ Bỉ”. 12
  13. MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................................1 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ......................................................................................2 I. Cơ sở lý luận của vấn đề ..................................................................................2 II. Thực trạng của vấn đề......................................................................................3 III. Giải pháp và tổ chức thực hiện.......................................................................4 III.1. Giải pháp........................................................................................................4 III.2. Tổ chức thực hiện.........................................................................................5      1. Xác định trong tâm của bài............................................................................5      2. Xây dựng hệ thống câu hỏi...........................................................................5      3. Phương án sử dụng câu hỏi..........................................................................6      4. Phương án sử câu hỏi vào bài Clo ­ lớp 10­ nâng cao..................................7 IV. Kiểm nghiệm thực tế của đề tài.....................................................................7 C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT...............................................................................9 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................11 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2