intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Xây dựng một số dạng bài tập theo định hướng năng lực để rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh lớp 10

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

124
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Xây dựng một số dạng bài tập theo định hướng năng lực để rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh lớp 10 viết với các nội dung: Lí do chọn đề tài, cơ sở lý luận và thực tiễn, tổ chức thực hiện các giải pháp, hiệu quả cảu đề tài, đề xuất khuyến nghị và khả năng áp dụng. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Xây dựng một số dạng bài tập theo định hướng năng lực để rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh lớp 10

  1. XÂY DỰNG MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 10 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay, việc dạy học ở chương trình giáo dục phổ thông của nước ta đang chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Từ định hướng đó, việc kiểm tra đánh giá có sự thay đổi. Bài kiểm tra phải đánh giá được năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề của học sinh(HS). Dạy học theo định hướng năng lực yêu cầu người giáo viên(GV) phải chú trọng việc đánh giá thường xuyên trong quá trình dạy và học. Kiến thức và kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực. Trong môn Ngữ Văn, việc đánh giá cần hướng tới là năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học nghệ thuật một cách chủ động. Điều này được thể hiện chủ yếu qua việc tạo lập các văn bản. Trong các phân môn của bộ môn Ngữ Văn, làm văn được xem là phân môn tổng hợp vì “học sinh bao giờ cũng phải cùng một lúc huy động hàng loạt kiến thức được trang bị của mình về ngôn ngữ (bao gồm tất cả các năng lực sử dụng tất cả các đơn vị ngôn ngữ và các quan hệ ngữ pháp), về tư duy (bao gồm tất cả các khả năng: phân tích, tổng hợp, khái quát, phán đoán, suy luận…) và cả về quan điểm lập trường của các quá trình nhận thức và đánh giá.” (Trần Thanh Bình). Là một phân môn thực hành sáng tạo nên học sinh phải biết vận dụng kiến thức trong chương trình học, kiến thức thực tế và kĩ năng vận dụng ngôn ngữ để làm bài. Bài làm văn là sản phẩm cuối cùng đánh giá năng lực tổng hợp của học sinh. Kiến thức làm văn ở trường phổ thông không phải hoàn toàn mới mà là sự lặp lại và nâng cao kiến thức ở bậc cơ sở vì thế chương trình làm văn ở THPT chú ý đến khâu thực hành luyện tập. Tuy nhiên, bài tập trong sách giáo khoa còn ít nếu giáo viên chỉ dừng lại giảng dạy các bài tập trong sách giáo khoa thì chưa đủ. Giáo viên là người nắm bắt năng lực và định hướng năng lực cho HS vì thế GV không thể áp dụng một giáo án có sẳn để giảng dạy cho tất cả các đối tượng mà phải nắm 1
  2. bắt kịp thời năng lực của từng đơn vị đối tượng để chọn phương pháp và kiến thức phù hợp. Trên cơ sở khảo sát thực tế bài làm văn của học sinh lớp 10 tại nơi công tác, tôi nhận thấy giáo viên dạy văn cần phải xây dựng thêm những dạng bài tập sửa lỗi và rèn luyện kĩ năng viết văn cho HS mang tính hệ thống phù hợp với năng lực của từng lớp, từng trường cụ thể để HS làm bài tốt hơn. Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích… II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Phân môn làm văn trong chương trình sách giáo khoa lớp 10 và lí luận dạy học theo định hướng năng lực Làm văn trong trương trình ngữ văn 10 có 3 kiểu (phân theo phương thức biểu đạt): văn tự sự, văn thuyết minh và văn nghị luận. Lí thuyết và bài tập trong chương trình làm văn trong SGK được biên soạn ngắn gọn, dễ hiểu. Lí thuyết bám sát vào các ngữ liệu (phân tích ngữ liệu để làm cơ sở rút ra lí thuyết). Các văn bản ngữ liệu có chọn lọc và ngắn gọn, coi trọng vào kĩ năng thực hành vận dụng và rèn luyện các thao tác. Tuy nhiên, số lượng bài tập trong sách giáo khoa tương đối ít, mỗi bài học chỉ có một đến ba bài tập nhằm thực hiện một kĩ năng nào đó. Chẳng hạn, học chuyện đề văn tự sự thì có các dạng đề thực hành kiểu như: hãy lập dàn ý cho một bài văn kể về câu chuyện “hậu thân của chị Dậu theo gợi ý của nhà văn Nguyễn Tuân”, hay “một câu chuyện xảy ra trong cuộc sống”; bài tập “chọn một sự việc rồi kể bằng các chi tiết tiêu biểu cho phần tiếp theo đoạn kết của truyện Lão Hạc của Nam Cao”, “Viết một đoạn văn diễn tả cử chỉ và tâm trạng của cô gái trong 9 câu thơ đầu đoạn trích truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”.” (SGK, trang 99 tập 1)…, phần văn thuyết minh và nghị luận cũng vậy. Các bài kiểm tra đánh giá (bài kiểm tra 1 tiết) trong sách giáo khoa cũng theo trình tự bài học: bài viết số 1 kiểm tra kiến thức văn biểu cảm về một hiện tượng đời sống, bài viết số 2, 3 là văn tự sự, không định hướng bài kiểm tra cuối học kì I, bài viết số 5 làm văn thuyết minh, bài viết số 5, và bài thi học kì II làm 2
  3. văn Nghị luận. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy theo định hướng phát triển năng lực hiện nay thì lại không nhất thiết giáo viên phải đảm bảo kiến thức đánh giá học sinh theo trình tự như trên. Chẳng hạn, khi học phần truyện dân gian, không nhất thiết người thầy chỉ ra dạng đề văn tự sự. Tài liệu tập huấn Dạy học kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực của học sinh năm 2014 có gợi ý ra đề kiểm tra năng lực vận dụng cao của học sinh khi học xong truyện cổ tích Tấm Cám như sau: * Theo hình thức văn tự sự: Đề 1: Đóng vai nhân vật Tấm (Cám) kể lại truyện cổ tích Tấm Cám. Đề 2: Nếu được phép thay đổi kết thúc truyện, anh/ chị sẽ kết thúc truyện như thế nào? * Theo hình thức văn nghị luận: Đề 1: Trả lời con gái, Mark khẳng định: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Câu trả lời ấy khiến anh/ chị nghĩ gì về cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành hạnh phúc của nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám. Đề 2: Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập 1 nhận định về truyện “Tấm Cám”: “Đặc sắc nghệ thuật của truyện là khắc họa được hình tượng Tấm có sự phát triển về tính cách (từ yếu đuối thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại cuộc sống và hạnh phúc)”. Anh chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Phân tích tác phẩm để làm rõ.(bài tập vận dụng trong bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam). Như vậy, dạy học theo định hướng kĩ năng đòi hỏi khâu đánh giá phải hướng đến đánh giá năng lực của học sinh ở tất cả các kĩ năng: từ đọc hiểu đến năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản, cuối cùng là năng lực cảm thụ, giải quyết các vấn đề được đặt ra trong văn bản. HS không nhất thiết học kiểu làm văn nào trên lớp thì giáo viên đánh giá trên kiểu làm văn ấy. Khi học một tác phẩm văn chương, giáo viên có thể ra nhiều dạng đề đánh giá năng lực học sinh ở nhiều kĩ năng khác nhau. HS phải phân biệt được dạng đề nào là văn tự sự, dạng đề nào là thuyết minh, hoặc nghị luận. Để đáp ứng kĩ năng làm văn cho học sinh, giáo viên phải chủ động cho bài tập thực hành, sửa lỗi và rèn luyện kĩ năng phù hợp với 3
  4. từng đối tượng lớp học trong suốt quá trình giảng dạy chứ không nhất thiết bám sát những bài tập trong sách giáo khoa ở chương trình Ngữ văn 10. Vì thế nếu chỉ thực hành bài tập có trong sách giáo khoa thì học sinh sẽ không thực hiện hết các dạng đề đối với một tác phẩm văn học nào đó. Học kì I, SGK chỉ hướng dẫn tìm hiểu và thực hành văn tự sự thì học sinh sẽ khó thực hành vận dụng các dạng đề văn nghị luận. Chính vì vậy giáo viên cần xây dựng hệ thống bài tập giúp các em giải quyết các bài làm văn theo thực tế chương trình. Yêu cầu của việc kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực trong bài làm văn là: “không nên cho học sinh viết dài mà có giới hạn dung lượng, có cân nhắc suy nghĩ trong việc ra đề để giáo viên có thể chấm cả ý lẫn văn (…)Trong câu hỏi/ bài tập và đề tự luận, ngoài hình thức câu hỏi luận đề, GV có thể đa dạng hóa cách ra đề khác như: tìm ý, đề xuất ý, viét đoạn văn, tóm tắt văn bản, chữa câu, đoạn, viết theo mẫu, theo gợi ý” (Tài liệu tập huấn, trang 95) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc bao quát các nội dung học tập thuận lợi hơn. Từ định hướng theo yêu cầu đổi mới, bài viết đề xuất các dạng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng viết văn cho học sinh từ thực tế nắm bắt năng lực viết văn của HS. 2.2. Thực tế việc dạy học của giáo viên và làm văn của học sinh lớp 10 Nội dung kiến thức thì mỗi HS tự trang bị cho mình trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Điều quan trọng là HS phải học được kĩ năng làm văn, biết phát hiện ra vấn đề, biết diễn đạt tình ý cho rõ ràng, mạch lạc. Bài tập thực hành mang tính hệ thống sẽ giúp HS phát hiện lỗi và khắc phục những lỗi thường gặp mà mình mắc phải. HS có thể làm bất cứ dạng đề nào mà không bị phụ thuộc vào việc đề văn đó đã được giáo viên gợi ý hay chưa. Thực tế dạy học ở đơn vị, tôi nhận thấy vẫn còn giáo viên dạy chưa chú ý nhiều đến tiết làm văn, chỉ giảng dạy theo gợi ý bài học sách giáo khoa, chưa chú ý đến tiết trả bài tập (chỉ trả bài qua loa, đại khái mà không chú ý đến thực hành sửa lỗi trong bài viết), chủ yếu dành thời gian nhiều cho phần dạy tác phẩm văn chương để đảm bảo kiến thức giáo khoa cho học sinh. Vì thế, nhiều học sinh khi bước lên lớp 11, 12 mà vẫn không ý thức được phải trình bày một bài văn như thế nào. 4
  5. Thực tế giảng dạy tại trường, tôi nhận thấy dù bài làm văn trong SGK có bài tập để học sinh thực hành nhưng sai sót của HS trong bài làm văn của mình vẫn nhiều vô kể. Những lỗi sai sót của học sinh thường gặp là: Thứ nhất là sai sót ở khâu tìm hiểu đề. Tìm hiểu đề sai sẽ dẫn đến bài viết lạc đề hoặc không xác định đúng trọng tâm của đề. Vẫn có nhiều HS không ý thức việc tìm hiểu đề là quan trọng nên bỏ qua khâu này. Vì vậy khi làm bài các em thường sa vào lối viết lam man, tùy tiện. Không tìm hiểu đề thấu đáo, HS dễ mắc các lỗi: trình bày sai về nội dung, không đúng kiểu làm văn, hoặc dẫn chứng không phù hợp với yêu cầu của đề. Thứ hai là sai sót ở khâu lập dàn ý. Dàn ý là khâu lựa chọn và sắp xếp các ý một cách hợp lí để phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận đề. Lập dàn ý giúp học sinh không bỏ sót ý, không lặp ý và tránh được tình trạng “đầu voi đuôi chuột” khi triển khai ý. Việc lập dàn ý đảm bảo tính hệ thống, tạo nên sự liên kết thống nhất của bài văn. Mặc dù bài tập làm văn trong sách giáo khoa dạng bài tập tìm ý và lập dàn ý nhưng số lượng bài tập và sự phong phú của các các dạng bài tập lập dàn ý còn hạn chế. Đa số học sinh khi viết văn thường có thói quen nghĩ đến đâu viết đến đó nên các em thường sa vào các lỗi như lặp ý hoặc thiếu ý, ý chồng chéo, ý không đúng trọng tâm. Thứ ba là HS rơi vào lỗi hành văn - sai sót ở khâu diễn đạt và liên kết ý. Trong đoạn văn của HS “Sách là một vật không thể thiếu trong tuổi học trò. Sách là công cụ bán chạy nhất hiện nay, nhất là bán cho học sinh, những người già và những phụ huynh mua về cho con em đọc.”, người đọc dễ dàng nhận thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ và diễn đạt của học sinh có vấn đề. Học sinh chưa có ý thức viết đoạn, và diễn đạt ý. Vì vậy xây dựng các bài tập để rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh rất cần thiết. Các bài tập rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu, xây dựng đoạn được thực hiện một cách có hệ thống sẽ giúp cho học sinh có ý thức chú ý đến văn phong khi diễn đạt. Cuối cùng là lỗi viết đoạn, xây dựng đoạn. Đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa. Mỗi đoạn văn trong văn bản 5
  6. diễn đạt một ý, một luận điểm. Các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn thân bài triển khai chủ đề của văn bản), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định. Trên thực tế, đa số học sinh lớp 10 vẫn chưa có ý thức viết một đoạn văn trọn vẹn để hoàn thành một luận điểm trong bài văn của mình. Các lỗi thường gặp trong việc xây dựng đoạn là: chưa biết cách viết đoạn mở bài và kết bài, không phân đoạn trong phần thân bài, đoạn không thể hiện được câu chủ đề, đoạn chưa hoàn chỉnh luận điểm. Từ kết quả khảo sát trên, người viết đã đưa ra giải pháp là thiết kế các dạng bài tập mang tính toàn diện và tính thực tiễn để cho học sinh lớp 10 thực hành. Giải pháp này thay thế một phần giải pháp đã có, cũng đã được áp dụng tại các đơn vị khác nhưng chưa từng được áp dụng tại đơn vị của mình. Tôi nhận thấy việc áp dụng các bài tập này vào giảng dạy phân môn làm văn tại đơn vị đang công tác có hiệu quả. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 3.1. Xây dựng một số dạng bài tập sửa lỗi và rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh lớp 10 3.1.1. Dạng bài tập phân tích đề Để rèn luyện kĩ năng tìm hiểu đề, với một văn bản văn chương, GV có thể ra nhiều dạng đề khác nhau (tự sự, thuyết minh, hoặc nghị luận). Đặc biệt, đề văn nghị luận lại rất đa dạng. Do đó, GV phải cung cấp cho học sinh nhiều dạng đề và luyện tập khâu tìm hiểu đề càng nhiều càng tốt. Khi tìm hiểu một đề văn, GV cần yêu cầu HS làm rõ ba yêu cầu của một đề văn trong nhà trường: yêu cầu về nội dung; yêu cầu về hình thức và yêu cầu về phạm vi tư liệu. Một số kiểu bài tập đề xuất cho dạng bài tập phân tích đề như sau: 6
  7. * Kiểu 1: Cho đề bài và yêu cầu học sinh tìm hiểu và phân tích đề theo ba yêu cầu của việc tìm hiểu đề. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 không có bài tập cho khâu tìm hiểu đề. HS không được thực hành dạng bài tập này trong chương trình chính khóa vì thế GV phải linh hoạt trong quá trình giảng dạy giúp HS ý thức được bước đầu tiên khi bắt đầu làm một bài văn. GV yêu cầu học sinh tìm hiểu đề theo trình tự: xác định yêu cầu về nội dung, hình thức và phạm vi tư liệu. Chẳng hạn, GV cho bài tập: Tìm hiểu và phân tích một số đề văn sau: “Đề 1: Nhập vai nhân vật Tấm, anh/ chị hãy kể lại truyện cổ tích Tấm Cám. Đề 2: Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp “tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân đân, đất nước”(SGK Ngữ Văn 10, trang 119). Anh/ chị hãy chứng minh nhận định trên. Đề 3: Giới thiệu về tác hại của rượu đối với đời sống con người. Hãy: - Xác định luận đề của từng đề. - Xác định kiểu làm văn của các đề bài trên. - Tìm phạm vi dẫn chứng cho từng đề bài. Yêu cầu của kiểu bài tập này là HS phải xác định đúng luận đề (yêu cầu về nội dung), đúng kiểu làm văn (yêu cầu về hình thức) và phạm vi dẫn chứng trên cơ sở so sánh, đối chiếu để thấy được sự khác nhau của các dạng đề. * Kiểu 2: Kiểu bài tập có nội dung phân tích đề sẳn, yêu cầu HS nhận xét, sửa chữa và bổ sung. Với kiểu bài tập này, GV có thể kết hợp với kiểu 1. GV cùng lúc cho 2 đề, giao nhiệm vụ cho từng nhóm làm khâu tìm hiểu đề, sau 3 phút làm việc, các nhóm trình bày sản phẩm lên bảng. Cuối cùng, GV hướng dẫn HS thực hiện kiểu 2 (Các nhóm thay phiên nhau nhận xét phần tìm hiểu đề của nhóm bạn). Hoặc, GV cho sẳn bài tập yêu cầu học sinh nhận xét và sửa chữa lại cho hợp lí. Bài tập 1: 7
  8. Với đề bài “Giới thiệu về lễ hội tết cổ truyền Việt Nam” có một bạn phân tích đề như sau: - Yêu cầu về hình thức: văn thuyết minh - Yêu cầu về nội dung: Tết cổ truyền Việt Nam là một lễ hội gắn với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam và tất cả các dân tộc khác trên thế giới. - Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: không hạn chế, là những kiến thức về xã hội. Trình bày ý kiến của anh/ chị về phần phân tích đề trên”. Bài tập 2: Nhận xét bài làm của bạn X dưới đây, cho biết bạn X đã làm đúng yêu cầu của đề hay không? Xác định lại yêu cầu của đề: Đề: “Hãy phát biểu cảm nghĩ của anh/ chị về văn hóa đọc sách trong giới trẻ hiện nay.” có bạn viết: “Sách là một vật không thể thiếu trong tuổi học trò. Sách là công cụ bán chạy nhất hiện nay, nhất là bán cho học sinh, những người già và những phụ huynh mua về cho con em đọc. Sách có hình chữ nhật và in rất nhiều trang giấy, có thể lên đến hàng ngàn trang. Nhiều trang như vậy giúp cho người đọc say mê khi đọc sách. Sách có rất nhiều loại như sách giải bài tập cho học sinh, sách giáo khoa, sách truyện và sách học làm người, và cả những sách khoa học về các lĩnh vực. Sách giúp ích cho chúng ta, giúp cho ta biết về lịch sử và cuộc sống của người xưa, giúp học sinh tham khảo những bài toán khó, giúp ta biết được những nơi ta chưa đến, giúp ta khám phá cuộc sống muôn loài…Ta nên mua nhiều sách để đọc để biết thêm nhiều kiến thức.” (HS Trần Trường Lâm- 10A13) (Ở bài làm trên, HS không xác định được yêu cầu của đề nên sa vào lối văn thuyết minh. Khi bài viết không xác định đúng yêu cầu của đề thì sẽ dẫn đến lạc đề khi triển khai ý.) Kiểu bài tập này yêu cầu học sinh phải tìm ra và sửa chữa những sai sót trong ngữ liệu, qua đó giúp học sinh hình thành kĩ năng phát hiện và phân tích vấn đề. 8
  9. Nó giúp học sinh tránh việc đọc đề qua loa, đại khái để dẫn đến hậu quả là làm lạc đề. 3.1.2. Dạng bài tập rèn luyện kĩ năng tìm ý và lập dàn ý Với dạng bài tập lập dàn ý, sách giáo khoa thường có kiểu bài tập đưa ra yêu cầu trực tiếp kiểu như: Hãy lập dàn ý cho đề văn sau đây: “Sách mở rông trước mắt tôi những chân trời mới” (M. Go-rơ- ki). Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên. Ngoài kiểu yêu cầu trực tiếp, GV nên xây dựng thêm dạng bài tập yêu cầu HS đánh giá và sửa lỗi trong dàn ý cho sẳn từ bài làm của chính các em. Yêu cầu của kiểu bài tập này là: Anh/ chị hãy xem xét và tìm ra sai sót? Bổ sung ý cho hoàn chỉnh dàn ý dưới đây. Ví dụ: Dự định viết bài văn nghị luận cho đề bài: “Trả lời con gái, Mark khẳng định: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Câu trả lời ấy khiến anh/ chị nghĩ gì về cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành hạnh phúc của nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám.” một bạn lập dàn ý như sau: Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám. Thân bài: - Cuộc đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm qua các chi tiết: + Bụt giúp Tấm có hạnh phúc mỗi khi Tấm bị mẹ con Cám ức hiếp. + Sự biến hóa kì diệu: mỗi lần bị mẹ con Cám tiêu diệt sự sống, Tấm không chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu xa. Tấm vươn lên kiên cường đấu tranh giành sự sống qua các lần hóa thân: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, và trở lại làm người. + Hành động trả thù của Tấm thể hiện thái độ, tinh thần đấu tranh quyết liệt không khoan nhượng cái xấu và cái ác. - Bài học nhận thức: muốn có hạnh phúc thật sự thì chúng ta phải biết đấu tranh với cái ác và cái xấu. - Giải thích khái niệm: “Hạnh phúc là đấu tranh.” 9
  10. Kết bài: Đánh giá về nhân vật Tấm. Cũng với đề bài đó, bạn khác lại có dàn ý: Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám và câu nói của Mark. Thân bài: - Giải thích ý nghĩa của câu nói “Hạnh phúc là đấu tranh.” - Chứng minh cuộc đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm qua chi tiết: Sự biến hóa kì diệu: mỗi lần bị mẹ con Cám tiêu diệt sự sống, Tấm không chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu xa. Tấm vươn lên kiên cường đấu tranh giành sự sống qua các lần hóa thân: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, và trở lại làm người. Sự trỗi dậy của Tấm thể hiện niềm tin bất diệt: cái thiện thắng cái ác. Kết bài: Đánh giá về nhân vật Tấm và bài học nhận thức là muốn có hạnh phúc thì phải kiên quyết đấu tranh với cái ác và cái xấu. Xem xét cả 2 dàn ý, anh, chị sẽ chọn dàn ý nào? Vì sao? Với bài tập trên, HS sẽ tiến hành suy luận và chọn ý đúng từ 2 dàn ý và hoàn thiện dàn ý đúng nhất cho đề bài. Thực hiện tốt kiểu bài tập này học sinh sẽ có kĩ năng phân tích, biết cân nhắc cẩn thận trước khi làm bài. Học sinh phải nhận thức được rằng dàn ý hay là một dàn ý có đủ ý và các ý phải được sắp xếp theo một trật tự logic. 3.1.3. Dạng bài tập rèn luyện kĩ năng diễn đạt ý * Kiểu bài tập 1: Chọn 1 vài đoạn văn của học sinh, yêu cầu học sinh chỉ ra lỗi và sửa lỗi, viết lại cho đúng. Bài tập 1: Trong đề văn: “Truyện An Dương Vương, Mỵ Châu- Trọng Thủy là một cách lí giải nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó, nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung giữa cá nhân và cộng đồng.” Chứng minh nhận định trên. Có 2 bạn viết như sau: “1. Từ truyện An Dương Vương- Mỵ Châu- Trọng Thủy là một cách lí giải nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử về tinh 10
  11. thần cảnh giác kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung giữa cá nhân và cộng đồng. Những sai lầm dẫn đến bi kịch mất nước nhà tan. Do An Dương Vương cả tin, gả con gái mình cho giặc (Triệu Đà) và bắt rể. Ít lâu sau quân Đà tiến vào đánh nhưng vua khinh địch vẫn than nhiên đánh cờ.” (Nguyễn Thị Ánh Trinh 10A13) “2. Truyền thuyết An Dương Vương người cha sai lầm tin tưởng làm hòa với nước Triệu Đà và gả con gái mình là Mỵ Châu cho con trai ông là Trọng Thủy và đưa về nhà ở rể. Mỵ Châu rất yêu thương Trọng Thủy và nàng đã cho Trọng Thủy xem nỏ thần của nước Âu Lạc, xem xong Trọng Thủy nghĩ là minh qua đây xem bí mật của nước Âu Lạc và chàng đã nói dối Mỵ Châu cha chàng bị bệnh chàng phải về thăm cha, nếu về chàng quay lại mà không thấy nàng chàng phải biết tìm nàng ở đâu, Mị Châu nói thiếp có áo lông ngỗng đi tới đâu thiếp sẽ rắc lông ngỗng tới đó. Sau khi nói xong mị Châu và Trọng Thủy phải rời khỏi nhau.” (Nguyễn Thị Kiều Trang – 10A13) Hãy chỉ ra lỗi diễn đạt trong bài làm trên.” Bài tập 2. Hãy chỉ ra lỗi diễn đạt trong bài làm văn dưới đây: “Mở đầu Nguyễn Du giới thiệu và nói chung về Tây Hồ. Ngày xưa là cảnh đẹp nay đã hóa gò hoang. Nguyễn Du đã dùng hình ảnh so sánh xưa và nay, đẹp và xấu để gây mâu thuẫn, đối lập về cảnh vât…” (Lê Thị Thùy Trinh- 10A13) Kiểu bài tập này sẽ giúp cho học sinh tự rút kinh nghiệm sau bài làm của mình hoặc của các bạn. Từ việc sửa lỗi các em sẽ có ý thức hơn trong việc chọn lọc từ ngữ, diễn đạt ý. Yêu cầu giáo viên khi sửa kiểu bài tập này phải chỉ rõ cho các em thấy những lỗi diễn đạt thường gặp như dùng tư sai, viết hoa chưa đúng quy tắc hoặc sai về ngữ pháp. * Kiểu bài tập 2: Bài tập điền khuyết Đây là kiểu bài tập yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ liên kết thích hợp để điền vào chổ trống trong văn bản. Yêu cầu của kiểu bài tập này là GV chọn văn bản ngắn (có thể một hoặc 2 đoạn), có thể cho sẳn từ ngữ liên kết. Ví dụ: Hãy điền vào [..]những từ ngữ thích hợp trong đoạn văn sau: 11
  12. “Đỗ Phủ sáng tác bài Cảm xúc mùa thu vào năm 766. […] là thời điểm triều đại nhà Đường vừa thoát khỏi nạn An Lộc Sơn- Sử Tư Minh được 3 năm. […] bốn năm sau khi bài thơ ra đời, Đỗ Phủ mất trong cảnh khốn đốn […] đói nghèo[…] day dứt về tinh thần nơi đất khách.” (Dạy học văn học nước ngoài 10) Kiểu bài tập này yêu cầu GV chọn những đoạn văn ngắn và để khuyết những từ có chức năng liên kết, các giới từ, đại từ hoặc dấu câu… Học sinh làm nhiều bài tập kiểu này sẽ hình thành kĩ năng diễn đạt ý trôi chảy, ý thức sử dụng phép liên kết để diễn đạt ý, hoặc ý thức sử dụng dấu câu. 3.1.4. Dạng bài tập rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn Một bài làm văn hoàn chỉnh thường có nhiều đoạn. Mỗi đoạn có một chức năng khác nhau. GV cần xây dựng bài tập đa dạng. Qua các bài tập, HS biết phân biệt được đoạn mở bài, đoạn kết luận; đoạn văn tự sự, đoạn bình luận, đoạn phân tích…; đoạn trình bày hoàn cảnh sáng tác, đoạn tóm tắt truyện…. Dưới đây là một số kiểu bài tập rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn: * Kiểu bài tập viết đoạn văn theo gợi ý. GV cho những ý cơ bản yêu cầu HS liên kết các ý thành đoạn văn hoàn chỉnh về nội dung và đúng về hình thức hoặc cho câu chủ đề trước yêu cầu học sinh viết đoạn văn theo kiểu quy nạp, diễn dịch để làm sáng rõ ý câu chủ đề. Ví dụ: a/ Viết đoạn trình bày hoàn cảnh sáng tác: Bài tập: Viết đoạn trình bày hoàn cảnh sáng tác tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi dựa trên những ý dưới đây: - Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428, nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước . - Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Đại cáo bình Ngô. - Mục đích: tuyên bố cho toàn dân biết rõ công cuộc cứu nước, trải qua nhiều nguy nan đã thắng lợi. - Từ đây dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hoà bình, thông nhất.” 12
  13. b/ Viết đoạn mở bài hoặc kết luận: Nhiều học sinh gặp khó khăn khi viết mở bài hoặc kết luận nên việc cho bài tập viết đoạn mở bài và kết luận là cần thiết. Bài tập: Hãy dựa trên các ý sau viết đoạn mở bài cho đề văn: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” (trích Truyện Kiều- Nguyễn Du). - Giới thiệu khái quát tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều(là đại thi hào dân tộc, là nhà thơ nhân đạo, có tư tưởng tiến bộ thế kỉ XVIII; Truyện Kiều là đỉnh cao nghệ thuật trong sáng tạo của Nguyễn Du); - Giới thiệu khái quát về hình tượng nhân vật Từ Hải và đoạn trích (Từ Hải là nơi Nguyễn Du gửi gắm khát vọng tự do và công lí; đoạn trích thể hiện vẻ đẹp của Từ Hải trong buổi lên đường). c/ Viết đoạn thân bài triển khai ý theo câu chủ đề: Bài tập này, GV có thể yêu cầu HS viết đoạn diễn dịch, quy nạp hay tổng phân hợp; có sử dụng phép liên kết phù hợp (phép lặp, phép nối, phép thế, phép liên tưởng…) Bài tập: “Viết đoạn văn quy nạp triển khai luận điểm sau: “Hành động đốt đền tà chứng tỏ Ngô Tử Văn là người cương trực, khẳng khái, chính nghĩa.” Theo một số gợi ý sau: - Trước khi đốt đền Tử Văn có những hành động gì? - Hành động đó nói lên được điều gì?” Viết đọan theo gợi ý là kiểu bài dễ vì HS được cho trước nội dung. HS chỉ thực hiện cộng đoạn sắp xếp, liên kết ý và hoàn thiện đoạn văn theo đúng yêu cầu của một đoạn văn. Chính vì thế, kiểu bài tập này sẽ rèn luyện cho HS kĩ năng diễn đạt vì khi HS viết đoạn mà không quá mất thời gian để tìm ý thì HS sẽ chú ý đến khâu diễn đạt là một tất yếu. * Kiểu bài tập sửa lỗi viết đoạn GV chọn một đoạn văn có sai sót về nội dung và hình thức hoặc chọn bài làm của chính học sinh trong lớp/ trường và yêu cầu HS sửa lỗi trong đoạn văn cho phù hợp. Ví dụ: 13
  14. Bài tập: Xác định câu chủ đề và sửa đoạn văn dưới đây để đảm bảo tính mạch lạc: “Trước khi đập phá đền, Tử Văn tắm rửa sạch sẽ, khấn trời và bắt đầu đốt đền. Tử Văn ý thức được việc làm chính nghĩa của mình, với tinh thần trừ gian diệt ác, không sợ hậu quả sẽ đến với mình. Sau khi đốt xong Tử Văn trở về, thấy trong người bắt đầu khó chịu và kéo đến một cơn sốt. Tử Văn thấy hồn ma đến đoe dọa mình, không chút sợ sệt, vẫn ngồi thản nhiên, chứng tỏ Tử Văn rất dũng cảm, gan dạ, làm cho con ma tức giận bỏ đi. Tiếp đến, thổ công đến ủng hộ Tử Văn. Tử Văn và con ma cùng xuống minh ti, dù bao nhiêu ma quái nhưng Tử Văn vẫn không sợ…” (Nguyễn Ngọc Thúy Vy- 10b2, năm học 2013- 2014). Kiểu bài tập sửa lỗi viết đoạn từ thực tế bài làm của mình, học sinh sẽ có hứng thú trong giờ thực hành văn. Bài học mang tính thực tế giúp các em nhận thức được chính nhũng thiếu sót của mình (hoặc bạn) từ đó các em sẽ có ý thức khắc phục từ chính thực tế đó. * Kiểu bài tập phân tích đoạn văn Dạng bài tập này, GV cho sẳn đoạn văn mẫu và yêu cầu học sinh phân tích tính thống nhất, chặt chẽ của đoạn văn. Ví dụ: Xác định câu chủ đề và kiểu đoạn văn và phân tích tính thống nhất (nội dung và hình thức) của đoạn văn sau: “Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn(Ngô Tử Văn) còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chững không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không 14
  15. chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.” Để làm được dạng bài tập này, GV cần phải cung cấp kiến thức về đoạn văn cho học sinh. Hiệu quả của các kiểu bài tập phân tích đoạn là học sinh nhận thức được một cách có ý thức về đoạn văn, xác định được nội dung chính của đoạn, nhận thức tầm quan trong trong việc liên kết ý của các phép liên kết. 3.2. Định hướng thực hiện các dạng bài tập bằng những phương pháp dạy học tích cực Để tiến hành giảng dạy, rèn luyện năng lực làm văn cho HS dựa trên hệ thống các bài tập đã đề xuất, GV cần phải lựa chọn các phương pháp phù hợp. Nếu không linh hoạt và lựa chọn phương pháp phù hợp, HS sẽ không có hứng thú và hiệu quả đạt được sẽ không như mong muốn. Dưới đây là một số các phương pháp được đề xuất khi tiến hành giảng dạy cho hệ các dạng bài tập này * Phương pháp phát vấn Phát vấn là phương pháp mà trong đó GV đưa ra những câu hỏi hay bài tập để HS suy nghĩ và trả lời. Các câu hỏi/ bài tập thường được chuẩn bị và cân nhắc kỹ. Người dạy có thể tổ chức, dẫn dắt người học từ chỗ đọc bài tập để trả lời, tiến đến thảo luận hoặc ở mức cao hơn nữa là tranh luận. Đối với các kiểu bài tập thuộc dạng bài tập phân tích đề, hoặc một số bài tập sửa lỗi ngắn, điền khuyết…, GV nên chủ động cho HS làm việc cá nhân. Vì đây là dạng bài tập phát hiện, không đòi hỏi kĩ năng diễn đạt cao. Phương pháp phát vấn sẽ phát huy được hiệu quả khi GV hướng dẫn HS làm bài tập dạng này. Để thực hiện tốt phương pháp này, giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài tập với các mức độ khó, dễ, vừa phải khác nhau để hướng tới các đối tượng học sinh có trình 15
  16. độ: giỏi, khá, TB hoặc yếu kém đảm bảo mọi học sinh trong lớp phải trả lời được và tìm ra kiến thức cho chính mình. * Phương pháp thảo luận nhóm Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học tích cực tạo được sự tham gia của nhiều học sinh. Đây là phương pháp rất phù hợp để áp dụng cho việc làm bài tập trong phân môn làm văn nói chung và cho các dạng bài tập mà bài viết này đưa ra nói riêng. Thảo luận nhóm sẽ giúp việc thực hiện bài tập tại lớp đảm bảo thời gian, đồng thời HS được tham gia, chia sẻ ý kiến trên tinh thần học hỏi lẫn nhau và dân chủ. Nhóm làm việc tích cực là nhóm trung bình từ 4 đến 6 học sinh. Việc phân nhóm để giải quyết các bài tập làm văn dựa trên thực tế bài làm của chính các em nên GV cần phân nhóm có chủ định và duy trì ổn định. Nhóm phải có học sinh khá, giỏi bộ môn làm nhóm trưởng, có thư kí và có người đại diện để trình bày. Phân nhóm theo sự ngẫu nhiên sẽ không đạt được hiệu quả tích cực trong việc giải quyết các dạng bài tập làm văn như đề xuất. Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng để HS cùng nhau giải quyết các dạng bài tập khó như dạng bài tập lập dàn ý (kiểu bài tập lập dàn ý và sửa dàn ý có vấn đề), các kiểu bài tập trong dạng diễn đạt ý, xây dựng đoạn. Khi tiến hành, GV nên cho nhiều kiểu bài tập cùng một lúc và cho HS tiến hành thảo luận, sau đó trình bày ý kiến. Khi HS đại diện nhóm tiến hành sửa bài tập, các nhóm khác bổ sung, phát biểu. Trong quá trình thảo luận, GV phải quan sát, điều chỉnh chỗ ngồi, nhắc nhở hay hộ trợ khi có nhóm cần tư vấn. * Phương pháp dạy học theo dự án Mục tiêu cuối cùng của bài tập làm văn là rèn luyện năng lực phân tích, tư duy và sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tình ý trong một đề văn, từ đó vận dụng các kĩ năng ấy trong đời sống. Có thể nói đây là mục tiêu chủ yếu mà dạy và học bộ môn văn hướng đến. “Dạy học theo dự án là phương pháp học tập mang tính xây dựng. Trong đó, HS hoàn toàn chủ động tham gia hoạt động dưới sự hướng dẫn của GV để tạo một sản phẩm hay vận dụng các kiến thức đã học để tìm hiểu, thực hành, nghiên cứu 16
  17. một vấn đề trong học tập hay giải quyết một vấn đề trong cuộc sống.”(Tài liệu tập huấn, tr70) Phương pháp này cần có tinh thần cộng tác làm việc của nhóm để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Để tiến hành phương pháp này, GV phải định hướng đề tài (ra bài tập cho HS), giúp HS xây dựng đề cương, kế hoạch, tự thu thập kết quả. Qua một thời gian làm việc nhóm, HS sẽ công bố kết quả. GV thẩm định và đánh giá bằng nhận xét hoặc điểm số. Dạng bài tập làm văn theo phương pháp này thường là sự tổng hợp các dạng bài tập từ phân tích đề đến lập dàn ý và diễn đạt ý. Dự án mà GV giao cho HS là một bài tập tổng hợp các dạng bài tập (trong mỗi dạng có thể bao hàm nhiều kiểu bài tập khác nhau). * Bảng mô tả việc vận dụng phương pháp thực hiện cho một số dạng bài tập mà bài viết đề xuất Phương pháp Dạng bài tập/ bài tập mẫu Tiến trình thực hiện thực hiện hương pháp Dạng bài tập phân tích đề GV đặt câu hỏi phát phát vấn Bài tập 1 “Giới thiệu về lễ hội tết cổ vấn: truyền Việt Nam” có một bạn phân tích Đề 1: đề như sau: - GV phát vấn: “Em hãy cho biết, phần Yêu cầu về hình thức: văn thuyết minh phân tích đề trên đúng Yêu cầu về nội dung: Tết cổ truyền Việt hay sai, vì sao, nếu sai Nam là một lễ hội gắn với truyền thống thì sửa lại như thế văn hóa của dân tộc Việt Nam và tất cả nào?” các dân tộc khác trên thế giới. - HS trả lời theo câu Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: không hỏi mà GV phát vấn. hạn chế, là những kiến thức về xã hội. Trình bày ý kiến của anh/ chị về phần Đề 2: - GV yêu cầu HS đọc 17
  18. phân tích đề trên”. và trả lời theo yêu cầu Bài tập 2: Với đề văn : Suy nghĩ của của bài tập. anh/ chị về hiện tượng nghiện Facebook - HS làm bài tập tại đối với giới trẻ hiện nay. lớp Anh/ chị hãy: (Lưu ý: nếu HS trả lời - Xác định luận đề của từng đề. chưa chính xác thì các - Xác định kiểu làm văn của các đề bạn khác bổ sung, có bài trên. thể tranh luận ý kiến - Tìm phạm vi dẫn chứng cho đề cho đến khi hoàn bài. thiện) Phương pháp Dạng bài tập tìm ý và lập dàn ý hoặc - GV chia lớp thành 6 thảo luận diễn đạt ý nhóm, mỗi nhóm 5-6 nhóm Trong đề văn: “Truyện An Dương học sinh, 2 nhóm làm Vương- Mỵ Châu- Trọng Thủy là một bài tập 1 và 2 nhóm cách lí giải nguyên nhân mất nước Âu làm bài tập 2, 2 nhóm Lạc. Qua đó nhân dân ta muốn nêu lên làm bài tập 3. bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác kẻ - GV phát phiếu bài thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ tập cho mỗi nhóm giữa riêng và chung giữa cá nhân và theo nhiệm vụ được cộng đồng.” Chứng minh nhận định trên. phân công Bài tập 1: Lập dàn ý cho đề văn trên. - HS tiến hành thảo Bài tập 2: Viết đoạn văn mở bài cho đề luận trong 5-7 phút, văn trên theo gợi ý: sau đó cử đại diện lên - Giới thiệu truyền thuyết An trình bày. Dương Vương và Mỵ Châu- Trọng ( Lưu ý: Khi học sinh Thủy; trình bày, các nhóm - Giới thiệu luận đề. khác bổ sung, và sửa Bài tập 3: Khi làm bài có bạn viết như lỗi; cuối cùng GV sau: định hướng.) 18
  19. “ Từ truyện An Dương Vương- Mỵ Châu- Trọng Thủy là một cách lí giải nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Qua đó nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung giữa cá nhân và cộng đồng. Những sai lầm dẫn đến bi kịch mất nước nhà tan. Do An Dương Vương cả tin, gả con gái mình cho giặc (Triệu Đà) và bắt rể. Ít lâu sau quân Đà tiến vào đánh nhưng vua khinh địch vẫn than nhiên đánh cờ.” (Nguyễn Thị Ánh Trinh 10A13) Hãy chỉ ra lỗi diễn đạt trong bài làm trên. Phương pháp Tổng hợp các dạng bài tập (phân tích - GV chia lớp thành 4 dạy học theo đề, tìm ý, diễn đạt ý và xây dựng đoạn) tổ, yêu cầu HS về nhà dự án Viết một bài báo cáo gồm 5- 7 trang A4 đọc lại bài văn của các (phương trình bày những nhận thức của anh/ chị thành viên trong tổ pháp này sau khi đọc lại bài làm văn của các thành (lưu ý: các bài văn đã phải được viên trong tổ/ lớp bài viết số 5 với đề được GV chấm điểm tiến hành sau văn: “Viết một văn bản giới thiệu về tác có nhận xét, có sửa khi học sinh phẩm Phú sông Bạch Đằng của tác giả chữa trong bài) thực hành các Trương Hán Siêu”. - GV gợi ý dạng bài tập + Xác định trong các Qua đó, anh/ chị hãy đề xuất một dàn ý khác) bài làm của bạn, GV và bài viết mẫu cho đề bài. nhận xét có đúng yêu ( Bài làm sẽ được học sinh tiến hành cầu đề hay không, nếu trong 2 tuần, nộp lại cho GV, GV lấy không vì sao? điểm 15 phút cho nhóm) + Thống kê: 19
  20. (?) Có bao nhiêu bài làm không đúng yêu cầu của đề. (?) Bao nhiêu bài bị sửa lỗi diễn đạt, chủ yếu là những lỗi diễn đạt nào? (?) Bao nhiêu bài điểm dưới trung bình, bao nhiêu bài điểm từ 5- 6, 7-8, 9-10? + Đưa ra nhận định chung và đề xuất ý kiến của nhóm về bài làm văn của HS nhìn trên tổng thể. + Đề xuất một dàn ý khái quát và viết một bài văn mẫu cho đề văn trên. - HS lập dự án và lên kế hoạch (phân công nhiệm vụ và tiến hành theo thời gian quy định) IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 1. Trong quá trình tìm kiếm phương pháp tối ưu, tôi đã tiến hành so sánh kết quả giảng dạy năm 2012- 2013, qua bài kiểm tra trên lớp. Một lớp tiến hành thực nghiệm(TN) theo phương pháp này, và một lớp dạy thông thường (chỉ giảng dạy các bước và các bài tập SGK), kết quả so sánh như sau: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2