Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi
lượt xem 5
download
Mục đích của sáng kiến nhằm giúp trẻ trở thành con người mới, năng động, sáng tạo. Giúp trẻ có được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm; Giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách ứng xử trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 34 TUỔI 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình và của xã hội. “Trẻ em hôm nay – thế giới ngày mai”. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hóa” Sản phẩm giáo dục là con người mà con người là mục tiêu động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Đất nước ta hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên đường hội nhập quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới , nếu trẻ thiếu kinh nghiệm sống thì dể bị lôi kéo, kích động.....Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực, bạo lực lối sống ích kỉ, thực dụng, dể bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Vậy thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa của dân tộc Việt nam từ ngày xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ cần thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người vừa có đức, vừa có tài trong thời kỳ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo bé “Điểm khởi đầu” của quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước “ Học làm người”. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Trong xã hội hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đã trở thành một nhu cầu thiết yếu. Bởi sự bùng nổ của thông tin, với những suy thoái về đạo đức, với những đua đòi của thế hệ trẻ, cùng với những mặt trái của công nghệ thông tin, mặt trái của xã hội, với muôn ngàn cạm bẫy … giới trẻ hiện nay tiếp cận rất nhiều loại tác động, tốt có, xấu có, thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn bị đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực từ gia đình và xã hội. Việc giáo
- dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên cần thiết nhằm góp phần đào tạo “ Con người mới với đầy đủ các mặt: Đức, trí, thể, mỹ. Như Bác Hồ đã từng nói : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Sở dĩ Bác nói như vậy là để khẳng định một lần nữa với chúng ta rằng việc giáo dục trẻ để trẻ trở thành những công dân tốt cho xã hội cho đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu. Bởi vậy, giáo dục kỹ năng sống trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé cũng vô cùng quan trọng, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế nào cho đúng. Ngay ở lứa tuổi mẫu giáo bé trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế nào là đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm… Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh, không những thế còn giúp cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm. Từ thực tế trên, tôi thiết nghĩ nếu chúng ta làm tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chính là giúp trẻ trở thành con người mới, năng động, sáng tạo. Giúp trẻ có được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm; Giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách ứng xử trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. Đặt nền tảng để trẻ trở thành người có trách nhiệm và có tự chủ trong cuộc sống của bản thân mình. Nhận thấy hoạt động này có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ nên tôi đã trăn trở tìm biện pháp khắc phục thực trạng trên. Tôi xin mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 4 tuổi” để áp dụng trong công tác giảng dạy. 1.2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp. Xuất phát từ vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ năng sống” đối với trẻ, tôi thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý nghĩa. Nhưng làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả? Điều này quả không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non. Với đề tài này tôi biết đã được nhiều đồng nghiệp nghiên cứu, nhưng với tôi đề tài này nó có những điểm mới: Tôi dành sự quan tâm và hình thành ở trẻ những kỹ năng sống như: Giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ những hành vi lễ giáo của trẻ. Ví dụ như với bản thân, trẻ biết tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí mến những người thân. Rồi biết thưa gửi, vâng dạ, không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật. Giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp
- trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. Đề tài đã đề cao vai trò của người cán bộ quản lý, giáo viên và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, đoàn thể, địa phương và phụ huynh học sinh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách toàn diện. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài: Việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên đang dạy lớp 34 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế mạnh của trẻ trong phạm vi trường mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 3 4 tuổi ở trường mầm non. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. * Thuận lợi : Bản thân tôi được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm và cung cấp đầy đủ các trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi, nhất là phòng trào “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và hiệu quả” “ Xây dựng môi trường học tập lấy trẻ làm trung tâm” , đây chinh la ho ́ ̀ ạt động để giáo viên rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống cho trẻ, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác: rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Trương hoc n ̀ ̣ ơi tôi đang công tac đ ́ ược xây dựng khang trang sạch sẽ, các khu vui chơi được quy hoạch hợp lý nên thuân l ̣ ợi trong viêc th ̣ ực hiên nôi dung “Xây ̣ ̣ dựng môi trương giao duc l ̀ ́ ̣ ấy trẻ làm trung tâm” cho tre.̉ Đa số phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ khi đến lớp cũng như lúc về nhà, thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để biết được những mặt mạnh, mặt yếu của trẻ để phối hợp chăm sóc trẻ tốt hơn. * Khó khăn: Các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và biện pháp dạy trẻ các nội dung kỷ năng sống nhưng kết quả trên trẻ chưa tương đương với nhau. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động, một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào hướng dẫn của cô, kỷ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế.
- Một số trẻ do bị ảnh hưỡng cuộc sống hiện đại như: Internet, ti vi, các trò chơi điện tử..... Một số cha mẹ trẻ nhận thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ chưa rõ ràng. Họ đưa con đến trường rồi phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho con đi học chỉ cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện thế là đủ, còn lại các việc khác không quan trọng. Nhiều phụ huynh còn cho rằng trẻ con biết gì, làm được gì mà dạy kỹ năng sống. Chính vì vậy việc phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn. Từ nhưng thuân l ̃ ̣ ợi va kho khăn trong qua trinh th ̀ ́ ́ ̀ ực hiên, tôi đa ̣ ̃ tiến hành khảo sát kết quả về kỹ năng sống của trẻ để từ đó tôi đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. * Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau: Số trẻ TT Khả năng Đạt KS 1 Mạnh dạn tự tinh 12/25 48% 2 Kỹ năng hợp tác 8/25 32% 3 Phát âm rõ lời 13/25 52% 4 Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 9/25 36% 5 Lễ phép 12/25 48% 6 Kỹ năng vệ sinh 15/25 60% 7 Kỹ năng thích khám phá học hỏi 12/25 48% 8 Kỹ năng tự kiểm soát bản thân 11/25 44% Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có biện pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và yếu còn ở mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi đã suy nghĩ trăn trở làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng cao hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 34 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao. 2.2. Các giải pháp thực hiện: 2.2.1: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ năng sống. Giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cụ thể theo năm, tháng, tuần, ngày một cách cụ thể. Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 34 tuổi, khả năng tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được cũng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên
- thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ. Ví dụ : Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện cùng trẻ khoảng 10 phút – 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe, biết dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà của bé hay trao đổi cùng cô về chủ đề đang học. Cuối tuần cho trẻ nhận xét câu chuyện nào hay nhất sẽ đựơc nhận phần thưởng của cô. Kết quả, trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần. Trẻ đã có thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn tự tin khi kể “chuyện của mình” cho bạn nghe. Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 10 phút để tổ chức cho trẻ luyện tập thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể: Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản thân như rửa tay, lấy nước uống, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một trò chơi khác nhau. Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 10 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. với cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt. Chiều thứ 4, tôi tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có kèm những câu chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con người, giữa con người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử phù hợp với xung quanh. Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi ăn ghế phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải xếp kẹp đôi, tổ chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ
- thỏ trắng xếp ngăn dưới… Nhờ được tham gia và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt. Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc nhằm phát triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần đầu, tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như vậy? Cách sắp xếp như thế nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ năng hợp tác của trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các mối quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng cố, bên cạnh đó đồ dùng đồ chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện pháp này, các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính xác. 2.2.2: Xac đinh nhiêm vu c ́ ̣ ̣ ̣ ơ ban trong viêc day tre ky năng sông ̉ ̣ ̣ ̉ ̃ ́ Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giao viên c ́ ần phải biêt khai thac phat huy năng ́ ́ ́ khiêu, tiêm năng sang tao ́ ̀ ́ ̣ ở môi tre. Vì m ̃ ̉ ỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ môt cách thich h ̣ ́ ợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biêt́ lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình cua tr ̉ ẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. 2.2.3: Cu thê hoa nôi dung c ̣ ̉ ́ ̣ ủa những kỹ năng cơ bản ma giao viên cân day ̀ ́ ̀ ̣ tre:̉
- Ky năng s ̃ ống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú trọng là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Ky năng sông h ̃ ́ ợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. ̣ Ky năng thích tò mò, ham hoc hoi, kh ̃ ̉ ả năng thấu hiểu: Đây la m̀ ột trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học, sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Ky năng giao ti ̃ ếp: cần day tre bi ̣ ̉ ết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yêu khi so v ́ ới tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ. Ví dụ: Giờ đón trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo vệ mình: Nếu lạc đường con sẽ tìm đến ai để hỏi? con hỏi như thế nào? Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào? Hay có khách đến lớp các con phải làm gì?... Ngoai ra, ̀ ở trường mầm non giao viên cân d ́ ̀ ạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biêt cách s ́ ử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. 2. 2.4 : Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà
- trường. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao. Mặt khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh nhất là trong thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích cao trong học tập cũng như trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc làm thế nào để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì nhiều phụ huynh còn lúng túng trong vấn đề này. Trên thực tế nhiều phụ huynh chưa có kiến thức về kỹ năng sống, không biết kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ những gì? Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền, thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể: Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ sinh cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động. Ví dụ : Ở tôi có cháu A, thời gian đầu đi học cháu không thể tự mình kéo quần lên sau mỗi lần đi vệ sinh, không biết đi dép có quai, thậm chí không biết đội mũ len đúng cách nếu không có sự giúp đỡ của cô. Thông qua trao đổi với mẹ của cháu, tôi biết cháu là con một trong gia đình hiến con, sức khỏe của cháu yếu hay bị ốm. Ở nhà bà và mẹ vì quá yêu thương mà bao bọc cháu, làm thay hết mọi việc cho cháu nhưng không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc cháu không biết cách phục vụ bản thân, làm cháu thiếu hụt kỹ năng sống. Tôi có trao đổi với mẹ cháu rằng để cháu tập làm mọi thứ bắt đầu từ chỗ chọn việc dễ nhất để con làm.Ví dụ: Buổi sáng chuẩn bị đến trường, mẹ có thể mặc quần áo cho con sau đó hỏi con: Con có thể tự đi dép được không nào? Chọn cho con cái mũ len con thích nhất, đội lên đầu để mẹ ngắm xem có đẹp không nhé! Sau khi trẻ làm được, mẹ nên khen con một vài câu để tăng tính tự tin cho trẻ chẳng hạn như: Con trai mẹ bảnh quá….! Từ đó cháu dần tự tin và thích tự làm mọi việc. Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được thiết kế đẹp, kích thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao đổi
- thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp. Ví dụ : Ở chủ điểm trường mầm non tôi ghi nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như sau: Kỹ năng giao tiếp : Giao tiếp với bạn bè, với cô, với người lớn… Kỹ năng tuân thủ các quy định của trường lớp: Không la hét, không nói leo trong giờ học, không làm ồn, biết chờ đến lượt…. Kỹ năng hợp tác: Trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn khi cần… Thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham gia trực ti ếp vào việc tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ. Có rất nhiều phụ huynh đã không khỏi ngỡ ngàng vì khả năng tự lập của con mình trên lớp. Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Các phụ huynh đã tiếp nhận thông tin một cách đồng bộ, không gò bó, gượng ép. Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống cho trẻ. Đặc biệt là giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số phụ huynh dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng sống cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá. Không còn hình ảnh bố bế con, mẹ theo sau xách cặp cho con rồi tranh thủ ép con uống sữa, ăn sáng. Ngược lại đã có nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô đến cửa lớp vòng tay chào cô và tự cất đồ dùng đúng nơi quy định không cần bố mẹ phải nhắc . Tôi đã đạt được kết quả giáo dục như mong muốn nhưng mỗi biện pháp thì có tác dụng riêng, để thực hiện có hiệu quả cần phải phối hợp nhiều biện pháp khác nhau. Tôi tiếp tục sử dụng biện pháp tiếp theo. 2. 2.5 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của trẻ ở nhà . Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người
- lớn và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp. Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ( Biết lễ phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….) Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ bản thân và chấp hành quy định của lớp. Ví dụ : Tôi dạy trẻ biết cất ba lô vào tủ, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi quy định….. Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ vào nôi dung của từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm. Ví dụ : Qua tiết học khám phá khoa học: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi dạy trẻ kỹ năng sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý thức giữ gìn, bảo vệ các bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời phải đứng thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như muốn nói phải giơ tay, chờ đến lượt cô mời mới được nói, không nói leo, tập chung chú ý nghe cô…Chính vì thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng nghe, tuân thủ theo sự hướng dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra. Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng khác nhau. Ví dụ : Qua việc trò chuyện quan sát Đu quay. Trẻ nhận biết được một số nguyên nhân gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kỹ năng tôi dạy trẻ đó là: Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin. Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên đu quay chẳng may bị ngã bé cần làm gì?( Nằm yên, chờ Đu quay dừng hẳn mới ngồi dậy để tránh Đu quay đập vào đầu, bạn khác chạy đi báo với cô…) Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không quay chạy quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên Đu quay, nắm chắc tay cầm…) Thông qua giờ hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ học bằng chơi, chơi mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ tiếp thu một cách dễ dàng nhất. Ví dụ :
- Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp ( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ năng chăm sóc ( biết lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học được cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi chơi xong trẻ biết cất đồ chơi đúng nơi quy định. Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả các góc chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy. Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Mặc dù ở mẫu giáo bé nhưng trẻ ở lớp tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp. Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi văn hoá văn minh như: Cách dùng ca, cốc, bát, thìa. Cách rót nước, chia thức ăn. Tham gia chuẩn bị bữa ăn ( tự kê ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát…) Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống (Trẻ biết mời cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành vi văn hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…) Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng nơi quy định, biết lau chùi chân trước khi lên gường, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang ngủ. Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động khác trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng việc tạo tình huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố các kỹ năng của mình. Tóm lại, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính liên tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói quen, thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích hợp quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây tâm lý nặng nề cho trẻ khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả. 2.2.6 : Đánh giá kỹ năng sống của trẻ thường xuyên.
- Việc nhìn nhận, xem xét lại các công việc đã làm trong một thời gian nhất định sẽ rút ra được những bài học bổ ích, có những điều chỉnh hoặc cải tiến các hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả hơn. Việc đánh giá các kỹ năng sống của trẻ thường xuyên lại có vai trò đặc biệt hơn. Sau mỗi hoạt động trong ngày, tôi luôn dành thời gian để nhận xét đánh giá hoạt động đó nhằm cũng cố các kỹ năng cho trẻ và tìm ra biện pháp để hoạt động sau cô cùng trẻ thực hiện tốt hơn. Ví dụ: Qua hoạt động góc, tôi nhận xét đánh giá góc bán hàng: Hôm nay bác Hàn Nhi bán hàng thật là khéo, biết chào mời khách lịch sự, biết nhận tiền của khách và đưa bằng 2 tay, biết cảm ơn khách, nhưng tôi thấy tiền của bác cất chưa cẩn thận. tôi khuyên bác lần sau nếu có nhiều tiền như vậy nên cất vào túi, đừng để lên bàn như vậy nhé! Khi nghe những lời nhận xét đơn giản như vậy, trẻ có thêm tự tin vào bản thân, nắm được kỹ năng giao tiếp lịch sự, hình thành tính cẩn thận cho trẻ. Hoặc qua việc nhận xét giờ ăn trưa: Hôm nay cô cảm ơn bạn A, bạn B, bạn C... đã giúp cô chuẩn bị bữa ăn cho các bạn, các bạn đã biết chia thìa vào bát, bê cơm cho các bạn bằng 2 tay và khi đưa cho các bạn thì đặt nhẹ nhàng. Như vậy bản thân cháu A, cháu B cháu C... sẽ tự tin vào hoạt động của mình và các bạn khác trong lớp hôm sau cũng cố gắng làm tốt như vậy để được cô khen. Hằng ngày tôi thường theo dõi sự phát triển của trẻ, ghi chép vào nhật ký và đánh giá những biểu hiện tâm sinh lý của trẻ trong các hoạt động. Tôi đặc biệt chú ý đến việc đánh giá các kỹ năng, trạng thái cảm xúc và hành vi của trẻ. Tôi xác định những trẻ cần lưu ý để có biện pháp chăm sóc riêng phù hợp và lấy đó làm căn cứ thước đo để đánh giá cuối mỗi chủ đề. Việc đánh giá kỹ năng cho trẻ ở mỗi chủ đề tôi dựa vào mục tiệu đạt được trên trẻ ở chủ đề đó, sử dụng phiếu đánh giá chủ đề ghi các thông tin về các kỹ năng trẻ đã làm và chưa làm được trong chủ đề. Ví dụ: Trong chủ đề gia đình: Tôi đánh giá sự tích cực của trẻ khi cùng cô, cùng bạn tham ra các hoạt động trong chủ đề, đánh giá việc trẻ có thực hiện một số quy tắc đơn giản trong gia đình như biết nghe lời bố mẹ, cất dọn đồ dùng của mình ngăn nắp, có được một số kỹ năng chào hỏi, xin phép, biết được vị trí của mình trong gia đình. Bằng việc nhận xét đánh giá thường xuyên như vậy, tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và cũng đã có nhiều kỹ năng sống được hình thành và cũng cố trên trẻ. Trẻ giao tiếp tốt hơn, tự tin vào bản thân hơn, nhận thức đúng vị trí của mình, biết nhận xét bạn, khéo léo hơn trong các hoạt động lần sau. Thông qua việc nhận xét đánh giá khéo léo cuả cô, trẻ biết tự điều chỉnh hành vi
- của mình sao cho tốt, sao cho được cô khen. Biện pháp đánh giá đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lứa tuổi lên ba. *KẾT QUẢ Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ 34 tuổi các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau: Kết quả trên trẻ: 100% tre đ ̉ ều được cha mẹ tao moi điêu kiên khuy ̣ ̣ ̀ ̣ ến khích khơi dậy tình tò ̉ mò, phat triên tri t ́ ́ ưởng tượng, năng đông, manh dan, t ̣ ̣ ̣ ự tin, 100% tre ̉ 34 tuổi được ren luyên kha năng săn sang hoc tâp ̀ ̣ ̉ ̉ ̀ ̣ ̣ ở trương phô ̀ ̉ thông hiệu quả ngày càng cao. 100% trẻ co thoi quen lao đông t ́ ́ ̣ ự phuc vu, đ̣ ̣ ược rèn luyện kỹ năng tự lập; ky năng nh ̃ ận thức; ky năng vân đ ̃ ̣ ộng thô, vân đông tinh thông qua cac hoat đông hang ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ̀ ngay trong cu ̀ ộc sống của trẻ; 100% tre đ ̉ ược rèn luyện ky năng xã h ̃ ội; ky năng v ̃ ề cảm xúc, giao tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hanh tre em ̀ ̉ ở trường cũng như ở gia đình. 100 % tre đ ̉ ược giao duc, chăm soc nuôi d ́ ̣ ́ ương tôt, đ ̃ ́ ược bảo vệ sức khỏe, được bao đam an toan, phong bênh, đ ̉ ̉ ̀ ̀ ̣ ược theo doi cân đo băng biêu đô phat triên. ̃ ̀ ̉ ̀ ́ ̉ Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đat t ̣ ừ 97% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối trươc va sau khi ngu ... ́ ̀ ̉ Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống tôi đã thu được kết quả sau: * Kết quả khảo sát cuối năm của lớp tôi như sau: Số trẻ Số trẻ KS TT Khả năng KS Đạt Đạt cuối năm đầu năm 1 Mạnh dạn tự tinh 12/25 48% 24/25 96% 2 Kỹ năng hợp tác 8/25 28% 23/25 92% 3 Phát âm rõ lời 13/25 52% 23/25 92% 4 Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 9/25 36% 24/25 96% 5 Lễ phép 12/25 48% 24/25 96%
- 6 Kỹ năng vệ sinh 15/25 60% 25/25 100% 7 Kỹ năng thích khám phá học hỏi 12/25 48% 23/25 92% 8 Kỹ năng tự kiểm soát bản thân 11/25 44% 22/25 88% Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc sống tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì vậy có thể kết luận rằng với những biện pháp thông thường rập khuôn, máy móc như thực trạng hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết vận dụng sáng tạo linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc dạy trẻ các kỹ năng sống sẽ được nâng lên rõ rệt. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ: Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan; Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm … Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi. Về phía giáo viên và nhà trường Cô giáo thường xuyên trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ đặt ra không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn. Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ. Trong các năm qua, nhà trừơng đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, lễ hội dành cho trẻ như: Lễ hội trăng rằm, hội thi tô ch ̉ ưc cho tre ch ́ ̉ ơi các trò chơi dân gian….. III. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục lâu dài , ở mọi lúc mọi nơi và rất quan trọng vì giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân cách con người mới. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 34 tuổi thông qua mọi hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non và ở gia đình trẻ. Vì vậy để giáo
- dục trẻ 34 tuổi kỹ năng sống ngay từ nhỏ giúp trẻ hiểu biết về môi trường giáo dục và môi trường xã hội, có ý thức, hành vi tốt và biết sống thân thiện, có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.trẻ em như một tờ giấy trắng, ngây thơ, trong trắng nếu ta viết lên đó những điều tốt thì trẻ sẽ tốt, nhưng khi ta viết lên đó những điều xấu thì tương lai của các em sẽ không tốt đẹp. trẻ em góp phần không nhỏ trong việc tiếp nối, lĩnh hội những tri thức mới là nền tảng của sự phát triển của đất nước sau này. Giáo dục trẻ biết chào hỏi khi gặp người lớn, biết dạ thưa khi trả lời, biết nhận lỗi và nói lời xin lỗi, cám ơn đúng tình huống. Giáo dục trẻ biết xếp hàng chờ tới lượt, không tranh giành đồ chơi của bạn, biết chia sẽ, nhường nhịn và giúp đỡ bạn cùng chơi. Môi trường trong nhà trường phải theo phương châm lấy trẻ làm trung tâm, tạo cho trẻ biết cách giải quyết vấn đề. Môi trường hoạt động để giáo dục trẻ ở đó người lớn phải luôn mẫu mực và làm gương cho trẻ noi theo. Tạo môi trường thân thiện với trẻ, gần gũi thương yêu và luôn giúp đỡ trẻ thấy tự tin , thoải mái. Việc dạy cho trẻ biết lễ phép không chỉ có tác dụng uốn nắn khuôn khổ cho trẻ từ nhỏ mà còn có tác dụng giúp cho trẻ ngoan ngoãn và nghe lời cô giáo và bố mẹ nhiều hơn. Với vai trò là người làm công tác giáo dục tôi nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Qua việc áp dụng những biện pháp mới, tôi thấy trẻ linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành. Bằng sự chủ động linh hoạt vận dụng các nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động khác nhau làm cho trẻ hứng thú, tập trung, giúp trẻ thể hiện được sự khéo léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu giữa bạn bè. Giáo viên sáng tạo hơn trong việc làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, biết tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm đem lại kết quả tốt nhất cho trẻ. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để nâng cao chất lượng dạy kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và trường mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy kỹ năng sống cho trẻ. Cụ thể như sau: * Đối với nhà trường: Trang bị thêm tài liệu về kiến thức kỹ năng sống để giáo viên nghiên cứu. * Đối với bản thân: Cần tự học hỏi, trao đổi với các bạn đồng nghiệp, nghiên cứu các tài liệu nhiều hơn nữa để có thêm kinh nghiệm dạy kỹ năng sống cho trẻ.
- Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật, giúp trẻ hứng thú và hoạt động một cách tích cực. Thường xuyên bổ sung và thay đổi các hình thức trong dạy kỹ năng sống cho trẻ một cách sáng tạo. Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ chức một cách khoa học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động nhận thức về kỷ năng sống cho trẻ. * Đối với phụ huynh: Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ được tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống, liên tục. Phụ huynh cần trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà. Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi phát huy được khả năng sáng tạo của trẻ. Trên đây là một số kinh nghiệm dạy trẻ kỷ năng sống mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn những thiếu sót nhất định, tôi rất mong được sự góp ý xây dựng của các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo giúp tôi ngày càng có nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay trong giảng dạy bộ môn yêu thích.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 191 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 114 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn