intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

31
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến nhằm giúp trẻ trở thành con người mới, năng động, sáng tạo. Giúp trẻ có được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm; Giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách ứng xử trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ  MẪU GIÁO 3­4 TUỔI   1. PHẦN MỞ ĐẦU  1.1. Lý do chọn đề tài: Trẻ  em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc  bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình và của xã hội. “Trẻ  em hôm nay – thế giới ngày mai”. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng   quan trọng trong sự  nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn   diện cho trẻ  sau này. Bác Hồ  nói “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế  văn hóa” Sản phẩm giáo dục là con người mà con người là mục tiêu động lực của sự  phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Đất nước ta hiện nay nền kinh tế  phát triển đang trên đường hội nhập quốc   tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác trên thế  giới , nếu trẻ  thiếu  kinh nghiệm sống thì dể bị lôi kéo, kích động.....Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên  chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn   cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với khó khăn, thách thức, những  áp lực tiêu cực, bạo lực lối sống ích kỉ, thực dụng, dể bị phát triển lệch lạc về nhân  cách. Vậy thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa  của dân tộc Việt nam từ  ngày xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ  cần  thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại  hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người vừa có đức, vừa có tài trong   thời kỳ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.  Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo bé “Điểm khởi đầu”  của quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ  là vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu  tiên vào đời, đang từng bước “ Học làm người”. Nếu các kỹ năng sớm được hình  thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Trong xã hội hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đã trở  thành một nhu cầu thiết  yếu. Bởi sự bùng nổ  của thông tin, với những suy thoái về  đạo đức, với những đua  đòi của thế hệ trẻ, cùng với những mặt trái của công nghệ thông tin, mặt trái của xã  hội, với muôn ngàn cạm bẫy … giới trẻ hiện nay tiếp cận rất nhiều loại tác động,  tốt có, xấu có, thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu   cực, luôn bị  đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với   những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực từ  gia đình và xã hội. Việc giáo 
  2. dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên cần thiết nhằm góp phần đào  tạo “ Con người mới với đầy đủ các mặt: Đức, trí, thể, mỹ. Như Bác Hồ đã từng nói  : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây ­ Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Sở dĩ Bác nói như  vậy là để  khẳng định một lần nữa với chúng ta rằng  việc giáo dục trẻ  để  trẻ  trở  thành những công dân tốt cho xã hội cho đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.  Bởi  vậy, giáo dục kỹ năng sống  trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé cũng vô cùng quan trọng, bởi  vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến  thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế  nào, biết cách bảo vệ  mình trước người lạ  ra sao, biết cách phối hợp với các bạn   chơi như thế nào cho đúng. Ngay ở  lứa tuổi mẫu giáo bé trẻ  đã bắt đầu nhận thức   được thế  nào là đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm… Giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  là giúp trẻ  biết cách chăm sóc và bảo vệ  bản thân  mình, tạo sự  tự  tin cho trẻ  giúp trẻ  thích nghi được với môi trường xung quanh,   không những thế  còn giúp cho trẻ  biết cách giao tiếp và  ứng xử  trong cuộc sống  hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm. Từ thực tế trên, tôi thiết nghĩ nếu chúng ta làm tốt việc giáo dục kỹ năng sống  cho trẻ  chính là giúp trẻ trở thành con người mới, năng động, sáng tạo. Giúp trẻ  có  được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không  nên làm; Giúp trẻ  tự  tin, chủ  động và biết cách  ứng xử  trong cuộc sống, khơi gợi   khả  năng tư  duy sáng tạo của trẻ. Đặt nền tảng để  trẻ  trở  thành người có trách  nhiệm và có tự chủ trong cuộc sống của bản thân mình. Nhận thấy hoạt động này có  ý nghĩa quan trọng đối với trẻ nên tôi đã trăn trở tìm biện pháp khắc phục thực trạng  trên. Tôi xin mạnh dạn chọn đề tài  “ Một số biện pháp giáo dục kỹ  năng sống cho  trẻ 3 ­ 4 tuổi” để áp dụng trong công tác giảng dạy.   1.2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp.     Xuất phát từ vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ năng sống”  đối với trẻ, tôi  thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ  là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý   nghĩa. Nhưng làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả?   Điều này quả không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.   Với đề tài này tôi biết đã được nhiều đồng nghiệp nghiên cứu, nhưng với tôi  đề  tài này nó có những điểm mới: Tôi dành sự  quan tâm và hình thành  ở  trẻ những  kỹ năng sống như: Giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ những hành vi lễ giáo của  trẻ. Ví dụ như với bản thân, trẻ biết tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết   cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí mến những người thân. Rồi biết thưa gửi,   vâng dạ, không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật. Giúp trẻ  có  kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp 
  3. trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả  năng tư duy sáng tạo của trẻ. Đề tài đã đề cao vai trò của người cán bộ quản lý, giáo viên và đòi hỏi phải  có sự  phối hợp chặt chẽ  giữa các ban ngành, đoàn thể, địa phương và phụ  huynh  học sinh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách toàn diện. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài:  Việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh   vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên đang   dạy lớp 3­4 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế  mạnh của trẻ  trong phạm vi   trường mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 3 ­ 4 tuổi  ở trường   mầm non. 2. PHẦN NỘI DUNG   2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.  * Thuận lợi :           Bản thân tôi được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường   về  bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ  năng sư  phạm và cung cấp đầy đủ  các   trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi, nhất là phòng trào “Xây dựng môi trường xanh, sạch,  đẹp, an toàn và hiệu quả” “ Xây dựng môi trường học tập lấy trẻ  làm trung tâm” ,  đây chinh la ho ́ ̀ ạt động để  giáo viên rèn luyện kỹ  năng  ứng xử  hợp lý với các tình  huống trong cuộc sống cho trẻ, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm;  rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ  sức khỏe, kỹ  năng phòng, chống tai nạn giao  thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác: rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa,   chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Trương hoc n ̀ ̣ ơi tôi đang công tac đ ́ ược xây dựng khang trang sạch sẽ, các khu  vui chơi được quy hoạch hợp lý  nên thuân l ̣ ợi trong viêc th ̣ ực hiên nôi dung “Xây ̣ ̣   dựng môi trương giao duc l ̀ ́ ̣ ấy trẻ làm trung tâm” cho tre.̉ Đa số  phụ  huynh quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ  khi đến lớp cũng   như lúc về nhà, thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để biết được những   mặt mạnh, mặt yếu của trẻ để phối hợp chăm sóc trẻ tốt hơn.   *  Khó khăn: Các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều,  do đó cùng một thời gian và biện pháp dạy trẻ các nội dung kỷ năng sống nhưng kết  quả trên trẻ chưa tương đương với nhau. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động, một số  trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào hướng dẫn của cô, kỷ năng  sống của trẻ còn nhiều hạn chế.
  4. Một số trẻ do bị ảnh hưỡng cuộc sống hiện đại như: Internet, ti vi, các trò  chơi điện tử..... Một số  cha mẹ trẻ nhận thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ  chưa rõ ràng. Họ  đưa con đến trường rồi phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho con đi học chỉ  cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể  chuyện thế  là đủ, còn lại các việc khác   không quan trọng. Nhiều phụ  huynh còn cho rằng trẻ  con biết gì, làm được gì mà   dạy kỹ  năng sống. Chính vì vậy  việc phối hợp với các bậc phụ  huynh trong việc  dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn. Từ nhưng thuân l ̃ ̣ ợi va kho khăn trong qua trinh th ̀ ́ ́ ̀ ực hiên, tôi đa ̣ ̃  tiến hành  khảo sát kết quả về kỹ năng sống của trẻ để từ đó tôi đưa ra biện pháp giáo dục phù  hợp.  *  Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:  Số trẻ  TT Khả năng Đạt KS 1 Mạnh dạn tự tinh 12/25 48% 2 Kỹ năng hợp tác 8/25 32% 3 Phát âm rõ lời 13/25 52% 4 Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 9/25 36% 5 Lễ phép 12/25 48% 6 Kỹ năng vệ sinh 15/25 60% 7 Kỹ năng thích khám phá học hỏi 12/25 48% 8 Kỹ năng tự kiểm soát bản thân 11/25 44% Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có  biện pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ  về  các mức độ  trung bình  và yếu còn ở mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi   đã suy nghĩ  trăn trở làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện   nâng cao hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 3­4 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao. 2.2. Các giải pháp thực hiện: 2.2.1: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ   năng sống. Giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cụ thể theo năm,  tháng, tuần, ngày một cách cụ thể. Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo   dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 3­4 tuổi, khả năng tập trung chú ý và   ghi nhớ  có chủ  định rất kém. Trẻ  nhanh nhớ  nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ  năng chúng ta dạy trẻ  không được cũng cố  bằng cách luyện tập thường xuyên thì  chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên 
  5. thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên. Việc   tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên và  không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ. Ví dụ : Hàng tuần vào sáng thứ  2, tôi thường tổ  chức hoạt động trò chuyện  cùng trẻ khoảng 10 phút – 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển  kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự  giới thiệu mình, biết lắng  nghe, biết dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà  của bé hay trao đổi cùng cô về  chủ  đề  đang học. Cuối tuần cho trẻ  nhận xét câu  chuyện nào hay nhất sẽ  đựơc nhận phần thưởng của cô. Kết quả, trẻ  lớp tôi rất  hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần. Trẻ  đã có thói quen trước khi nói  biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn tự  tin khi kể  “chuyện của mình”   cho bạn nghe.  Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm  quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 10 phút để  tổ  chức cho trẻ  luyện  tập thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:  Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản   thân như rửa tay, lấy nước uống, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một trò  chơi khác nhau.  Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo  hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với   trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ  chức cho trẻ  chơi. Cả  lớp đếm ngược cùng cô từ  10 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà.   Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen  từ  dễ  đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ  cách mặc áo  nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ  cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ  cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện  rất vụng về  lúng túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có kế  hoạch nên các  thao tác của trẻ  dần chính xác hơn. với cách tổ  chức có hệ  thống và linh hoạt như  vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.  Chiều thứ  4, tôi tổ  chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh  ảnh có kèm những  câu chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con người, giữa con  người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử  phù hợp với xung quanh. Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây  ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ  của mình, khi ngồi ăn  ghế  phải xếp sát bàn, khi ra về  phải xếp ghế  vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải   xếp kẹp đôi, tổ chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ  hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ 
  6. thỏ  trắng xếp ngăn dưới… Nhờ  được tham gia và nhắc nhở  thường xuyên nên ý  thức của trẻ trong việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt. Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ  chơi ở các góc nhằm  phát triền kỹ  năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần  đầu, tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như vậy? Cách sắp  xếp như thế nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ  tự  xếp  mỗi góc chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham   gia hoạt động này, các kỹ  năng hợp tác của trẻ  được phát triển. Trẻ  biết giúp đỡ  nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ  chức thường xuyên như vậy, các mối quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của  trẻ  được củng cố, bên cạnh đó đồ  dùng đồ  chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn  gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện pháp này, các kỹ  năng cần có luôn được  củng cố và hoàn thiện một cách chính xác. 2.2.2:  Xac đinh nhiêm vu c ́ ̣ ̣ ̣ ơ ban trong viêc day tre ky năng sông ̉ ̣ ̣ ̉ ̃ ́ Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích  sự  chuyên cần, tích cực của trẻ, giao viên c ́ ần phải biêt khai thac phat huy năng ́ ́ ́   khiêu, tiêm năng sang tao  ́ ̀ ́ ̣ ở  môi tre. Vì m ̃ ̉ ỗi đứa trẻ  là một nhân vật đặc biệt, phải  giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc   sống.  Giáo viên cần thường xuyên tổ  chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo   dục trẻ  môt cách thich h ̣ ́ ợp tuân theo một số  quan điểm: Giúp trẻ  phát triển đồng  đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm­ xã hội và thẩm mỹ. Phát  huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ  hứng thú, chủ  động khám phá tim tòi, biết vận   dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.   Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn   khác trong lớp, trẻ  biết chia sẻ  chăm sóc, trẻ  cần phải học về  cách hành xử, biêt́  lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ  khác   nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử  thách mới.   Điều này liên  quan tới việc đứa trẻ  có cảm thấy thoải mái, tự  tin hay không đối với mọi người   xung quanh, cũng như  việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ  đó như  thế  nào? Cần chuẩn bị  cho trẻ  sự tự  tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong  việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.   Thường xuyên liên hệ  với phụ huynh để  kịp thời nắm tình hình cua tr ̉ ẻ, trao  đổi với phụ  huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ  tại nhà,  bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. 2.2.3: Cu thê hoa nôi dung c ̣ ̉ ́ ̣ ủa những kỹ năng cơ bản ma giao viên cân day ̀ ́ ̀ ̣   tre:̉
  7.  Ky năng s ̃ ống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú trọng là phát  triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả  về  cá nhân cũng như  trong mối quan hệ  với những người khác. Kỹ  năng sống này   giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.    Ky năng sông h ̃ ́ ợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giúp trẻ  học  cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ  đối với trẻ  lứa tuổi  này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.  ̣   Ky năng thích tò mò, ham hoc hoi, kh ̃ ̉ ả  năng thấu hiểu: Đây la m̀ ột trong  những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được  học, sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của  trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu  mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán  trước được.   Ky năng giao ti ̃ ếp: cần day tre bi ̣ ̉ ết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của   mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong  thế giới xung quanh nó.  Đây là một kỹ  năng cơ  bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị  trí chính  yêu khi so v ́ ới tất cả  các kỹ  năng khác như  đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa   học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ  sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ  sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là   yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.  Ví dụ:  Giờ  đón trẻ  tôi trò chuyện cùng trẻ  về  cách giao tiếp để  tự  bảo vệ  mình: Nếu lạc đường con sẽ tìm đến ai để hỏi? con hỏi như thế nào? Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào? Hay có khách đến lớp các con phải làm gì?... Ngoai ra,  ̀ ở trường mầm non giao viên cân d ́ ̀ ạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn   uống qua đó dạy trẻ  kỹ năng lao động tự  phục vụ, rèn tính tự  lập như: Biết tự  rửa   tay sạch sẽ  trước khi ăn, chỉ  ăn uống tại bàn ăn, biêt cách s ́ ử  dụng những đồ  dùng,  vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai  nhỏ  nhẹ  không gây tiếng  ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn,  cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người   lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm  ảnh hưởng đến người xung  quanh. 2. 2.4 : Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ nhiệm  lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà 
  8. trường. Việc dạy kỹ  năng sống cho trẻ  không phải là chuyện một sớm một chiều  mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất  thì mới bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi  thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi trường gia đình rất thích hợp để  giáo dục kỹ  năng  sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các kỹ  năng thông qua gia đình một cách tự  nhiên,  nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao. Mặt khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng  đầu của các bậc phụ huynh nhất là trong thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình  đạt thành tích cao trong học tập cũng như  trưởng thành hơn về  mặt nhân cách. Tuy   nhiên việc làm thế nào để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế  nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì nhiều phụ huynh còn lúng túng trong  vấn đề  này. Trên thực tế  nhiều phụ  huynh chưa có kiến thức về  kỹ  năng sống,   không biết kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy   trẻ những gì? Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ  huynh để  họ  hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp  dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyền  đến các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên  truyền, thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các hoạt  động của lớp hay thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể: Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ  sinh cá nhân, những phản  ứng kém linh hoạt cũng như  những kỹ  năng của trẻ  để  cùng phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.  Ví dụ  :  Ở    tôi có cháu  A,  thời gian đầu đi học cháu không thể  tự  mình kéo  quần lên sau mỗi lần đi vệ sinh, không biết đi dép có quai, thậm chí không biết đội  mũ len đúng cách nếu không có sự  giúp đỡ  của cô. Thông qua trao đổi với mẹ  của   cháu, tôi biết cháu là con một trong gia đình hiến con, sức khỏe của cháu yếu hay bị  ốm. Ở nhà bà và mẹ vì quá yêu thương mà bao bọc cháu, làm thay hết mọi việc cho   cháu nhưng không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc cháu không biết cách phục  vụ bản thân, làm cháu thiếu hụt kỹ năng sống. Tôi có trao đổi với mẹ cháu rằng để  cháu tập làm mọi thứ  bắt đầu từ  chỗ  chọn việc dễ  nhất để  con làm.Ví dụ: Buổi  sáng chuẩn bị đến trường, mẹ  có thể  mặc quần áo cho con sau đó hỏi con: Con có   thể tự đi dép được không nào? Chọn cho con cái mũ len con thích nhất, đội lên đầu   để mẹ ngắm xem có đẹp không nhé! Sau khi trẻ làm được, mẹ nên khen con một vài  câu để tăng tính tự tin cho trẻ chẳng hạn như: Con trai mẹ bảnh quá….! Từ đó cháu  dần tự tin và thích tự làm mọi việc. Thông qua bảng tuyên truyền với phụ  huynh: Bảng được thiết kế  đẹp, kích  thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao đổi 
  9. thông tin với phụ  huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề  tôi có đánh máy nội dung  giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.  Ví dụ :  Ở  chủ  điểm trường mầm non tôi ghi nội dung lồng ghép giáo dục kỹ  năng   sống cho trẻ như sau: ­ Kỹ năng giao tiếp : Giao tiếp với bạn bè, với cô, với người lớn… ­ Kỹ  năng tuân thủ  các quy định của trường lớp: Không la hét, không nói leo   trong giờ học, không làm ồn, biết chờ đến lượt…. ­ Kỹ năng hợp tác: Trẻ  biết chơi cùng bạn, chia sẻ  đồ  chơi với bạn, giúp đỡ  bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự  giúp đỡ  của bạn khi  cần…   Thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham gia trực ti ếp vào việc tổ  chức bữa ăn trưa cho trẻ. Có rất nhiều phụ  huynh đã không khỏi ngỡ  ngàng vì khả  năng tự lập của con mình trên lớp.  Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung  giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Các phụ huynh đã tiếp nhận   thông tin một cách đồng bộ, không gò bó, gượng ép. Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ luôn   coi trọng trẻ  và tích cực phối hợp với giáo viên để  dạy kỹ  năng sống cho trẻ. Đặc   biệt là giao tiếp giữa cha mẹ  và con cái tốt hơn, đa số  phụ  huynh dịu dàng, ít la   mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ  năng sống cho trẻ, phân việc cho trẻ, không  cung phụng trẻ thái quá. Không còn hình ảnh bố  bế con, mẹ  theo sau xách cặp cho   con rồi tranh thủ ép con uống sữa, ăn sáng. Ngược lại đã có nhiều hình  ảnh trẻ  tự  đeo ba lô đến cửa lớp vòng tay chào cô và tự  cất đồ  dùng đúng nơi quy định không  cần bố mẹ phải nhắc .  Tôi đã đạt được kết quả giáo dục như  mong muốn nhưng mỗi biện pháp thì  có tác dụng riêng, để thực hiện có hiệu quả cần phải phối hợp nhiều biện pháp khác  nhau. Tôi tiếp tục sử dụng biện pháp tiếp theo. 2. 2.5 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Từ  việc phối hợp với phụ  huynh, tôi có thêm thông tin về  các kỹ  năng sống   của trẻ ở nhà . Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  phù hợp bằng cách giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  mọi lúc mọi  nơi. Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc  trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố  giáo dục có tác  dụng thúc đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả  năng tuân thủ yêu cầu của người  
  10. lớn và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể  của từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp. Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ( Biết   lễ  phép chào cô, chào bố  mẹ, hỏi han bạn….) Hoặc tôi lồng ghép kỹ  năng tự  phục  vụ bản thân và chấp hành quy định của lớp.  Ví dụ :  Tôi dạy trẻ biết cất ba lô vào tủ, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi quy   định….. Thông qua hoạt động có chủ  định, đây là một trong những hoạt động để  tôi  tích hợp có hiệu quả  nội dung giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ  vào nôi   dung của từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.   Ví dụ :  Qua tiết học khám phá khoa học: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi  dạy trẻ  kỹ  năng sau: Kỹ  năng chăm sóc bản thân: Trẻ  có một số  kỹ  năng và có ý   thức giữ  gìn, bảo vệ các bộ  phận trên cơ  thể. Kỹ  năng giao tiếp tự  tin: Khi trả  lời   phải đứng thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc   giờ  học như  muốn nói phải giơ  tay, chờ  đến lượt cô mời mới được nói, không nói   leo, tập chung chú ý nghe cô…Chính vì thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học   biết chú ý lắng nghe, tuân thủ  theo sự  hướng dẫn của cô và đặc biệt rất tự  tin khi   trả lời  câu hỏi cô đưa ra. Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ  nhiều kỹ  năng khác   nhau.  Ví dụ :  Qua việc trò chuyện quan sát Đu quay. Trẻ  nhận biết được một số  nguyên   nhân gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kỹ năng tôi  dạy trẻ đó là:  Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin.  Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên đu quay chẳng may bị ngã bé cần làm  gì?( Nằm yên, chờ Đu quay dừng hẳn mới ngồi dậy để tránh Đu quay đập vào đầu,  bạn khác chạy đi báo với cô…) Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không  quay   chạy   quá   nhanh,   không   xô   đẩy   bạn   khi   ngồi   trên   Đu   quay,   nắm   chắc   tay   cầm…)  Thông qua giờ  hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ  học bằng chơi, chơi   mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi  ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ tiếp   thu một cách dễ dàng nhất.  Ví dụ : 
  11. Qua góc chơi phân vai mẹ  con, trẻ  học được các kỹ  năng như: Kỹ  năng giao  tiếp ( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ  năng chăm   sóc ( biết lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ  năng hợp tác ( trẻ  học  được cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi  chơi xong trẻ biết cất đồ chơi đúng nơi quy định.   Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả các   góc chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.  Ví dụ:  Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Mặc dù ở  mẫu  giáo bé nhưng trẻ   ở  lớp tôi đã biết tự  phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết,  không tranh giành đồ chơi của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.    Qua việc tổ  chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ  làm một số  công việc tự  phục vụ  qua đó hình thành  ở  trẻ  một số  kỹ  năng sử  dụng đồ  dùng ăn, uống đúng  cách và hành vi văn hoá văn minh  như:  Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.  Cách rót nước, chia thức ăn.  Tham gia chuẩn bị bữa ăn ( tự kê ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát…)   Trẻ  được tập luyện một số  thói quen hành vi văn minh trong ăn uống (Trẻ  biết mời cô, mời bạn, biết vệ  sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ  vệ  sinh  chung và hành vi văn hoá như  không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra  ngoài đồng thời lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…) Khi tổ  chức giấc ngủ  cho trẻ, tôi dạy trẻ  biết tự  mình lấy cất gối đúng nơi  quy định, biết lau chùi chân trước khi lên gường, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi   bạn đang ngủ. Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  vào các hoạt động   khác trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng việc tạo   tình huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố các  kỹ  năng của mình.  Tóm lại, cần giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính   liên tục để  mỗi kỹ  năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ  trở  thành thói quen,  thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích  hợp quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây  tâm lý nặng nề  cho trẻ  khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi   nhận xét đánh giá các kỹ  năng đạt được trên trẻ  bởi đây cũng là một trong những   biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả. 2.2.6 : Đánh giá kỹ năng sống của trẻ thường xuyên.
  12. Việc nhìn nhận, xem xét lại các công việc đã làm trong một thời gian nhất   định sẽ  rút ra được những bài học bổ  ích, có những điều chỉnh hoặc cải tiến các  hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả  hơn. Việc đánh giá các kỹ  năng sống của trẻ  thường xuyên lại có vai trò đặc biệt hơn. Sau mỗi hoạt động trong ngày, tôi luôn dành thời gian để  nhận xét đánh giá  hoạt động đó nhằm cũng cố  các kỹ  năng cho trẻ và tìm ra biện pháp để  hoạt động   sau cô cùng trẻ thực hiện tốt hơn. Ví dụ:  Qua hoạt động góc, tôi nhận xét đánh giá góc bán hàng: Hôm nay bác Hàn Nhi   bán hàng thật là khéo, biết chào mời khách lịch sự, biết nhận tiền của  khách và đưa  bằng 2 tay, biết cảm  ơn khách, nhưng tôi thấy tiền của bác cất chưa cẩn thận. tôi  khuyên bác lần sau nếu có nhiều tiền như vậy nên cất vào túi, đừng để  lên bàn như  vậy nhé! Khi nghe những lời nhận xét đơn giản như vậy, trẻ có thêm tự tin vào bản  thân, nắm được kỹ năng giao tiếp lịch sự, hình thành tính cẩn thận cho trẻ. Hoặc qua   việc nhận xét giờ  ăn trưa: Hôm nay cô cảm  ơn bạn A, bạn B, bạn C... đã giúp cô  chuẩn bị bữa ăn cho các bạn, các bạn đã biết chia thìa vào bát, bê cơm cho các bạn  bằng 2 tay và khi đưa cho các bạn thì đặt nhẹ nhàng. Như vậy bản thân cháu  A, cháu  B cháu C... sẽ tự tin vào hoạt động của mình và các bạn khác trong lớp hôm sau cũng  cố gắng làm tốt như vậy để được cô khen. Hằng ngày tôi thường theo dõi sự  phát triển của trẻ, ghi chép vào nhật ký và  đánh giá những biểu hiện tâm sinh lý của trẻ trong các hoạt động. Tôi đặc biệt chú ý   đến việc đánh giá các kỹ năng, trạng thái cảm xúc và hành vi của trẻ. Tôi xác định  những trẻ cần lưu ý để  có biện pháp chăm sóc riêng phù hợp và lấy đó làm căn cứ  thước đo để đánh giá cuối mỗi chủ đề. Việc đánh giá kỹ  năng cho trẻ   ở  mỗi chủ  đề  tôi dựa vào mục tiệu đạt được  trên trẻ ở chủ đề đó, sử dụng phiếu đánh giá chủ đề ghi các thông tin về các kỹ năng   trẻ đã làm và chưa làm được trong chủ đề. Ví dụ: Trong chủ  đề  gia đình: Tôi đánh giá sự  tích cực của trẻ  khi cùng cô,  cùng bạn tham ra các hoạt động trong chủ đề, đánh giá việc trẻ có thực hiện một số  quy tắc đơn giản trong gia đình như biết nghe lời bố mẹ, cất dọn đồ dùng của mình  ngăn nắp, có được một số  kỹ  năng chào hỏi, xin phép, biết được vị  trí của mình  trong gia đình. Bằng việc nhận xét đánh giá thường xuyên như  vậy, tôi đã rút ra được nhiều   kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và cũng đã có nhiều kỹ năng sống được  hình thành và cũng cố  trên trẻ. Trẻ giao tiếp tốt hơn, tự tin vào bản thân hơn, nhận  thức đúng vị  trí của mình, biết nhận xét bạn, khéo léo hơn trong các hoạt động lần   sau. Thông qua việc nhận xét đánh giá khéo léo cuả cô, trẻ biết tự điều chỉnh hành vi  
  13. của mình sao cho tốt, sao cho được cô khen. Biện pháp đánh giá đã góp phần đáng kể  vào việc nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lứa tuổi lên ba. *KẾT QUẢ  Từ  những cố  gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự  đồng  thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự  ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp  tôi đạt được một số  kết quả  trong việc dạy trẻ 3­4 tuổi các kỹ  năng sống cơ  bản  thể hiện ở các kết quả sau: ­ Kết quả trên trẻ: ­ 100% tre đ ̉ ều được cha mẹ tao moi điêu kiên khuy ̣ ̣ ̀ ̣ ến khích khơi dậy tình tò  ̉ mò, phat triên tri t ́ ́ ưởng tượng, năng đông, manh dan, t ̣ ̣ ̣ ự tin,  100% tre ̉  3­4 tuổi được ren luyên kha năng săn sang hoc tâp  ̀ ̣ ̉ ̉ ̀ ̣ ̣ ở  trương phô ̀ ̉  thông hiệu quả ngày càng cao. ­ 100% trẻ co thoi quen lao đông t ́ ́ ̣ ự  phuc vu, đ̣ ̣ ược rèn luyện kỹ  năng tự  lập;   ky năng nh ̃ ận thức; ky năng vân đ ̃ ̣ ộng thô, vân đông tinh thông qua cac hoat đông hang ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ̀   ngay trong cu ̀ ộc sống của trẻ;  ­ 100% tre đ ̉ ược rèn luyện ky năng xã h ̃ ội; ky năng v ̃ ề  cảm xúc, giao tiếp;  chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hanh tre em  ̀ ̉ ở trường cũng như  ở gia đình. ­ 100 % tre đ ̉ ược giao duc, chăm soc nuôi d ́ ̣ ́ ương tôt, đ ̃ ́ ược bảo vệ  sức khỏe,   được bao đam an toan, phong bênh, đ ̉ ̉ ̀ ̀ ̣ ược theo doi cân đo băng biêu đô phat triên. ̃ ̀ ̉ ̀ ́ ̉           ­ Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ  lệ chuyên cần đat t ̣ ừ 97% trở lên và ít gặp khó   khăn khi đến lớp, có kỹ  năng lao động tự  phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự  chuẩn bị khăn ăn, chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết phân công trực nhật sắp  xếp bàn ăn, tự xếp gối trươc va sau khi ngu ...  ́ ̀ ̉ Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng   sống tôi đã thu được kết quả sau: * Kết quả khảo sát cuối năm của lớp tôi như sau: Số  trẻ  Số trẻ KS  TT Khả năng KS  Đạt Đạt cuối năm đầu  năm 1 Mạnh dạn tự tinh 12/25 48% 24/25 96% 2 Kỹ năng hợp tác 8/25 28% 23/25 92% 3 Phát âm rõ lời 13/25 52% 23/25 92% 4 Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 9/25 36% 24/25 96% 5 Lễ phép 12/25 48% 24/25 96%
  14. 6 Kỹ năng vệ sinh 15/25 60% 25/25 100% 7 Kỹ năng thích khám phá học hỏi 12/25 48% 23/25 92% 8 Kỹ năng tự kiểm soát bản thân 11/25 44% 22/25 88%     Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ  có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc   sống tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì   vậy có thể  kết luận rằng với những biện pháp thông thường rập khuôn, máy móc  như thực trạng hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết  vận dụng sáng tạo linh hoạt các biện pháp như  tôi đã làm  ở  trên thì hiệu quả  của  việc dạy trẻ các kỹ năng sống sẽ được nâng lên rõ rệt. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:  Các bậc cha mẹ  đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong   việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua  bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan;   Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số  cha mẹ dịu dàng, ít la mắng   trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ  năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không còn hình ảnh  ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện  khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm … Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả  giáo dục của nhà trường, chia sẻ  những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu,  phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.  Về phía giáo viên và nhà trường Cô giáo thường xuyên trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ đặt ra  không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ  trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn. Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn   bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ. Trong các năm qua, nhà trừơng đã tổ  chức nhiều phong trào, hội thi, lễ  hội   dành cho trẻ  như: Lễ  hội trăng rằm, hội thi tô ch ̉ ưc cho tre ch ́ ̉ ơi các trò chơi dân   gian….. III. PHẦN KẾT LUẬN  3.1. Ý nghĩa của đề tài: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục lâu dài , ở mọi  lúc mọi nơi và rất quan trọng  vì  giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ  thống giáo dục quốc dân tạo những tiền đề cho việc hình thành nhân cách con người  mới. Việc giáo dục kỹ  năng sống  cho trẻ  3­4 tuổi thông qua mọi hoạt động trong  cuộc sống sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non và ở  gia đình trẻ. Vì vậy để giáo 
  15. dục trẻ 3­4 tuổi kỹ năng sống ngay từ nhỏ giúp trẻ hiểu biết về môi trường giáo dục  và môi trường xã hội, có ý thức, hành vi tốt và biết sống thân thiện, có trách nhiệm   với cộng đồng xã hội.trẻ  em như  một tờ  giấy trắng, ngây thơ, trong trắng nếu ta   viết lên đó những điều tốt thì trẻ sẽ tốt, nhưng khi ta viết lên đó những điều xấu thì  tương lai của các em sẽ  không tốt đẹp. trẻ  em góp phần không nhỏ  trong việc tiếp   nối, lĩnh hội những tri thức mới là nền tảng của sự phát triển của đất nước sau này.   Giáo dục trẻ biết chào hỏi khi gặp người lớn, biết dạ thưa khi trả lời, biết nhận lỗi   và nói lời xin lỗi, cám ơn đúng tình huống. Giáo dục trẻ biết xếp hàng chờ tới lượt,   không tranh giành đồ  chơi của bạn, biết chia sẽ, nhường nhịn và giúp đỡ  bạn cùng  chơi. Môi trường trong nhà trường phải theo phương châm lấy trẻ làm trung tâm, tạo   cho trẻ  biết cách giải quyết vấn đề. Môi trường hoạt động để  giáo dục trẻ   ở  đó  người lớn phải luôn mẫu mực và làm gương cho trẻ noi theo. Tạo môi trường thân   thiện với trẻ, gần gũi thương yêu và luôn giúp đỡ  trẻ  thấy tự  tin , thoải mái. Việc   dạy cho trẻ  biết lễ  phép không chỉ  có tác dụng uốn nắn khuôn khổ  cho trẻ  từ  nhỏ  mà còn có tác dụng giúp cho trẻ  ngoan ngoãn và nghe lời cô giáo và bố  mẹ  nhiều   hơn. Với vai trò là người làm công tác giáo dục tôi nhận thức đúng đắn về vai trò và  tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ  năng sống   cho trẻ. Qua việc áp dụng   những biện pháp mới, tôi thấy trẻ linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, Nhân cách ý chí  tình cảm của trẻ  được hình thành. Bằng sự  chủ  động linh hoạt vận dụng các nội  dung giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động khác nhau làm cho trẻ hứng thú, tập  trung, giúp trẻ thể hiện được sự khéo léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu giữa bạn bè.  Giáo viên sáng tạo hơn trong việc làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, biết tìm ra các giải   pháp để  thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi sẽ  cố  gắng   học hỏi hơn nữa để  tìm ra những giải pháp tối  ưu nhằm đem lại kết quả  tốt nhất   cho trẻ. 3.2. Kiến nghị, đề xuất:   Từ  những việc làm cụ  thể  và kết quả  đạt được như  vậy để  nâng cao chất  lượng dạy kỹ  năng sống cho trẻ   ở  các trường mầm non nói chung và trường mầm  non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề  xuất một số  biện pháp nâng  cao chất lượng dạy kỹ năng sống cho trẻ. Cụ thể như sau:    * Đối với nhà trường:  Trang bị thêm tài liệu về kiến thức kỹ năng sống để giáo viên nghiên cứu. * Đối với bản thân: Cần tự học hỏi, trao đổi với các bạn đồng nghiệp,  nghiên cứu các tài liệu  nhiều hơn nữa để có thêm kinh nghiệm dạy kỹ năng sống cho trẻ.
  16.  Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt,  sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử  dụng các thủ  thuật, giúp trẻ  hứng thú và hoạt động một cách tích cực.  Thường xuyên bổ sung và thay đổi các hình thức trong dạy kỹ năng sống cho   trẻ một cách sáng tạo.  Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ  chức một cách  khoa học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động nhận thức về kỷ năng  sống cho trẻ. * Đối với phụ huynh:  Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ được tiếp thu  kiến thức một cách có hệ thống, liên tục.   Phụ  huynh cần trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, nuôi   dưỡng và giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà.  Phụ  huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ  cho giáo viên trong việc sưu tầm các   nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi phát   huy được khả năng sáng tạo của trẻ. Trên đây là một số  kinh nghiệm dạy trẻ  kỷ  năng sống mà tôi đã rút ra được  trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách,   phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ  và ngôn ngữ. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn  những thiếu sót nhất định, tôi rất mong được sự  góp ý xây dựng của các bạn đồng   nghiệp, các cấp lãnh đạo giúp tôi ngày càng có nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay   trong giảng dạy bộ môn yêu thích.              
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1