intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi lớp A3 trường Mầm non Cán Khê - Như Thanh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

17
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Biện pháp nâng cao tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi lớp A3 trường Mầm non Cán Khê - Như Thanh" nhằm nghiên cứu quá trình hoạt động, phát triển của trẻ nhằm tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất giúp trẻ nâng cao tính tự lập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi lớp A3 trường Mầm non Cán Khê - Như Thanh

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BIỆN PHÁP NÂNG CAO TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI LỚP A3 Ở TRƯỜNG MẦM NON CÁN KHÊ -NHƯ THANH Người thực hiện: Lê Thị Tâm Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường MN Cán Khê SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn THANH HÓA, NĂM 2022
  2. Mục lục Mục lục..................................................................................................... 2 1.1. Lý do chọn đề tài.............................................................................. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................ 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................... 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................. 2 2. Nội dung sáng kiến............................................................................... 2 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm......................................... 2 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu................................................... 4 2.2.1. Thuận lợi........................................................................................ 4 2.2.2. Khó khăn........................................................................................ 4 2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng ban đầu.............................................5 2.3. Các giải pháp thực hiện.................................................................... 5 2.3.1. Giải pháp 1: Lên kế hoạch rèn luyện những kỹ năng cơ bản nhưng cần thiết để tạo tính tự lập cho trẻ................................................. 5 2.3.2. Giải pháp 2: Cô làm gương để rèn tính tự lập cho trẻ ...................8 2.3.3. Giải pháp 3: Rèn tính tự lập trong các hoạt động học ...................9 2.3.4. Giải pháp 4: Kích thích tính tự lập của trẻ bằng việc đóng vai các nhân vật theo từng chủ đề...................................................................... 10 2.3.5. Giải pháp 5: Rèn mọi lúc mọi nơi................................................. 11 2.3.6. Giải pháp 6: Dạy trẻ biết giúp đỡ mọi người xung quanh ............12 2.3.7. Giải pháp 7: Dạy trẻ mạnh dạn tự tin trong mọi hoạt động ..........13 2.3.8. Giải pháp 8: Nhà trường kết hợp với gia đình.............................13 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường....................................... 14 3. Kết luận, kiến nghị.............................................................................. 15 3.1 Kết luận............................................................................................ 15 3.2. Kiến nghị......................................................................................... 15
  3. 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài “Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: Non sông Việt Nam có được vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu” (Trích trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau cách mạng tháng Tám năm 1945).[1] Câu nói của Chủ Tịch đã đi vào lòng người, tạo ra động lực to lớn cho hàng chục triệu người dạy và học. Đó chính là lễ và văn mà chúng ta phải truyền lại cho các lớp kế cận, cho những chủ nhân tương lai của đất nước. Đất nước ta đang trong thời đại bùng nổ thông tin buộc chúng ta phải đặt những mục tiêu và quyết tâm cao, lẽ tất nhiên chúng ta chưa thực hiện được các kế hoạch đề ra, vì vậy nhiệm vụ đó đang trông chờ vào thế hệ mầm non - chủ nhân tương lai của đất nước. Ưu thế mà chúng ta có được hiện nay là thế hệ trẻ khỏe có sự đồng nhất cả về năng lực và trí tuệ, có tiềm năng sáng tạo.Vì thế chúng ta phải tin vào thế hệ trẻ tương lai sẽ đứng vững trên nền truyền thống lịch sử vẻ vang đó. Đảng và nhà nước đánh giá rất cao về vai trò của giáo dục, đầu tư vào giáo dục là đầu tư đúng hướng và được coi trọng là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển toàn diện (về thể chất, tình cảm, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên về nhân cách). Hình thành ở trẻ những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người giáo viên mầm non cần chú trọng đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ. Trẻ mầm non đang trong giai đoạn học tập, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển.Vì vậy, giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, tất cả mọi việc đều bắt đầu. “Trẻ em như tờ giấy trắng” uốn nắn thế nào là do người lớn chúng ta. Quá trình phát triển tâm lý của trẻ khác nhau qua từng độ tuổi. Đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 5-6 tuổi các cháu thích làm mọi việc mình thích, thích làm những công việc giúp người lớn. Vì vậy vai trò của người lớn chúng ta là rất quan trọng, đặc biệt đối với giáo viên mầm non, cô là người hướng trẻ tới những hành vi đúng, tránh xa hành vi sai ,những thói hư tật xấu. Một ngày các cháu đến trường với cô từ sáng đến chiều mọi sinh hoạt học hành ăn ngủ đều do cô giáo hướng dẫn. Một tay cô giáo chăm, một tay cô giáo dạy bảo. Vì thế cô cần hình thành cho trẻ tính tự lập ngay từ khi học lớp mẫu giáo. Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu tượng tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một
  4. 2 số dấu hiệu đáng tin cậy của việc bắt đầu hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành những kĩ năng sống sau này. Bản thân tôi là giáo viên mầm non lại trực tiếp giảng dạy trẻ 5-6 tuổi mẫu giáo lớn A3. Ngay từ đầu năm học tôi đã xác định được vai trò và nhiệm vụ của mình sẽ là người hướng lái cho các cháu có một thói quen tốt, một nề nếp tốt. Trong thời gian đầu qua quá trình làm quen, trò chuyện, hoạt động và gần gũi trẻ tôi thấy nhiều trẻ lớp tôi còn nhút nhát, ỉ lại, lười vận động, lười lao động tập thể… phần vì các cháu đều là con một hoặc em út, ở nhà được mọi người cưng chiều, người lớn thường làm giúp trẻ nên trẻ chưa có nề nếp, chưa có tính tự lập. Mọi hoạt động của trẻ đều do cô giáo phục vụ hay nhắc trẻ làm thì trẻ mới làm còn không bạ đâu trẻ cũng để, cũng vứt. Trẻ chưa có tính tự giác, chưa chủ động trong mọi hoạt động, chưa phát huy được tính sáng tạo của mình. Vì vậy tôi thấy rằng cần hình thành cho trẻ một thói quen, một nề nếp tốt để giúp trẻ sáng tạo và có khả năng tự phục vụ bản thân. Xuất phát từ những vấn đề trên nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Biện pháp nâng cao tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi lớp A3 trường Mầm non Cán Khê - Như Thanh” Nhằm giúp trẻ tự lập, sáng tạo và tự tin trong mọi hoạt động. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu quá trình hoạt động, phát triển của trẻ nhằm tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất giúp trẻ nâng cao tính tự lập. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tính tự lập của trẻ 5-6 tuổi. - Phạm vi nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo 5-6 lớp A3 trường mầm non Cán Khê, Như Thanh, Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí luận. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp làm gương và khích lệ. Phương pháp dùng lời nói. Phương pháp sử dụng thống kê toán học. 2. Nội dung sáng kiến 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Theo giáo sư - tiến sĩ Vũ Gia Hiền, trẻ 5-6 tuổi đã hình thành nhân cách. Các em bắt đầu khám phá được khả năng và phẩm chất của mình, hiểu được thái
  5. 3 độ của người xung quanh, có phản xạ vui buồn về thành công và thất bại, về ưu khuyết điểm của bản thân. Tuy nhiên chỉ ở mức độ đơn giản. Lúc này hành vi của người lớn có tác động rất lớn đến bé. Cũng trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu biết hành động có mục đích, biết lập ra kế hoạch theo thời gian gần và không gian hẹp. Mặc dù các trẻ chưa có khái niệm kiểm soát thời gian và không gian nên chúng chỉ hành động theo bản năng mà chưa biết đánh giá kết quả. Yếu tố tạo nên tính tự lập ở mỗi cá nhân là khả năng tin tưởng vào những đánh giá của bản thân, cũng như là vạch ra con đường đi cho mình mà không cần lúc nào cũng nhờ đến sự chỉ bảo hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Có được khả năng này là một điều tuyệt vời, bởi nó sẽ giúp trẻ hạnh phúc hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó khuyến khích trẻ tạo ra những cơ hội để trẻ thể hiện mình. Những đứa trẻ được giáo dục tính tự lập từ nhỏ thì nhanh nhẹn hoạt bát, nổi trội hơn hẳn so với những trẻ khác. Còn đối với trẻ Mầm non rất nhiều trẻ xuất hiện tình trạng dựa dẫm, ỷ lại, được gia đình nuông chiều một cách thái quá dẫn đến không biết làm một số việc đơn giản như: không biết mặc quần áo, không biết tự đi giầy, dép, không thích tự đi mà thích người lớn bế ẵm…Trẻ không biết cách chăm sóc bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh, lười nhác, không biết hỗ trợ bạn bè người xung quanh. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó thiếu tính tự lập là một nguyên nhân quan trọng nhất. Như chúng ta đã biết, trẻ em là đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ em được tiếp xúc với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại nếu trẻ tiếp xúc với nền giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn đến hậu quả tiêu cực. Do đó việc giáo dục tính tự lập cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt, là phương pháp rất quan trọng và cần thiết. Tạo tính tự lập cho trẻ không phải chỉ có hướng dẫn cho trẻ tự lo bản thân mà còn giúp trẻ tự quyết định các vấn đề của mình. Đó cũng là cách giúp trẻ vận động suy nghĩ, sáng tạo, tự tin trong cuộc sống hằng ngày. Trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi), môi trường của trẻ đã được mở rộng từ môi trường gia đình đến môi trường lớp học và môi trường xã hội thông qua tranh ảnh, phim, chuyện. Trẻ được làm quen với những công việc nhà như quét nhà, trông em, gấp quần áo…Những công việc ở lớp như gấp chăn, lau dọn đồ chơi, gấp khăn ăn…Trẻ đã biết tự làm những công việc phục vụ bản thân như đánh răng, rửa mặt, mặc quần áo... Trẻ đã được cô giáo rèn thói quen, nề nếp ngay từ những lớp dưới. Vì vậy hình thành cho trẻ một nề nếp tốt, một thói quen tốt và là nền móng cho tính tự lập ở trẻ mẫu giáo.
  6. 4 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.2.1. Thuận lợi Bản thân tôi là giáo viên đứng lớp lâu năm, nhiệt tình, yêu nghề, tâm huyết với nghề, có trách nhiệm với nghề và không ngừng nổ lực tìm tòi học hỏi những cái mới từ bạn bè, đồng nghiệp, từ sách báo và công nghệ thông tin để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ. Là giáo viên chủ nhiệm, trực tiếp đứng lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A3, hàng ngày cô trò có nhiều thời gian gần gũi với nhau, mọi hoạt động học tập, sinh hoạt cô và trẻ cùng thực hiện. Trẻ 5 tuổi các cháu đã đủ sức khoẻ để làm những công việc tự phục vụ bản thân, các cháu thích làm những công việc để giúp người lớn. 100% các cháu trong lớp đã được học qua các lớp mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ, nên đã có nề nếp ngay từ ban đầu. Sỉ số lớp không quá đông, nên chăm sóc, hướng dẫn, giáo dục trẻ tính tự lập một cách cụ thể và quan sát mọi việc được tốt hơn. Giúp trẻ tự tin trong công việc và hình thành thói quen tự lập ở trẻ một cách có hiệu quả. Trẻ học lớp lớn nên đi học đầy đủ và chuyên cần, đảm bảo quá trình dạy và học của cô trò. Trường mầm non chúng tôi là trường có chất lượng tốt trong việc chăm sóc và nuôi dạy trẻ cụ thể: Trường mầm non Cán Khê nhiều năm liền đạt trường tiên tiến xuất sắc cấp huyện. Bản thân lớp luôn được sự quan tâm, chỉ đạo nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường (BGH). BGH luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho cô trò trong công tác dạy và học của lớp. Trường lớp rộng sạch sẽ, thoáng mát, khuôn viên đẹp. Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ, cùng phối hợp với nhà trường và giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ. 2.2.2. Khó khăn Hiện nay, hầu hết các gia đình có điều kiện kinh tế ổn định, một số trẻ được bố mẹ quá nuông chiều, nên dẫn đến trẻ rất hiếu động, không biết tự phục vụ bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh cơ thể mà thường phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo. Một số phụ huynh còn chưa quan tâm đến tình hình học tập của con em mình. Một số cháu còn chưa có nề nếp chưa tự giác trong các hoạt động, nhút nhát, ỉ lại, chưa có thói quen phục vụ bản thân. Hay mọi hoạt động còn chưa nề nếp, chưa gọn gàng.
  7. 5 2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng ban đầu Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã khảo sát chất lượng nề nếp và tính tự lập của học sinh từ đầu năm học và đã thu được kết quả sau: Bảng thống kê số liệu trước khi thực hiện đề tài Kết quả Số Nội dung khảo sát Tổng số Đạt Chưa đạt TT Thực trạng trẻ Số Tỉ lệ Tỉ lệ Số trẻ trẻ % % Kỹ năng tự phục vụ của trẻ 1 33 23 70 10 30 trong giờ đón trả trẻ 2 Kỹ năng tự phục vụ bản thân 33 20 61 13 39 Tính tự lập của trẻ trong mọi 3 33 19 56 14 42 hoạt động trong ngày Trẻ có ý thức trong việc vệ 4 33 20 61 13 39 sinh thân thể và môi trường Có ý thức trong việc giúp đỡ 5 33 18 55 15 45 mọi người 2.3. Các giải pháp thực hiện 2.3.1. Giải pháp 1: Lên kế hoạch rèn luyện những kỹ năng cơ bản nhưng cần thiết để tạo tính tự lập cho trẻ Người lớn thường không muốn trẻ phải gánh nhiều trách nhiệm khi chưa thực sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít người nhận ra rằng con trẻ đủ khéo léo, có kỹ năng phù hợp và đủ tự tin bắt tay vào công việc nào đó nếu được giao. Để rèn tính tự lập, người lớn cần tin tưởng vào trẻ, động viên và khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người kiểm soát trẻ quá chặt, để trẻ phụ thuộc vào quá lâu thì trẻ sẽ bám riết lấy bố mẹ, cô giáo, chúng có thể trở thành những đứa trẻ lừa biếng và mọi việc đối với trẻ đều trở nên khó khăn. Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng đã từng nghe câu nói “ nếu bắt cho con một con cá, con sẽ có cá ăn một ngày. Nhưng nếu dạy con bắt cá, con sẽ có cá ăn suốt đời”. Xuất phát từ ý nghĩa đó cô giáo và cha mẹ trẻ nên dạy cho trẻ tính tự lập, sống bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau để đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về tính tự lập. Chính vì những điều đó, mà ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch cụ thể để rèn kỹ năng cho trẻ ở lớp mình cụ thể:
  8. 6 * Kỹ năng phục vụ bản thân: Tự đánh răng, rửa mặt, đi dép, chải đầu tóc, quần áo gọn gàng,….. VD: Chải đầu tóc, quần áo gọn gàng, trẻ phải biết tự mình chải tóc gọn gàng nhằm rèn cho trẻ thói quen tự phục vụ bản thân. Từ đó trẻ sẽ biết tự mình chải tóc mỗi ngày khi bắt đầu đi học, ngủ dậy và khi thấy đầu tóc không gọn gàng mà không cần nhờ vã ai. Rõ ràng từ việc dạy trẻ chải tóc ta cũng đã rèn cho trẻ thói quen tự lập tốt để tự phục vụ bản thân. Trẻ tự chải đầu * Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Giữ gìn vệ sinh cơ thể, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh,…. VD: Trẻ rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh mục đích rèn cho trẻ tính tự lập trong việc giữ gìn vệ sinh thân thể. Chúng ta cần rèn cho trẻ biết tự mình vệ sinh sạch sẽ bằng việc rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Từ việc rèn cho trẻ tính tự lập đó thì ta cũng phải cho trẻ sẽ hiểu vệ sinh sạch sẽ bằng xà phòng thì vi khuẩn sẽ không vào cơ thể để gây bệnh được. Từ đó trẻ sẽ có ý thức bảo vệ cơ thể bằng việc tự lập trong việc rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh bằng xà phòng
  9. 7 Trẻ rửa tay dưới vòi nước sạch * Kỹ năng hỗ trợ người khác: Giúp đỡ ông bà bố mẹ, cô giáo và các bạn… VD: Trẻ biết lấy cất sạp trước khi ngủ và sau khi ngủ dậy. Việc rèn cho trẻ biết giúp đỡ người khác là việc rất quan trọng, vì trẻ sẽ hiểu được giúp đỡ người khác chính là nghĩa vụ là niềm vui của bản thân. Trẻ hiểu được trước khi ngủ cần có sạp và sau khi ngủ cần phải gọn gàng và từ đó trẻ sẽ phải cất sạp gọn gàng đúng nơi qui định. Từ hiểu biết như vậy trẻ sẽ không cần đến
  10. 8 sự nhắc nhở của cô giáo hay người thân mà trẻ sẽ tự bản thân biết tự lập trong việc làm và hành động của mình Trẻ kê đệm chuẩn bị cho giờ ngủ trưa Việc xác định được những kỹ năng trên đã giúp tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc thực hiện đề tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ xác định được những kỹ năng đó mà tôi đã rèn trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. 2.3.2. Giải pháp 2: Cô làm gương để rèn tính tự lập cho trẻ Trẻ độ tuổi mầm non rất hay bắt chước người lớn. Chính vì vậy giáo viên và cha mẹ luôn phải giữ chuẩn mực trong giao tiếp. Hàng ngày trẻ đến lớp phần lớn thời gian trong ngày trẻ được học tập và sinh hoạt cùng cô. Cô giáo vừa là bạn vừa là người mẹ hiền thứ 2 của trẻ cùng chơi, cùng học, chăm chút cho trẻ từ bữa ăn, giấc ngủ. Vì vậy vai trò của cô giáo rất quan trọng trong việc hình thành những thói quen, nề nếp cho trẻ. Cô là tấm gương cho trẻ noi theo. VD: + Khi đến lớp cô giáo cất gọn gàng túi sách, mũ, dép và khi trẻ đến thấy cô xếp gọn gàng trẻ sẽ học tập xếp gọn gàng theo cô. + Trong giờ học khi dạy học xong cô cất gọn gàng đồ dùng của cô và nhắc trẻ xếp gọn gàng đồ dùng của trẻ vào đúng nơi quy định Trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt cô giáo luôn là tấm gương trong việc giữ gìn sạch sẽ môi trường, lớp học. Không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào đúng nơi quy định. Thường xuyên cùng trẻ vệ sinh trong và ngoài lớp học, lau
  11. 9 dọn đồ dùng đồ chơi, nhổ cỏ, nhặt rác quanh lớp học, sân trường. Khi được giúp cô, trẻ thấy mình được làm việc có ích, thích được làm việc, từ đó hình thành cho trẻ một thói quen, nề nếp giữ gìn vệ sinh chung VD: + Trước giờ ăn cô rửa tay trước khi chia cơm và nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ trước khi ăn cơm. Ăn cơm xong nhắc trẻ cất ghế, cất bát, lau mặt, uống nước, súc miệng... Rèn cho trẻ thói quen rửa tay khi tay bẩn, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh. Hình thành cho trẻ nề nếp gọn gàng, dần dần trẻ có một thói quen tốt làm đâu gọn đấy. Khi trẻ chưa ngoan, cần nhắc nhở nhẹ nhàng, không nói nặng lời, trẻ sẽ sợ hãi. Tuy nhiên, cũng cần có thái độ dứt khoát khi trẻ tỏ ra không lễ phép. 2.3.3. Giải pháp 3: Rèn tính tự lập trong các hoạt động học Trong các tiết học cô luôn khuyến khích động viên trẻ tự tin, mạnh dạn, biết hoạt động độc lập và hoàn thành sản phẩm của mình. Cô giáo là người dẫn dắt trẻ hoạt động từ đó trẻ nắm được vai trò nhiệm vụ của mình. Trẻ hứng thú và tích cực hơn hoạt động vận động nhanh nhẹn hoạt bát hơn, rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay. Phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, trẻ sẽ chủ động trong mọi hoạt động không ỷ lại người khác. Biết tự mình hoàn thành một bức tranh theo ý tưởng của mình, một bài tập, một vai chơi. Mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình về một sự vật hiện tượng. VD: + Trong giờ VH, KPKH, Toán, Chữ cái: Nhờ sự dẫn dắt của cô trẻ có thể nói lên ý kiến của mình, nhận định của mình về nội dung, vấn đề đấy. Trong giờ HĐVC trẻ hoàn thành vai chơi, sản phẩm vai chơi. Trẻ có thể làm chủ trò để dẫn dắt vào quá trình chơi, định hướng mục đích chơi và chơi có kết quả. Từ các môn học, giáo dục trẻ nề nếp thói quen tốt, biết lấy và cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định, giữ gìn đồ dùng đồ chơi. Sắp xếp đồ dùng đồ chơi ngăn nắp gọn gàng. Biết làm những việc tự phục vụ mình. Hình thành cho trẻ một thói quen tốt tự lập không ỷ lại vào người khác + Âm nhạc: Bài hát “ Vui đến trường ” qua bài hát trẻ hiểu được trước khi đi học cháu cần phải đánh răng rửa mặt, thay quần áo, chuẩn bị đồ dùng để đi học thật gọn gàng chu đáo. + KPKH: Chủ đề bản thân qua các bộ phận cơ thể cô giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân biết rửa mặt, tắm, thay quần áo…từ đó trẻ hiểu và biết chăm sóc các bộ phận trên cơ thể mình. + Văn học: Bài thơ “ Mèo đi câu cá ” Giáo dục trẻ biết chăm chỉ lao động tự phục vụ bản thân không nên ỉ lại vào người khác như anh em nhà méo trắng.
  12. 10 Cô thường xuyên phân công và theo dõi trẻ trực nhật, nói rõ vai trò của những trẻ trực nhật. Người thực hiện nhiệm vụ trực nhật phải làm chu đáo và có trách nhiệm với việc được phân công. Tổ trực nhật trong giờ học sẽ lấy đồ dùng phát cho các bạn, thu dọn và cất đồ dùng đồ chơi. Rèn cho trẻ thói quen nề nếp, sự cố gắng, sáng tạo và đề cao tinh thần trách nhiệm của mình với tập thể. VD: Phát bút, lấy vở, xếp bàn ghế, lau bảng, thu bài… Trong mọi việc làm của trẻ cô kịp thời khen ngợi trẻ “Con giỏi lắm, con đã lớn thật rồi”. Tạo cho trẻ một ý nghĩ mình đã lớn đã làm được nhiều việc và mình là người có ích. Từ đó trẻ sẽ hoạt động tích cực hơn, hứng thú hơn 2.3.4. Giải pháp 4: Kích thích tính tự lập của trẻ bằng việc đóng vai các nhân vật theo từng chủ đề Ở mỗi chủ đề cô cho trẻ được thực hiện tính tự lập, thông các góc chơi để trẻ được nhập vai chơi từ đó trẻ mạnh dạn tự tin hơn cùng bạn bè và từ đó trẻ hiểu được mình phải hoá thân vào vai chơi như thế nào cho đúng. VD: Ở chủ đề ngành nghề trẻ chơi ở góc phân vai: Trẻ được đóng làm chú công an giao thông. Trẻ phải biết được công việc cụ thể của chú công an là gì? Trẻ cũng phải hiểu và biết được luật giao thông đường bộ phải như thế nào để hướng dẫn người tham gia giao thông đi cho đúng luật. Từ sự hiểu biết trên trẻ sẽ có ý thức tự lập về chấp hành tốt luật giao thông đường bộ. Hình thành ở trẻ tính tự lập cao khi tham gia giao thông. Hay như ở mỗi chủ đề ta có thể tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ, để góp phần rèn luyện và phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, khả năng ngôn ngữ mạnh lạc cũng như sự tự tin khi đứng trước tập thể. VD: Cô cho trẻ đóng kịch theo tác phẩm văn học câu chuyện: “Tích chu” Ở chủ đề bản thân. Qua nhân vật trẻ đóng, trẻ sẽ nhập vai nhân vật mà mình yêu thích và say mê luyện tập từ đầu đến cuối. Xuất phát từ yêu thích nhân vật, được tham gia “diễn” chung cùng các bạn, tập thể lớp và cô giáo, trẻ sẽ cố gắng để thể tốt trách nhiệm của một “diễn viên” khi đứng trên sân khấu. Đây chính là điểm tâm lý của trẻ vì qua câu chuyện mà trẻ được tham gia đóng kịch trẻ có ý thức tự lập trong tập thể, phải luôn cố gắng để cùng cô và bạn bè hoàn thành tốt vai diễn được giao, thông qua đó ta thấy được trẻ mạnh dạn hơn giữa đám đông. Từ câu chuyện “tích chu” trẻ sẽ hiểu mình cần làm gì để giúp đỡ cô và bố mẹ, ông bà, giống như bạn Tích Chu vì ham chơi mà bà ốm không giúp bà lấy nước, bà khát nước nên đã biến thành chim bay đi, khi ấy Tích Chu mới hối hận và đã vượt qua mọi khó khăn để lấy nước tiên cho bà uống lại thành người. Hình thành ở trẻ tính tự lập biết giúp đỡ mọi người và lấy đó làm niềm vui của bản thân…
  13. 11 2.3.5. Giải pháp 5: Rèn mọi lúc mọi nơi Hàng ngày trẻ đến lớp với cô cả ngày cùng học tập sinh hoạt cùng cô. Vì vậy cô giáo phải tạo cho trẻ một môi trường thân thiện, cô vừa là cô vừa là bạn của trẻ. Thông qua các hoạt động hàng ngày, khi đi dạo ngoài trời, ở mọi nơi mọi lúc cô luôn luôn khuyến khích động viên trẻ tích cực tự phục vụ bản thân. VD: Trẻ đến lớp tự cất cặp, lấy ghế, biết xếp bàn ăn, dải thảm Trẻ xếp gối chuẩn bị cho giờ ngủ trưa Ngay trong giờ ăn, ngủ, đi vệ sinh cần hình thành cho trẻ thói quen đúng giờ giấc, nề nếp lớp học. Hình thành cho trẻ khả năng tự kiềm chế, thói quen tốt. Trong các giờ hoạt động ngoài trời, vệ sinh cá nhân cô luôn là người hướng dẫn và thực hiện cùng trẻ. Cô vừa hướng dẫn, vừa làm vừa trò chuyện với trẻ tạo cho trẻ môi trường gần gũi, thân mật và từ đó trẻ tự tin, mạnh dạn và hoạt bát hơn VD: Cô cùng trẻ nhổ cỏ, chăm sóc cây cảnh, nhặt rác sân trường, lau rửa, sắp xếp giá đồ chơi, gấp chăn, chiếu, tự rửa mặt phơi khăn… Buổi lao động của trẻ
  14. 12 Như Bác Hồ đã nói: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ tuỳ theo sức của mình”. Vì vậy tôi luôn khuyến khích động viên trẻ tự hoạt động, tự phục vụ bản thân mình từ những công việc nhỏ nhất. Và từ đó hình thành cho trẻ tính tự lập. Trẻ đang gấp chăn 2.3.6. Giải pháp 6: Dạy trẻ biết giúp đỡ mọi người xung quanh Trẻ biết làm những công việc nhỏ như Bác Hồ đã nói: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ tuỳ theo sức của mình”. Dạy cho trẻ tính tự lập sẽ giúp trẻ hiểu được sự vất vả của cô, cha mẹ và từ đó giúp trẻ hoàn thiện kỹ năng sống cơ bản. Trên lớp cô dạy trẻ biết quét nhà giúp cô, cất bát, cất cốc hay phơi khăn giúp cô,…, Cô giúp trẻ hiểu ra công việc của cô ở lớp là rất nhiều và mong có người giúp đỡ. Từ đó trẻ hiểu đựơc công việc của cô rất nhiều và bản thân trẻ sẽ muốn giúp đỡ cô những công việc mà trẻ có khả năng làm. VD: Cô nhờ trẻ cất bát khi cô rửa xong, nhờ trẻ phơi khăn cho cô hay giúp cô chia cơm cho các bạn…Từ những công việc được cô nhờ trẻ sẽ hình thành tính tự lập trong công việc hàng ngày. Trẻ phơi khăn giúp cô
  15. 13 Hay như trẻ biết giúp đỡ bạn bè, và các em lớp bé hơn mình, VD: khi các em lớp bé hơn không mặc được quần áo, trẻ có thể giúp em mặc quần áo. Từ đó hình thành ở trẻ tính tự lập biết giúp đỡ mọi người xung quanh mình “tuỳ theo sức của mình” và khi về nhà trẻ cũng sẽ giúp đỡ cha mẹ những công việc mà trẻ đã có khả năng làm. 2.3.7. Giải pháp 7: Dạy trẻ mạnh dạn tự tin trong mọi hoạt động Chúng ta cần phải hiểu rằng nhút nhát ở trẻ là một điều rất bình thường. Hầu hết trẻ em nhút nhát là vì chúng không biết phải làm gì hoặc làm thế nào để xử lý những tình huống mới. Chúng không thể tìm thấy sự giống nhau của tình huống mới với những thứ tương tự diễn ra trong quá khứ để có thể đưa ra quyết định về cách cư xử và hành động đúng đắn. Vì thế chúng ta hiểu được điều này sẽ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn trong mọi hoạt động. Từ đó trẻ có tính tự lập trong giao tiếp và các hoạt động khác. Hãy bắt đầu bằng những công việc nhỏ, đôi khi những công việc hàng ngày cũng có thể đặt trẻ vào những tình huống khó khăn mang tính thử thách. Vì vậy đối với những trẻ nhút nhát chưa mạnh dạn thì ta cần phải nhẹ nhàng và chơi với trẻ như những người bạn và gợi ý cho trẻ biết cách chơi và nêu ý tưởng của mình. VD: Khi cho trẻ chơi ở góc phân vai cô hãy giao cho trẻ đi mua hàng, hãy yêu cầu trẻ ra thanh toán tiền. Khi trả tiền thì phải hỏi cô bán hàng như thế nào? Và con cần mua những gì? Bao nhiêu tiền? Hay như trong mỗi tiết học hãy cho trẻ được nói ra những điều trẻ nghĩ không nên ép buộc trẻ trả lời. Hãy luôn tạo cho trẻ cảm giác tin tưởng, không nên chê bai trẻ mà hãy dùng những lời động viên khuyến khích trẻ như: con muốn làm gì? Lần sau con cố gắng chút nữa nhé!...và từ đó trẻ sẽ cảm thấy tự tin hơn. Trẻ mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động thì sẽ giúp trẻ sớm hoàn thiện tính tự lập của bản thân mình. 2.3.8. Giải pháp 8: Nhà trường kết hợp với gia đình Gia đình và nhà trường là nhân tố quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ. Vì vậy việc giáo dục trẻ phải kết hợp giữa nhà trường và gia đình, vì phụ huynh là trợ thủ đắc lực trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Tuyên truyền với phụ huynh về sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, nội quy nề nếp lớp học. Trao đổi thực tế nhận thức và khả năng của từng trẻ cho phụ huynh thấy khả năng của con mình và từ đó tìm ra giải pháp tốt nhất để hình thành cho trẻ một thói quen một nề nếp tốt. VD: Trong các giờ đón và trả trẻ, họp phụ huynh cô trao đổi và nắm bắt tình hình của các cháu ở nhà và từ đó cô sẽ có những biện pháp với từng đối tượng từng trẻ. Cô trao đổi với phụ huynh về thời gian của trẻ ở nhà, phụ huynh luôn khuyến khích trẻ tự phục vụ không nên làm hộ trẻ để trẻ không ỉ lại. Phụ huynh khuyến khích trẻ biết giúp bố, mẹ những công việc nhà vừa sức với trẻ như trông em, nhặt rau, quét nhà…Cô thường xuyên trao đổi với phụ huynh để nắm bắt được tình hình của trẻ động viên khuyến khích trẻ kịp thời.
  16. 14 VD: Trong giờ nêu gương cô nêu tên những bạn chăm ngoan biết giúp đỡ bố mẹ để các bạn noi theo “Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”. Mẹ và cô là những người mẹ những người bạn của trẻ. Chúng ta phải lắng nghe tâm tư của trẻ để hiểu được nguyện vọng mong muốn của chúng và từ đó hướng chúng có những suy nghĩ tốt những hành vi đúng. Và chúng ta chính là môi trường để hình thành cho trẻ một nhân cách tốt để trẻ mạnh dạn và tự tịn hơn. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường * Đối với trẻ Khảo sát sau khi áp dụng biện pháp Kết quả Tổng Đạt Chưa đạt Nội dung khảo sát số trẻ Số trẻ Tỉ lệ Số trẻ Tỉ lệ % % Kỹ năng phục vụ của trẻ trong giờ 33 33 100 0 0 đón trả trẻ Kỹ năng tự phục vụ bản thân 33 33 100 0 0 Tính tự lập của trẻ trong mọi hoạt 33 32 97 1 3 động trong ngày Trẻ có ý thức trong việc vệ sinh 33 31 34 2 6 thân thể và môi trường Có ý thức trong việc giúp đỡ mọi 33 32 97 1 3 người * Kết quả từ các bậc phụ huynh Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy kỹ năng sống, trao đổi với cô giáo bằng nhiều hình thức. * Kết quả giáo viên Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, dạy trẻ những việc nhỏ trong mọi lúc, mọi nơi, ít la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp. Trong các hoạt động thường xuyên chú ý giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, dạy trẻ biết quan sát phối hợp với bạn bè khi tham gia vui chơi, lao động, mạnh dạn tự tin phục vụ bản thân.
  17. 15 3. Kết luận, kiến nghị 3.1 Kết luận Trong thời gian thực hiện đề tài này tôi rút ra được kinh nghiệm như sau: Cô phải lập kế hoạch cụ thể rõ ràng từ đầu năm học. Cô luôn là người bạn thân thiết của trẻ, cô phải hiểu được những tâm tư nguyện vọng của trẻ. Trong mọi tình huống cô phải bao quát, hướng dẫn trẻ thực hiện. Luôn cho trẻ được nêu ý kiến của bản thân không nên áp đặt mọi thứ vào trẻ. Giáo viên phải nắm được khả năng nhận thức và tâm lý riêng của từng trẻ, dành thời gian gần gũi với trẻ, tạo một môi trường thân thiện với trẻ. Cô là tấm gương tốt để trẻ noi theo, trẻ làm cùng cô, làm theo cô. Kịp thời nắm bắt để chấn chỉnh, nhắc nhở trẻ trong mọi hoạt động, phát huy những hành vi tốt, thói quen tốt của trẻ. Đặc biệt là phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả với gia đình trẻ. Kết quả đạt được như trên tôi nhận thấy mình cần phải cố gắng hơn nữa để tìm hiểu về tâm sinh lý của trẻ góp phần nhỏ bé của mình vào việc chăm sóc, dạy dỗ thế hệ mầm non tương lai của đất nước sau này, để xứng đáng với danh hiệu là người mẹ thứ 2 của trẻ. 3.2. Kiến nghị Để cho việc giáo dục tính tự lập cho trẻ 5 tuổi mẫu giáo lớn A3 được tốt tôi có một số kiến nghị như sau: Nhà trường cần tạo cơ sở vật chất trong ngoài lớp đa dạng hơn nữa để trẻ được phát huy tính tự lập của bản thân. Tổ chức các buổi chơi đi dã ngoại cho trẻ để trẻ được giao lưu với thế giới bên ngoài nhiều hơn từ đó rèn cho trẻ tính tự lập về mạnh dạn tự tin về bản thân trong giao tiếp. Cần có những buổi trao đổi cụ thể giữa nhà trường với phụ huynh, để từ đó có giải phát tốt nhất cho trẻ. Trên đây là những kinh nghiệm tôi mạnh dạn đưa ra trong quá trình giảng dạy và thu được kết quả nhất định trên trẻ tôi rất mong sự tham gia bổ xung góp ý của các đồng chí lãnh đạo và của các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Như Thanh, ngày 8 tháng 04 năm 2022 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết SKKN Vi Thị Hồng Lê Thị Tâm
  18. 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu chương trình giáo dục mầm non cho trẻ từ 5- 6 tuổi. 2. Tập san giáo dục mầm non. 3. Tham khảo qua mạng internet. 4. Chương trình ti vi. 5. Hướng dẫn và gợi ý thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi Nhà xuất bản Giáo dục 6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên: Chu kỳ II năm 2004 - 2007 của nhiệm vụ giáo dục mầm non. 7. Tài liệu bồi dưỡng cho cán bộ và giáo viên mầm non. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Tài liệu tập huấn cho giáo viên mầm non: Hè 2011-2012, 2012-2013 Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non: Năm 2003 của nhà xuất bản Đại học sư phạm Phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo - Nhà xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2