intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp sáng tạo sử dụng nguyên học liệu sẵn có tại địa phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả thông khô) nhằm phát huy trí tưởng tượng sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi trong hoạt động tạo hình tại lớp 4 tuổi B - Trường mầm non Sơn Ca

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:8

90
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non được hoàn thành với một số biện pháp như: Sử dụng nguyên liệu: vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả thông khô làm đồ dùng trực quan để gây hứng thú cho trẻ; Tạo cơ hội cho trẻ tham gia trải nghiệm và phối hợp cùng nhau tạo ra các bức tranh, đồ chơi từ các nguyên học liệu: vỏ ốc, vỏ ngao, đá cuội, cát, quả thông khô;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp sáng tạo sử dụng nguyên học liệu sẵn có tại địa phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả thông khô) nhằm phát huy trí tưởng tượng sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi trong hoạt động tạo hình tại lớp 4 tuổi B - Trường mầm non Sơn Ca

  1. ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN NĂM 2021 Kính gửi:   Hội đồng khoa học và công nghệ huyện Cát Hải                           Tôi ghi tên dưới đây : STT Họ và tên Năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ  Tỷ lệ %  chuyên  đóng góp vào  môn việc tạo ra  SK 1 Trần Thị Anh 06/08/1984 Trường mầm non  Giáo viên Đại học  100%   Sơn Ca SPMN Là tác giả  đề  nghị  xét công nhận sáng kiến: “Giải pháp sáng tạo sử  dụng nguyên   học liệu sẵn có tại địa phương (vỏ  ngao, vỏ   ốc, đá cuội, quả  thông khô) nhằm   phát huy trí tưởng tượng sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ  4­5 tuổi trong hoạt   động tạo hình tại lớp 4 tuổi B ­ Trường mầm non Sơn Ca” 1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Phục vụ công tác giảng dạy của giáo viên tại  trường mầm non Sơn Ca và giáo viên mầm non trong toàn huyện Cát Hải. 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Sinh hoạt chuyên môn trường: Hoạt động phát triển thẩm mĩ cho trẻ tại lớp 4TB  – trường mầm non Sơn Ca (vào ngày 05 / 09 /2020). 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: a. Tình trạng của giải pháp đã biết (ưu, nhược điểm): Tổ  chức cho trẻ  tham gia hoạt động tạo hình là một hoạt động vô cùng phong  phú, đa dạng, và hấp dẫn, nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát huy được sự  khéo léo, trí tưởng tượng và  khả năng sáng tạo của trẻ. Tổ chức cho trẻ tham gia hoạt  động học tạo hình giúp trẻ  tìm hiểu cái hay cái đẹp, cái mới lạ  trong tự  nhiên, trong  cuộc sống từ  đó trẻ  cảm nhận được sự  vui tươi sinh động của mọi vật, của cuộc   sống, trẻ  thêm yêu cảnh vật quanh mình, say mê khám phá những điều kì diệu của   cuộc sống xung quanh. Trước đây trong hoạt động tạo hình chủ yếu là sử dụng các nguyên học liệu như  giấy,   bìa,   đồ   phế   liệu,   nguyên   học   liệu   trong   sinh   hoạt   chưa   chú   ý   đến   việc   sử  dụng nguyên học liệu sẵn có tại địa phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả
  2. thông khô). Sử dụng nguyên học liệu: vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, cát, quả thông khô vào  hoạt động tạo hình là rất ít, trong khi: vỏ  ngao, vỏ   ốc, đá cuội, cát, quả  thông khô  là  nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương mà trẻ được tiếp xúc rất nhiều mỗi khi đi tắm  biển hay đi chơi, thậm chí trong cuộc sống hàng ngày tại gia đình mua về  sử  dụng   trong sinh hoạt hàng ngày. Khi mà trẻ nhận thấy việc tạo hình từ các nguyên học liệu   sẵn có tại địa phương thật mới lạ  và trẻ  sẽ  cảm thấy yêu quý và thích thú hơn rất   nhiều so với hoạt động trên các nguyên vật liệu thông thường. Xuất phát từ  những ý  tưởng nêu trên, tôi nghĩ rằng việc dạy cho trẻ sử dụng nguyên học liệu sẵn có tại địa  phương (vỏ ngao, vỏ   ốc, đá cuội, quả  thông khô) là việc làm hết sức cần thiết và bổ  ích cho trẻ mầm non. Ưu điểm: Tổ  chức các tiết hoạt động tạo hình bằng những nguyên liệu tự  mua có màu  sắc hấp dẫn và cũng có những ưu điểm nhất định nên vẫn được nhiều giáo viên   áp dụng trong việc dạy các tiết học tạo hình. Trẻ hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động tạo hình. Giáo viên nhàn hơn và ít nảy sinh ra những tình huống ngoài dự tính của cô. Giáo viên không mất nhiều thời gian tìm nguyên vật liệu để dạy học. Hạn chế:  Về  phía giáo viên:  Khi làm đồ  chơi giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm  sinh lý của trẻ nên đưa ra yêu cầu cao hơn so với trẻ. Phương pháp hướng dẫn còn gò bó, áp đặt chưa phát huy được tính độc lập  sáng tạo ở trẻ.           Khả năng sáng tạo của cô chưa cao. Về  phía trẻ: Trẻ  chỉ  tiếp thu những tri thức của cô mà ko có cơ  hội để  thể  hiện các kỹ  năng, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc tạo ra sản phẩm   trong quá trình học. Một số trẻ chưa thực sự hứng thú với các hoạt động mà cô đưa ra. Các nguyên học liệu sử dụng bị lặp đi lặp lại nhiều lần dẫn đến sản phẩm tạo   hình không phong phú. Từ  thực tế  công tác giảng dạy tôi đã lựa chọn “Giải pháp sáng tạo sử  dụng   nguyên học liệu sẵn có tại địa phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả thông khô)   nhằm phát huy trí tưởng tượng sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ  4 – 5 tuổi   trong hoạt động tạo hình tại lớp 4 tuổi B – Trường mầm non Sơn Ca”  để đăng  ký sáng kiến, giải pháp năm 2020. b. Các bước thực hiện giải pháp:         * Bước 1: Sử  dụng nguyên liệu: vỏ  ngao, vỏ   ốc, đá cuội, quả  thông  khô làm đồ dùng trực quan để gây hứng thú cho trẻ.        Thực tế, đồ chơi cho trẻ có rất nhiều và phong phú nhưng làm thế  nào để  trẻ  có thể  hoạt động say mê với những nguyên học liệu sẵn có quen thuộc tại  
  3. địa phương là một vấn đề  khó. Những yếu tố  bất ngờ  bao giờ  cũng gây được  sự chú ý đặc biệt với trẻ. Vì vậy, giáo viên cần tận dụng thời gian  ở mọi lúc,  mọi nơi trong những hoàn cảnh khác nhau để tạo ra sự bất ngờ đối với trẻ.        Việc lựa chọn nguyên học liệu: vỏ ốc, vỏ ngao, đá cuội, cát, quả thông khô  để gây hứng thú trong hoạt động tạo hình cho trẻ là phù hợp, để làm tốt điều đó   sẽ  góp phần duy trì hứng thú cho trẻ, trước hết tôi cho trẻ  tiếp xúc với các  nguyên học liệu đó qua một số hoạt động đơn giản như: hoạt động ngoài trời,  hoạt động góc, hoạt động tham quan dã ngoại…  ở  những hoạt động này trẻ  được tiếp xúc với vỏ   ốc, vỏ  ngao, đá cuội, quả  thông khô một cách tự  nhiên   nhất, trẻ phần nào sẽ hiểu được đặc điểm của các nguyên học liệu đó. Từ việc  tiếp xúc với các nguyên học liệu đó thông qua một số trò chơi sẽ giúp trẻ hiểu  rõ hơn về tính chất, đặc điểm của nó. Điều này rất quan trọng bởi nếu trẻ đã   hiểu biết về các nguyên học liệu và biết rõ những đặc điểm của nó thì sẽ khơi   gợi trong trẻ những tư duy, trí tưởng tượng phong phú khác nhau trong việc sử  dụng nguyên học liệu trong hoạt động tạo hình. (phụ lục 1­2).        Đây là biện pháp thực sự mang lại hiệu quả trong việc đưa nguyên học liệu   sẵn có tại địa phương vào trong một số hoạt động của trẻ  nhằm gây hứng thú  cho trẻ và phát huy tính tò mò, thích phám phá của trẻ. Giáo viên cần biết vận  dụng khéo léo trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Tất cả đều phải được khai thác   một cách triệt để  trên cơ  sở  hứng thú và xuất phát từ  nhu cầu hoạt động của  trẻ. Có như vậy, trẻ tích cực hưởng ứng và hoạt động mang lại hiệu quả cao . ( phụ lục 3).           * Bước 2:Tạo cơ hội cho trẻ tham gia trải nghiệm và phối hợp cùng   nhau tạo ra các bức tranh, đồ chơi từ các nguyên học liệu: vỏ ốc, vỏ ngao,  đá cuội, cát, quả thông khô.             Từ ý tưởng trên, ngay từ đầu năm học tôi đã luôn chú tâm và tạo mọi cơ  hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động tạo hình trải nghiệm với các nguyên học   liệu địa phương bất cứ  khi nào có thể: Như  trong các hoạt động ngoài trời, tô  luôn dành thời gian và khoảng không gian để cho trẻ chơi các trò chơi giân gian  với các viên sỏi, viên đá cuội như   trò chơi ô ăn quan, trò chơi kim kỉm kìm  kim…. Hoặc trong các hoạt động góc tôi cũng luôn có sẵn các nguyên vật liệu:   vỏ ốc, vỏ ngao, đá cuội, quả thông khô để ở các góc chơi cho trẻ được tiếp xúc  và cùng trẻ  tạo ra các đồ  chơi với nguyên liệu đó. Thậm chí những bức tranh  dùng trong các tiết học để  cho trẻ  quan sát tôi cũng lựa chọn các nguyên liệu   sẵn có để tạo thành và cho trẻ quan sát.             Để minh chứng cho giải pháp trên, trong tháng 11 vừa qua, nhà trường có  tổ  chức “Giải pháp sáng tạo nâng cao chất lượng tổ  chức hoạt động tạo hình  cho trẻ 4­5 tuổi thông qua hoạt động thực hành trải nghiệm hứng tới mục tiêu  giáo dục lấy trẻ  làm trung tâm”, với các gian trải nghiệm khác nhau: “nghệ  thuật đá cuội”, “ quà tặng của biển”   “hương sắc rừng xanh”, riêng   lớp tôi 
  4. 4TB  và lớp 4TC đã cùng nhau tham gia xây dựng 1 gian trải nghiệm với tên gọi   “quà tặng của biển”(phụ lục 4­5­6­7).  Đây là cơ hội hiếm có để trẻ được thỏa sức sáng tạo với các nguyên học liệu   sẵn có tại địa phương. Có thể nói tranh hay đồ  chơi làm bằng: vỏ ốc, vỏ ngao,  đá cuội, quả thông khô là một hình thức khó không chỉ  với trẻ mà ngay cả  với   giáo viên bởi nó đòi hỏi phải có trí tưởng tượng phong phú và khả  năng sáng  tạo. Bản thân tôi cũng không ngừng sưu tầm và sáng tạo với các nguyên học  liệu đó để tạo ra những đồ chơi để cung cấp đến trẻ sản phẩm bắt mắt cho trẻ  quan sát như tạo thành bức tranh đẹp, đa dạng phong phú về hình ảnh, bố cục,   màu sắc… sản phẩm mới lạ trẻ có thể  quan sát các kiểu khác nhau và trẻ  sẽ  cảm thấy thích thú, thích khám phá, tìm tòi (phụ lục 8­9). Tư duy của trẻ là trực quan hình tượng, tất cả những gì trẻ được tận mắt nhìn   thấy sẽ khắc sâu trong trí nhớ của trẻ, từ đó giúp trẻ tưởng tượng và phát huy   được óc sáng tạo. Một thực tế cho thấy nếu muốn tạo ra 1 một bức tranh cảnh thiên nhiên thì trẻ  có thể vẽ hoa, cỏ, cây, nhà…nhưng việc thực hiện bức tranh đó qua các nguyên  liệu: vỏ ốc, vỏ ngao, vỏ quả thông, đá cuội, .. lại rất khó đối với trẻ. Lúc đầu   tôi hướng dẫn cho trẻ lựa chon các loại vỏ ốc, vỏ ngao, đá cuội… sao cho phù   hợp, ví dụ làm hoa thì chọn các loại vỏ  ngao nhỏ, làm hình người thì chọn các  viên đá cuội hình dài và hình trong nhỏ chắp ghép lại thành hình người, hay chi  tiết ngôi nhà thì chọn vỏ tu hài hay điệp điệp… sau khi đã lựa chọn đủ nguyên  liệu thì tôi sẽ  hướng dẫn trẻ  sắp xếp bố cục của 1 bức tranh cho phù hợp và  gắn lên nền tranh và tô màu cho phù hợp để  tạo được một bức tranh theo ý   tưởng của mình (phụ lục 10­11­12). Có được sự  liên tưởng sắp xếp như  vậy mới có được kỹ  năng cần thiết cho  việc tạo hình. Để có được một bức tranh đẹp, điều quan trọng đầu tiên đó là bố  cục tranh. Các chi tiết trong tranh phải được bố  trí sắp xếp hợp lý về  đường  nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt, hình khối… để  tạo lên vẻ  đẹp, hợp với ý  đồ  bài học. Việc dạy trẻ  quan tâm đến bố  cục của tranh quyết định đến kết  quả  của bài, gợi ý giúp trẻ  thể  hiện rõ trọng tâm nội dung của tranh, ngoài ra   biết kết hợp với một vài chi tiết có tính bổ trợ cho nôi dung tranh (phụ lục 13­ 14). Để có một sản phẩm tạo hình phong phú, sáng tạo, trẻ cần phải được bàn bạc,  trao đổi những ý tưởng định thể  hiện trong tranh với bạn bè, với cô. Để  hoạt   động tạo hình của trẻ thành công, thay vì vẽ độc lập mỗi trẻ 1 tranh như trước  đây tôi thường chia trẻ thành những nhóm nhỏ 3­5 trẻ để cùng nhau tạo ra một   bức tranh. Tôi tạo điều kiện cho trẻ được trao đổi với nhau, được lắng nghe ý  kiến của bạn, của cô, được đưa ra những ý kiến của mình, trên cơ sở đó trẻ sẽ  tự  chọn cho mình cách thể  hiện riêng, một phong cách riêng phù hợp với nhu   cầu hứng thú của trẻ (phụ lục 15­16).
  5. Kể  cả  với làm đồ  chơi cũng vậy, tôi sẽ  có những mẫu của cô treo xung quan,  trẻ  có thể  quan sát, tìm tòi và tự  tạo ra 1 sản phẩm đồ  chơi mà trẻ  cảm thấy  thích thú, ví dụ từ những quả thông khô ngoài việc tỉa những cánh nhỏ của quả  thông khô ra để làm tranh hay đồ dùng thì trẻ có thể sử dụng nguyên quả thông  để xếp chồng lên nhau thạo thành 1 khối giống cây thông to sau đó đính những  quả  bông tròn lên xung quanh hoặc sơn màu lên tạo thành tuyết để  thêm phần   sinh động. Đó là 1 cách làm rất đơn giản nhưng lại mang đến một sản phẩm  đẹp mắt tạo lên sự độc đáo mới lạ của việc sử dụng các quả thông mà từ trước  tới nay chưa ai nghĩ ra và áp dụng nó. c. Các điều kiện cần thiết để áp dụng: * Các văn bản chỉ đạo: Căn cứ Nghị định số  13/2012/NĐ­CP, ngày 02/03/2012 của chính phủ  ban hành  Điều lệ sáng kiến; Căn cứ Thông tư số 18/2013/TT­BKHCN, ngày 01/08/2013 của Bộ Khoa học và   Công nghệ hướng dẫn một số  quy định của Điều lệ  sáng kiến được ban hành  theo Nghị định số 13/2012/NĐ­CP, ngày 02/03/2012 của Chính phủ; Căn cứ Thông tư 28/2016/TT­BGDĐT, ngày 30/12/2016 của Bộ Giáo dục và Đào  tạo về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình giáo dục mầm  non ban hành kèm theo Thông tư  17/2009/TT­BGDĐT ngày 25/07/2009 của bộ  trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo. Căn cứ  hướng dẫn số  153/HD­UBND, ngày 01/02/2018 của Uỷ  ban nhân dân  huyện Cát Hải hướng dẫn xét công nhận sáng kiến cấp cơ  sở  trên địa bàn  huyện Cát Hải. Công văn số  924/PGD&ĐT ngày 12/11/2020 thông báo về  việc nộp sáng kiến   cấp cơ sở của ngành giáo dục và đào tạo năm học 2020­2021. * Các điều kiện thực tế tại đơn vị áp dụng sáng kiến ­ Thuận lợi:  Nhà trường đã trang bị đầy đủ cơ sở vật chất và thiết bị dạy học phục vụ cho   công tác giảng dạy của các lớp  Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường và phòng Giáo   dục và Đào tạo huyện Cát Hải  Phụ  huynh luôn tin tưởng và phối hợp cùng cô giáo nhiệt tình trong các hoạt  động chăm sóc giáo dục trẻ. Hạn chế: Về phía giáo viên:  Khi làm đồ chơi giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm sinh   lý của trẻ nên đưa ra yêu cầu cao hơn so với trẻ. Phương pháp hướng dẫn còn gò bó, áp đặt chưa phát huy được tính độc lập sáng   tạo ở trẻ.
  6. Khả năng sáng tạo của cô chưa cao. Về  phía trẻ: Trẻ chỉ tiếp thu những tri thức của cô mà ko có cơ  hội để  thể  hiện   các kỹ năng, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc tạo ra sản phẩm trong quá trình  học. Một số trẻ chưa thực sự hứng thú với các hoạt động mà cô đưa ra. Các nguyên học liệu sử dụng bị lặp đi lặp lại nhiều lần dẫn đến sản phẩm tạo  hình không phong phú. d. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải   pháp đã biết:         Việc tổ  chức cho trẻ  tham gia hoạt động tạo hình sử  dụng nguyên học liệu sẵn  có tại địa phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả thông khô) là một trong những cách để  lôi kéo, thu hút sự hứng thú, kích thích trẻ sáng tạo và phát triển trí tưởng tượng phong  phú. Giáo viên sẽ lựa chọn những nội dung phù hợp có tính kích khả năng sáng tạo của  trẻ để trẻ hứng thú tích cực hơn trong giờ hoạt động tạo hình. Việc sáng tạo sử dụng  nguyên học liệu sẵn có tại địa phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả thông khô) trong  hoạt động tạo hình sẽ nâng cao tính chủ động, trí tưởng tượng và óc sáng tạo cho trẻ,   nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân nhiều hơn, được tự do khám phá theo ý   thích, theo khả  năng của mình giúp trẻ  phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong   cuộc sống, các kiến thức kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung.        Bản thân tôi đã áp dụng hình thức này vào quá trình giảng dạy đã đạt được kết   quả  tốt, việc lựa chọn giải pháp sáng tạo sử  dụng nguyên học liệu sẵn có tại địa  phương (vỏ  ngao, vỏ   ốc, đá cuội, cát, quả  thông khô) trong hoạt động tạo hình ngày  càng phong phú, hấp dẫn, phù hợp với trẻ. Đặc biệt là sản phẩm từ  những đồ  chơi,   tranh... mà trẻ tự tay làm trên đó nó có sự mới lạ giúp trẻ thêm yêu thích môn học tạo   hình. Có thể  khẳng định, đây là những giải pháp, nội dung đề  tài trong lĩnh vực nâng   cao chất lượng thẩm mĩ cho trẻ chưa có đồng nghiệp nào đề  cập đến. Đề  tài đưa ra   giải pháp mới trong quá trình tổ  chức hoạt động tạo hình cho trẻ  4 tuổi đem lại hiệu   quả cao. Phát huy được trí tưởng tượng, sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ trong việc tự  lựa chọn nguyên học liệu cho hoạt động tạo hình, đây chính là sắc thái, nét độc đáo   riêng của lĩnh vực phát triển thẩm mĩ. Đối với trẻ  việc tiếp xúc với nguyên học liệu sẵn có tại địa phương là thường  xuyên nhưng việc sử dụng nó vào trong hoạt động tạo hình thì lại là một sự  mới mẻ  và kích thích sự sáng tạo, óc thẩm thẩm mĩ của trẻ. Các giải pháp của tôi đưa ra mang tính sáng tạo trong việc phát triển thẩm mĩ cho   trẻ. Thực hiện các giải pháp có sự liên kết, đồng bộ nhưng không chồng chéo đã đem  lại hiệu quả cao trong quá trình thực hiện.
  7. e. Chứng minh khả năng áp dụng sáng kiến: Sáng   kiến: “Giải   pháp   sáng   tạo sử   dụng   nguyên   học   liệu   sẵn   có   tại   địa   phương (vỏ ngao, vỏ ốc, đá cuội, quả  thông khô) nhằm phát huy trí tưởng tượng   sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ 4 ­5 tuổi trong hoạt động tạo hình tại lớp 4 tuổi   B – Trường mầm non Sơn Ca”.  Được áp dụng từ tháng 09 năm 2020 đến nay tại lớp 4TB trường mầm non Sơn   Ca, bước đầu đã mang lại được hiệu quả tích cực trong việc phát huy trí tưởng tượng,   sáng tạo và gây hứng thú cho trẻ lớp tôi   trong hoạt động tạo hình, điều đó không chỉ  diễn ra trong 1 hoạt động ngắn mà thường xuyên được áp dụng trong các hoạt động   khác nhau tại lớp nhằm tận dụng được nguyên liệu địa phương sẵn có gần gũi với trẻ  và mang lại cho trẻ  những hứng thú và phát huy sự  sáng tạo cho trẻ  trong lĩnh vực   thẩm mĩ. Ngoài ra còn được áp dụng trong hoạt động vòm tầng và hoạt động ngoài trời của  khối tổ, sau một thời gian cũng phát huy được hiệu quả và mang lại sự hứng thú tích   cực của trẻ  mỗi khi được tham gia hoạt động tạo hình với các nguyên học liệu sẵn.   Hơn thế nữa nó còn có thể  áp dụng với các trường mầm non khác trên địa bàn huyện   vì hầu hết các nguyên học liệu này đều dễ kiếm tìm và trẻ có thể dễ dàng sử dụng. Đối với các đơn vị trên địa bàn huyện có số học sinh và điều kiện cơ sở vật chất   như trường mầm non 3/2, trường mầm non thị trấn Cát Hải, trường mầm non Sao Mai   có thể áp dụng các bước thực hiện giải pháp trên. Tuy nhiên đối với các trường ít học   sinh nên lựa chọn 1 số  hoạt động phù hợp với trường mình như  trường mầm non  Xuân Đám, Hiền Hào, Việt Hải, mầm non Đồng Bài, mầm non Hoàng Châu, mầm non   Văn Phong…  ít học sinh và có lớp dạy  ghép độ tuổi thì việc lựa chọn các hoạt động   phải dựa trên khả năng của từng trẻ và cô cần đưa ra những nội dung từ dễ đến khó,   từ  đơn giản đến nâng cao yêu cầu để  tất cả  trẻ  trong lớp có thể  thực hiện được và   đạt hiệu quả cao. 4.  Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng   kiến theo ý của tác giả: Sáng kiến được áp dụng vào thực tế  từ tháng 9/2020 đến nay, bản thân tôi thấy  sáng kiến không chỉ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình cho trẻ mà còn   phát huy được hết sự sáng tạo của trẻ qua các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương,  từ đó trẻ thấy được giá trị của cuộc sống xung quanh mình và tô điểm thêm cho tư duy  sáng tạo ở trẻ để làm tiền đề phát triển thẩm mĩ, phát triển toàn diện cho trẻ. 5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng   kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể  cacr áp dụng thử: a. Hiệu quả kinh tế:
  8.  Áp dụng sáng kiến không phải tốn kém về  kinh phí, tận dụng nguyên học liệu  sẵn có dễ kiếm tìm tại địa phương. b. Hiệu quả về mặt xã hội: * Đối với giáo viên: Nâng cao nhận thức của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ. Giáo viên chủ động sáng tạo trong lĩnh vực phát triển thẩm mĩ. * Đối với trẻ:   Được hoạt động trong môi trường sinh động với các nguyên học liệu quen thuộc  sẵn có làm cho trẻ hào hứng tích cực tham gia các hoạt động. Tôi nhận thấy trẻ đã rất  thích thú khi tham gia các hoạt động nhằm phát triển thẩm mĩ cho trẻ. Trẻ được thoải mái sáng tạo nghệ thuật trên các loại vỏ ngao, vỏ ốc, quả thông   khô, cát, đá cuội... mà từ trước tới giờ tuy đã tiếp xúc nhiều nhưng trẻ chưa bao giờ sử  dụng để  làm tranh, làm đồ  chơi từ  các nguyên liệu đó, nhờ  vậy giúp cho trẻ  có thêm  những kinh nghiệm, trải nghiệm về thiên nhiên xung quanh trẻ và lĩnh hội thêm được  kĩ năng tạo hình, phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ nhằm khơi gợi niềm đam  mê và sự hứng thú với nghệ thuật tạo hình. * Đối với phụ huynh: Lĩnh hội thêm được kiến thức mà trẻ được học trong trường mầm non Có cơ hội tham gia vào các hoạt động trải nghiệm cùng con. c. Các giá trị khác: Giúp trẻ thích nghi được với mọi điều kiện và hoàn cảnh sống một cách tự nhiên,   góp phần phát triển toàn diện ở trẻ và nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Tôi  xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn  toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.     Cát Hải, ngày  16   tháng  01 năm 2021                       Người nộp đơn                         Trần Thị Anh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2