intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ 18-24 tháng tuổi vui vẻ, mạnh dạn hơn tại Trường Mầm non 8/3 Nha Trang

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:48

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm mầm non được hoàn thành với mục tiêu nhằm rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 18-24 tháng tuổi, nhằm tạo cho trẻ có một thói quen, vui vẻ, mạnh dạn hơn khi đến lớp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ 18-24 tháng tuổi vui vẻ, mạnh dạn hơn tại Trường Mầm non 8/3 Nha Trang

  1.                                                           MỤC LỤC Trang A.  ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2. Mục đích nghiên cứu. 2 3. Đối tượng nghiên cứu. 2 4. Phương pháp nghiên cứu..                                       2 5. Phạm vi nghiên cứu. 3 6. Kế hoạch nghiên cứu. 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 1. Cơ sở lý luận. 3­5 2. Thực trạng. 5­7 3. Các biện pháp thực hiện 7­31 4. Hiệu quả 32 C. KẾT LUẬN 33­34 *Bài học kinh nghiệm 34 * Khả năng phát triển của đề tài 35 * Kiến nghị 35­36 Phụ lục 1 37 Phụ lục 2 38 Bài tập khảo sát 39­41 Tài liệu tham khảo  42 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH CHỨNG 43 1
  2.      A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài a)  Lí do về mặt lý luận  Nề  nếp trong  sinh hoạt hàng ngày  là những hoạt động của trẻ  hàng  ngày như  học tập, vui chơi,  ăn, ngủ, rửa tay, lau mặt…được thường xuyên  diễn ra, trẻ được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần, dưới sự chỉ bảo hướng  dẫn tận tình của người lớn. Trẻ  18­24 tháng tuổi lần đầu tiên đến trường lớp, nên mọi thứ  xung   quanh trẻ đều rất mới lạ, bỡ ngỡ, trẻ dễ bị tổn thương về mặt tâm lý. Chính  vì thế cô giáo là người luôn phải tạo cho trẻ sự gần gũi như là người mẹ thứ  hai của trẻ, lớp học là ngôi nhà hạnh phúc chung mà trẻ cần được sự che chở,  chia sẻ, gần gũi và yêu thương.  Cô giáo luôn linh hoạt mềm dẻo, có sáng tạo và gần gũi trẻ, giúp trẻ có  sự vui vẻ, tự tin, mạnh dạn tham gia vào các hoạt động. Mọi hoạt động hàng  ngày phải được lập di lặp lại nhiều lần mới thành nề  nếp. Tác động của cô  giáo luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ, có những lúc cô  phải quên mình là người lớn để  nhập vai vào thế  giới của trẻ, để  cùng chơi   với trẻ, là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng, đồng cảm tạo không khí thoải   mái, cuốn hút trẻ, hướng dẫn trẻ làm theo yêu cầu của cô một cách tự nhiên,   thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ  hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ  có đầy đủ  điều kiện về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển nhân cách  tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn. Vì vậy nếu chúng ta  biết kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để  chăm sóc, hướng dẫn,   rèn luyện trẻ thì kết quả đạt tốt hơn. b) Lý do về mặt thực tiễn Trong thực tế, với một giáo viên mầm non, nhiều năm được phân công  chăm sóc và giáo dục các cháu ở lứa tuổi nhỏ, là đầu vào của nhà trường. Bản   2
  3. thân tôi  rất tâm huyết với nghề nuôi dạy trẻ. Tôi thấy ở độ tuổi này trẻ còn  rất non nớt, nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh. Vì thế trẻ dễ bị  tổn thương về  tâm lý. Bên cạnh đó  ở  độ  tuổi này trẻ  nắm bắt rất nhanh về  những kiến thức, thế  giới xung quanh. Nhưng những cái rất gần gũi và đơn  giản trong sinh hoạt hàng ngày như: (Nề nếp, thói quen, kỹ năng tự  phục vụ  đơn giản… dường   như  trẻ  ít có). Trẻ   ở  lớp tôi, đa số  được sự  bao bọc,  nuông chiều của ông bà, cha mẹ, chưa tách rời bố mẹ, gia đình... nên khi mới   nhập lớp, nhập trường trẻ  thường có thái độ  sợ  hãi, mọi thứ  đều lạ  lẫm,  tránh né bạn, không chấp nhận sự  giúp đỡ  của các cô giáo, thậm chí còn la  khóc, không ăn, không ngủ, hoặc không tham gia vào mọi hoạt động… có thể  trẻ  dường như  không hoà nhập vào tập thể.  Thậm chí đối với một số  phụ  huynh ít quan tâm và để ý hướng dẫn tận tình cho trẻ, và cho rằng trẻ ở tuổi  này còn rất nhỏ, nên việc rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 18­24  tháng tuổi là chưa thật sự cần thiết.  Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp, vui vẻ, mạnh dạn   và thói quen trong sinh hoạt hàng ngày ngay những ngày đầu, những ngày mà  trẻ  không muốn rời xa mẹ... đến với cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ đây  không phải là vấn đề  trăn trở  của riêng tôi mà là của tất cả các đồng nghiệp  nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu và   mạnh dạn đưa ra đề  tài  “Kinh nghiệm rèn nề  nếp trong sinh hoạt hàng  ngày giúp trẻ 18­24 tháng tuổi vui vẻ, mạnh dạn hơn tại Trường Mầm  non 8/3 Nha Trang”       2. Mục đích nghiên cứu Rèn luyện nề  nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ  18­24 tháng tuổi,  nhằm tạo cho trẻ có một thói quen, vui vẻ, mạnh dạn hơn khi đến lớp.     3. Đối tượng nghiên cứu  Rèn nề nếp cho trẻ 18­24 tháng tuổi thông qua sinh hoạt hàng ngày       4. Phương pháp nghiên cứu  3
  4. ­ Nghiên cứu lý luận: Tài liệu, tạp chí giáo dục, sách bồi dưỡng thường  xuyên để giúp tổng hợp khái quát 1 số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài ­ Quan sát: Quan sát các hoạt động của học sinh, giáo viên, phụ huynh,  từ đó tìm ra 1 số biện pháp tác động phù hợp ­ Thực hành và trò chơi: Cho trẻ  thực hành các bài tập trò chơi do cô  sưu tầm hoặc biên soạn cho phù hợp với các hoạt động rèn nề  nếp cho trẻ  trong sinh hoạt hàng ngày. ­ Trò chuyện, đàm thoại: Trao  đổi kinh nghiệm  đồng nghiệp, tuyên   truyền để  phụ  huynh thấy được tầm quan trọng của việc rèn nề  nếp trong   sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 18­24 tháng tuổi       ­ Thống kê số liệu: Trước tác động và sau tác động            5. Phạm vi nghiên cứu  ­ Trẻ  18­24 tháng  tuổi  tại trường Mầm non 8/3 Nha Trang. 6. Kế hoạch nghiên cứu ­Với đề tài này tôi nghiên cứu trong thời gian 5 tháng (Bắt đầu từ tháng 10/2016   đến hết tháng 3/2017) cụ thể:    ­ Tháng 10/2016: Xác định đề tài, sưu tầm tài liệu, quan sát, khảo sát thực tế.    ­ Tháng 11,12/2016 đến tháng 2/2017: Nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm.  ­ Tháng 3/2017: Viết đề tài.           B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Cơ sở lí luận Giai đoạn trẻ  18­ 24 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình  thành và phát triển nhân cách của trẻ, các mặt phát triển của trẻ  hoà quyện  vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non   nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất   nhanh về mọi mặt. Trẻ rất dễ bị tổn thương về mặt tâm lý.  Bởi thế muốn rèn luyện nề nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày cho  trẻ,   ngay   từ   những  ngày   đầu  trẻ   mới  vào   lớp:   Theo   tâm   lí   học  trẻ   em   ­   4
  5. Nguyễn  Thị  Ánh Tuyết ­ Nhà xuất bản giáo dục:  “Giáo viên mầm non giữ   vai trò rất quan trọng và chủ đạo trong việc tổ chức các hoạt động chăm sóc   giáo dục trẻ em. Là người phát hiện năng khiếu ban đầu, định hướng cho sự   phát triển nhân cách của trẻ, uốn nắn, vun đắp tâm hồn trẻ  em phát triển   lành mạnh” Cô giáo phải làm sao để  trẻ  cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy  mình được chấp nhận, được   an toàn, được yêu mến và là thành viên trong  cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Như sách Tâm lý và giáo dục học trẻ em ­   Nhà xuất bản giáo dục đã viết: “Không có cấp học nào mà giữa người dạy   và người học lại có mỗi quan hệ  chặt chẽ, gắn bó mật thiết như  cấp học   mầm non”. Quan hệ của cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như  quan hệ mẹ con. Vậy hoạt động sư phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải  rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng  những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động lao động sư  phạm của cô giáo  mầm non có định hướng, có mục đích để  giáo dục, phát triển trẻ. Tác động  sư  phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của   trẻ, có cảm tình, có hứng thú. Vì thế  nghệ  thuật chủ  yếu của cô thể  hiện ở  chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là   người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo  cho trẻ  sự  gần  gũi như là người mẹ thứ hai của trẻ, lớp học là ngôi nhà hạnh phúc chung mà   trẻ  cần được sự cởi mở, lôi cuốn, che chở, sẻ  chia, gần gũi và thương yêu.  Như thế mới giúp trẻ mạnh dạn, vui vẻ hơn, nghe theo sự hướng dẫn của cô,  biết vâng lời cô khi đến lớp. Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ  thì có bấy nhiêu sự  khác biệt cá  nhân. Những sự  khác biệt này bao gồm cả  về  thể  chất, năng lực, trí lực, xu   hướng, hứng thú. Và tất cả  các trẻ  đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp  ứng nhu cầu của bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về  bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ  rộng hơn rất nhiều so với   những gì chúng thể  hiện  ở  lớp. Và để  có thể  làm bộc lộ  năng lực tiềm  ẩn  5
  6. này, trẻ  cần có một môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi  lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là   chăm sóc bảo vệ  và kích thích trẻ  trong quá trình sinh trưởng. Nhiều nhà  nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tiên của  cuộc đời. Vì vậy sự  nuôi dưỡng trí lực của trẻ  có thể  bắt đầu ngay sau khi  trẻ  sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự  âu yếm, kiên trì,   hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô giáo. Khi trẻ đến  lớp, mỗi trẻ  là một cơ  thể  duy nhất, do đó trẻ  sẽ  hành động trong một môi   trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm  thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều   này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ  chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống trong   môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ  của  người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo đã có những biện pháp  chỉ  đạo có hiệu quả  tuyên truyền và giáo dục tại các trường Mầm non. Bên   cạnh đó việc dạy cho trẻ  có những thói quen nề  nếp trong sinh hoạt hàng  ngày là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ.   Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt về nề nếp  trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ  phát triển, củng cố  những tố  chất vận  động, sự  khéo léo, tính kiên trì, kỷ  luật... do đó góp phần quan trọng trong   việc hình thành nhân cách mới cho trẻ. Nếu trẻ không được rèn luyện nề nếp   thì trẻ hay nhỏng nhẻo khóc nhè, khó vui vẻ và thích nghi với trường lớp, ảnh  hưởng rất nhiều đến các hoạt động của trẻ, của lớp. Vì vậy cô giáo cần bồi  dưỡng thói quen nề nếp tốt trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ từ nhỏ. Mọi hoạt động hàng ngày phải được lập di lặp lại nhiều lần mới thành  nề nếp. Tác động của cô giáo luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu phát triển  của trẻ, có những lúc cô phải quên mình là người lớn để  nhập vai vào thế  giới của trẻ, để cùng chơi với trẻ, là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng, đồng  6
  7. cảm tạo không khí thoải mái, cuốn hút trẻ, hướng dẫn trẻ làm theo yêu cầu   của cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ hiểu biết nhất định, tạo cho   trẻ  có đầy đủ  điều kiện về  thể  lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát  triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề  cho trẻ  vững vàng và tự  tin hơn. Vì  vậy nếu chúng ta biết kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để chăm   sóc trẻ thì kết quả tốt hơn.  II. Thực trạng  * Thuận lợi  ­ Bản thân tôi đã qua nhiều năm chủ  nhiệm lớp 18 ­ 24 tháng tuổi, tôi   nắm rõ được tâm sinh lý của trẻ   ở  độ  tuổi này. Được sự  quan tâm, giúp đỡ  ủng hộ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn, luôn tạo   điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện thực hiện các hoạt động cho trẻ  ­ Là một giáo viên, tôi luôn tích cực chịu khó, không ngừng học hỏi, bồi  dưỡng về  chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên thăm lớp dự  giờ.Tích cực   tham gia các buổi sinh hoạt đầy đủ, các chuyên đề về đổi mới của ngành học  mầm non, trong đó có chuyên đề  lễ  giáo, chuyên đề  vệ  sinh dinh dưỡng,   hướng dẫn làm đồ dùng đồ chơi…Thường xuyên soạn giáo án, tham khảo tài  liệu về giáo dục mầm non và tham quan các trường bạn   ­ Môi trường lớp học sạch sẽ,   trường tôi nằm giữa trung tâm thành  phố  nên việc cập nhật thông tin nhanh, với những thông tin đổi mới qua các  lớp tập huấn các chuyên đề trong năm học, bên cạnh đó trường đã đạt nhiều  thành tích xuất sắc trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ  suốt nhiều năm  qua. Luôn nhận được sự tin tưởng và quý mến của phụ huynh trong các hoạt  động chăm sóc giáo dục trẻ. * Khó khăn ­ Do đặc điểm sinh lý của lứa tuổi này còn quá nhỏ khả năng giáo tiếp   về ngôn ngữ của trẻ và giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí nhiều trẻ  chưa biết nói và nói chưa rõ… 7
  8. ­ Trẻ  đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà bố  mẹ  yêu  thương chăm sóc. Lần đầu tới trường thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ  xung  quanh trẻ còn lạ lẫm, tránh né bạn, tính rụt rè, nhút nhát…còn ở nhiều ở trẻ.  Đôi lúc không chấp nhận sự  giúp đỡ  của cô giáo mà còn la khóc, không ăn,   không ngủ, không chịu tham gia vào các hoạt động trong ngày… ­ Việc tổ  chức các hoạt động rèn luyện nề  nếp, thông qua hoạt động  trong  ngày tại lớp chưa thực sự đạt hiệu quả cao, trẻ chưa hứng thú tham gia  các hoạt động trong ngày, chưa có sự mạnh dạn, tự tin, và một số kỹ năng tự  phục vụ đơn giản. Trẻ thực hiện nhiệm vụ chưa thực sự hưởng  ứng và xuất  phát từ trẻ, mà chủ yếu là từ người lớn làm và giúp trẻ. ­ Một số  phụ  huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi này trẻ  còn nhỏ việc rèn nề nếp cho trẻ trong sinh hoạt hàng ngày chưa thật sự  cần   thiết.  ­ Qua nhưng thuân l ̃ ̣ ợi va kho khăn đa nêu trên, d ̀ ́ ̃ ựa trên cơ  sở  thực tế  ̉ ̃ ảo sát cháu lớp mình như  sau: ban thân tôi đa kh                                       Bảng khảo sát đầu năm (30 trẻ) ST Số trẻ Tỉ lệ T Nội dung tham gia hoạt động của trẻ 1 Trẻ có thói quen nề nếp chào hỏi 8/30 27% 2 Trẻ có nề nếp giờ ăn, ngủ, vệ sinh 9/30 30% 3 Trẻ có nề nếp thu dọn đồ dùng đồ chơi 7/30 23% 4 Thói quen nề nếp học tập 8/29 27% 5 Trẻ vui vẻ, mạnh dạn đến lớp 14/30 47% III. Các biện pháp tiến hành 8
  9. Biện pháp 1.  Rèn luyện nề  nếp trong sinh hoạt hàng ngày  ở  mọi  lúc mọi nơi giúp trẻ vui vẻ, mạnh dạn hơn  Trẻ  vui vẻ, mạnh dạn hơn khi được rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt  hàng ngày  ở  mọi lúc mọi nơi. Hàng ngày, các trẻ  đến lớp với các nội dung  hoạt động: Giờ đón, trả trẻ, giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập vui chơi,...mọi   sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này,  để  đưa trẻ  vào nề  nếp và có thói quen đâu phải là chuyện dễ  và đơn giản,   không chỉ  là ngày một ngày hai mà cả  một thời gian dài và liên tục. Thực tế  trẻ còn rất bé chưa có ý thức được như các anh chị lớn tuổi, điều này cũng là  thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên, sự  hứng thú ham muốn đến lớp, cô giáo phải thực sự là người mẹ  hiền thứ  hai   của trẻ, phải luôn nhẹ  nhàng, gần gũi, yêu thương trẻ, coi trẻ  như  con của   mình để uốn nắn trẻ. Ngoài ra, thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện...trò  chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, tôi cũng có thể  lồng ghép đưa vào  mọi lúc, mọi nơi phần nào giúp trẻ liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết  vâng lời cô giáo hơn từ đó có thói quen nề nếp tốt hơn. 1.1.  Chơi tập có chủ định Rèn nền nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày để  trẻ  vui vẻ, mạnh  dạn khi đến lớp thông qua giờ chơi ­ tập có chủ định như: Nề nếp thói quen  biết tập trung trước cô, về chỗ ngồi học, di chuyển hình thức ngồi, đứng học   theo yêu cầu của cô, biết chú ý lắng nghe cô nói và trả  lời được những câu  hỏi đơn giản của cô. Bài tập 1: NDTT: NN­NH: “Đi nhà trẻ” NDKH: Trò chơi âm nhạc.  “Chơi với nhạc cụ” * Mục đích:  Trẻ biết về chỗ ngồi và lắng nghe, hưởng ứng khi nghe  cô hát, trả  lời câu hỏi đơn giản của cô, thích nghe nhạc, thích chơi với nhạc   cụ; vui vẻ, thích thú khi đi học. 9
  10. * Chuẩn bị: Đĩa nhạc, đàn ogan,  xắc xô, thanh gõ * Tiến hành: ­ Chơi với nhạc cụ ­ Cô dùng xắc xô tập trung trẻ. Vừa vỗ  vừa hát: “Dung dăng dung dẻ,  dắt trẻ  đi chơi, đi chơi, đi chơi”. Cô cho trẻ  về  chỗ  ngồi. Cô giơ  xắc xô và  hỏi trẻ? + Cô có gì đây? + Xắc xô dùng để làm gì? ­ Cô nói cho trẻ  biết: Xắc xô là một loại nhạc cụ  khi vỗ  phát ra âm  thanh, dùng để vỗ đệm cho nhiều bài hát, để chơi rất là vui ­ Cô cho trẻ lấy xắc xô chơi, cô cho trẻ chơi vỗ mạnh, vỗ nhẹ theo yêu   cầu của cô.  ­ Tương tự  cô xuất hiện thanh gõ và cho trẻ  chơi với thanh gõ. Trong   khi trẻ chơi cô hỏi trẻ đang chơi với nhạc cụ gì? Khuyến khích trẻ gõ theo cô.  Cô nói: Đi nhà trẻ rất vui, được chơi nhiều đồ chơi. Nhạc sĩ Hoàng Kim Định  đã sáng tác bài hát “Đi nhà trẻ”. Các con lắng nghe cô hát nhé * NN­NH: “Đi nhà trẻ” ­ Cô hát lần một cho trẻ nghe, hỏi trẻ:  + Cô vừa hát bài gi? + Tác giả nào? ­ Ngoài xắc xô và thanh gõ cô còn có một loại nhạc cụ nữa cũng đệm  cho nhiều bài hát rất hay. Cô cho trẻ tới đàn ogan, cho trẻ được sờ vào đàn. ­ Lần hai cô vừa đánh đàn vừa hát cho trẻ nghe kết hợp giới thiệu nội   dung và tính chất bài hát. “ Bài hát nói về bé đi  nhà trẻ rất là vui, được chơi   rất nhiều thứ rồi mới về” Bài hát có giai điệu vui nhộn, dễ thương” ­ Cô mở băng đĩa và vận động minh họa cho trẻ xem, cô khuyến khích  trẻ đứng lên nhún nhảy, đung đưa theo nhạc bài hát. 10
  11. ­ Cô giáo dục trẻ: Các con đi học rất là vui, được chơi với bạn và nhiều   đồ  chơi khác nhau, nên các con phải ngoan, biết vâng lời cô giáo, ông bà , ba  mẹ. Như  vậy hoạt động lao động sư  phạm của cô giáo mầm non có định  hướng, có mục đích để  giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư  phạm của cô  giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình,  có hứng thú.  Cô giáo nên cân đối thời gian giao tiếp hằng ngày với trẻ, tìm hiểu tâm   tư, nguyện vọng của trẻ, lắng nghe và thường xuyên góp ý cho trẻ  tiến bộ  không chỉ  trong giờ  hoạt động có chủ  đích. Trẻ  nhỏ  chưa có thới quen ngồi  học, sự tập trung chưa cao, có thể xẩy ra nhiều tình huống không mong muốn   như: “ Cô nói, hát, đọc thơ, kể  chuyện cho trẻ nghe nhưng trẻ chú ý đến sự  vật khác, hoặc cô bảo trẻ  làm cùng cô, thì trẻ  không chịu mà làm theo ý trẻ,  hoặc chạy ra ngoài, có thể trong giờ học nhớ mẹ nhỏng nhẻo khóc nhè, không  chịu hợp tác cùng cô...” Với những tình huống này xẩy ra cô không mắng mỏ,  quát nạt trẻ, tránh dùng những từ  như  “phạt”, “la trẻ”… Bởi vì tính kỉ  luật  xuất phát từ  mong muốn, sự  tự  giác của trẻ. Hãy tập  cho trẻ  từ  từ  có thói  quen, nề nếp học tập, biết về chỗ ngồi học, nói với trẻ rằng cô giáo rất yêu  thương trẻ. Khi trẻ  cư  xử  sai, cô giáo không thích hành động của trẻ  chứ  không phải không thích bản thân trẻ. Đừng để trẻ hiểu lầm rằng, cô giáo luôn   luôn ghét trẻ, không muốn trẻ làm điều này điều nọ mà phải giải thích tường   tận cho trẻ  hiểu.Trong hoạt động chơi tập có chủ  định được tiến hành vào  thời điểm buổi sáng. Cô nên sắp xếp tạo cho trẻ được tham gia chơi, tập có   chủ  định với các nội dung hoạt động khác nhau, các hoạt động phải có nội   dung phát triển phù hợp và gây hứng thú với trẻ, đồ  dùng đồ  chơi đẹp, từ  nhiều nguyên vật liệu để thu hút trẻ tham gia Rèn nền nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ thông qua hoạt   động phát triển vận động thô, vận động tinh: Với những động tác, cách chơi  11
  12. đơn giản đơn giản giúp trẻ  phát triển các nhóm cơ. Tập những bài tập vận  động cơ bản như: “ Đi trong đường hẹp, đi chạy theo tín hiệu, bước qua vật  cản, chơi với bóng, bò chui qua cổng…”  Bài tập 2. Đi chạy theo tín hiệu * Mục đích: Trẻ chú ý lắng nghe cô nói, biết đi chạy theo tín hiệu của  cô, trẻ biết khi đi chạy giữ thăng bằng, biết phối hợp chân tay nhịp nhàng,  không xô đẩy bạn, vui vẻ, tích cực, mạnh dạn tham gia vào hoạt động. * Chuẩn bị: Xắc xô, phòng học thoáng mát * Tiến hành: Cô cho trẻ  nghe âm thanh của xắc xô, hỏi trẻ đoán xem   đó là tiếng của nhạc cụ gì? Cô giới thiệu trẻ  biết trò chơi “Đi, chạy theo tín  hiệu” ­ Cô làm mẫu cho trẻ  xem. Khi nghe xắc xô vỗ  chậm thì đi, khi nghe   xắc xô vỗ nhanh thì chạy. Cô đi, chạy theo tiếng xắc xô vỗ nhanh, vỗ chậm ­ Cô cho một trẻ thực hiện cho các bạn xem lại, sau đó cô luyện tập với  nhiều hình thức tốp, nhóm. Trong khi trẻ  luyện tập cô nhắc trẻ  tthực hiện  đúng động tác đi, chạy, chú ý lắng nghe tín hiệu của cô. Những lần tập sau cô   thay đổi cho trẻ nghe âm thanh trống để thực hiện đi, chạy theo tín hiệu ­ Khi trẻ thực hiện thành thạo cho trẻ chơi thi đua, cô nâng yêu cầu của  trò chơi. Như trong giờ hoạt động “Bé chơi với hoa, quả…” Cô tập cho trẻ  nói  về  màu sắc của hoa, quả, vẻ  đẹp của bông hoa để  thu hút trẻ  vào chơi với  hoa, quả bằng nhiều hình thức: ( Nhặt hoa, quả, xâu hoa, quả, gắn hoa, quả,  xếp hoa, quả…) Bài tập 3. Bé chơi với hoa * Mục đích: + Trẻ biết về chỗ ngồi học và chú ý lắng nghe cô + Biết nhặt hoa, gắn hoa, xâu hoa, xếp hoa + Vui vẻ mạnh dạn tham gia hoạt động 12
  13. * Chuẩn bị: Các loại hoa đủ màu có lỗ, dây xâu, cành cây * Tiến hành: Thu hút trẻ ­ Cô cho trẻ chơi “Gieo hạt” Cô nói và làm các động tác minh minh họa   cho trẻ làm theo. (Gieo hạt, nảy mầm, 1 lá, 2 lá, 1 nụ, 2 nụ, 1 hoa, 2 hoa, gió  thổi, cây đung đưa, gió thổi mạnh, hoa rụng, nhiều hoa…) Cho trẻ nhặt hoa   rụng ­ Cô nói về  màu sắc của những bông hoa, sau đó hướng dẫn trẻ  chia   làm nhiều nhóm chơi, nhóm chơi gắn hoa và cành  lại với nhau để  thành cây  hoa, nhóm chơi xâu hoa, nhóm chơi xếp hình hoa…  Trong mọi hoạt động nào cô cũng đều tham gia chơi cùng trẻ, là người  hướng dẫn, là người bạn học cùng trẻ, tập trẻ  thói quen tập trung nghe cô   nói, làm theo yêu cầu của cô, quen với những thủ thuật sư phạm  của cô.  * Với bài tập 1 khảo sát trẻ đạt và chưa đạt ­ Đạt: Trẻ biết về chỗ ngồi và lắng nghe, hưởng ứng khi nghe cô hát,   trả lời câu hỏi đơn giản của cô, thích nghe nhạc, thích chơi với nhạc cụ; vui   vẻ, thích thú khi đi học. ­ Chưa đạt: Trẻ chưa biết về chỗ ngồi học, chưa tập trung lắng nghe   cô hát, chưa vui vẻ khi đi học 1.2. Hoạt động ngoài trời Hoạt động ngoài trời là một hoạt động không thể  thiếu trong chế  độ  sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Bởi thông qua đó, trẻ  được rèn luyện sự  mạnh   dạn, tự tin, vui vẻ , tăng cường kỹ năng giao tiếp khi tham gia các hoạt động,  vì trẻ được tiếp xúc với nhiều anh chị lớp mẫu giáo, gần gũi với thiên nhiên,  hít thở  bầu không khí trong lành, đồng thời được vui chơi, khám phá, thoả  mãn trí tò mò của trẻ.           Một lợi ích quan trọng của hoạt động ngoài trời là tăng cường kĩ năng  giao tiếp của trẻ. Trẻ sẽ được tiếp xúc, làm quen, trò chuyện, trao đổi với các  13
  14. bạn trong lớp, từ  đó giúp trẻ mạnh dạn, tự  tin hơn trong giao tiếp. Ngoài ra,   trẻ  sẽ  dễ  dàng thích nghi, hòa nhập khi đến các môi trường khác. Đặc biệt   trong giai đoạn bé đi nhà trẻ là giai đoạn phát triển quan trọng trong cuộc đời  của trẻ. Ở giai đoạn này, trẻ hình thành, phát triển giao tiếp xã hội, phát triển  về mặt tư duy, trí tuệ, thể chất và nhiều kĩ năng khác. Nếu không được tham  gia các hoạt động ngoài trời, sẽ   ảnh hưởng không nhỏ  đến tâm lý, tình cảm,  kỹ năng giao tiếp của trẻ, có thể khiến trẻ mất tự tin, thiếu sự linh hoạt, khó  hòa đồng với bạn bè, với mọi người và thế giới xung quanh.           Hoạt động ngoài trời giúp trẻ nhận biết và làm quen với môi trường và  cuộc sống xung quanh…Có thể nói, khi trẻ tham gia các hoạt động ngoài trời,   khi trẻ đùa nghịch, cười nói, chạy nhảy… thực chất là trẻ đang khám phá, học  hỏi và là cơ  hội phát triển tốt nhất những cảm xúc tích cực của mình. Bên  cạnh đó, các hoạt động này giúp trẻ phát triển về mặt thể chất, vận động,  giúp trẻ tiêu hao năng lượng, do đó trẻ  sẽ ăn ngon, ngủ  ngon hơn, việc chạy  nhảy, vui đùa, hít thở không khí trong lành sẽ giúp cho đầu óc thoải mái, sảng  khoái hơn, trẻ sẽ tiếp thu các bài học trong lớp một cách dễ dàng hơn.   Từ những tiêu chí trên, tôi đã lựa chọn cho trẻ được quan sát, tham quan   những đồ  chơi trong sân trường, cây xanh, vườn cổ tích, các phòng làm việc,  lớp học của các anh chị mẫu giáo…Cô tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như:   “ Tìm về  đúng nhà, gà trong vườn rau, bé góp vui…Trò chơi dân gian: Lộn  cầu vồng, Nu na nu nống, Kéo cưa lừa xẻ, Chi chi chành chành, Tập tầm  vông; Dung dăng dung dẻ; Cưỡi ngựa nhong nhong, Tập tầm vông…”  Ở  độ  tuổi này cô giáo thường tham gia chơi cùng trẻ. Giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, hình thức chơi, đặc điểm  của từng trò chơi, có thể  sáng tác lời từng trò chơi để  thu hút trẻ, từ  đó lựa  chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi, cần phân nhóm trẻ  và quan tâm đến từng cá nhân trẻ cá biệt, trẻ còn nhút nhát, không chịu chơi,   14
  15. hay còn sợ  sệt để  động viên khuyến khích trẻ  tham gia hoạt động cùng các  bạn, cùng cô.  Bài tập 4. Tổ chức hoạt động ngoài trời Hoạt động có chủ đích:  Quan sát đồ chơi trong sân trường   * Trò chơi vận động: + Bé góp vui                                                                                             +Tìm về đúng nhà * Muc đich: ̣ ́  Nhằm thay đổi trạng thái cho trẻ, tập trẻ  làm quen với   không khí thiên nhiên, tạo điều kiện để trẻ thỏa mãn nhu cầu vận động, củng  cố mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ tên gọi và công dụng của các loại đồ  chơi  ngoài trời ­ Trẻ biết quan sát các đồ chơi, mạnh dạn tham gia vào các trò chơi vận  động, trò chơi tự do và tạo ra được 1 số sản phẩm đơn giản ­ Trẻ   vui vẻ, mạnh dạn, tich c ́ ực tham gia vao hoat đông, không tranh ̀ ̣ ̣   giành đồ chơi với bạn và biết vâng lời cô giáo * Chuân bi ̉ ̣ ­ Xắc xô, bóng, xôp, chong chóng, xe, thau n ́ ước, các loại vòng, tháp … các bình tưới cây ­ Địa điểm: Sân sạch, thoáng mát để trẻ hoạt động * Tiên hanh ́ ̀ a)  Dặn dò trẻ trước khi ra sân     * Hôm nay ra sân chơi, đầu tiên cô và các con sẽ cùng nhau quan sát một   số đồ chơi trong sân trường, tiếp theo cô sẽ cho các con cùng chơi 2 TCVĐ: + Bé góp vui + Tim vê đung nha ̀ ̀ ́ ̀ ­ Cuối cùng các con sẽ  được chơi tự  do với các đồ  chơi có sẵn trong  sân trường và các đồ  chơi cô đã chuẩn bị. Trong khi chơi các con phải vâng  lời cô, không xô đẩy, tranh giành với bạn nhé  ­ Cô cho trẻ ra sân chơi. 15
  16. b) Tổ chức cho trẻ hoạt động           * Hoạt động có chủ đích ­ Quan sát bàn ghế Cô cùng trẻ quan sát bàn ghế trong sân trường            Cô chỉ vào từng đồ dùng và hỏi trẻ? + Đây là cái gì? + Dùng để làm gì?  Cuối cùng cô khái quát: Đây là cái bàn, ghế, được làm bằng đá cứng,   bàn dùng để sách vở, đồ ăn, đồ chơi...ghế dùng để ngồi rất là thích * Trò chơi vận động   ­  Bé góp vui  +Cach ch ́ ơi: Cô va tre v ̀ ̉ ừa hát vừa làm các động tác minh họa cho lời   bài hát để trẻ làm theo: (Bé góp vui xin vỗ đôi tay, xin vỗ đôi tay ­ vỗ vỗ vỗ.  Bé góp vui xin vỗ đôi chân, xin vỗ đôi chân ­ vỗ vỗ vỗ Bé góp vui xin cười ha   ha, xin cười ha ha – ha ha ha...  )  ̣ +  Luât ch ơi: Nêu tre nao lam minh hoa không đung v ́ ̉ ̀ ̀ ̣ ́ ới lời hát của cô   ̉ ơi laị cho tre ch ­ Tìm về đúng nhà   ­ Cách chơi: Cô ve mô hinh môt ngôi nha, cô va tre cung đi ch ̃ ̀ ̣ ̀ ̀ ̉ ̀ ơi, vưa đi ̀   vưa hat: (Đi ch ̀ ́ ơi đi chơi, nao cac ban  ̀ ́ ̣ ơi! Cung đi ch ̀ ơi nhe, dao quanh sân ́ ̣   trương, tr ̀ ơi tôi rôi vê nha ngu). Cô va tre chay nhanh vê nha gia v ̀ ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ̀ ̉ ̣ ̀ ̀ ̉ ờ ngủ ­ Luật chơi : Nếu hat đên câu, "Tr ́ ́ ơi tôi rôi vê nha ngu" ma tre nao ch ̀ ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ̀ ̉ ̀ ưa   ̣ ̀ ̀ ̉ ̀ ̉ ́ ̉ ơi laị chay vê nha ngu thi tre đo cô cho tre ch * Chơi tự do ­ Cô cho trẻ chơi những đồ chơi có trên sân trường, và giới thiệu thêm 1  số đồ chơi cô đã chuẩn bị sẵn (Bóng, xôp, xe, chong chong, lá, thau n ́ ́ ước, cát  khô, cát ướt, binh t ̀ ươi cây, tháp, vòng...) ́ 16
  17. ­ Trong khi trẻ  chơi cô bao quát và tham gia cùng chơi vơi tr ́ ẻ, gợi ý,   hướng dẫn cho trẻ chơi va t ̀ ạo ra sản phẩm. * Kết thúc ­ Cuối giờ cô tập trung trẻ lại tuyên dương va nh ̀ ận xét * Với bài tập 4 khảo sát trẻ đạt và chưa đạt: ­ Đạt: Trẻ hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động, biết quan  sát các đồ chơi, mạnh dạn tham gia vào các trò chơi vận động, trò chơi tự do  và tạo ra được 1 số  sản phẩm đơn giản. Trẻ    vui vẻ, mạnh dạn, tich c ́ ực   ̣ ̣ tham gia vao hoat đông, không tranh giành đ ̀ ồ chơi với bạn và biết vâng lời cô  giáo. ­ Chưa đạt: Trẻ  còn rụt rè chưa chịu ra sân hoạt động cùng cô và các  bạn, chưa chịu tham gia vào các hoạt động do cô tổ chức  1.3. Hoạt động góc Trẻ Mầm non nói chung và trẻ 18 ­ 24 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ  được hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi bằng học”, học ở  mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề  nếp trong sinh hoạt hàng ngày để trẻ vui vẻ và mạnh dạn hơn thì bản thân tôi   không ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để trang trí lớp, các góc  chơi, làm đồ  dùng, đồ  chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm  bảo tính an toàn, màu sắc rực rỡ  thu hút trẻ, gần gũi với môi trường xung  quanh trẻ, sử  dụng hợp lí, phù hợp với nội dung, với độ  tuổi. Đồ  dùng, đồ  chơi sắp xếp gọn gàng, vừa tầm với trẻ dễ thu hút trẻ vào các hoạt động một  cách thoải mái và vui vẻ.  Trẻ mới đến lớp đang còn khóc vì nhớ bố, mẹ, nhớ người thân...tôi có  thể bế trẻ đến các góc thư viện cho trẻ xem tranh vẽ cảnh cô và các bạn đang  xếp nhà cho búp bê. Để  trẻ  tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi nhớ  nhà  thì tôi có thể  đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình  ảnh và nói với trẻ: “Ôi ! Tranh  đẹp quá, tranh vẽ  về  ai đây? Còn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì?  17
  18. Con thấy các bạn chơi có vui không? Bây giờ, cô và con qua góc xây dựng  cùng chơi xếp nhà cho em búp bê nhé!” Hoặc cô bế  trẻ  tới góc âm nhạc dỗ  trẻ  nín bằng cách cho trẻ  nghe các âm thanh phát ra từ  nhạc cụ, chơi những   dụng cụ âm nhạc như: Gáo dừa, xúc xắc, trống, thanh gõ…Từ việc chú trọng  đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú   hơn, tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh động hơn và hứng   thú hơn. Đây cũng là yếu tố  góp phần quyết định chất lượng và khả  năng   tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn Muốn giờ hoạt động góc trong ngày đem lại hiệu quả cao, giúp trẻ vui  vẻ, tự  tin và hứng thú thì cô giáo hãy cho trẻ  được quyền lựa chọn và chịu   trách nhiệm về sự lựa chọn góc chơi của mình, chứ không phải cô giáo ép trẻ  phải chơi ở góc này, trẻ khác phải chơi ở góc khác. Kỷ luật không phải là trò  chơi tranh giành quyền lực nên không cần đặt ra vấn đề  thắng hay thua. Cô  giáo mong trẻ nghe lời, thực hiện một cách tự giác những kỷ luật đã được đặt  ra, thì cũng cần cho trẻ được nói ra những bất đồng hoặc ý kiến riêng của trẻ.  Kể  cả  khi trẻ gây ra lỗi gì đó, hoặc  đang chơi  ở  góc này chạy tới góc khác  khi thấy bạn chơi một đồ  chơi mới và đẹp. Hãy cho trẻ  cơ  hội giải thích lý  do, việc của cô giáo sau đó là phân tích nhẹ nhàng cho trẻ hiểu để trẻ chấp nhận  mà vẫn vui vẻ. Khi trẻ đã lựa chọn cho mình một góc chơi cô vừa hướng dẫn và chơi với trẻ  Trẻ rất muốn được tự  do hoạt động mà không muốn ai nhắc nhở, nhưng trẻ  chơi theo cách riêng của trẻ, có trẻ hiếu động chơi xong là phá hay không đạt   đến mục đích chơi. Chính vì vậy để trẻ thực hiện các quy định, nguyên tắc là   một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì hướng dẫn thật nhẹ  nhàng, rõ ràng, cụ thể, không nên nóng vội và đặc việt là phải tham gia chơi   cùng trẻ. Ví dụ: Trẻ  đang chơi xếp hàng rào cho vườn rau, nhưng có những trẻ  cứ muốn đưa hàng rào đi chỗ khác không cho bạn xây. Cô nhập vai chơi cùng   18
  19. trẻ, cô nói: “Các bác xây hàng rào xong chưa?, vườn rau muốn được tươi tốt  không bị gà chui vào ăn thì các bác phải xây kín nhé, nếu hở ra là gà chui vào  ăn đấy”. Khi đó trẻ  sẽ  tự  thấy cô nói là đúng và mau chóng xây kín hàng rào  mà không cần suy nghĩ.  Tập và chỉ  cho trẻ  biết được tên gọi từng góc chơi, mỗi góc có đồ  dùng, đồ chơi và cách chơi riêng, từ đó trẻ sẽ tự lựa chọn theo ý thích của trẻ,   cô nên khuyến khích trẻ thay đổi các góc chơi để  tránh sự  nhàm chán, và khi  chơi với bạn không tranh dành đồ  chơi của bạn, không lấy đồ  chơi góc này  bỏ vào góc khác...  Với trẻ  rất muốn được tự  do hoạt động mà không muốn ai nhắc nhở,  nhưng trẻ chơi theo cách riêng của trẻ, có trẻ hiếu động chơi xong là phá hay  không đạt đến mục đích chơi. Chính vì vậy để  trẻ  thực hiện các quy định,   nguyên tắc là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì hướng  dẫn thật nhẹ nhàng, rõ ràng, cụ  thể, không nên nóng vội và đặc biệt là phải  tham gia chơi cùng trẻ. Vậy muốn mọi hoạt động trong ngày đem lại hiệu quả cao, giúp trẻ vui  vẻ, tự tin và hứng thú thì giáo viên hãy cho trẻ được quyền lựa chọn và chịu   trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.  Bài tập 5. Trẻ hoạt động góc ( Bé làm người lớn) * Mục đích: Rèn trẻ sự mạnh dạn lựa chọn góc chơi, Biết làm theo sự  chỉ  dẫn của cô, thể  hiện được vai chơi của mình, vui vẻ  khi chơi với bạn.  Trẻ  biết chơi cùng bạn, không tranh giành đồ  chơi của bạn. Thông qua hoạt   động, trẻ biết được một số công việc khác nhau qua các vai chơi. * Chuẩn bị:  ­ Đồ chơi nấu ăn: lò, nồi, chảo, ấm, rổ, sữa, giường, tủ, bàn ghế… ­ Búp bê các loại ­ Các loại rau, củ, quả ­ Cá, tôm, cua bằng nhựa 19
  20. ­ Các con vật nuôi trong gia đình bằng xốp bitis, bằng giấy * Tiến hành: Cô tiến hành cho trẻ hoạt động sau khi trẻ chọn góc chơi.  Nếu trẻ không tự chọn cô gợi ý và hướng dẫn trẻ. ­ Chơi trò chơi mẹ con, tập làm chị, cô bán hàng ­ Cô gợi ý để trẻ tự chọn vai chơi và tập cho trẻ cách thức chơi. Trong   khi trẻ  chơi cô quan sát, gợi ý mở  rộng nội dung chơi cho trẻ, giúp trẻ  thể  hiện mối quan hệ giữa các vai chơi. Ví dụ: Cô đặt câu hỏi:      + Mẹ đi chợ mua được một số con vật gì? Cô giả vờ tiếng khóc của em búp bê. Em búp bê đã đói và buồn ngủ rồi,  bây giừo cac con hãy cho búp bê uống sữa và ru búp bê ngủ + Con đang làm gì? (Cho búp bê ăn gì) + Cô hướng dẫn cho trẻ bế em búp bê và ru em ngủ, vừa ẩm đung đưa  vừa hát “ à  ơi, à  ơi…). Nếu trẻ  chưa thể hiện được vai chơi thì cô gợi ý  trẻ thể hiện đúng vai chơi của mình. Cô cùng chơi với trẻ 1.4. Giờ đón, trả trẻ  Như chúng ta đã biết: Trẻ ở độ tuổi 18 ­ 24 tháng chưa rời khỏi bàn tay   ấp  ủ  yêu thương của người mẹ... vì thế  trẻ  mang đến trường, đến lớp một  tâm trạng vừa bỡ  ngỡ  lạ  lẫm, vừa lưu luyến nhớ gia đình. Thậm chí có trẻ  còn sợ hãi khóc lóc, la hét, không ăn, không ngủ ... Vì tuổi này trẻ còn rất bé,  rất thích được yêu thương vỗ về và sống nhiều về tình cảm. Vì vậy rất cần  sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô giáo nhất là những ngày đầu trẻ mới nhập lớp,  cô phải làm sao để  trẻ  có thể  cảm nhận sự   ấm áp khi cô  ẫm bế  trẻ, được   nguồn hạnh phúc, được an toàn, được quan tâm và được yêu mến. Có thể coi  là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối  với trẻ  giầu cảm xúc thân thiết, yêu thương như  quan hệ  mẹ  con. Biết tôn  trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở, quên mình là người lớn   để  mình thực sự  là người bạn chơi, đồng hành cùng trẻ  trong suốt thời gian   trẻ ở với cô giáo. Khi trẻ có thói quen, cảm thấy thích thú đi học, cảm tình, có   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2