intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng học tập, đồ chơi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Yên Thọ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

19
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng học tập, đồ chơi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Yên Thọ" nhằm phát hiện thực trạng làm và sử dụng đồ dùng học tập, đồ chơi tại trường Mầm non Yên Thọ; Đề xuất một số biện pháp, kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ Mầm non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng học tập, đồ chơi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Yên Thọ

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN LÀM ĐỒ DÙNG HỌC TẬP, ĐỒ CHƠI NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC, GIÁO DỤC TRẺ TẠI TRƯỜNG MẦM NON YÊN THỌ Người thực hiện: Hà Thị Mai Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Mầm non Yên Thọ SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí THANH HÓA NĂM 2022
  2. Mục lục 1. Mở đầu...............................................................................................................1 1.1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1 1.2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................1 1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................1 1.4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.......................................................................2 2.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................2 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi nghiên cứu đề tài.......................................4 2.2.1. Thuận lợi.....................................................................................................4 2.2.2. Khó khăn.................................................................................................... 4 2.2.3. Kết quả khảo sát (Trước khi áp dụng đề tài)..............................................5 2.3. Các biện pháp thực hiện................................................................................ 5 2.3.1. Tổ chức hội thảo về đồ dùng học tập, đồ chơi và nâng cao kỹ năng làm đồ dùng học tập đồ chơi cho cán bộ giáo viên........................................................... 5 2.3.2. Phát động phong trào làm đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ từ các nguyên, vật liệu dễ kiếm - đồng thời sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm.......................................................................................................................11 2.3.3. Tổ chức hội thi làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương.............................................................................................14 2.3.4. Khai thác tiềm năng sẵn có từ các bậc phụ huynh, các lực lượng xã hội trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu ủng hộ nhà trường..................................... 15 2.3.5. Định hướng kế hoạch, thời gian làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trường và giáo viên..........................................................................................................17 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...........................................................17 3. Kết luận và đề xuất..........................................................................................18 3.1. Kết luận....................................................................................................... 18 3.2. Kiến nghị.....................................................................................................19 Tài liệu tham khảo...............................................................................................20 DANH MỤC......................................................................................................... 1
  3. 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta, đã nói “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, đất nước có giàu mạnh, phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy, phải chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt ngay từ khi trẻ còn ở độ tuổi mầm non. Người giáo viên mầm non ngoài việc hướng dẫn trẻ vui chơi, cho ăn, cho ngủ, giáo dục trẻ trở thành những đứa trẻ lễ phép ngoan ngoãn thôi chưa đủ, mà nhiệm vụ của người giáo viên mầm non còn phải trang bị cho trẻ những kiến thức ban đầu thông qua các hoạt động học như (làm quen với tạo hình, làm quen với văn học, chữ cái, thể dục, âm nhạc, làm quen với toán sơ đẳng, đặc biệt là khám phá khoa học và xã hội thông qua các hoạt động học trẻ được học mà chơi, chơi mà học). Từ đó hình thành nên nhân cách trẻ giúp trẻ tiếp cận với những kiến thức từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, thông qua trò chơi giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về mọi mặt như: Đức, trí, lao, thể, mỹ. Giúp trẻ có một hành trang vững vàng, một tâm thế tự tin và tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ như thế nào để trẻ lĩnh hội các kiến thức một cách đơn giản hiệu quả nhất. Đối với trẻ mầm non chơi là hoạt động chủ đạo: “Chơi bằng học, học mà chơi”. Trẻ học lĩnh hội tri thức thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng trong cuộc sống hàng ngày. Căn cứ vào đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mầm non là tư duy trực quan nên việc tổ chức các hoạt động giúp trẻ “Chơi bằng học, học mà chơi” Trường mầm non Yên Thọ luôn được gắn với các sự vật - hiện tượng ở xung quanh trẻ. Việc sử dụng các đồ dùng trực quan một cách hợp lý, sáng tạo sẽ tạo điều kiện cho trẻ hoạt động, khám phá bằng nhiều giác quan, từ đó kích thích trẻ quan sát, suy nghĩ, suy luận, nêu ý kiến, đưa câu hỏi giúp trẻ phát huy tính độc lập, hành động tích cực và tự giải quyết vấn đề qua đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện hơn. Chính vì vậy để phát huy năng lực sẵn có của mỗi người và sự tư duy nhận thức của trẻ, tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng học tập, đồ chơi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Yên Thọ” với mong muốn góp sức nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Phát hiện thực trạng làm và sử dụng đồ dùng học tập, đồ chơi tại trường Mầm non Yên Thọ. - Đề xuất một số biện pháp, kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ Mầm non 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Các biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ Mầm non.
  4. 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn, các công văn chỉ đạo của ngành về cách làm đồ chơi, đồ dùng học tập cho trẻ Mầm non; Nghiên cứu các tài liệu bồi dưỡng giáo viên mầm non theo chu kỳ BDTX; Tạp chí giáo dục ..v.v.. + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Thông qua việc quan sát, trò chuyện, sử dụng phiếu điều tra an-ket + Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sử dụng một số công thức toán thống kê để xử lý số liệu kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học Điều tra khảo sát thực tế: Dự giờ, quan sát, ghi chép việc sử dụng đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ thông qua các hoạt động học, vui chơi. Nhằm tìm hiểu những biểu hiện hứng thú của trẻ với đồ dùng học tâp, đồ chơi tự tạo. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận Trước tình hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp Thủ tướng Chính phủ đã kêu gọi các Bộ, Ban ngành cùng toàn dân nêu cao ý thức, tinh thần trách nhiệm cộng đồng về công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19. Nhận định được tầm quan trọng của công tác phòng chống dịch bệnh cho trẻ trong các nhà trường trước vô vàn những nguy cơ, cùng với sự diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, rất dễ lây lan cho mọi đối tượng và không phân biệt độ tuổi. Thời gian nghỉ học của trẻ kéo dài, bố mẹ trẻ hàng ngày vẫn đi làm, nhiều gia đình không có người trông con đã phải gửi con cho ông bà. Với trẻ mầm non khi ở nhà không phải gia đình nào cũng thiết kế được không gian chơi và tổ chức các trò chơi để trẻ học thông qua chơi. Không để trẻ quên được kiến thức và các kỹ năng khi trẻ được học ở trường các tôi đã chỉ đạo giáo viên hướng dẫn trẻ học thông qua chơi trong mùa dịch. Thực hiện tốt các nội dung hướng dẫn tại các công văn của sở giáo dục và đào tạo: Số 2167/SGDĐT-VP ngày14/8/2021; Số2178/SGDĐT-VP ngày 17/8/2021 và Số 2285/SGDĐT-VP ngày 25/8/2021 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa…) bảo đảm an toàn cho học sinh, giáo viên, hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn của ngành. Việc “Phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ”, “Hướng dẫn tổ chức các hoạt động hỗ trợ trẻ mẫu giáo 5 tuổi trong giai đoạn chuyển tiếp từ mầm non lên tiểu học. Trường Mầm non Yên Thọ đã có nhiều giải pháp như: Chỉ đạo giáo viên sử dụng công nghệ thông tin cài đặt các nhóm zalo, facebook của riêng lớp mình, mọi thông tin kết nối với phụ huynh đồng hành cách dạy trẻ, củng cố kiến thức và kỹ năng cho trẻ. Sau khi xây dựng song giáo viên đăng tải những Video, bài giảng các hoạt động như: hoạt động Làm quen với Toán, Làm quen Chữ viết, Tạo hình, Văn học, Âm nhạc, Khám phá khoa học…, cách làm đồ dùng dạy học, đồ chơi để dạy trẻ. Đặc biệt là phối hợp tốt với cha mẹ trẻ khi trẻ nghỉ học chăm sóc tại gia đình an toàn, hướng dẫn và trao đổi với phụ huynh về thời gian học, chơi, ăn, ngủ, theo đúng chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ mầm non, cùng với phụ huynh hướng dẫn trẻ tham gia bài học cùng cô qua nhiều kênh thông tin như hệ thống tin mạng Zalo, trên truyền hình kênh VTV7, Chương trình Tầm Vóc
  5. 3 Việt trên VTV1, hướng dẫn các trò chơi và nhiều hình thức khác nhau để dạy trẻ. Ngoài ra, để tạo cho trẻ niềm vui, thích thú cho trẻ như khi ở trường , ở nhà tôi đã chỉ đạo và cùng giáo viên xây dưng và quay video những hoạt động học, trò chơi và đặc biệt là tận dụng các nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương để tạo ra các đồ dùng trang trí lớp, đồ dùng dạy học, đồ chơi trong thời gian trẻ nghỉ dịch không đến trường và phối kết hợp, tương tác cùng phụ huynh để dạy khi trẻ không đến trường. giáo viên đã quay video làm đồ dùng những hoạt động này giúp trẻ có thể làm ở nhà dưới sự giúp đỡ của phụ huynh như: Hướng dẫn trẻ làm ô tô, con vịt, con gà, con trâu… Qua đó giúp trẻ vừa có kỹ năng làm đồ dùng, đồ chơi cũng như trẻ được ôn lại kiến thức đã học khi trẻ ở nhà. Và theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì não bộ của con người chỉ phát triển trong giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi (tức là trong giai đoạn ở trường Mầm non) thời gian con lại chỉ là hoàn thiện thêm. Bởi lẽ đó như chúng ta đã biết trong trường Mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo, là “cuộc sống” của trẻ lứa tuổi Mầm non, và đồ chơi là người bạn đồng hành thân thiết của trẻ, đem lại niềm vui cho trẻ và là khởi nguồn của những cảm xúc - tình cảm tích cực của trẻ và việc sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ là hết sức cần thiết với phương châm “Học bằng chơi, chơi mà học” vì đồ dùng học tập, đồ chơi giúp trẻ mở rộng và hiểu biết về thế giới xung quanh. Ngoài ra đồ dùng học tập, đồ chơi còn góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ, khả năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Đồ dùng học tập, đồ chơi cùng với trò chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu được đối với cuộc sống của trẻ. Đồ dùng học tập, đồ chơi là phương tiện để trẻ hoạt động vui chơi mà hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Ngoài đồ dùng học tập ra thì đồ chơi vốn là thứ trẻ yêu thích nhất, không có đồ chơi trẻ không có phương tiện, môi trường để hoạt động và thực hiện các trò chơi cách thức chơi với đồ chơi mà trẻ yêu thích được thay đổi theo sự phát triển và hiểu biết của trẻ thì chính đồ chơi đó lại trở thành đồ dùng học tập của trẻ, giúp trẻ có nhiều cơ hội trải nghiệm và lĩnh hội các kiến thức, thông qua đồ chơi được sử dụng trong các trò chơi. Vì vậy càng có nhiều đồ chơi thì trẻ càng có cơ hội học tập và tích lũy kiến thức theo các cách khác nhau. Và trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế phát triển, đồ chơi cho trẻ cũng rất phong phú, hiện đại. Trong số đó, có những loại đồ chơi bổ ích, nhưng cũng không ít đồ chơi còn mang tính bạo lực, phi giáo dục, độc hại đối với trẻ em. Tôi còn nhớ, tuổi ấu thơ, ai trong chúng ta cũng một lần trải qua cái thời chơi đồ hàng bằng lá cây, bằng dây cuốn của các loại cây leo, bằng rơm rạ. Lấy đất để nặn thành nồi, chảo, bát… lấy rơm hoặc dây len cuốn lại thành hình búp bê…Bất luận trong hoàn cảnh nào đồ chơi ra đời sẽ phát triển trí tuệ cho trẻ, đồ chơi phong phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích được tính tò mò ham hiểu biết cùng khám phá của trẻ bấy nhiêu. Thực tế trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, có rất nhiều sản phẩm bị loại bỏ sau khi sử dụng, chẳng hạn như vỏ chai dầu gội, sữa tắm, lon bia, vỏ hộp sữa…đó là nguồn vật liệu rất phong phú và đa dạng để chúng ta tận dụng nó tạo ra nhiều sản phẩm, tạo ra nguồn đồ chơi cho trẻ. Những nguồn vật liệu sẵn có ở
  6. 4 địa phương nơi trẻ sinh sống giúp trẻ tạo ra đồ chơi mang tính đặc trưng của vùng miền, vừa giúp trẻ giữ gìn nét đẹp của quê hương trẻ, từ đó góp phần hình thành phát triển trí tuệ và tình cảm cho trẻ. Đây cũng là hình thức dạy học cho trẻ biết yêu quý sức lao động ngay từ khi còn bé. Từ nhận thức trên, tôi thiết nghĩ việc trang bị các kiến thức và nâng cao kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho giáo viên mầm non trong nhà trường việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Vì làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo là một hoạt động mang tính sáng tạo và độc đáo. Sáng tạo và độc đáo ở chỗ cùng một nguyên vật liệu mỗi người lại có ý tưởng riêng, cách thức riêng để tạo ra sản phẩm theo phong cách của mình. Chính vì vậy để phát huy năng lực sẵn có của mỗi người và sự tư duy nhận thức của trẻ, tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng học tập, đồ chơi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non Yên Thọ” với mong muốn góp sức nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ tại trường mầm non Yên Thọ. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi nghiên cứu đề tài 2.2.1. Thuận lợi Trường Mầm non Yên Thọ có đội ngũ giáo viên nhiệt tình, chịu khó, có tâm huyết với nghề, có năng lực chuyên môn. Ngay từ đầu năm học, phòng giáo dục và đào tạo huyện Như Thanh đã triển khai kế hoạch nhiệm vụ năm học 2021-2022. Trường Mầm non Yên Thọ căn cứ vào kế hoạch nhiệm vụ của phòng đã triển khai tới toàn thể cán bộ giáo viên để giáo viên nắm bắt và có một tâm thế sẵn sàng chuẩn bị những nguyên, vật liệu để làm đồ dùng học tập, đồ chơi. Hằng năm phòng giáo dục và đào tạo mở lớp chuyên đề làm đồ dùng học tập từ những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương. Từ những thuận lợi trên nhà trường đã áp dụng triển khai chỉ đạo cán bộ giáo viên thực hiện. 2.2.2. Khó khăn Vì đặc thù riêng của ngành học mầm non, giáo viên phải đứng lớp cả ngày, thời gian dành cho việc tìm kiếm và làm đồ dùng học tập, đồ chơi còn ít, phần lớn chỉ trong thời gian hè, ngày nghỉ và tranh thủ thời gian còn lại. Số cán bộ giáo viên hiểu cách làm, biết cách vận dụng và khả năng sáng tạo còn hạn chế, mới chỉ tập trung ở các giáo viên trẻ, khéo tay và có năng khiếu làm đồ dùng học tập, đồ chơi. Một số giáo viên chưa phát huy hết tác dụng của những đồ dùng học tập, đồ chơi đã có. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo và động viên các giáo viên ở các nhóm lớp tự làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các nguyên, vật liệu sẵn có nhưng để đáp ứng được với yêu cầu thì phần nào đó còn hạn chế. Từ những thực trạng nêu trên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát về tình hình đồ dùng, đồ chơi của trường mình.
  7. 5 2.2.3. Kết quả khảo sát (Trước khi áp dụng đề tài) Bảng khảo sát đầu năm học 2021-2022 Mức độ Tổng Đạt Chưa đạt TT Nội dung yêu cầu yêu cầu số Số Số % % lượng lượng Số lớp có đủ đồ dùng học tập, 1 21 12 57,1% 9 42,9% đồ chơi ở mức độ tối thiểu Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ 2 chơi tự làm đảm bảo yêu cầu 21 12 57,1% 9 42,9% chất lượng, phong phú, hấp dẫn. Số CBGV có ý thức sưu tầm 3 nguyên vật liệu để làm đồ dùng 35 20 57,1% 15 42,9% học tập, đồ chơi. Số CBGV biết cách làm và vận 4 35 19 54,3% 16 45,7% dụng sáng tạo. Số CBGV sử dụng có hiệu quả 5 35 20 57,1% 15 42,9% đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm. Xuất phát từ thực tế trên, làm thế nào để khơi dậy niềm đam mê hứng thú với đồ chơi và cách làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ tới cán bộ, giáo viên. Qua đó nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ nguyên vật liệu tận dụng, sẵn có của địa phương để giảm bớt chi phí mua đồ dùng học tập, đồ chơi có sẵn, đắt tiền mà nhiều khi không phù hợp với lứa tuổi, làm thế nào để khi có đồ dùng học tập, đồ chơi đẹp, hấp dẫn: Sẽ lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia học tập khi có đồ chơi phong phú “bắt mắt”: trẻ sẽ nghĩ ngay đến trò chơi với đồ chơi đó. Tôi đã lựa chọn một số biện pháp và đem lại hiệu quả khả quan. 2.3. Các biện pháp thực hiện 2.3.1. Tổ chức hội thảo về đồ dùng học tập, đồ chơi và nâng cao kỹ năng làm đồ dùng học tập đồ chơi cho cán bộ giáo viên Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho cán bộ giáo viên có rất nhiều hình thức, mỗi hình thức đều mang lại hiệu quả riêng nhưng theo tôi tổ chức hội thảo không những mang lại hiệu quả cao về chuyên môn mà còn là hình thức bồi dưỡng về năng lực giao tiếp, kỹ năng ứng xử, đặc biệt là năng khiếu cá nhân, được thảo luận đưa ra ý kiến riêng của mình trên cơ sở đó học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Để tổ chức buổi hội thảo được tốt tôi đã cùng Ban giám hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch hội thảo để thống nhất nội dung, thời gian và hình thức thực hiện. * Mục đích của hội thảo Tận dụng những nguyên, vật liệu dễ kiếm, dễ tìm để làm đồ dùng học tập, đồ chơi sử dụng trong học tập và trong các trò chơi cho trẻ.
  8. 6 Phát huy óc sáng tạo, kỹ năng làm, rèn luyện tính kiên trì, khả năng khéo léo của đôi bàn tay cho cô và trẻ. * Nội dung của hội thảo Tôi định hướng 2 vấn đề cơ bản - Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm đã làm đồ dùng học tập đồ chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương ở mỗi lớp, mỗi cá nhân giáo viên. - Giúp nhau thực hành làm các đồ dùng học tập, đồ chơi theo ý tưởng riêng và cách làm của mỗi người. * Hình thức của hội thảo Để tất cả cán bộ giáo viên được tham gia, phát huy hết khả năng vốn có của mình và thực hiện theo hình thức: Bước 1: Chia thành 2 tổ (Tổ nhà trẻ - mẫu giáo 3 tuổi và Tổ mẫu giáo) mỗi tổ có 1 tổ trưởng. - Tổ nhà trẻ - 3 tuổi do cô : Trương Thị Nga - Tổ trưởng - Tổ mẫu giáo do cô: Lê Thị Thùy - Tổ trưởng Tổ Mẫu giáo: Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi tạo thành những chậu hoa ,con vật thép giấy dạ nhồi bông.... Tổ Nhà trẻ - 3 tuổi: Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ bìa cát tông ,hộp sữa ,que kem ..... Mời tổ trưởng lên trình bày ý kiến, các tổ khác thảo luận, góp ý, bổ sung. Bước 2: Giúp nhau thực hành làm các đồ chơi, đồ dùng học tập theo ý tưởng và cách làm của mỗi tổ, mỗi người. Để thực hiện tốt bước này tôi chỉ đạo các tổ sưu tầm nguyên vật liệu ở địa phương (Các loại vải màu, chai nhựa, giấy, bìa các loại, que kem, các khối gỗ, hộp sữa chua ,thìa sữa chua ..). Trên cơ sở thảo luận sôi nổi, nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm, tạo không khí thoải mái, tin cậy lẫn nhau, hướng dẫn nhau về cách làm, qui trình làm và kỹ thuật làm. Tổ Nhà trẻ: Kinh nghiệm làm đồ chơi từ que kem, bìa cứng, hộp sữa su su, giấy dạ, bông ... Bộ đồ dùng, đồ chơi làm bằng giấy sốp, hộp bánh, que kem, đĩa nhạc, can dầu - Ví dụ: vỏ hộp bánh làm thành những chiếc xe buýt, đoàn tàu…. - Hộp bánh bọc giấy đề can tạo thành những chiếc bánh trưng, những can dầu rửa bát tạo thành những chiếc thuyền cho trẻ nhà trẻ chơi.
  9. 7 - Những que kem cùng với những chiếc đĩa nhạc tạo thành những chiếc xe đạp, những hộp sữa su su cùng với giấy sốp tạo thành củ cải trắng, những mảnh giấy dạ và bông tạo thành các loại quả như xoài, mướp, dâu tây, cà rốt và những chiếc bánh gối. Tổ mẫu giáo: Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi tạo thành những can dầu rữa bát, những miếng sốp,ống nước nhựa,lon nước ngọt. Ví dụ: Đưa ra kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các loại ống nước, can nước rửa bát, sốp, hộp bánh... Làm thành các loại bánh trưng, giò, thuyền, bàn là, đèn ngủ ... + Bên cạnh đó những sợi dây tròn, dây dẹt được đan để tạo thành bộ cốc chén, các miếng sốp hình chữ nhật, hình vuông, tạo thành bộ bàn ghế, từ những lon nước ngọt tạo nên những chiếc ấm pha trà rất ngộ nghĩnh (làm đồ dùng học khám phá khoa học: Một số đồ dùng trong gia đình, nhằm ôn lại những kiến thức mà trẻ đã được học phục vụ một số nội dung trong cuộc vận động “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. - Làm nhiều đồ dùng phục vụ hoạt động có chủ đích như: + Hoạt động âm nhạc: Tận dụng những vỏ hộp thạch làm thành những chiếc xắc xô, hay những hộp bánh to, nhỏ các loại chất liệu bằng tôn, sắt, hộp đựng chè để làm nên những chiếc trống tròn, trống cơm, những chiếc vợt muỗi hỏng làm thành chiếc đàn, đạo cụ như cánh Ong, cánh Bướm làm bằng giấy li nông cũ, giấy bóng kính… cho trẻ biểu diễn trong tiết tổng hợp… + Hoạt động làm quen với toán, làm quen với chữ viết: Có thể tận dụng những vỏ lon bia, vỏ hộp sữa bột, cốc nhựa cũ, bóng nhựa, xốp màu, gai dính, dây điện… để làm nên đồ dùng mang tên “Sâu con học chữ, học toán”. (sử dụng vào chủ đề Động vật).
  10. 8 + Hoạt động tạo hình, làm quen với văn học…: Từ những miếng xốp ép, vỏ lọ hồ dán đã hết, đĩa CD hỏng, bát, đĩa nhựa, xốp ép, vải vụn, len, làm con Thỏ, Rối, vỏ chai, làm con cá, vỏ vỏ sò, vỏ nghêu làm con gà, con vịt,...Những phế liệu này Cô và trẻ sử dụng “Làm những con vật” Hoạt động tạo hình, LQV Toán, Hoạt động góc, và sử dụng những con vật này làm các nhân vật truyện trong Hoạt động LQ Văn học, Hoạt động NB phân biệt, NB tập nói: con Gà trống- con vịt... + Hoạt động khám phá, PT thể chất: Tận dụng xốp ép, xốp màu, bột màu, thùng cát tông to, lõi vệ sinh, chai, can, nhựa cũ hộp sữa,…để tạo thành “Mô hình động vật sống trong rừng” sống dưới mước…có nhiều nấm, cà rốt hay những con voi, hươu được tạo bằng giấy, thùng cát tông, …cho trẻ tìm hiểu, khám phá, chơi trò chơi…
  11. 9 Các ĐDĐC phục vụ Hoạt động vui chơi, Hoạt động góc: + Góc Bé làm họa sỹ: Tôi chỉ đạo giáo viên cho trẻ sử dụng các lon bia, hộp giấy các loại gắn lại với nhau tạo thành ô tô, tàu hoả, dây điện cũ uốn làm xe đạp, thuyền buồm từ hộp giấy ăn và xốp màu, hộp bia, xốp màu thành máy bay để phục vụ chủ đề giao thông. + Góc Bé tập làm nội trợ: Các loại bánh, nem rán, củ cà rốt : Được làm từ miếng xốp ép, đĩa, cốc nhựa dùng1lần, giấy bóng, xốp màu, tre gọt làm thành những đôi đũa.…
  12. 10 + Góc Bán hàng: Các loại can rửa bát, hộp sữa chua, dầu ủ tóc, các loại chai nước ngọt, lon bia…làm nên những bộ đồ dùng gia đình cho trẻ chơi như ấm chén, phích nước, làn giỏ, bàn ghế… + Góc Bác sỹ: Tủ thuốc nhỏ được làm bằng những hộp bánh các loại, vỏ, hộp thuốc đã sử dụng hết được vệ sinh sạch sẽ, an toàn cho trẻ chơi. - Bên cạnh đó tôi còn chỉ đạo giáo viên cần quan tâm đến môi trường trong và ngoài lớp học, trang trí phù hợp, tạo góc mở khoa học và sáng tạo theo từng chủ đề bằng những nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu. Để môi trường lớp học phong phú, sáng tạo giúp trẻ hoạt động tốt thì đòi hỏi cô giáo phải có sự quan sát tinh tế, chịu khó nghiên cứu, học hỏi và tìm ra những chất liệu phù hợp với những hình ảnh, đồ vật, con vật…phù hợp với chủ đề. + Tạo các góc mở: Như góc toán, góc LQ chữ viết, bé chơi với hình và màu… tôi chỉ đạo giáo viên tận dụng những tờ lịch, tranh ảnh cũ…để trang trí và làm đồ dùng cho trẻ hoạt động ở góc. - Đồ dùng, đồ chơi trang trí: Những vật liệu phế thải như giỏ cắm hoa, xốp biển, giấy bọc hoa, dây đồng, chai nước ngọt cô ca, xốp màu, keo nến…làm nên những lọ hoa rất đep, dùng để trang trí lớp hoặc các hoạt động khác.
  13. 11 Ngoài ra, tôi còn phát huy tính sáng tạo, chịu khó của giáo viên để làm rất nhiều các đồ dùng đồ chơi khác phục vụ cho các hoạt động của trẻ như làm các bộ trang phục, dép, mũ….để trẻ hoạt động biểu diễn thời trang và biểu diễn văn nghệ của lớp, của trường trông rất đẹp và hấp dẫn. Kết quả như sau Về nhận thức: Tất cả mọi người đều phấn khởi và khẳng định sau hội thảo họ học tập được nhiều điều bổ ích về cách làm đồ dùng học tập, đồ chơi để dạy trẻ. Về số lượng: Nhiều hơn, đủ cho các hoạt động học và chơi của trẻ. Về chất lượng sản phẩm: Chất lượng đảm bảo, bền, đẹp, có giá trị sử dụng, hình thức phong phú với nhiều thể loại khác nhau 2.3.2. Phát động phong trào làm đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ từ các nguyên, vật liệu dễ kiếm - đồng thời sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm Chỉ đạo các lớp phát động phong trào làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo theo từng đợt để lấy thành tích chào mừng các ngày lễ lớn. Đợt 1: tổ chức vào chiều ngày 19/ 11. Nhằm phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng ngày 20/11. Đợt 2: Tổ chức vào sáng thứ bảy ngày 26/3. Nhằm kỷ niệm ngày 26/3. Giáo viên khi tham gia hội thi cần thuyết minh về sản phẩm của mình theo yêu cầu như: nguyên liêu, chất liệu, cách làm, cách sử dụng, hiệu quả sử dụng, giá thành của sản phẩm đó.
  14. 12 Để hội thi thật sự có ý nghĩa và có kết quả tốt, nhà trường mời BCH phụ huynh của trường và BCH phụ huynh của nhóm, lớp đến dự và cổ vũ cho phong trào làm ĐDĐC của nhà trường. Đồng thời có những phần quà nhỏ để thưởng cho các Cô. Sau mỗi đợt thi, nhà trường đều có tổng kết, đánh giá, động viên khen thưởng cho những giáo viên có những ĐDĐC đạt giải, góp ý những giáo viên chưa có nhiều sự cố gắng. Sau một năm thực hiện đề tài, tôi đã thu được một số kết quả sau: * Giáo viên: - 100% giáo viên trong trường đã hưởng ứng cao với phong trào làm đồ dùng đồ chơi do tôi phát động, số lượng ĐDĐC trong toàn trường tăng lên rõ rệt. - Trong năm học, toàn trường đã làm được 85 thể loại ĐDĐC phục vụ cho hoạt động của các chủ đề. Với số lượng là khoảng 1.200 ĐDĐC các loại. Tiết kiệm được khoảng 8.000.000 (Tám triệu đồng ) so với đồ dùng đồ chơi mua sẵn. - 100% các nhóm lớp trang trí lớp phong phú, nổi bật các chủ đề. Đồ dùng đồ chơi phong phú hấp dẫn trẻ. Những đồ dùng này kích thích trí tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ. Trẻ có ý thức trân trọng, giữ gìn đồ chơi trong lớp hơn. - Chất lượng các hoạt động của giáo viên và của trẻ cao hơn so với đầu năm học - Đặc biệt là hoạt động tạo sản phẩm của trẻ. - Qua đợt thanh tra toàn diện, nhà trường được phòng GD đánh giá cao về sự lỗ lực phấn đấu, môi trường lớp học phong phú, có nhiều đồ dùng, đồ chơi tự làm .Chất lượng chuyên môn của nhà trường ngày càng được nâng cao. - Phụ huynh ủng hộ nhiệt tình, cung cấp nhiều nguyên vật liệu, phế liệu để làm đồ học tập, đồ chơi. Cuối tháng 3 tôi khảo sát lại đồ dùng đồ chơi trong toàn trường, kết quả như sau: Một phần giúp cho cán bộ giáo viên củng cố cách làm, qui trình làm, mặt khác quan trọng hơn cả là họ tạo ra được nhiều sản phẩm cho các cháu học tập, vui chơi. Sau mỗi đợt nhà trường tổng hợp số lượng làm, chất lượng đồ dùng
  15. 13 học tập, đồ chơi, báo cáo kết quả về Ban giám hiệu nhà trường. Để động viên và khuyến khích tinh thần làm tôi gắn kết quả làm đồ chơi tự tạo vào tiêu chí thi đua hàng năm để các lớp và giáo viên phấn đấu. Cũng từ đó các lớp xuất hiện rất nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi đẹp, hấp dẫn, có giá trị sử dụng. Nhiều đồ chơi còn sáng tạo hơn ban đầu Ví dụ: Một số loại cây và hoa ta có thể phân loại cao thấp, nhiều ít; xếp hình các loại quả, các chữ số, chữ cái, bông hoa, các con vật: hoặc xếp thành một chủ đề thế giới thực vật. Bộ đồ chơi làm bằng giấy dạ, bông, thép, bìa cát tông Một yếu tố để phát huy tối đa hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm tôi đã cùng ban giám hiệu chỉ đạo các lớp xây dựng môi trường lớp học khoa học, sắp xếp hợp lý giúp trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ sử dụng, dễ cất nhằm tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ chơi thường xuyên theo ý thích cá nhân của mình. Để có nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ chơi và cũng là một trong các hình thức sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm, tôi chỉ đạo các lớp, giáo viên hướng dẫn trẻ cùng tham gia hoạt động làm một số đồ dùng học tập, đồ chơi đơn giản cùng với cô, bằng hình thức này trẻ tham gia rất hứng
  16. 14 thú, chủ động tìm tòi, khám phá, trải nghiệm để lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất phù hợp với việc thực hiện các loại chương trình GDMN. Kết quả: Theo thống kê của các lớp có số lượng đồ chơi trong năm học 2021-2022 như sau: Đồ dùng đồ chơi học tập: 50 bộ. Đồ dùng đồ chơi phản ánh sinh hoạt: 50 bộ. Đồ dùng đồ chơi sân khấu và âm nhạc: 21 bộ Đồ dùng đồ chơi trang trí: 80 bộ Đồ dùng đồ chơi lắp ghép, xây dựng: 50 bộ. 2.3.3. Tổ chức hội thi làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương Thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học 2021-2022, Trường Mầm non Yên Thọ đã tổ chức cho các giáo viên thi “Đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo” đây là một hoạt động không thể thiếu được ở mỗi nhà trường mà nhất là các trường mầm non, phong trào làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo nhằm mục đích phục vụ hoạt động chuyên môn và nâng cao chất lượng dạy và học. Hội thi đã được sự hưởng ứng và tham gia của cán bộ, giáo viên trong nhà trường, các cô giáo đã sưu tầm nguyên vật liệu dễ kiếm, tận dụng bằng những vật liệu phế thải để từ những đôi bàn tay khéo léo, óc sáng tạo của các cô đã đem đến cho hội thi đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt, sinh động, có giá trị sử dụng trong công tác giảng dạy và vui chơi cho các cháu, làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo để phục vụ cho việc dạy và học trong nhà trường. Tôi xác định đây là một giải pháp quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học và đáp ứng được yêu cầu đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ. Trên cơ sở phát động làm đồ dùng học tập, đồ chơi dưới các lớp, tôi tổ chức hội thi theo cấp trường. Tổ chức thi vào tháng 11 năm 2021 với mục đích phát huy cao độ khả năng tìm kiếm nguyên vật liệu sẵn có và mức độ tham gia của các lớp đồng thời coi đây là cơ hội để giáo viên bộc lộ hết khả năng của mình.
  17. 15 Sản phẩm trưng bày của giáo viên Mặt khác yêu cầu đồ dùng học tập, đồ chơi dự thi phải đảm bảo nguyên tắc: - Đảm bảo tính giáo dục. - Đảm bảo tính thẩm mỹ - Đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ - Phải thỏa mãn được nhu cầu và ý muốn hoạt động tích cực trong khi học tập và vui chơi của trẻ. - Phải kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, hình khối. - Phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn, bền chắc, có giá trị sử dụng. Đồ dùng học tập, đồ chơi trưng bầy tại văn phòng nhà trường mời lãnh đạo địa phương, hội phụ huynh, các ban ngành về dự, tham quan. Bằng hình thức này chúng tôi đón nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, những lời động viên, khen ngợi, ghi nhận công sức của chị em giáo viên trong nhà trường. Cũng thông qua hội thi họ hiểu được tầm quan trọng của đồ dùng học tập, đồ chơi trong công tác giáo dục trẻ và sự phát triển của trẻ, đặc biệt là đồ dùng học tập, đồ chơi này lại được làm chính ngay từ những nguyên vật liệu có xung quanh mình. Chúng tôi nghĩ đây là một hình thức tuyên truyền nhanh nhất, dễ hiểu nhất, hiệu quả nhất. Kết quả hội thi cấp trường đạt như sau: Giải nhất: 1 lớp, Giải nhì: 3 lớp, Giải ba: 4 lớp, Giải khuyến khích: 6 lớp. Từ kết quả thi đồ dùng đồ chơi cấp trường, nhà trường đã chọn những bộ sản phẩm đặc sắc để trưng bày ở các lớp Để có kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho những năm tiếp theo, trên cơ sở bản thuyết minh của các lớp tôi soạn thảo và đóng thành cuốn sách có tên gọi: “Kinh nghiệm làm dùng học tập, đồ chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương” phát cho mỗi lớp một cuốn để học tập theo nhu cầu. 2.3.4. Khai thác tiềm năng sẵn có từ các bậc phụ huynh, các lực lượng xã hội trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu ủng hộ nhà trường Đây là giải pháp quan trọng không thể thiếu được trong việc tìm kiếm, nâng cao chất lượng làm đồ chơi cho trẻ bởi đây là một lực lượng lớn, nếu các
  18. 16 trường biết tận dụng và khai thác bằng nhiều hình thức thì sẽ thu về nguồn đồ chơi vô tận. Ý thức được điều này tôi cùng Ban giám hiệu tập trung cho 2 vấn đề: * Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội hiểu được tầm quan trọng đồ chơi sẵn có ở địa phương để họ biết và thu gom giúp nhà trường. * Khai thác khả năng làm đồ chơi của các bậc phụ huynh . * Đối với công tác tuyên truyền: Tùy từng đối tượng và thời gian cho phép chúng tôi đưa ra các nội dung tuyên truyền phù hợp, dể hiểu, có tính thuyết phục như đồ dùng học tập đồ chơi giúp trẻ củng cố chương trình học, mở rộng sự hiểu biết về cuộc sống xung quanh, hoàn thiện và rèn luyện các giác quan, năng lực ghi nhớ, chú ý, óc quan sát tư duy và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, nếu không có đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ học tập, vui chơi thì những nội dung trên sẽ không đạt hiệu quả cao. Để có nguồn nguyên vật liệu làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ thì các bậc phụ huynh quyên góp các nguyên liệu mà hàng ngày chúng ta thường gặp như: hộp chè, các loại bìa, vải, len, vải dạ các loại hột hạt, hạt vừng, hạt đỗ, mà nhà nông chúng ta sản xuất được đều có thể sử dụng làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ được.Tổ chức tuyên truyền trong các cuộc họp phụ huynh, Công đoàn và qua các hoạt động khác như các hội thi: “Bé khỏe - Bé khéo tay”, hội thi “Đồ dùng học tập, đồ chơi”, hội thi “Bé khỏe mầm non”. “Bé cùng thi tài” “ Bế hát dân ca” Ngoài ra chúng tôi còn tuyên truyền bằng hình thức mời phụ huynh về dự hoạt động chơi tại các nhóm, lớp do cô tổ chức để họ được chứng kiến con em mình học tập vui chơi với đồ chơi một cách say sưa và hứng thú, chúng tôi nghĩ: Chỉ có trẻ và đồ chơi, trẻ chơi không biết chán, quên cả giờ mẹ đón, đó là những hình ảnh rất sinh động để vận động, tuyên truyền phụ huynh, từ đó phụ huynh rất phấn khởi và có ý thức sẵn sàng đóng góp nguyên vật liệu cho nhà trường. * Đối với việc khai thác khả năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi của các bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội. Chúng tôi làm bằng cách thông qua tìm hiểu lý lịch của trẻ về nghề nghiệp, năng khiếu của từng phụ huynh trong lớp. Từ chỗ khai thác đúng nghề nghiệp cùng với khả năng tham mưu khéo léo, chúng tôi đã có một lực lượng hết sức “đông đảo”; nhiều phụ huynh tích cực phát huy “tay nghề” sẵn có của mình cùng tham gia làm đồ dùng học tập, đồ chơi cùng giáo viên. Đặc biệt là Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường. Nhất là, hội thi “Bé cùng thi tài” “ Đồ dùng, đồ chơi” “Bé hát dân ca” hội thi .Nhà trường đã lên kế hoạch và tập cho trẻ nhưng do dich covid 19 diễn ra phức tạp hội thi “ Bé hát dân ca” đã không tố chức cấp huyện nhưng nhà trường nhận sự ủng hộ của các bậc phụ huynh và trong các hội thi của các năm trước đã tạo lên được không khí hào hứng, sôi nổi nhiệt tình từ các các lực lượng xã hội phục vụ cho hội thi. Hội thi còn được đón nhận quà, tiền mặt, đồ dùng đồ chơi, các loại tranh ảnh của các “họa sĩ” không chuyên như: phụ huynh, các phu quân, anh chị Đoàn thanh niên, Ban văn hóa xã, tặng và ủng hộ phong phú thêm nguồn đồ dùng học tập, đồ chơi cho trường được khai thác ngay từ chính trong hội thi. Có thể nói thành công của giải pháp này là chúng tôi đã dấy lên được phong trào làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ từ các lực lượng xã hội. Tạo
  19. 17 được sự gắn bó giữa Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Nhất là tạo được sự thay đổi hành vi của các bậc phụ huynh, của cộng đồng về làm đồ dùng học tập, đồ chơi và cách làm đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ, kết lại thành sức mạnh tổng hợp góp tiếng nói chung nâng cao chất lượng Giáo dục mầm non, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong năm học này và những năm học tiếp theo. 2.3.5. Định hướng kế hoạch, thời gian làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trường và giáo viên Để có đồ dùng học tập, đồ chơi phục vụ trẻ không phải bất cứ lúc nào cũng có thời gian để làm, hơn nữa các giáo viên ít có cơ hội học tập lẫn nhau nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ chơi. Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để mình hoàn toàn chủ động có nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo trong suốt năm học. Căn cứ vào quy định nhà trẻ hoạt động trong cả thời gian hè, mẫu giáo được nghỉ 2 tháng (tháng 6,7) tháng 8 dành cho chuyên đề, điều tra cháu trong độ tuổi và một số công tác khác chuẩn bị cho năm học mới: Thứ nhất: Trong thời gian hè tiếp tục phát động phong trào tìm kiếm nguyên vật liệu và động viên chị em tập trung về trường theo tinh thần chung 1-2 tuần làm đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ. Thứ hai: Trong thời gian hè và trong cả năm học nhà trường và giáo viên có kế hoạch bổ sung đồ dùng học tập, đồ chơi tự làm theo tháng, theo chủ đề. Tôi đề nghị giáo viên căn cứ vào chương trình của từng độ tuổi, từng chủ đề xem độ tuổi đó, chủ đề đó có những trò chơi gì, bài học gì, cần những đồ dùng học tập đồ chơi nào, cái gì đã có và có thể vận dụng được, còn cái gì chưa có để chủ động làm. Ví dụ: Đối với trẻ mẫu giáo 5 tuổi đang thực hiện chủ đề “Trường mầm non”, chủ đề tiếp theo là chủ đề “Bản thân” thì ngoài những đồ dùng học tập, đồ chơi đã có, có thể vận dụng được thì cần phải chủ động bổ sung thêm đồ dùng học tập, đồ chơi mới đầy đủ và phù hợp cho đề “bản thân”. Thứ ba: Phát huy và sử dụng có hiệu quả những đồ dùng đã làm một cách tốt nhất theo quan điểm làm đồ dùng học tập là để cho trẻ học, làm đồ chơi là để cho trẻ chơi chứ không phải để trưng bày hay trang trí. Luôn luôn thay đổi mẫu làm, hình thức, kiểu dáng trên cùng một loại đồ dùng đồ chơi để tạo sự hấp dẫn kích thích ham muốn được học tập, được vui chơi của trẻ đến mức: Khi nhìn thấy đồ chơi trẻ nghĩ ngay đến trò chơi và cách chơi với đồ chơi đó. Bằng sự nỗ lực của giáo viên, những cố gắng của đội ngũ cán bộ giáo viên chúng tôi đã đạt được kết quả như sau: 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Qua công tác làm đồ dùng học tập, đồ chơi của Nhà trường phục vụ cho việc giáo dục trẻ đạt hiệu quả đã giúp cho các lớp thêm phong phú về đồ dùng, đồ chơi và đội ngũ cán bộ giáo viên có kiến thức nhiều hơn về việc làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương. Kết quả khảo sát về công tác làm đồ dùng học tập, đồ chơi của các lớp và sự nhận thức của CBGV như sau:
  20. 18 Mức độ Tổng Đạt Chưa đạt TT Nội dung yêu cầu yêu cầu số Số Số % % lượng lượng Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ 1 21 21 100% 0 0% chơi ở mức độ tối thiểu Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ 2 chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất 21 20 95,2% 1 4,8% lượng, phong phú, hấp dẫn. Số CBGV có ý thức sưu tầm 3 nguyên vật liệu để làm đồ dùng 35 35 100% 0 0% học tập, đồ chơi. Số CBGV biết cách làm và vận 4 35 33 94,2% 2 5,8% dụng sáng tạo. Số CBGV sử dụng có hiệu quả đồ 5 35 34 95,2% 1 4,8% dùng học tập, đồ chơi đã làm. Năm học 2021-2022 Trường Mầm non Yên Thọ đã tổ chức hội thi làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ Mầm non. Có được thành quả như vậy nhờ sự sát sao chỉ đạo của ban giám hiệu, lãnh đạo Phòng GD&ĐT Huyện Như Thanh. Sự cố gắng nỗ lực của cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học của trường Mầm non Yên Thọ nói riêng và của ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Như Thanh. 3. Kết luận và đề xuất 3.1. Kết luận Đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo từ các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục phát triển toàn diện cho trẻ: Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã hội và phát triển thẩm mỹ, chính vì vậy nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi để có thật nhiều và đầy đủ cho trẻ học và chơi là một việc làm cần thiết, bổ ích, là trách nhiệm của mỗi cán bộ giáo viên vì đồ dùng học tập, đồ chơi là người bạn thân thiết, là “sách giáo khoa” giúp trẻ học làm người. Hơn thế nữa đồ dùng học tập và đồ chơi còn có mối quan hệ chặt chẽ và bổ trợ cho nhau: Đồ chơi trong một hoàn cảnh nhất định nào đó lại được sử dụng làm đồ dùng học tập cho trẻ và giáo cụ trực quan cho giáo viên khi có nhu cầu và ngược lại một số đồ dùng học tập có thể trở thành đồ chơi cho trẻ nếu thấy phù hợp. Ngày nay đồ dùng học tập, đồ chơi rất đa dạng và phong phú cùng với sự phát triển của xã hội, của khoa học kỹ thuật thì đồ dùng học tập, đồ chơi cũng hoàn thiện dần cùng với thời đại. Trong tương lai đồ dùng học tập, đồ chơi hiện đại sẽ giúp trẻ tiếp cận với những tri thức tiên tiến nhưng tôi tin tưởng rằng với những đồ dùng học tập, đồ chơi tự làm bằng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, nó vẫn mãi được phát huy tác dụng và được trẻ tiếp nhận một cách hứng thú đồng thời được phụ huynh đồng tình ủng hộ bởi nó mang phong cách riêng, tính sáng tạo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2