intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp cho trẻ 3–4 tuổi lớp mầm 1 trường Mầm non Krông Ana yêu thích học các tác phẩm văn học

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

24
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài nói trên nhằm giải quyết những thực trạng hiện nay trong giáo dục là chưa quan tâm chú trọng nhiều vào việc cho trẻ làm quen các tác phẩm văn học hơn thế nữa là việc ứng dụng và phát huy việc dạy học hiệu quả linh động trong các tiết học để đem lại kết quả tốt hơn cho môn học này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp cho trẻ 3–4 tuổi lớp mầm 1 trường Mầm non Krông Ana yêu thích học các tác phẩm văn học

  1.                               SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHO TRẺ 3 – 4 TUỔI LỚP MẦM 1 TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA YÊU THÍCH HỌC  CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC  Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề   Lý do lý luận Trẻ em là tương lai của đất nước, một đất nước muốn phồn thịnh, dân   giàu nước mạnh thì chúng ta phải biết quan tâm đầu tư  cho thế  hệ  trẻ  với  mong muốn một cuộc sống tươi sáng, tốt đẹp vậy mỗi một cá nhân hãy  chung tay cùng toàn xã hội quan tâm tới giáo dục từ ngay bây giờ, ngay lúc này  để ươm mầm ra những con người toàn diện cả về nhận thức và nhân cách để  gánh vác sự nghiệp của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm, đầu tư cho nền giáo dục   của nước nhà nói chung và nền giáo dục mầm non nói riêng đúng như  vậy  bậc học mầm non là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho trẻ  phát  triển cả về nhân cách lẫn con người toàn diện cho một xã hội phát triển.  Lý do thực tiễn Trẻ  mẫu giáo 3 – 4 tuổi  là một cột mốc quan trọng trong những năm   đầu đời vì giai đoạn này trẻ có khả  năng ngôn ngữ  phát triển mạnh mẽ tiến   nhanh vượt bậc và cụ thể là: Hiểu được hầu hết các từ nói được Có thể nghe câu chuyện 10­15 phút. Nói được tên và tuổi của mình. Nói được từ khoảng 250 đến 500 từ Vì lí do đó mà cần cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học khi trẻ 3 ­  4 tuổi đóng vai trò tích cực cả về phát triển nhận thức cũng như ngôn ngữ. Những năm gần đây giáo dục không ngừng đổi mới và phát triển mạnh  mẽ, trẻ  được học bài bản và đầu tư  kĩ lưỡng ngay từ  khi lọt lòng, trẻ  được  học hát, học đọc, học kể  chuyện và làm quen với những kĩ năng ban đầu  những kĩ năng này sẽ  được hình thành cho trẻ  và là bước đệm đầu tiên theo  trẻ cho đến hết cuộc đời. Như  chúng ta đã biết trẻ  3 ­4 tuổi là giai đoạn trẻ  1
  2. phát triển mạnh mẽ  về  ngôn ngữ,  ở  giai đoạn này vốn từ  của trẻ  tăng lên  đáng kể  và những người thầy đầu tiên của trẻ  là ông bà bố  mẹ  và cô giáo,  nhu cầu được nói được giao tiếp và được mở  rộng vốn từ  của trẻ  là không  ngừng nghỉ chính vậy môi trường giáo dục cho trẻ ở nhà trường kết hợp cùng   gia đình là môi trường giáo dục tốt nhất cho trẻ. Giáo dục  ở  nước ta là nền giáo dục một cách toàn diện nhằm hình  thành nhân cách của một con người cũng như  phát triển toàn diện về  năm  mặt, đức  ­ trí – thể  ­ mĩ – lao động. Trong quá trình hình thành nhân cách toàn   diện cho trẻ  thì các tác phẩm văn học cũng  đóng vai trò đáng kể  trong việc  giáo dục trẻ như chúng ta đã biết văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ  được tiếp xúc từ rất sớm ngay từ tuổi ấu thơ trẻ đã được làm quen với những  giai điệu nhẹ nhàng, êm ái, thiết tha của những câu hát ru của bà của mẹ, lớn   hơn một chút các em lại được biết tới những câu chuyện dân gian, các tác  phẩm thơ, văn. Các tác phẩm này đã từng bước gieo vào lòng trẻ tình cảm yêu  mến thế giới xung quanh, lòng yêu thương đồng loại, lòng trắc ẩn với các sự  việc xảy ra xung quanh và giúp trẻ  có thêm kiến thức hiểu biết về  truyền  thống dân tộc. Ngày nay những hình vi đạo đức ngày càng tha hóa, đảo lộn trong xã  hội,  xã hội trở  lên khó phân biệt giữa cái tốt và cái xấu, giữa trắng và đen  bản thân trẻ  chưa hiểu hết được các vấn đề  cũng như  phân biệt được việc  cần và nên làm .Vậy việc giáo dục trẻ qua các tác phẩm văn học, những câu   truyện cổ  tích để  trẻ  biết yêu thêm quê hương đất nước, yêu những người   gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống là một việc làm cần thiết  ngoài ra  việc giáo dục trẻ bằng các tác phẩm văn học cũng mang lại những hiệu quả  tốt vì  trẻ sẽ thấy các nhân vật trong các câu chuyện luôn gần gũi với mình từ  đó trẻ sẽ yêu thích thêm các tác phẩm văn học cũng như các tác phẩm văn học   đã đến gần hơn với trẻ. Ngoài ra các tác phẩm văn học còn giúp trẻ  yêu thích hào hứng và có  nhu cầu tham gia vào các hoạt động nghệ  thuật   cũng như    góp phần phát  triển ngôn ngữ  của trẻ, dạy trẻ phát âm chính xác các âm tiết của tiếng mẹ  đẻ, hiểu được sự  phong phú của tiếng Việt thông qua các tác phẩm mà trẻ  được học… văn học còn giúp trẻ  rèn luyện và phát triển khả  năng sử  dụng  ngôn ngữ mạch lạc khi tham gia vào quá trình giao tiếp.  Cho trẻ  làm quen các tác phẩm văn học từ  khi trẻ  3 ­4 tuổi mở  rộng   vốn từ  cho trẻ, qua việc đọc thơ  nghe kể  chuyện trẻ  được làm quen với các  từ  vựng mới qua đó phát triển ngôn ngữ  nhanh hơn nhiều gia đình Việt hiện   nay cho con em mình tiếp cận với máy tính, điện thoại từ  rất sơm trẻ  từ  2
  3. mười mấy tháng đã xem điện thoại, coi tivi  đó là một cản trở  cho việc phát   triển ngôn ngữ   ở  trẻ  ngoài ra cho trẻ  làm quen với các tác phẩm văn học từ  khi còn học mẫu giáo đó chính là trẻ  được đến với thế  giới nhân văn, đạo  đức từ đó hướng trẻ tới chân – thiện – mĩ của những giá trị cao đẹp ngày nay. Đối tượng nghiên cứu trẻ  3 – 4 tuổi lớp Mầm 1 Trường Mầm Non   Krông Ana : Gồm 25 trẻ. Phạm   vi  nghiên  cứu:  Học  sinh  lớp  Mầm 1  giai  đoạn  bắt  đầu thực   nghiệm nghiên cứu từ tháng  4 năm 2018 đến hết tháng 3 năm 2019. Tóm lại việc cho trẻ tiếp xúc và làm quen các tác phẩm văn học từ bậc  học mầm non là vô cùng quan trọng và  cần thiết đối với sự phát triển của trẻ  cả  về  ngôn ngữ  lẫn nhận thức xuất phát từ  thực tiễn quan trọng đó và một   thời gian nghiên cứu và khảo nghiệm tôi nhận thấy được tầm quan trọng  cũng như những lợi ích mang lại cho trẻ cho nên tôi đã chọn đề tài để nghiên   cứu. II. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài nói trên nhằm giải quyết những thực trạng  hiện nay trong giáo dục là chưa quan tâm chú trọng nhiều vào việc cho trẻ  làm quen các tác phẩm văn học hơn thế  nữa là việc  ứng dụng và phát huy   việc dạy học hiệu quả  linh động trong các tiết học để  đem lại kết quả  tốt   hơn cho môn học này. Trong các tài liệu nghiên cứu khoa học của các nhà sư  phạm đầu nghành   đều đã khẳng định văn học là hoạt động học rất quan trọng và là phương tiện  chủ  đạo phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  mầm non thông qua các hoạt động cho  trẻ làm quen với các tác phẩm văn học giúp trẻ  có đủ  vốn từ  trong giao tiếp   hằng ngày và nhờ  được tiếp xúc với các tác phẩm văn học trẻ  nhận thức  được mô tả  được các sự  vật hiện tượng xung quanh gần gũi với trẻ  qua đó  trẻ cảm nhận và thêm yêu quý thiên nhiên, yêu quý quê hương gia đình mình. Cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học cũng chỉ ra được những giá  trị  nghệ  thuật, giá trị  nhân cách và sự  rung động hứng thú với các tác phẩm  văn học cũng mang lại cho trẻ những giá trị đạo đức cao cả mà thế giới xung   quanh trẻ thể hiện và từ đó những giá trị thiết thực, ý nghĩa trong  cuộc sống   hàng ngày được trẻ  ghi nhớ, tiếp thu và tái hiện lại đó chính là sự  phản ánh  lại cuộc sống hiện thực mà bộ môn hướng tới. Thơ  ca, chuyện kể  cũng là một loại hình nghệ  thuật việc cho trẻ  làm  quen và tiếp cận loại hình nghệ thuật này từ rất sớm cũng là tiền đề  cho trẻ  yêu thích các loại hình nghệ  thuật khác cũng như  việc phát hiện năng khiếu   3
  4. từ sớm của trẻ để có những định hướng cho tương lai tốt hơn. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Ngôn ngữ  ra đời được coi là một tất yếu của xã hội để  đáp  ứng nhu  cầu cuộc sống con người mà biểu hiện cụ  thể   ở  đây là con người giao tiếp   với nhau. Đối với mỗi cá nhân thì ngôn ngữ  được xem như  là yếu tố  quan  trọng, được phát triển qua quá trình   đúc rút kinh nghiệm những hành động   nghe, nói và hiểu để  tiếp thu một cách dễ  dàng ngay từ  khi con người được  sinh ra và việc phát triển ngôn ngữ sẽ giúp cho tư duy ngày càng tiến bộ. Đây  được xem là phương tiện nhằm giáo dục trẻ một cách toàn diện về nhân cách  và đạo đức. Khi mới bắt đầu tiếp xúc với tiếng mẹ  đẻ  trẻ  chỉ  mới bắt đầu hiểu   những từ quen thuộc và riêng lẻ sau đó một số  trẻ  sẽ  tập nói lặp lại sau khi  được người lớn nói nhưng bên cạnh đó một số  trẻ  chỉ  trả  lời phi ngôn ngữ  hay những đáp án trả lời là có hoặc không, một số trẻ khác lại chọn cho mình  cách im lặng nếu như vậy ngôn ngữ của trẻ không phát triển mà nếu có phát  triển thì sẽ không đa dạng, phong phú. Chính vậy các nghiên cứu về  ngôn ngữ  đã khẳng định sự  phát triển  ngôn ngữ  ngắn liền với sự  phát triển tư  duy của trẻ  em giúp trẻ  nhận thức  thế giới bên ngoài vì thế chúng ta luôn thấy trẻ 3 – 4 tuổi luôn xuất hiện câu   hỏi “Tại sao ?” “Vì sao” qua điều này khẳng định việc phát triển ngôn ngữ của trẻ nhanh hay   chậm phần nào đó tùy thuộc vào điều kiện sống quan hệ  giao tiếp với mọi   người xung quanh. Qua việc cho trẻ  làm quen văn học chính là hình thành cho trẻ  những  tình cảm  đạo  đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ  phát triển trí tưởng   tượng như  lòng yêu thiên nhiên cỏ, cây, hoa lá, lòng kính trọng yêu thương   những người gần gũi và giúp đỡ  những người xung quanh như  ông, bà , bố,   mẹ, cô giáo… Thông qua hoạt động này trẻ tái tạo sáng tạo thêm những tình tiết của   tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với lứa tuổi, việc trẻ làm quen với các   tác phẩm văn học giúp trẻ  thuộc thơ, kể  lại được những câu chuyện làm  được như vậy là chúng ta đã đạt được mục đích của môn học.  Làm quen văn học bản thân tôi đã nghiên cứu, suy nghĩ, lựa chọn những  phương pháp, biện pháp linh hoạt để hướng dẫn trẻ vào hoạt động một cách  tốt nhất cũng như đối với bản thân tôi trong các môn học cho trẻ làm quen ở  bậc học  mầm non thì môn làm quen văn học tôi nhận thấy các trẻ  còn yếu,  4
  5. trẻ chỉ đọc thơ, kể chuyện theo bản năng nhưng chưa thấy được cái hay, cái   đẹp và ý nghĩa thực thụ của mỗi tác phẩm mà trẻ được làm quen. Đứng trước  tình hình đó, bản thân tôi luôn trăn trở một suy nghĩ là mình phải có biện pháp  thế nào để trẻ thêm yêu các tác phẩm văn học cũng như yêu tiếng Việt. II. Thực trạng vấn đề:  Trong thực tế việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học chỉ mang   tính chất đáp  ứng đủ  chương trình mà chưa chú ý nhiều đến việc cảm thụ  văn học cũng như  sự  yêu thích môn học thực thụ  mà chỉ  là những hình thức  đối phó với cách dạy cũ, chưa sáng tạo, chưa có độ mở cho các tiết dạy. Trẻ  mẫu giáo hầu như  tiếp nhận các tác phẩm văn học thường phải   qua trung gian là cô giáo (ở trường) và người lớn ở  nhà như: ông, bà, bố  mẹ  trong khi đó các phẩm văn học là một bản nghệ thuật ngôn ngữ nên việc cảm  thụ tác phẩm văn học đối với trẻ gặp nhiều khó khăn. Giáo viên đứng lớp đã chú trọng đầu tư vào các tiết dạy môn làm quen   văn học khoa học hơn áp dụng nhiều phương pháp dạy học linh hoạt cũng  như  cho trẻ  đọc thơ,  kể  chuyện dưới nhiều hình thức hấp dẫn nhưng giáo  viên chưa cho trẻ tham gia vào hoạt động trải nghiệm đóng kịch nhiều vì ngại  rườm rà, tốn công bày cho trẻ thế  nên các tiết kể chuyện phần nào đó đã bị  giảm đi tính hấp dẫn mà thay vào đó là sự nhàm chán. Ngoài ra giáo viên còn rập khuôn, máy móc chưa có sáng tạo trong việc   chuyển thể từ chuyện kể sang sân khấu kịch để tạo ra tính kịch tính, bất ngờ  cho các câu chuyện và giáo viên đọc lời thoại lời dẫn chuyện dài dòng làm  cho câu chuyện kém đi tính hấp dẫn… và hạn chế lớn ở người giáo viên dẫn  truyện là ở chỗ đôi khi giọng đọc khô khan không cuốn hút trẻ ngay cả khi cô  đọc và dẫn chuyện đến tình huống ngay cấn của câu chuyện thì ánh mắt cử  chỉ điệu bộ  của cô giáo lại chưa phù hợp chưa làm toát lên được thông điệp   của các nhân vật muốn hướng tới. Khi cho trẻ  cảm thụ  một tác phẩm văn học cô giáo chưa chú trọng   nhiều vào công tác làm đồ  dùng, âm thanh, tiếng động để  làm nội bật lên   được nội dung và ý tưởng mà câu chuyện, bài thơ  muốn mang lại ngoài ra  nhiều trường hợp khách quan từ  giáo viên là cắt xén chương trình bỏ  qua  những tiết dạy bài bản để cung cấp lượng kiến thức cho trẻ thay vào đó là sự  sơ sài, đại khái. Khó khăn không nhỏ nữa đến từ  cha mẹ học sinh chưa có ý thức quan  tâm đúng mực tới con em của mình họ vẫn chưa thực sự đầu tư cho trẻ từ lứa   tuổi mầm non và những suy nghĩ đã ăn mòn vào những nếp nghĩ từ xa xưa là   5
  6. học mầm non chủ yếu là chơi tự do và như vậy đã làm mất đi những nề nếp,   khuôn khổ trong thời gian trẻ ở trường với cô và các bạn. Một yếu tố chủ quan nữa đến từ  các bậc phụ  huynh không hề  nhỏ  đó  chính là việc  ở  trên lớp giáo viên chủ  nhiệm đã dạy trẻ  về  tấm gương đạo  đức qua các tiết học đọc văn thơ, kể  chuyện nhưng về  nhà phụ  huynh lại   không thường xuyên nhắc nhở  giáo dục trẻ  theo những hình mẫu mà cô đã  nêu ra và tưởng trừng như chỉ là đơn giản vô hại nhưng đã tạo ra sự ngăn cản   cũng như  ranh giới giữa lời nói của cô và gia đình trẻ. Vậy phụ  huynh phải  thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm cũng như  nắm bắt được tình   hình học của trẻ ở trường hàng ngày, hàng tuần để có biện pháp giáo dục phù  hợp đồng bộ mang lại hiệu quả cao hơn. Mặc dù lớp học đã được trường và phòng giáo dục quan tâm cũng như  huyện đã đầu tư cho cơ sở vật chất nhưng trang thiết bị dạy và học còn thiếu  thốn nhiều do đó để  đầu tư  cho một tiết dạy thực sự  có hiệu quả  cũng như  đem lại kết quả tốt thì chưa được nhiều. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1. Giải  pháp 1: Đầu tư vào tiết dạy, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi đẹp  mắt, kích  thích, hấp dẫn trẻ  cũng như  tạo môi trường cho trẻ  hoạt   động. Trẻ mầm non đặc điểm tâm sinh lý khi học dễ nhớ nhưng cũng dễ quên   vì thế  những gì giáo viên dạy cho trẻ  cần được nhắc thường xuyên và làm  quen nhiều lần , hơn thế trẻ mẫu giáo tư  duy trực quan sinh động phát triển   mạnh mẽ cái gì đẹp, hấp dẫn trẻ sẽ làm trẻ kích thích chú ý vào đối tượng đó  lâu dài. Một tiết dạy làm quen văn học chỉ đạt hiệu quả trên trẻ  tốt nhất khi  trẻ ghi nhớ yêu thích các tác phẩm nói trên. Vậy để  giải quyết vấn đề  này thì biện pháp cần làm là cô đầu tư  đồ  dùng dạy học, đồ chơi đẹp mắt trẻ hứng thú, cô không cần phải chọn những   đồ  dùng đồ  chơi khó tìm, tốn tiền  mà chỉ  cần tự  tạo ra những đồ  dùng đồ  chơi có sẵn tại địa phương làm phương tiện dạy học hiệu quả và gần gũi. Sự  sáng tạo của giáo viên trong việc cung cấp phương tiện dạy học như  tranh   ảnh , hình ảnh thật, rối tay từ vải để cho tiết dạy thêm phong phú. Ví dụ: Trong tiết dạy chuyện “ Chiếc đầu máy xe lửa tốt bụng” Với tiết chuyện này câu chuyện dài và khó nhớ trẻ sẽ không thật sự tập   trung nếu cô chỉ sử dụng hình thức kể chuyện diễn cảm, điệu bộ quen thuộc   nhưng nếu cô sử dụng các hộp sữa đã uống hết hàng ngày của trẻ làm những  6
  7. toa tàu cũng như  dùng giấy màu dán lên với nhiều màu sắc sặc sỡ  để  làm  phương tiện kể chuyện thì trẻ sẽ thích thú kể theo mô hình và qua đó cô cũng  giáo dục các giá trị  đạo đức đến trẻ  là phải biết giúp đỡ  người khác trong   hoàn cảnh khó khăn như vậy mỗi câu chuyện cô giáo dạy cho trẻ là một bài  học đạo đức thiết thực nhất,ý nghĩa nhất cũng như  thông qua việc tận dụng   các hộp sữa dùng rồi chúng ta dạy trẻ biết tiết kiệm, biết sử dụng nguyên vật   liệu tái chế. Trẻ  sẽ  không thể  nhớ  cũng như  không để  tâm mấy nếu những   bài học đạo đức đó được dạy theo kiểu truyền thống từ  trước tới giờ  cô  giảng ở trên và trẻ nghe ở dưới, trẻ không phải là trọng tâm của tiết học như  thế trẻ không lưu tâm và ghi nhớ lâu dài. Ví dụ: Câu chuyện “Chú Vịt xám” Tôi làm những chú vịt bằng những quả  bóng trang trí mắt, mỏ, chân  bằng  nguyên vật liệu dễ  kiếm (len, hột, hạt...)Mỗi một câu truyện tôi luôn luôn  phải suy nghĩ, phải chuẩn bị đồ  dạy như  thế nào, khác với đồ  dùng của tiết   học trước để cho cháu lớp tôi chú ý tham gia vào giờ học. Với việc chuẩn bị  đồ  dùng chu đáo trước khi vào giờ  dạy, tôi cảm thấy tự  tin hơn. Trẻ lớp tôi   hứng thú tham gia giờ học Ví dụ: Dạy trẻ thơ “Bắp cải xanh” lớp 3 – 4 tuổi Trong tiết dạy này trẻ sẽ thấy nhàm chán khi cô giáo chỉ cho trẻ đọc thơ  suông nhưng trẻ sẽ rất hào hứng và vui vẻ khi cô cho trẻ được đọc thơ và làm  quen với cái bắp cải xanh, ngoài viêc cô giáo lấy bắp cải làm phương tiện   dạy học thì trẻ sẽ được trải nghiệm cuộc sống hằng ngày bằng việc dùng tay   tách từng chiếc lá của bắp cải. Qua tiết dạy này giáo viên sử  dụng một  phương tiện dạy học nhưng đạt được hai mục đích. Thứ nhất trẻ đọc bài thơ  bắp cải qua hình  ảnh thực trẻ  sẽ  hứng thú hơn, hai là sử  dụng bắp cải trẻ  được thực hành cuộc sống, tách lá, nhạt rau… trẻ  hứng khởi hơn rất nhiều   những tiết dạy thông thường. Tóm lại việc sử dụng đồ  dùng phục vụ  tiết dạy môn làm quen văn học  cô giáo có thể sử dụng đồ vật thật, hay đồ vật tự làm  tùy thuộc vào từng đề  tài cũng như nguyên vật liệu có sẵn tại lớp tại trường để lên tiết cho phù hợp  và trẻ yêu thích,  ưu tiên cho việc tận dụng đồ dùng đồ chơi có sự tái chế và  nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương để  giảm áp lực cho giáo viên khi   lựa chon tiết dạy. Bên cạnh việc có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho tiết dạy biện pháp tối ưu  không kém đó là tạo môi trường cho trẻ  hoạt động bằng cách đưa các nhân   vật của câu chuyện nổi bật vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày  7
  8. và qua những hình ảnh đó trẻ có thể vận dụng vào kể chuyện sáng tạo theo ý   tưởng sự hiểu biết của từng trẻ.  Ví dụ: Để tạo môi trường cho trẻ  được thường xuyên làm quen với các  tác phẩm văn học cô giáo tổ chức các hội thi “Bé nào giỏi” thi đua đọc thơ to,  thơ  diễn cảm, thơ  sáng tạo giữa các tổ, giữa các nhóm, giữa các cá nhân trẻ  với nhau như  vậy môi trường để  trẻ  thường xuyên đọc thơ, kể  chuyện đã  được cô giáo tận dụng hàng ngày ở  trên lớp. Đối với các ngày mà trẻ không được học môn làm quen với các tác phẩm   văn học thì tôi sẽ  sử  dụng bài thơ, câu ca dao, câu đố  vào những môn học  khác để  dẫn dắt cho tiết học ngày hôm đó với mong muốn là trẻ  được tiếp   xúc cũng như làm quen với môn văn học nhiều hơn. Qua các tiết làm quen văn học cô giáo cũng lên chú trọng và khai thác vào   kể truyện sáng tạo, khi trẻ kể truyện sáng tạo cô hướng dẫn cho trẻ các ngữ  điệu ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ tình cảm của trẻ dành cho các tác phẩm  văn học. Những khi trẻ bắt chước kể chuyện là những lúc đó ngôn ngữ  của   trẻ  phát triển mạnh mẽ  vốn từ  được làm giàu thêm và qua đó trẻ  cảm nhận  được ngôn ngữ của mẹ đẻ yêu thêm tiếng Việt. 2. Giải pháp 2: Dùng phương pháp đọc, kể diễn cảm kèm theo hệ  thống câu hỏi hấp dẫn.  Một tiết dạy hay hấp dẫn thu hút trẻ  khi cô giáo là người dẫn dắt và  truyền thụ tác phẩm tới trẻ mà trẻ yêu thích hứng thú do vậy giáo viên cần cố  gắng sử dụng một sắc thái giọng kể của mình làm phương tiện đọc kể biểu  cảm khác nhau làm cho tác phẩm cất lên tiếng nói riêng tạo cho tác phẩm bức   tranh tương  ứng hấp dẫn đối với trẻ  để  làm được như  vậy bản thân người  giáo viên không ngừng học hỏi và sưu tầm những bài thơ câu chuyện mới để  thường xuyên thay đổi nội dung giáo dục cho phù hợp với chủ  điểm với bài  dạy nhằm thu hút sự chú ý của trẻ. Biện pháp đưa ra là : Các tiết dạy cho trẻ làm quen văn học tôi luôn cố  gắng phân biệt giữa giọng đọc và giọng kể và cũng cố gắng nhập tâm vào tác  phẩm để  truyền tải những thông điệp mà tác phẩm muốn gửi ngắm nhắn  nhủ cũng như việc kết hợp với giọng kể thì sắc thái, khuôn mặt, cử chỉ điệu  bộ, ánh mắt cũng là phương tiện hỗ trợ tích cực cho cô giáo khi thực hiện tiết  dạy. Ví dụ: Khi cô cho trẻ làm quen với tác phẩm “Chú dê đen” giáo viên cần  lưu ý phân biệt rõ giữa các tuyến nhân vật như: Chú dê trắng thì giọng yếu ớt, run sợ, nói ngắt quãng, chân tay run sợ 8
  9. Chú  dê đen thì giọng đọc bình tĩnh , đanh thép, dáng vẻ oai phong. Giọng chó sói thì cần thay đổi theo hai tuyến nội dung như  nói chuyện  với dê trắng thì hống hách, quát nạt giữ tợn nhưng khi nói chuyện với dê đen  thì giọng thay đổi liên tục từ quát nạt hống hách đến ngần ngừ, sợ sệt. Giáo viên khi cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học cũng cần phải   tìm hiểu, nghiên cứu thật rõ nội dung của tác phẩm để khi thể hiện trước trẻ  cô phải biết ngắt quãng, thay đổi giọng điệu để  phù hợp với bài thơ,câu   chuyện. Ví dụ: Bài thơ “Giữa vòng gió thơm” Trong bài thơ này cô cần thể hiện giọng đọc phù hợp như khi đọc tới câu  thơ để cho bà ngủ thì  giọng đọc của cô lên xuống nhẹ nhàng ra vẻ nhắc nhở  để làm cho bài thơ thêm phần tình cảm. Việc sử dụng giọng đọc hay diễn cảm đóng vai trò quan trọng trong việc   truyền thụ  một tác phẩm văn học cũng như  cô giáo cần linh hoạt trong các   tiết học, sáng tạo để  có thể  tổ  chức một tiết văn học thành những hội thi,  thành những lễ  hội biểu diễn để  tạo sự  mới mẻ  cho tiết học cũng như  sự  mới lạ đối với trẻ thay vì tổ chức một tiết học với những hình thức cũ để làm   được như vậy giáo viên không ngừng cố  gắng học tập tìm tòi để  tạo ra một  tiết học hay mới lạ cho trẻ. Khi tiết dạy đã được đầu tư  công phu thì một biện pháp bổ  trợ  cho các  tiết dạy với đóng góp không nhỏ đó là hệ thống các câu hỏi hay, hấp dẫn, bất  ngờ  nhằm mục đích hệ thống lại câu chuyện để  cho trẻ  dễ  nhớ  và hiểu sâu   sắc hơn về  tác phẩm được làm quen. Để  có được các câu hỏi hệ  thống lại   câu chuyện đòi hỏi giáo viên phải chú trọng vào nội dung để  chắt lọc ra các  câu hỏi mang tính khoa học nhưng lại phải gần gũi so với trẻ để trẻ dễ hiểu,   dễ trả lời. Ví dụ: Trong bài thơ “Gà mẹ đếm con” Cô giáo có thể sử dụng hệ thống câu hỏi như sau: ­ Các con vừa đọc bài thơ có tên là gì? Do ai sáng tác? ­ Gà mẹ đã làm gì để biết số con của mình? ­ Đàn gà con tranh nhau nhặt cái gì? ­ Vì sao Gà mẹ phải đếm lại con? ­ Khi đi chơi không muốn bị lạc chúng ta phải làm gì? Với hệ thống câu hỏi đơn giản như vậy trẻ sẽ dễ trả lời cũng như trẻ  khái quát lại được nội dung của bài thơ. 9
  10. Một yếu tố  quan trọng không kém để  mang lại hiệu quả  cho các câu  hỏi đặt ra đó là việc cung cấp các câu hỏi mang tính bất ngờ, với các hình  thức dạy  học trước kia cô giáo đọc câu hỏi và trẻ trả lời thì bây giờ để mang   câu hỏi tới trẻ ta sử dụng thêm các hình thức khác nhau như chia nhóm để trả  lời câu hỏi, rung chuông vàng để  trả  lời câu hỏi, chọc bóng bay để  lấy câu  hỏi cho mình… dù sử  dụng bất cứ  hình thức nào nhưng cô giáo phải chú  trọng nhiều vào sự  tự  chủ  của trẻ  khi lựa chọn trả  lời nếu trẻ trả lời đúng   hoặc sai thì chúng ta cũng luôn phải sự dụng hình thức động viên, khích lệ trẻ  để trẻ tự tin cho các lần học tiếp theo. Để  thực hiện giải pháp này chúng ta có nhiều biện pháp để  dạy trẻ  nhưng khi dạy trẻ  làm quen các tác phẩm văn học yêu cầu cô giáo cần linh   hoạt trong các tiết dạy để mang lại nhiều tác động tích cực đến công tác dạy  và học của trẻ tại lớp. 3. Giải pháp 3: Lồng ghép môn làm quen các tác phẩm văn học vào  các môn học khác Môn làm quen văn học là môn học với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm  rung động người nghe nhưng khi biết tích hợp cùng các môn học khác thì độ  hấp dẫn và sáng tạo lại được tăng thêm phần cảm xúc vì nó làm thay đổi  không khí, thay đổi trạng thái khi kể chuyện bằng những lời ca, ca dao câu đố  từ  đó chúng ta lồng ghép được nhiều hơn và thời lượng trẻ  được học cùng   với môn học này là tối đa nhưng lại không nhàm chán. Ví dụ: Trong tiết khám phá khoa hoc “Trò chuyện một số  con vật nuôi  trong gia đình” giáo viên có thể lồng ghép cho trẻ múa hát và vận động bài hát  “Đàn gà trong sân” sau đó chúng ta sử dụng câu đố cho các con vật xuất hiện,   kết thúc chúng ta cho trẻ làm giả tiếng các con vật kêu, như vậy qua tiết dạy   này chúng ta đã lồng ghép văn học và cũng thay đổi hình thức cho môn làm  quen văn học trẻ sẽ yêu thích hơn. Biện pháp tích hợp môn văn học với các môn học khác, các trò chơi cho  trẻ  kể  chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số  kiến thức bổ  trợ  cho   câu chuyện sinh động   cũng như   ở  lứa tuổi này trẻ  thường mau nhớ  chóng  quên nên tôi đã đưa văn học vào mọi lúc nơi có thể giờ đón trẻ tôi đưa trẻ vào  góc văn học cho trẻ kể chuyện sáng tạo cũng như  củng cố  kiến thức cũ làm  quen kiến thức mới đây là hình thức cho trẻ  trải nghiệm những gì mình sẵn   có cũng như học tập  ở bạn  ở  cô từ  đó trẻ  cảm thấy tự  tin và thoải mái hơn   khi học. Ví dụ: Cho trẻ  học làm quen với hoạt động góc, trong buổi chơi hoạt  động góc,  ở góc nghệ  thuật thay vì cho trẻ  đọc thơ, kể chuyện như mọi lần   10
  11. thì tôi tổ chức hội thi “Bé làm nhà thơ” để trẻ đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện   bằng âm nhạc…thay đổi hình thức chơi mới sẽ  kích thích trí tò mò, tưởng  tượng của trẻ. Nhưng khi cho trẻ  tích hợp môn văn học với các môn học khác cô giáo  phải là người dẫn dắt linh hoạt lựa chọn nội dung câu chuyện  bài thơ, câu   đố  cho phù hợp với độ  tuổi cũng như  phù hợp với đề  tài của tiết dạy ngày  hôm đó. 4. Giải pháp 4: Giáo viên phối kết hợp với phụ  huynh và các tổ  chức trong nhà trường thường xuyên cho trẻ làm quen với các tác phẩm  văn học.  Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ  trong trường mầm non phụ  thuộc   nhiều vào sự  tham gia đóng góp của gia đình trẻ. Trẻ   ở  trường đã được làm  quen tiếp xúc với các tác phẩm văn học khi về nhà cha mẹ là người tạo điều   kiện cho trẻ  thể  hiện bằng cách trò chuyện cùng trẻ  hỏi trẻ  ngày nay  ở  trường trẻ  đọc những bài thơ, câu chuyện gì từ  đó trẻ  lại một lần nữa nghi  nhớ và được  thể hiện lại tác phẩm cho gia đình của mình. Việc gia đình trẻ  và cô giáo thường xuyên trao đổi tình hình của trẻ   ở  trường ở nhà đã tạo được sợi dây liên kết chặt chẽ, lâu dài sẽ tìm ra tiếng nói  chung nhất trong việc cùng nhau chăm sóc và giáo dục trẻ vì mục đích là làm   những gì tốt nhất cho trẻ. Ngoài ra cô giáo cũng tham mưu với nhà trường tổ chức cuộc thi, hội thi   “Bé kể  truyện hay, bé đọc thơ  diễn cảm” để  quảng cáo và tuyên truyền tới   các bậc phụ  huynh tầm quan trọng của việc cho trẻ  làm quen với các tác  phẩm văn học, qua các tác phẩm văn học không chỉ cung cấp cho một vốn từ  phong phú mà còn giáo dục trẻ về đạo đức, khi được học hỏi và làm quen các  tác phẩm đó trẻ  biết giá trị  đạo đức qua các tác phẩm biết yêu thương quý  trọng mọi người cũng như  biết lễ  phép với người lớn, biết giúp đỡ  người  nghèo, người gặp hoàn cảnh khó khăn… Bên cạnh đó tôi còn làm tốt và chú trọng nhiều tới góc tuyên truyền của   lớp vì qua góc này cô giáo trao đổi với phụ  huynh về  việc học của trẻ   ở  trường cũng như  phụ  huynh lắm bắt được việc học của con em mình khi  ở  trường cũng như  nhờ  phụ  huynh hỗ  trợ  đồ  dùng dạy học phục vụ  cho tiết   dạy làm đồ dùng ngày càng phong phú hơn. Ví dụ: Trong giờ  trả  trẻ  tôi trao đổi với phụ  huynh hôm nay trên lớp  cháu đọc bài thơ  “Gà mẹ  đếm con”  và nhắc phụ huynh về nhà yêu cầu con   của mình đọc cho cả gia đình cùng nghe. 11
  12. Phụ  huynh sẽ  càng tin tưởng cô giáo hơn khi được cùng cô và trẻ  trải  nghiệm bằng cách mời phụ  huynh tham gia vào ngày lễ, ngày hội của nhà  trường, của lớp để phụ huynh đóng góp vào công tác giáo dục đó chính là làm   tốt công tác xã hội hóa giáo dục cho địa phương. IV. Tính mới của giải pháp:  Các giải pháp được thực hiện xuyên suốt trong quá trình  cho trẻ  làm  quen với các tác phẩm văn học trên lớp như  vậy tính mới của các giải pháp   trên thay vì theo các lối mòn trước kia trẻ là người nghe cô là người dẫn dắt   thì bây giờ ta cho trẻ là người dẫn dắt trong tiết học và giáo viên chỉ là người  bổ sung, điều chỉnh nhắc nhở trẻ khi trẻ quên hay trẻ đi lệch hướng. Sự phát triển của trẻ là không đồng đều về cả thể chất lẫn nhận thức.   Như cách dạy học trước kia trẻ được làm quen với các tác phẩm dưới dạng  đọc, kể theo lớp, tổ, nhóm, cá nhân thì bây giờ ta chú trọng đến sự phát triển   của từng cá nhân trẻ bằng cách nếu trẻ thuộc thơ, chuyện thì đọc cả  bài, kể  chuyện theo đoạn hoặc tự  chọn hình thức thể  hiện mà trẻ  muốn còn những   trẻ chưa thuộc thì đọc một câu, hai câu tùy vào khả năng,  như vậy giáo viên  đã tổ chức tiết học mà tất cả  trẻ đều được học và tham gia đầy đủ. Sau khi   cá nhân trẻ thể  hiện xong chúng ta cho trẻ tự đánh giá lẫn nhau để  thể  hiện  sự dân chủ, tôn trọng đến từng cá nhân một của lớp. Xây dựng môi trường học tập lấy trẻ làm trung tâm trong việc cho trẻ  làm quen với các tác phẩm văn học   bằng cách cô và trẻ  cùng chuẩn bị  đồ  dùng của tiết học cũng như cho trẻ tự sáng tạo nội dung tác phẩm theo hướng  dẫn, chỉ đường của cô có như  vậy chúng ta mới tỏ  ra tôn trọng ý tưởng của  trẻ  cũng như  chúng ta thật sự  hiểu được trong sâu thẳm trẻ  nghĩ gì   để  có  cách điều chỉnh và định hướng kịp thời trong tương lai. V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:  Sáng kiến sẽ  được áp dụng vào vào đối tượng là trẻ  3 – 4 tuổi tại  trường Mầm Non Krông Ana. Theo bản thân cá nhân tôi khi sáng kiến này được áp dụng thì trẻ sẽ có  cơ hội được làm quen với các tác phẩm văn học nhiều hơn vì chúng ta đã biết   lồng ghép văn học vào các môn học khác nhau cũng như  đã cho trẻ  tiếp xúc  với bộ  môn này  ở  mọi lúc mọi nơi cũng như  được làm quen thể  hiện với  nhiều hình thức nghệ  thuật khác nhau (đọc, kể, hò ,vè…) và thường xuyên  tạo môi trường học cho trẻ. Sau khi được áp dụng và thử  nghiệm trên trẻ, trẻ  sẽ  mạnh dạn tự  tin   hơn đối với môn học này và các môn học khác nữa ngoài ra việc quan trọng  12
  13. không kém đó chính là sự phát triển ngôn ngữ ngày càng mạnh mẽ, ngôn ngữ  đa dạng phong phú hơn vì trẻ  được trải nghiệm với nhiều thể loại như thơ,   chuyện,đồng dao, ca dao… bên cạnh đó nhờ  việc được làm quen với nhiều   bài ca dao đồng dao của các tác giả  hoặc các tác phẩm truyền miệng thì   những bài đồng dao, ca dao, tục ngữ    …vô hình chúng ta đã biến trẻ  thành   những người lưu giữ truyền  lại những bài đồng dao, ca dao quý báu của dân   tộc Việt. Khi áp dụng sáng kiến vào học sinh chúng ta cũng đang trực tiếp giáo  dục, giảng dạy về đạo đức kĩ năng  sống cho trẻ thông qua việc cho trẻ làm   quen với các tác phẩm văn học hằng ngày ở trên trường. Điều kiện để thực hiện sáng kiến là bản thân cô giáo phải trau dồi kiến  thức cho mình để có thể giảng dạy linh hoạt trong các tiết học cũng như biết   áp dụng  môn làm quen văn học vào các tiết học khác nhau linh hoạt. Cô cũng  phải chịu khó sưu tầm, tìm tòi những bài thơ, câu chuyện mới để dạy trẻ phù   hợp với độ tuổi cũng như chủ đề, việc tìm tòi sưu tầm các bài ca dao, tục ngữ  nói về cuộc sống, thiên nhiên, con người là chúng ta cũng đang lưu giữ những  giá trị văn hóa của dân tộc mình và người kế nhiệm để truyền lại đó chính là   trẻ. Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị I. Kết luận:  Với tầm quan trọng của việc cho trẻ  làm quen với các tác phẩm văn  học như vậy tôi nhận thấy để truyền đạt tới trẻ  tốt nhất thì người giáo viên  không ngừng học tập trau dồi kiến thức cũng như  sưu tầm các bài thơ, câu  chuyện, câu đố, ca dao, tục ngữ để thường xuyên thay đổi nội dung giáo dục   cho phù hợp với chủ  đề  cũng như  tình hình của địa phương và sự  phát triển  chung của trẻ  nhằm tạo ra các tiết học vui vẻ, có chất lượng và luôn quan   tâm tới chủ  đạo của tiết học là trẻ  cũng như  phải biết nâng cao nghệ  thuật   lên lớp phong cách xử  lí tình huống sư  phạm cũng như  việc kết hợp dạy trẻ  mọi lúc mọi nơi giúp trẻ phát triển khả năng ghi nhớ có chủ định. Trong công tác giảng dạy tiếp theo của mình tôi luôn phải ghi nhớ,  quan sát từng trẻ để có nội dung giáo dục phù hợp cũng như việc linh hoạt sử  dụng các phương pháp giáo dục khác nhau vào trong tiết học, cố  gắng xây   dựng một môi trường học thân thiện. Đến với việc làm quen các tác phẩm văn học bước đầu trẻ  đã hình  thành những khái niệm sơ đẳng về thế giới xung quanh và phát triển trí tưởng  tượng cho trẻ. 13
  14. Từ  những tác phẩm văn học trẻ  được phát triển về tâm hồn cũng như  đức – trí – thể  ­ mĩ,  để  hướng tới một con người toàn diện cho một xã hội  ngày càng phát triển và hình thành nhân cách cho trẻ  ngay từ  bậc học mầm   non đó là tầm quan trọng của môn văn học mang lại cho trẻ em nói chung và   trẻ  em  ở  lứa tuổi mẫu giáo nói riêng đó là mục  đích của sáng kiến kinh  nghiệm mà tôi muốn hướng tới lâu dài. II. Kiến nghị Để thực hiện tốt đề  tài này và mong muốn đề  tài được phổ  biến rộng   rãi hơn tôi là người trực tiếp giảng dạy mong muốn lãnh đạo cấp trên quan  tâm bổ  sung thêm các trang thiết bị, đồ  dùng đồ  chơi hiện đại để  tạo ra các   tiết dạy hay, hứng thú, sáng tạo để phục vụ tới trẻ. Đề xuất tới lãnh đạo cấp trên thường xuyên tổ chức thật nhiều chuyên  đề mang phạm vi các trường, các huyện để  giáo viên được học hỏi, trao đổi  kinh nghiệm của bản thân đối với đồng nghiệp ở khắp mọi nơi hay các cuộc  thi làm đồ  dùng đồ  chơi tự  tạo cho giáo viên và học sinh được trải nghiệm  cùng nhau cùng tìm ra tiếng nói chung  cho các hoạt động dạy và học . Mong muốn lãnh đạo cấp trên cũng thường xuyên tổ  chức các hội thi   mang tính chất bảo tồn, duy trì những câu ca dao, câu tục ngữ đã mai một để  nó được sống lại cũng như gần gũi hơn với trẻ ở độ tuổi mầm non.  Để  hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự  quan tâm  giúp  đỡ  của các chị  em  đồng nghiệp và đặc biệt của ban giám hiệu nhà   trường. Nhưng không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự đóng góp   ý kiến của lãnh đạo cấp trên để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn.  Tôi xin chân thành cảm ơn!                                                                  Buôn trấp, ngày 8  tháng 4  năm 2019                                                                                  Người viết                                                                              Vũ Thị Thúy Dịu                             14
  15. NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………                                                                                          CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN                                                                                                                                                     15
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 3 – 5 tuổi Tuyển tập các bài hát, bài thơ, câu đố dành cho trẻ mầm non Trang Wed w.w.w.mamnon.com 16
  17.                                  Mục lục   Trang Phần thứ nhất:  Mở đầu...................................................................................1 I. Đặt vấn đề........................................................................................................1 II. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................3 Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề.......................................................................3 I. Cơ sở lí luận của vấn đề..................................................................................3 II. Thực trạng của vấn đề....................................................................................4 III. Các giải pháp để tiến hành giải quyết vấn đề.............................................5 1. Giải pháp 1........................................................................................................5 2. Giải pháp 2........................................................................................................7 3. Giải pháp 3........................................................................................................8 4. Giải pháp 4........................................................................................................9 IV. Tính mới của giải pháp................................................................................10 V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm..................................................................10 Phần thứ 3: Kết luận, kiến nghị...................................................................11 I. Kết luận...........................................................................................................11 II. Kiến nghị........................................................................................................12 17
  18. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2